Milarepa Trăm Ngàn Bài Ca: 1: CÂU CHUYỆN THUNG LŨNG HỒNG THẠCH NGỌC

– Extract from The Hundred Thousand Songs of Milarepa, first story: “The Tale of Red Rock Jewel Valley”
Tác Giả – Author: Milarepa
– Việt ngữ: Hồng Như Việt dịch – Vietnamese only
Điều kiện – Prerequisites: Mọi người đều có thể đọc – Everyone can read

 

Đệ tử đảnh lễ hết thảy chư tôn sư

Có một lần đấng đại hành giả Milarepa về trú tại Ưng Điện nơi Thung Lũng [Hồng Thạch] Ngọc, miên mật thâm nhập chánh định Đại Thủ Ấn. Gặp lúc đói lòng, ngài định nấu chút món ăn, nhưng nhìn lại mới thấy trong động trống trơn không còn gì, không nước, không củi, đừng nói gì đến muối, dầu hay bột. “Xem ra ta đã quá bê bối rồi!” ngài tự nhủ, “phải ra ngoài nhặt ít củi thôi.”

Ngài ra khỏi động. Nhưng vừa mới nhặt được vài nhánh củi khô thì trời bỗng nhiên nổi cơn bão lớn, gió thổi bay cả củi, rách cả y. Ráng níu y lại thì củi bị gió cuốn. Ráng ghì củi lại thì y theo gió bay. Đức Milarepa tự nghĩ, “mặc dù ta hành trì theo Phật pháp và sống nơi hoang tịch đã lâu, thế nhưng ngã chấp vẫn chưa diệt! Ngã chấp không diệt thì tu để làm gì? Gió muốn thổi bay củi cứ thổi, muốn cuốn rách y cứ cuốn!” Nghĩ vậy, ngài không giữ lại nữa. Nhưng vì quá yếu do thiếu ăn nên khi gió lại nổi lên thì ngài không còn đủ sức cầm cự, ngã xuống bất tỉnh.

Đến khi hồi tỉnh, cơn bão đã qua. Cao cao trên đầu nhánh cây hãy còn vạt y rách phất phơ trong gió nhẹ. Thật phù du vô nghĩa làm sao, sự việc trong cõi thế gian này, lòng ngài sâu thẳm ngập tràn nỗi chán ngán sinh tử. Ngài ngồi xuống một tảng đá, thêm một lần nữa, thâu thần nhập định.

Chẳng mấy chốc, một cụm mây trắng nổi lên từ thung lũng Dro Wo xa về hướng Đông. “Dưới áng mây kia là ngôi chùa của Ân Sư, đức Marpa đại dịch giả,” Milarepa thốt lên lời cảm khái, “ngay lúc này đây, sư phụ và sư mẫu hẳn đang truyền quán đảnh và khai thị hành trì cho chư huynh đệ. Đúng là Ân sư đang ở nơi ấy. Nếu bây giờ có thể đến ngay, chắc chắn sẽ được gặp.” Nỗi niềm mong ngóng thiết tha vô bờ dấy lên trong tim đức Milarepa. Hai mắt tràn lệ, ngài cất lời hát lên bài ca “Tưởng Nhớ Ân Sư”:

Khi con nhớ đến Thầy,
đức Marpa từ phụ,
lòng vơi hẳn khổ đau.
Con là kẻ hành khất,
nay kính dâng Ân sư
bài ca thiết tha này.

Trên đầu Thung Lũng Ngọc,
xa xa về hướng Đông,
phiêu diêu cụm mây trắng,
bên dưới, như voi chồm,
có một tòa núi lớn;
cạnh bên, như hổ phóng
thêm chóp núi hiện ra.

Nơi thung lũng Dro-wo,
trong chùa, nơi chánh điện,
có pháp tòa bằng đá.
Vị nào ngự bên trên?
Có phải đó chính là
Marpa đại dịch giả?
Nếu đúng là Ân sư,
lòng con mừng vô hạn.
Dù tôn kính còn thiếu,
con vẫn muốn thấy Thầy.
Dù tín tâm còn yếu,
con vẫn muốn gặp Thầy.
Càng thiền định càng thấy
thiết tha mong ngóng Thầy.

Sư mẫu Dag-mê-ma
có đang ở cạnh bên?
Ơn sư mẫu với con
sâu nặng hơn mẹ hiền.
Nếu bà đang ở đó,
lòng con mừng biết bao.
Dù đường xa vạn dặm,
con vẫn muốn thấy bà.
Dù cheo leo hiểm trở,
con vẫn muốn gặp bà.
Càng thiền quán càng thấy
tâm tưởng nhớ đến Thầy.
Càng thiền định càng thấy
tâm tưởng nhớ Ân sư.

Lòng vui sướng biết bao
nếu được về cùng ngồi.
Thầy có khi đang truyền
đại pháp Hê-vai-ra.
Dù tâm con ngu độn,
con vẫn muốn được học.
Dù tâm đầy vô minh,
con vẫn mong được tụng.
Càng thiền quán càng thấy
tâm tưởng nhớ đến Thầy.
Càng thiền định càng thấy
tâm tưởng nhớ Ân sư.

Giờ này có khi Thầy
đang truyền tứ quán đảnh
của dòng tu nhĩ truyền.
Nếu được về cùng ngồi,
lòng con mừng biết bao.
Dù công đức không đủ,
con vẫn muốn thọ pháp.
Dù nghèo không phẩm cúng,
con vẫn thiết tha mong.
Càng thiền quán càng thấy
tâm tưởng nhớ đến Thầy.
Càng thiền định càng thấy
tâm tưởng nhớ Ân sư.

Giờ này có khi Thầy
đang khai thị hành trì
sáu pháp Naropa.
Nếu được về cùng ngồi,
lòng con mừng biết bao.
Dù tinh tấn còn thiếu,
con vẫn cần được học.
Dù kiên trì không đủ,
con vẫn muốn được tu.
Càng thiền quán càng thấy
tâm tưởng nhớ đến Thầy.
Càng thiền định càng thấy
tâm tưởng nhớ Ân sư.

Huynh đệ từ Weu, Tsang
có thể đang ở đó.
Nếu đúng là như vậy,
lòng con mừng biết bao.
Dù thành tựu thua kém,
con vẫn muốn so tài.
Dù nhờ lòng sâu thẳm
tin tưởng và tôn kính,
con chưa từng xa Thầy,
nhưng bây giờ con đây
mỏi mòn mong gặp mặt.
Nỗi thiết tha ngóng đợi
khiến con như hấp hối.
Nỗi khốn khổ lớn lao
khiến cơ hồ tắt thở.
Nguyện Ân sư tôn quí
xoa dịu cơn đau này.

Đức Milarepa chưa kịp dứt tiếng thì đức tôn quí Jetsun Marpa đã hiện ra trên cụm mây ngũ sắc tựa dãi áo năm màu, diện mục uy nghi, hào quang rực sáng, cưỡi lưng sư tử yên cương lộng lẫy, đến gần đức Milarepa.

“Này Đại Thuật Sĩ, con trai ta ơi,” ngài hỏi, “vì đâu con lại sâu xa xúc động mà gọi ta với lời ca tuyệt vọng như thế? Vì sao vất vả đến thế? Chẳng phải con đã có được niềm tin vững chắc nơi Thầy và nơi Phật hay sao? Hay là ngoại cảnh đã khiến con động niệm ? Hay là tám ngọn gió chướng đã thổi vào trong hang động của con? Phải chăng nỗi lo âu ngóng đợi đã làm con hao mòn nghị lực? Chẳng phải con đã nguyện không ngừng phụng sự đạo sư và Tam Bảo hay sao? Chẳng phải con đã hồi hướng tất cả về cho chúng sinh sáu cõi hay sao? Chẳng phải chính con đã đạt được chứng địa, nơi có thể thanh tịnh nghiệp chướng, tích lũy công đức hay sao? Bất kể vì lý do nào, con phải vững tin rằng Thầy và con không bao giờ phân lìa. Vậy con cứ hãy vì đạo pháp và vì chúng sinh mà tiếp tục tọa thiền.”

Lòng tràn cảm hứng trước linh kiến tươi vui này, đức Milarepa cất tiếng hồi âm:

Diện kiến đức Ân sư,
nghe được tiếng lời Thầy,
con là kẻ hành khất
nghe khí cuộn trong tim.
Nhớ giáo pháp Thầy dạy,
lòng tôn kính dâng đầy.
Lực gia trì của Thầy
từ hòa rót trong con,
Tiêu tan mọi niệm khởi.

Bài ca con thiết tha
“Tưởng Nhớ Đấng Đạo Sư”
hẳn đã đến tai Thầy,
đấng Ân sư tôn quí,
Nhưng sao tâm con vẫn
Còn tăm tối thế này?
Nguyện tôn sư thương xót
che chở dùm cho con!

Lòng tôn kính bất khuất
là phẩm cúng quí nhất
dành dâng hiến Ân sư;
để làm vui lòng Thầy,
hay nhất là nhẫn nại
kiên trì trong pháp hành;
một mình trong hang động
là cách cao quí nhất
phụng sự đà kì ni;
hiến thân cho Diệu Pháp
là việc làm tốt nhất
để phụng sự Phật Pháp;
vậy, trọn đời tu thiền,
gánh vác khổ chúng sinh.
Biết quí bệnh và chết,
đây là lực gia trì
nhờ đó tịnh ác nghiệp.
Khước từ thực phẩm cấm
sẽ giúp ta đạt được
thành tựu và giác ngộ.
Để đền ơn từ phụ
con xin luôn miên mật
hết thiền rồi lại thiền.

Lạy bổn sư của con
nguyện xin Thầy giữ gìn
Cho kẻ hành khất này
vững trú nơi thanh tịnh.

Lòng đầy sảng khoái, đức Milarepa sửa y áo và ôm nhúm củi quay về hang động. Về đến nơi, ngài giật mình thấy trong hang có năm con quỉ Ấn, mắt to bằng cái chén. Một con ngồi trên giường thuyết pháp, hai con ngồi nghe pháp, một con đang nấu nướng để cúng dường thực phẩm, và một con nữa đang mở sách đọc.

Định thần lại, đức Milarepa tự nghĩ, “đây chắc là do chư hộ thần sở tại biến hiện mà có, họ bất mãn với ta chăng? Mặc dù ta ở đây đã lâu, nhưng chưa từng thí thực hay ngợi khen gì họ cả.” Nghĩ vậy ngài cất tiếng hát bài “Xưng Tán Ca dành cho chư Hộ Thần tại Thung Lũng Hồng Thạch Ngọc”

Nơi lan nhã này,
lều của tôi đây,
là nơi khiến cho
chư Phật hoan hỉ,
là nơi trú của
chư thành tựu giả,
và cũng là nơi
tôi ở một mình.

Trên đầu thung lũng
Hồng Thạch Ngọc này,
Mây trắng dịu bay,
Bên dưới sông Tsang
êm đềm cuộn chảy,
ở giữa đất trời
chim soải cánh bay

Ong mật vo ve
trong lòng nhụy hoa
say trong hương ngọt;
chim muông sà lượn
trên những nhánh cây,
rót đầy không gian
bài ca thánh thót.

Ở trong thung lũng
Hồng Thạch Ngọc này,
chim sẻ tập bay,
khỉ vượn chuyền, nhảy,
thú rừng rượt đuổi,
còn tôi ngồi tu
hai tâm bồ đề
vui cùng pháp định.

Hết thảy quỉ ma,
loài không phải người,
đều là bạn của
Milarepa.
Xin mời uống nước
cam lồ từ bi
thỏa thuê rồi hãy
quay về trú xứ.

Nhưng mấy con quỉ Ấn không biến mất mà lại trợn mắt nhìn đức Milarepa. Hai con tiến tới, một con nhăn mặt cắn môi dưới, con kia nghiến răng rùng rợn. Con thứ ba đến phía sau lưng, nở rộ tràng cười tinh quái rồi hét lớn, chúng làm đủ bộ dạng và hành động quái gỡ, chỉ muốn làm cho đức Milarepa phải kinh sợ.

Đức Milarepa biết rõ ý đồ của bọn chúng nên ngài bắt đầu tác pháp Phật Hung Nộ đầy oai lực. Chúng vẫn không đi. Ngài lại thuyết về tâm đại bi cho chúng nghe; chúng vẫn ở lì.

Rốt lại, đức Milarepa bảo rằng: “nhờ ơn đức Marpa mà ta đã chứng biết vạn pháp đều do tâm, ngay chính tâm này cũng là không. Vậy những thứ kia liệu có ích gì. Lại từ cảnh giới bên ngoài mà tìm cách dẹp tà ma quấy nhiễu, chẳng phải đã quá ngu xuẩn hay sao!

Nói vậy rồi, ngài hiên ngang cất tiếng hát bài “Chứng Đạo Ca”:

Bổn sư Từ phụ
hàng phục Tứ ma,
đệ tử kính lễ
Marpa dịch giả.

Ta, như ngươi thấy
là người có tên,
là con trai của
Darsen Gharmo,
vua sư tử tuyết.
Nằm trong lòng thai,
dưỡng ba khí đạo.
Đương tuổi ấu thời,
ta ngủ trong nôi.
Đương tuổi thiếu thời,
ta nhìn bậu cửa.
Đương tuổi trưởng thành,
trú ở núi cao.
Cho dù núi tuyết
bão tố kinh hoàng,
ta vẫn không sợ.
Cho dù vực thẳm
cheo leo hiểm trở,
ta vẫn không lo.

Ta, như ngươi thấy,
là người có tên,
là con trai của
chim kim sí điểu
vua của loài chim.
Nằm trong lòng trứng,
dưỡng đủ lông cánh.
Đương tuổi ấu thời,
ta ngủ trong nôi;
đương tuổi thiếu thời,
ta nhìn bậu cửa;
đương tuổi trưởng thành,
lượn giữa trời cao.
Cho dù bầu trời
bao la cao rộng,
ta vẫn không sợ.
Cho dù đường bay
dốc đứng nhỏ hẹp,
ta vẫn không lo.

Ta, như ngươi thấy,
là người có tên,
là con trai của
Nya Chen Yor Mo,
vua của loài cá.
Từ trong lòng thai,
tròn đôi mắt vàng.
Đương tuổi ấu thời,
ta ngủ trong nôi.
Đương tuổi thiếu thời,
ta siêng tập bơi.
Đương tuổi trưởng thành,
vẫy vùng biển rộng.
Cho dù phong ba
sóng gầm điện chớp,
ta vẫn không sợ.
Cho dù lưỡi câu
kín giăng mọi nẻo,
ta vẫn không lo.

Ta, như ngươi thấy,
là người có tên,
là con trai của
tổ sư truyền thừa
dòng tu Kagyu.
Từ trong lòng thai,
ta dưỡng tín tâm.
Đương tuổi ấu thời,
bước vào cửa Pháp.
Đương tuổi thiếu thời,
học tập pháp Phật.
Đương tuổi trưởng thành,
một mình trong hang.
Cho dù tà ma,
quỉ dữ trăm vạn,
ta vẫn không sợ.

Móng sư tử tuyết
đâu thể cóng lạnh,
bằng không sao gọi
là sư tử vương,
Đầy đủ tất cả
ba lực tuyệt hảo!

Cánh kim sí điểu
đâu thể nào rơi!
Bằng không chẳng phải
là điều phi lý?

Khối thép tinh luyện
đâu thể dùng đá
để mà đập vỡ,
bằng không phí công
luyện sắt làm gì!

Ta là Mila,
không sợ tà ma
chẳng sợ ác quỉ.
Nếu như ma quỹ
có thể khiến cho
Mila hoảng sợ,
vậy thì chứng đắc
giác ngộ làm gì?

Này ma này quỉ
thù hận Diệu Pháp,
hôm nay ta xin
hoan hỉ đón mời.
Hãy ở lại đây,
đừng vội ra về,
cùng ta thảo luận
cùng mở cuộc chơi.
Muốn đi cũng hãy,
nán lại đêm nay.
Hãy cùng nhau lấy
pháp trắng pháp đen
mang ra chọi thử
xem phe nào thắng.
Trước khi đến đây
chúng bây đã nguyện
phá ta cho được,
thật là nhục nhã
nếu việc chưa thành
đã vội tháo lui.

Đức Milarepa vươn dậy đầy tự tín, xông thẳng vào đám ma quỉ trong hang. Kinh hãi, chúng co rúm lại, mắt trợn tuyệt vọng, thân run lẩy bẩy. Rồi cuộn lại với nhau như dòng nước xoáy, chúng nhập lại làm một rồi biến mất.

“Đây là Quỉ Vương, Vinayaka Kẻ Gây Ác Chướng, đến tìm cơ hội để gieo tai họa, “ đức Milarepa tự nghĩ. “Cơn bão cũng vậy, nhất định là do hắn tạo nên. Nhờ lòng từ ái của Ân sư mà tà ma không ám hại được ta.”
Sau việc này, đức Milarepa tu tập tiến bộ vượt bực.

Đây là câu chuyện quỉ Vương Vinayaka tấn công; câu chuyện này có ba tầng ý nghĩa khác nhau, và vì vậy mà câu chuyện này có tên gọi là “Sáu Cách Tưởng Nhớ Ân Sư,” cũng gọi là “Câu Chuyện Thung Lũng Hồng Thạch Ngọc”, hay là “Câu Chuyện Milarepa Nhặt Củi.”

hồng như chuyển việt ngữ, 2013




ĐẠO SƯ DU GIÀ Lama Tsongkhapa (Trăm Đấng Bổn Tôn Cõi Đâu Xuất Tịnh Độ – Ganden Lha Gyama)

 – English Title: Hundreds Deities of Tushita
– Tibetan:  GANDEN LHA GYA MA
– Ngôn ngữ: Anh – Việt – Tạng Âm
Việt ngữ: Hồng Như
Điều kiện – Prerequisites: Mọi người đều có thể đọc và hành trì – Everyone can read and practice

LAMA TÔNG KHÁCH BA: Lam-rim Tiểu Luận: Chứng Đạo Ca

  • Nghe giảng – Teachings: Geshe Thubten Dawa giảng và hướng dẫn phương pháp hành trì pháp Ganden Lha Gyama – Đây là pháp Đạo Sư Du Già với đức Lama Tông Khách Ba là đấng bổn sư. Bài giảng tiếng Tạng, dịch Anh ngữ và Việt ngữ – Geshe Thubten Dawa teachings and instructions on the practice of Ganden Lha Gyama – This is Guru Yoga practice with Lama Tsongkhapa as the root guru. [MP3 – Geshe Thubten Dawa: Ganden Lha Gyama (Tib-Eng-Vi)]
  • Đánh Máy – Transcript:  [Đọc trực tuyến – tiếng Việt]

(1) Refuge & bodhicitta– Qui Y & Phát Tâm Bồ Đề (3x)

(1) I go for refuge until I am enlightened
To the Buddhas, the Dharma and the Highest Assembly
From the virtuous merit that I collect by practicing giving and other perfections
May I attain the state of a Buddha to benefit all sentient beings.
(1) Từ nay cho đến ngày / thành tựu chánh đẳng giác
Nguyện quay về nương dựa / Nơi Phật Pháp và Tăng.
Với công đức có được / nhờ hành trì hạnh Thí
cùng hạnh Toàn Hảo khác / nguyện vì khắp chúng sinh,
quyết trọn thành Phật đạo. (3x)
(1) SANG GYÉ CHÖ DANG TSHOG KYI CHOG NAM LA
JANG CHUB BAR DU DAG NI KYAB SU CHI
DAG GI JIN SOG GYI PÉ SÖ NAM GYI
DRO LA PHÄN CHIR SANG GYÉ DRUB PAR SHOG

(2) Purifying the Place – Thanh Tịnh Ngoại Cảnh

(2) Everywhere may the ground be pure,
free of the roughness of pebbles and so forth.
May it be the nature of lapis and smooth as the palm of one’s hand.
(2) Nguyện mặt đất mọi nơi trong cõi thế
Được thanh tịnh, không đá sỏi gập ghềnh.
Như ngọc xanh biếc sáng trong, như lòng bàn tay phẳng mịn.
(2) THAM CHÉ DU NI SA ZHI DAG
SEG MA LA SOG MAY PA DANG
LAG TIL TAR NYAM BAY DUR YÉ
RANG ZHIN JAM POR NÉ GYUR CHIG

(3) Offering Prayer – Cúng Dường

(3) May offering substances human and divine, those actual and those which are emanated, unsurpassed Samantabhadra clouds of offerings fill the entire space.
(3) Tất cả phẩm vật / trong cõi con người / cùng trong cõi trời, / cụ thể bày ra / và bày biện bằng / công phu quán tưởng, / Biển mây trùng điệp / cúng phẩm Phổ Hiền / nguyện dâng đầy khắp / không gian vô tận.
(3) LHA DANG MI YI CHO PAI DZÉ
NGO SU SHAM DANG YI KYI TRUL
KUN ZANG CHO DRIM LA NA MÉ
NAM KHAI KAM KUN KYAB GYUR CHIG

(4) Offering Dharani – Đà La Ni Cúng Dường

OM NAMO BHAGAVATE BENZAY SARWAPARMA DANA TATHAGATAYA ARHATE SAMYAKSAM BUDDHAYA TAYATA OM BENZAY BENDZAY MAHA BENZAY MAHA TAYDZA BENDZAY MAHA BIDYA BENDZAY MAHA BODHICITTA BENDZAY MAHA BODHI MENDO PASAM KRAMANA BENDZAY SARWA KARMA AWARANA BISHO DANA BENDZAY SOHA.

(5) Power of the truth – Năng Lực của Sự Thật

(5) By the power of truth of the Three Jewels, the power of the inspiration of all the Buddhas and Bodhisattvas, the power of the great might of the completed two collections, and the power of the intrisically pure and inconceivable sphere of reality, may (these offerings) become suchness.
(5) Với năng lực của sự thật về Tam Bảo,
Với năng lực hộ trì của chư Phật cùng chư Bồ tát
Với năng lực của hai bồ tư lương viên mãn
Và của chân cảnh giới, thanh tịnh triệt để, ngoài tầm nghĩ bàn;
Nguyện cho (cúng phẩm này) đều trở thành chân như.
(5) KON CHOG SUM GYI DEN PA DANG / SANG GYÉ DANG JANG CHUB SEM PA THAM CHÉ KYI JIN LAB DANG TSOG NYI YONG SU DZOG PÉ NGA TANG CHEN PO DANG / CHO KYI YING NAM PAR DAG CHING SAM GYI MI KYAB PÉ TOB KYI DÉ ZHIN NYI DU GYUR CHIG

(6) GANDEN LHA GYA MA – CHÁNH VĂN

(6.1) From the heart of the protector of the hundreds of deities of the Land of Joy [Tushita], comes a cloud that resembles a mass of fresh, white curd. Omniscient Lozang Dragpa, King of the Dharma, together with [the pair of] your sons, I request you to come here now.
(6.1) Trên cụm mây sáng chứa mưa,/ tựa đồi sữa trắng tươi thanh mát,
Hiện từ tim đấng Pháp chủ đứng đầu / chư Hộ Phật cõi Đâu Xuất Tịnh Độ,/ là đấng Pháp Vương Toàn Giác Lozang Dragpa, / cùng hai bậc trưởng tử,/ Chúng con khẩn xin các ngài từ bi giá lâm đạo tràng.
(6.1) GAN DEN LHA GYA GON GYI TUG KAR NÉ
RAB KAR ZHO SAR PUNG DRÉ CHU DZIN TZER
CHO KYI GYEL PO KUN KYEN LO ZANG DRAG
SÉ DANG CHÉ PA NÉ DIR SHEG SU SOL

(6.2) O venerable Gurus with the white sailes of delight,
Seated on lion-thrones, lotus and moon in the space before me
I request you to remain for hundreds of eons in order to spread the teachings and be the supreme Field of Merit for my mind of faith
(6.2) Ở nơi khoảng trời / trước mặt con đây, / trên tòa sư tử, / hai tòa sen, nguyệt, / là đấng đạo sư / môi cười từ hòa / sáng tươi rạng tỏa. /
Thầy là ruộng phước / giúp cho chúng con / tín tâm tròn đầy / tích tụ công đức. / Chúng con khẩn xin / đạo sư trụ thế / thêm trăm đại kiếp / để cho giáo pháp / hưng thịnh lâu dài.
(6.2) DUN GYI NAM KHA SENG TRI PÉ DÉ TENG
JE TSUN LA MA GYÉ PÉ DZUM KAR CHEN
DAG LO DÉ PÉ SO NAM ZHING CHOG DU
TEN PA GYÉ CHIR KEL GYAR ZHUG SU SOL

(6.3) Your minds have the intellect that comprehends the full extent of what can be known, your speech, with its elegant explanations, becomes an adornment for the ears of those of good fortune, your bodies are radiantly handsome with glory renowned, I prostrate to you whom to behold, hear, or recall is worthwhile.
(6.3) Tâm thầy bao trùm / tất cả những gì / có thể biết được; / lời thầy khéo léo / minh giải kinh luận, / là trang sức quí / dành cho đôi tai / của kẻ thiện duyên; / Thân thầy đẹp ngời / hồng danh rạng tỏa. / Xin kính lạy thầy / đấng rất xứng đáng / cho chúng con nhìn / nghe và niệm tưởng.
(6.3) SHÉ JÉ KHYON KUN JAL WAI LO DRO TUG
KAL ZANG NA WAI GYEN GYUR LEG SHE SUNG
DRAG PÉ PEL GYI LHAM MER DZÉ PAY KU
TONG TO DREN PÉ DON DEN LA CHAG TSEL

(6.4) Pleasing water offerings, various flowers, fragrant incense, lights, scented water; An ocean of actual and visualised cloud-like offerings, both actually arranged and mentally created, I present to you, O supreme Field of Merit.
(6.4) Biển mây cúng dường / hiện trong quán tưởng / hay thật bày ra: / Nước, hoa, hương đốt, / đèn đuốc nước hương, / Chúng con cúng dường / ruộng phước tối thượng.
(6.4) YI ONG CHO YON NA TSOG MÉ TOG DANG
DRI ZHIM DUG PO NANG SEL DRI CHAB SOG
NGO SHAM YI TRUL CHO TRIN GYA TSO DI
SO NAM ZHING CHOG KHYE LA CHO PAR BUL

(6.5) Whatever non-virtues of body, speech, and mind I have accumulated from beginningless time, and especially the breaches of my three sets of vows, I confess over and again with fervent regret from my heart.
(6.5) Biết bao tội lỗi / do thân miệng ý / mà phát sinh ra, / tích tụ kể từ / vô lượng đời kiếp, / nhất là phá phạm / ba loại giới hạnh. / Nay chúng con nguyện / phát lộ tất cả, / từ tận đáy lòng / thành tâm sám hối.
(6.5) DAG GI TOG ME DU NÉ SAG PA YI
LU NGAG YI KYI MI GÉ CHI GYI DANG
KHYE PAR DOM PA SUM GYI MI TUN CHOG
NYING NÉ GYO PA DRAG PO SO SOR SHAG.

(6.6) From the depths of our hearts we rejoice, O protectors, in the great waves of your deeds, you who trove to learn and practice in this degenerate age and made life meaningful by abandoning the eight worldly feelings.
(6.6) Nhờ gắng đạt trí thông tuệ vượt bực
Trong thời kỳ giáo pháp suy đồi / lìa tám mối bận tâm thế tục
Nên mọi kiếp sống của thầy / đều tràn đầy ý nghĩa
Từ tận đáy lòng / chúng con mừng vui
Giữa muôn sóng cả / thiện hạnh của Thầy.
(6.6) NYIG MÉ DU DIR MANG TO TRUB LA TSON
CHO GYE PANG PÉ DEL JOR DON YO JÉ
GON PO KHYO KYI LAB CHEN DZA PA LA
DAG CHAG SAM PA TAG PÉ YI RANG NGO

(6.7) O holy and venerable Lama, from the clouds of compassion that form in the skies of your Dharmakaya wisdom, please release a rain of vast and profound Dharma precisely in accordance with the needs of those to be trained.
(6.7) Kính thỉnh đấng đạo sư tôn kính
Từ những cụm mây sáng từ bi
Tụ giữa nền trời của Trí Tuệ Pháp thân,
Xin Thầy cho Phật Pháp quảng thâm thành mưa rơi xuống,
Tắm mát chúng sinh đủ loại căn cơ.
(6.7) JE TSUN LA MA DAM PA KHYE NAM KYI
CHO KU KHA LA KHYEN TSE CHU DZIN TRIG
JI TAR TSAM PÉ DUL JE DZIN MA LA
ZAB GYE CHO KYI CHAR PA AB TU SOL

(6.8) I dedicate what ever virtues I have ever collected for the benefit of the teachings and of all sentient beings, and in particular for the essential teachings of Venerable Lozang Dragpa to shine forever.
(6.8) Nhờ công phu này / được bao công đức, / nguyện xin hồi hướng / về cho chánh pháp / cùng mọi chúng sinh / đặc biệt nhất là / tinh túy giáo pháp / của thầy Lozang / vĩnh viễn hưng thịnh.
(6.8) DAG GI JI NYE SAG PÉ GÉ WA DI
TEN DANG DRO WA KUN LA GANG PEN DANG
KHYE PAR JE TSUN LO ZANG DRAG PA YI
TEN PAI NYING PO RING DU SEL JAY SHOG

(7) Mandala Offering – Cúng Dường Mạn Đà La

(7) ‘This ground, anointed with perfume, flowers strewn,
Mount Meru, four lands, sun and moon,
Imagined as a Buddha land and offered to you
May all beings enjoy this pure land.’
(7) Con xin hiến cúng / Đất này trang nghiêm hương hoa
Điểm núi Tu Di, tứ đại bộ châu, mặt trời và mặt trăng
Quán tưởng thành cõi Phật
Nguyện chúng sinh yên vui trong cảnh thanh tịnh này
(7) SA ZHI PO KYI JUG SHING ME TOG TRAM
RI RAB LING ZHI NYI DA GYEN PA DI
SANG GYÉ ZHING DU MIG TE UL WAR GYI
DRO KUN NAM DAG ZHING LA CHO PAR SHOG

IDAM GURU RATNA MANDALAKAM NIRYA TAYAMI

(8) Short Request to Lama Tsong Khapa – Thỉnh Nguyện Lama Tông Khách Ba

(8) Avalokiteshvara, great treasure of immeasurable compassion,
Manjushri, Lord of the stainless wisdom,
[Vajrapani, destroyer of Mara’s forces without exception,]
Tsong-khapa, crown jewel of the sages of the Land of the Snow,
Losang Dragpa, I make requests at your feet.
(Recite many times with the visualisation that follows on point 9)
(8) Thầy là Quan Thế Âm: kho tàng đại bi tâm;
Thầy là đức Văn Thù: là bậc đại đạo sư, với trí tuệ vô cấu;
[Thầy là Kim Cang Thủ: dũng lực diệt ma vương;]
Lama Tông Khách Ba: là ngọc quí trên đỉnh bậc thánh hiền xứ tuyết
Losang Drakpa, con xin về đảnh lễ dưới chân sen của thầy.
Kính xin thầy từ bi hộ niệm.
(Đọc nhiều lần. Vừa đọc vừa quán tưởng theo chi tiết ghi trong câu 9)
(8) MIG MÉ TSE WAI TER CHEN CHEN RE ZI
DRI ME KHYEN PE WONG PO JAM PÉ YANG
[DU PUNG MA LU JOM DZÉ SANG WAI DAG]
GANG CHEN KHÉ PÉ TZUG GYEN TSONG KHA PA
LO ZANG DRAG PEI ZHAB LA SOL WA DEB

(9) Purification Visualisation – Quán Tưởng Tịnh Hóa

‘White light eminates from the OM at Lama Tsong Khapa’s brow and enters my brow. My negativities of body (killing, stealing and sexual misconduct) are completely purified. Red light eminates from the AH at Lama Tsong Khapa’s Throat and enters my throat. My negativities of speech (lying, devisive speech, harsh words and idle gossip) are completely purified. Blue light eminates from the HUNG at Lama Tsong Khapa’s Heart and enters my heart. My negativities of mind (coverting what belongs to others, harmful intent and wrong veiws) are completely purified. The three coloured beams of light emanate simulltaneously from Lama Tsong Khapa’s three places and purify completely all my delusions and subtle obscuraions to Omniscience.’
Ánh sáng trắng từ chữ OM nơi trán Lama Tông Khách Ba phóng ra, rót vào trán tôi: mọi thân nghiệp (sát sinh, trộm cắp, tà dâm) hết thảy đều được thanh tịnh. Ánh sáng đỏ từ chữ AH nơi cổ Lama Tông Khách Ba phóng ra, rót vào cổ tôi: mọi khẩu nghiệp (nói lời không thật, nói lời chia rẻ, nói lời thô ác và nói chuyện tào lao) hết thảy đều được thanh tịnh. Ánh sáng xanh dương từ chữ HUNG từ tim Lama Tông Khách Ba phóng ra, rót vào tim tôi: mọi ý nghiệp (tham của người khác, ác ý và ác kiến) hết thảy đều được thanh tịnh. Ba luồng ánh sáng ba màu đồng loạt phóng ra từ ba nơi [trên người] Lama Tông Khách Ba, thanh tịnh hết thảy mọi vọng tâm và chướng ngại vi tế ngăn cản trí toàn giác.

(10) Request and Absorption – Thỉnh Nguyện và Tan Nhập

Magnificent and precious root guru
Please sit on the lotus and moon at my crown
With your great kindness, keep me in your care.
Grant me realisations of your body, speech and mind.
Thỉnh bổn sư tôn quí
về trụ tòa sen nguyệt / ở trên đỉnh đầu con

Xin dẫn dắt con đi / bằng tình thương rộng lớn
Xin cho con thành tựu / thân ngữ ý thanh tịnh / nhiệm mầu của đạo sư.
PAL DEN TSA WEI LA MA RINPOCHE
DAG GYI CHI WOR PÉ MÉ TEN ZHUG LA
KA DRIN CHEN PO GO NÉ JÉ ZUNG TÉ
KU SUNG TUG KYI NGO DRUB TZEL DU SOL

Magnificient and precious root guru,
Please sit on the lotus and moon at my heart
With your great kindness, keep me in your care
Grant me the general and sublime realisations.
Thỉnh bổn sư tôn quí /
về trụ tòa sen nguyệt / ngay giữa trái tim con

Xin dẫn dắt con đi / bằng tình thương rộng lớn
Cho con đạt thành tựu / xuất thế và thế gian.
PAL DEN TSA WEI LA MA RINPOCHE
DAG GI NYING KAR PÉ MÉ TEN ZHUG LA
KA DRIN CHEN PO GO NÉ JE ZUNG TÉ
CHOG DANG TUN MONG NGO DRUB TSEL DU SOL

Magnificent and precious root goru
Please sit on the lotus and moon at my heart
With your great kindness, keep me in your care
Please remain firmly until I attain enlightenment.
Thỉnh đạo sư tôn quí /
về trụ tòa sen nguyệt / ngay giữa trái tim con
Xin dẫn dắt con đi / bằng tình thương rộng lớn,
Ở lại cho đến khi / con đạt quả bồ đề.
PAL DEN TSA WEI LA MA RINPOCHE
DAG GI NYING KAR PÉ MÉ TEN ZHUG LA
KA DRIN CHEN PO GO NÉ JE ZUNG TÉ
JANG CHUB NYING PO BAR DU TEN PAR ZHUG

(11) Making Special Request – Lời Thỉnh Cầu Đặc Biệt

May the wisdom of learning, thinking and meditation increase
and may the wisdom of teaching, debating and writing increase.
May I achieve ordinary and extraordinary accomplisments
Please bless me to quickly become like you.
Tuệ văn, tư, và tu / nguyện luôn luôn tăng trưởng.
Trí thuyết, luận, soạn tác / nguyện luôn luôn tăng trưởng.
Nguyện con đạt thành tựu / thế gian và xuất thế.
Xin gia trì cho con / mau được giống như Thầy.
TO SAM GOM PÉ SHÉ RAB PEL DU SOL
CHÉ TSO TSOM PEI LO DRO GYE SU SOL
CHOG DANG TUN MONG NGO DRUB TSEL DU SOL
NYUR DU KYE RANG TA BUR JIN GYI LOB

May the simultaneous-born great bliss shine immediately
And the delusion-shadow of grasping at inherent existence be cleared.
May I cut the net of doubt of the true nature of mind.
Please bless me to quickly become like you.
Nguyện trí lạc bản lai / ngay tức thì rạng sáng
Xoá tan mọi bóng tối / của chấp ngã vọng tâm
Nguyện chặt sạch võng lưới / hoài nghi về chân tánh
Xin gia trì cho con / mau được giống như Thầy.
DÉ CHEN LHEN KYE YÉ SHÉ CHAR DU SOL
NGO DZIN TRUL PAL DRI MA SEL DU SOL
SEM NYI TÉ TSOM DRA WA CHÉ DU SOL
NYUR DU KYE RANG TA BUR JIN GYI LOB

(12) Dedication – Hồi Hướng

In all future lives, through the Conqueror TsongKhapa acting in person as Mahayana Guru, let me not turn aside for even a moment from the excellent path the conquerors have praised.
Đời này kiếp sau / nhờ trực tiếp được / thầy Tông Khách ba, /
là đấng chiến thắng, / đích thân dẫn dắt / trong pháp đại thừa,
nguyện không lìa xa / dù chỉ phút giây / đường tu tối thượng /
mà mười phương Phật / vẫn hằng tán dương.
TSE RAB KUN DU GYAL WA TSONG KHA PAY
TEN CHOG SHI NYI NGO SUL TZE PAY TU
GYAL WAY NGAG PAY LAM SANGDE NYI LAY
KAY CHIG TSAM YONG DOG PA MA GYUR CHIG

 

02/2016




Lama Tsongkhapa: NỀN TẢNG MỌI THIỆN ĐỨC

 – English Title: The Foundation of All Good Qualities
– Tibetan:  ཡོན་ཏན་གཞིར་གགྱུར་མ།
Tác Giả (Author):
Lama Tông Khách Ba (sơ tổ dòng Gelug)
Việt ngữ: Hồng Như – bản dịch 2011.



LAMA TÔNG KHÁCH BA - Nền Tảng Mọi Thiện Đức - Foundaion of All Good Quality
LAMA TÔNG KHÁCH BA

Nghe giảng – Teachings: [ MP3 – Geshe Thubten Dawa ]
Đọc tiếng Anh – English version: [http://www.hongnhu.org/nen-tang-moi-thien-duc/2/]
Hạ Tải – Download[ PDF: Viet – English ]


Tiếng Việt (bản 2021)

༄༅།།ཡོན་ཏན་གཞིར་གགྱུར་མ།
NỀN TẢNG MỌI THIỆN ĐỨC
– The Foundation Of All Good Qualities
(Yöntän Zhir Gyurma)

Nền tảng mọi thiện đức là đấng tôn sư từ hòa tuyệt hảo
Nương dựa đúng cách nơi Thầy là gốc rễ của đường tu.
Nay con được sự tin hiểu này, nguyện kiên trì cố gắng
Xin hộ trì cho con tha thiết kính nương Thầy

Thân người quý giá chỉ đến một lần thôi
Tràn đầy ý nghĩa nhưng khó lòng gặp lại
Xin hộ trì cho tâm con không gián đoạn,
Ngày đêm luôn tận dụng tinh túy kiếp người.

Cuộc sống này phù du như bọt nước,
Rã tan nhanh, cái chết đến rất mau.
Sau khi chết, tựa như hình với bóng,
Quả thiện ác sẽ bám theo không rời

Nay con được sự tin hiểu này,
Xin hộ trì cho con luôn cẩn trọng,
Rời bỏ điều bất thiện dù bé nhỏ,
Hoàn thành mọi việc thiện dù khó khăn.

Lạc thú thế gian là cánh cửa dẫn vào khổ đau
Vì không bền lâu, cũng không đáng tin cậy.
Nay con được sự tin hiểu này,
Xin hộ trì cho con phát chí nguyện cầu vui giải thoát.

Từ chí nguyện cầu giải thoát trong sáng,
Chánh niệm, chánh tri, và bất phóng dật sẽ phát sinh.
Gốc rễ của chánh pháp là giữ giới biệt giải thoát [pratimoksha],
Xin che chở cho con hoàn thành pháp tu trọng yếu này.

Cũng như con trầm luân biển Ta-bà,
Hiền mẫu đa sinh của con cũng lạc vào nơi ấy.
Xin hộ trì cho con phát được tâm bồ đề,
Để gánh lấy trách nhiệm giải thoát chúng sinh.

Nhưng phát tâm bồ đề mà không giữ ba nẻo giới,
Cũng không thể thành chánh quả.
Nay con được sự tin hiểu này,
Xin hộ trì cho con dốc tâm tinh tấn giữ gìn bồ tát giới.

Bao giờ tâm con thôi xao lãng không chạy theo vọng cảnh,
Hiểu được ý nghĩa của thực tại,
Xin hộ trì cho con mau chóng khai mở từ trong dòng tâm thức,
Con đường chỉ quán bất nhị.

Một khi đường tu phổ thông,
Con hành trì thuần thục trong sáng,
Xin hộ trì cho con mở cánh cửa của những đứa con may mắn,
Vào với Kim cang thừa tối thượng.

Lúc bấy giờ, nền tảng hoàn thành hai đại thành tựu,
là giữ gìn thuần tịnh giới hạnh và mật thệ [samaya]
Nay con có được lòng tin vững chắc này,
Xin hộ trì cho con bảo vệ giới nguyện như bảo vệ mạng sống.

Hiểu được ý nghĩa của hai giai đoạn
Tinh túy của Kim cang thừa.
Thực tập tinh chuyên, không thối chuyển công phu bốn thời,
Xin hộ trì cho con thành tựu lời dạy của đấng đạo sư.

Nguyện các đấng đạo sư đã dẫn con vào đường tu cao cả,
Cùng các bạn đồng hành trên con đường tu ấy,
Có được đời sống lâu dài.
Xin hộ trì cho con chinh phục mọi chướng ngại trong ngoài.

Nguyện mọi kiếp sau / không bao giờ lìa / đạo sư toàn hảo
Nguyện luôn vui trong niềm vui chánh pháp.
Nhờ đạt thiện đức / chứng địa chứng đạo
Mau chóng thành tựu / quả Kim Cang Trì.


Tiếng Việt (bản 2006)

Nền tảng mọi thiện đức là đấng đạo sư từ hòa thanh tịnh.
Tin tưởng đúng cách nơi thầy là gốc rễ của đường tu.
Nay con được sự tin hiểu này, nguyện kiên trì cố gắng,
Xin hộ trì cho con thành kính nương dựa đấng đạo sư.

Kiếp người tự do quí giá này chỉ đến một lần thôi.
Tràn đầy ý nghĩa nhưng khó lòng gặp lại.
Xin hộ trì cho tâm con không xao lãng,
Ngày cũng như đêm không uổng phí kiếp người.

Cuộc sống phù du như bọt nước,
Rã tan nhanh, cái chết đến rất mau.
Sau khi chết, tựa như hình với bóng,
Quả báo thiện ác sẽ bám theo không rời

Nay con được sự tin hiểu này,
Xin hộ trì cho con luôn cẩn trọng,
Rời bỏ điều bất thiện dù bé nhỏ,
Hoàn thành mọi việc thiện dù khó khăn.

Lạc thú thế gian là cánh cửa dẫn vào khổ đau
Vì không bền lâu, cũng không đáng tin cậy.
Nay con được sự tin hiểu này,
Xin hộ trì cho con phát chí nguyện cầu vui giải thoát.

Từ chí nguyện cầu giải thoát trong sáng,
Chánh niệm, tỉnh giác, và tâm cẩn trọng sẽ phát sinh.
Gốc rễ của chánh pháp là giữ giới biệt giải thoát [pratimoksha],
Xin che chở cho con hoàn thành môn tu trọng yếu này.

Cũng như con trầm luân trong biển Ta-bà,
Các bà mẹ nhiều đời của con cũng lạc vào nơi ấy.
Xin hộ trì cho con phát được tâm bồ đề,
Để gánh lấy trách nhiệm giải thoát chúng sinh.

Nhưng phát tâm bồ đề mà không giữ ba nẻo giới,
Cũng không thể thành chánh quả.
Nay con được sự tin hiểu này,
Xin hộ trì cho con dốc tâm tinh tấn giữ gìn bồ tát giới.

Bao giờ tâm con thôi xao lãng không chạy theo vọng cảnh,
Hiểu được ý nghĩa của thực tại,
Xin hộ trì cho con mau chóng khai mở từ trong dòng tâm thức,
Con đường chỉ quán bất nhị.

Một khi đường tu phổ thông,
Con hành trì thuần thục trong sáng,
Xin hộ trì cho con mở cánh cửa của những đứa con may mắn,
Vào với Kim cang thừa tối thượng.

Lúc bấy giờ, nền tảng hoàn thành hai đại thành tựu,
là giữ gìn thuần tịnh giới hạnh và mật thệ [samaya]
Nay con có được lòng tin vững chắc này,
Xin hộ trì cho con bảo vệ giới nguyện như bảo vệ mạng sống.

Hiểu được ý nghĩa của hai giai đoạn
Tinh túy của Kim cang thừa.
Thực tập tinh chuyên, không thối chuyển công phu bốn thời,
Xin hộ trì cho con thành tựu lời dạy của đấng đạo sư.

Nguyện các đấng đạo sư đã dẫn con vào đường tu cao cả,
Cùng các bạn đồng hành trên con đường tu ấy,
Có được đời sống lâu dài.
Xin hộ trì cho con chinh phục mọi chướng ngại trong ngoài.

Cho mọi kiếp về sau, nguyện không lìa xa vị đạo sư toàn hảo,
Nguyện luôn vui trong niềm vui chánh pháp.
Thành tựu mọi thiện đức của chứng địa và đường tu,
Nguyện sớm đạt quả vị Phật Kim Cang Trì.

[ Hết phần Tiếng Việt ]


[view]

Đọc tiếng Anh – English version: http://www.hongnhu.org/nen-tang-moi-thien-duc/2/




 – English Title: The Foundation of All Good Qualities
– Tibetan:  ཡོན་ཏན་གཞིར་གགྱུར་མ།
Tác Giả (Author):
Lama Tông Khách Ba – Lama Tsong Khapa (sơ tổ dòng Gelug)
Việt ngữ: Hồng Như – bản dịch 2011.

Nghe giảng – Teachings: [ MP3 – Geshe Thubten Dawa ]
Đọc tiếng Anh – English version: [http://www.hongnhu.org/nen-tang-moi-thien-duc/2/]
Hạ Tải – Download[ PDF: Viet – English ]


English Version

The foundation of all good qualities is the kind and perfect, pure guru;
Correct devotion to him is the root of the path.
By clearly seeing this and applying great effort,
Please bless me to rely upon him with great respect.

Understanding that the precious freedom of this rebirth is found only once,
Is greatly meaningful and difficult to find again,
Please bless me to generate the mind that unceasingly,
Day and night, takes its essence.

This life is as impermanent as a water bubble;
Remember how quickly it decays and death comes.
After death, just like a shadow follows the body,
The results of black and white karma follow.

Finding firm and definite conviction in this,
Please bless me always to be careful
To abandon even the slightest of negativities
And accomplish all virtuous deeds.

Seeking samsaric pleasures is the door to all suffering;
They are uncertain and cannot be relied upon.
Recognizing these shortcomings,
Please bless me to generate the strong wish for the bliss of liberation.

Led by this pure thought,
Mindfulness, alertness and great caution arise.
The root of the teachings is keeping the pratimoksha vows;
Please bless me to accomplish this essential practice.

Just as I have fallen into the sea of samsara,
So have all mother migratory beings.
Bless me to see this, train in supreme bodhicitta,
And bear the responsibility of freeing migratory beings.

Even if I develop only bodhicitta, without practicing the three types of morality
I will not achieve enlightenment.
With my clear recognition of this,
Please bless me to practice the bodhisattva vows with great energy.

Once I have pacified distractions to wrong objects
And correctly analyzing the meaning of reality,
Please bless me to generate quickly within my mind-stream
The unified path of calm abiding and special insight.

Having become a pure vessel by training in the general path,
Please bless me to enter
The holy gateway of the fortunate ones:
The supreme vajra vehicle.

At that time, the basis of accomplishing the two attainments
Is keeping pure vows and samaya.
As I have become firmly convinced of this,
Please bless me to protect these vows and pledges like my life.

Then, having realized the importance of the two stages,
The essence of the Vajrayana,
By practicing with great energy, never giving up the four sessions,
Please bless me to realize the teachings of the holy guru.

Like that, may the gurus who show the noble path
And the spiritual friends who practice it have long lives.
Please bless me to pacify completely
All outer and inner hindrances.

In all my lives, never separated from perfect gurus,
May I enjoy the magnificent Dharma.
By completing the qualities of the stages and paths,
May I quickly attain the state of Vajradhara.

Colophon:
This lam-rim prayer by Lama Tsongkhapa, translated by Jampäl Lhundrup, comes from Essential Buddhist Prayers: An FPMT Prayer Book, Volume 1, 2001,
Vietnamese translation by HongNhu Thubten Munsel, comes from Nghi Thuc Tung Niem Tap Yeu FPMT, Quyển 1.




Dza Patrul Rinpoche: KHO TÀNG TÂM CỦA ĐẤNG GIÁC NGỘ

Tác Luận: Dza Patrul Rinpoche
CHÁNH VĂN: Công Phu Kiến, Tu và Hạnh
Còn có tên là: Bài Pháp Đầu, Giữa, Cuối Đều Thiện
Việt dịch: Hồng Như, bản hiệu đính tháng 09/2015.


Dza_Patrul_Rinpoche

1. Hồng âm một giọt
rơi vào tai ai,
pháp âm rót đầy
hàng vô lượng kiếp:
Tam Bảo nhiệm mầu,
nguyện ánh hồng danh
chở nguồn hạnh phúc
đến cho khắp cả.

2. Quả hồng mùa thu,
trong xanh, ngoài chín,
Tôi đây vỏ ngoài
thấy giống người tu,
nhưng tâm và pháp
bên trong chưa hòa
nên pháp thuyết ra
thật không có mấy.

3. Nhưng vì bạn hiền,
hết mực cầu xin,
không thể thoái thác,
nên xin nói ra
ít lời bộc trực,
không hợp thói thường
của thời mạt pháp,
tặng không dối gạt,
xin hãy khéo nghe.

4. Bậc Chân Hiền Thánh,
trên cả loài trời,
đắc chân thật địa
nhờ tu chân đạo,
chân thật hiển bày
chân đạo vô thượng
cho khắp chúng sinh,
bằng không sao gọi là
Chân Hiền Thánh?

5. Tiếc thay cho người
sống thời mạt pháp,
trực tâm héo tàn,
chỉ còn dối láo,
ý nghĩ vặn vọ,
lời nói quanh co,
khôn khéo lừa người,
ai tin cho được?

6. Than ôi! buồn thay
chúng sinh mạt pháp!
Than ôi! chẳng biết
tin vào nơi ai!
Như lạc giữa chốn
quỉ ăn thịt người,
Hãy suy nghĩ kỹ,
để tự cho mình
một ân huệ lớn.

7. Trước đây tâm mới
lang thang một mình,
bị gió nghiệp cuốn,
sanh vào hiện tại.
Rồi chẳng mấy chốc,
lại như sợi tóc
tuốt khỏi tảng bơ,
một mình lang thang,
bỏ lại tất cả.

8. Tự mình muốn tốt
ấy việc đương nhiên,
Vậy tự với mình,
đâu thể không thật:
không tự vì mình
đạt tinh túy pháp,
chẳng phải đã tự
hại đời mình sao?

9. Chúng sinh mạt pháp,
tâm hạnh xấu ác,
chẳng ai giúp ta,
chỉ toàn dối gạt;
muốn giúp cho người
cũng khó lắm thay!
tốt hơn bỏ hết
trò tất bậc này.

10. Phục dịch kẻ trên,
họ chẳng vừa ý;
chăm lo người dưới,
họ chẳng toại lòng;
giúp đỡ cho người,
người nào giúp mình.
Hãy suy nghĩ kỹ
để hạ quyết tâm.

11. Đời nay đa văn
chẳng lợi chánh pháp,
chỉ thêm tranh biện;
đời nay chứng ngộ
chẳng lợi chúng sinh,
chỉ thêm phê phán;
đời nay địa vị
chẳng giúp trị nước,
chỉ gieo nổi loạn.
Nghĩ chuyện đời nay,
tâm lại càng thêm
xót xa chán ngán.

12. Dù có giải thích
họ cũng không hiểu
và cũng chẳng tin;
dù mang tâm ý
chân thật vì người
họ vẫn thấy ngược.
Đời nay, kẻ méo
nhìn vào việc thẳng
chỉ thấy cong queo.
Chẳng thể giúp ai,
đừng nhiều kỳ vọng.

13. “Vạn pháp như huyễn,”
Phật dạy điều này.
Nhưng đến đời nay
lại càng hư huyễn
hơn bao giờ hết.
Ảo ảnh tạo ra
bởi nhà ảo thuật
ranh ma quỉ quái,
hãy nên thận trọng
với cảnh hư vọng
thời mạt pháp này.

14. “Ngôn từ chẳng qua
chỉ là tiếng vang,”
Phật dạy điều này.
nhưng đến đời nay
lại thành tiếng vang
của những tiếng vang.
Tiếng vang nói gì,
ý nghĩa chẳng hề
phù hợp với âm.
Thôi đừng bận tâm
âm vang quỉ quái.

15. Những kẻ con gặp,
nào phải là người,
toàn là kẻ bịp;
những lời con nghe,
nào phải chân thật,
toàn là dối láo.
Đời nay thật sự
chẳng có một ai
có thể tin vào.
Chi bằng một mình
ung dung tự tại.

16. Nếu việc con làm
thuận với chánh pháp,
họ sẽ chống con;
nếu lời con nói
thuận với sự thật,
họ sẽ hận con;
nếu tâm ý con
trong sáng hiền lành,
họ vẫn bươi lỗi.
Chính lúc này đây
con phải dấu kín
đường đi của mình.

17. Ẩn thân trên núi
hoang vu một mình;
ẩn khẩu bằng cách
quả giao, kiệm ngôn;
ẩn tâm bằng cách
lỗi mình luôn nhớ:
như vậy đúng nghĩa
du già ẩn tu.

18. Chán ngán là vì
chẳng thể tin ai;
buồn vì mọi sự
chỉ là vô nghĩa;
quyết tâm là vì
không đủ thời gian
đạt điều mình muốn:
ba điều nhớ đủ,
sẽ gặp sự lành.

19. Đâu có thời gian
để hưởng hạnh phúc,
chóng qua thế thôi;
đã không muốn khổ
thì dùng chánh pháp
để mà diệt khổ.
Dù vui hay khổ,
con ơi hãy biết
đó là nghiệp lực.
Từ nay về sau,
đối với mọi người,
đừng mong, đừng nghi.

20. Vì nhiều mong đợi
ở nơi người khác,
nên cứ phải cười;
vì nhiều nhu cầu
cho chính bản thân,
nên cứ phải lo;
toan tính trước sau,
trong tâm chứa đầy
mong đợi, e ngại:
Từ nay về sau,
bất kể thế nào,
hãy đừng như thế.

21. Dù chết hôm nay,
nào có gì buồn?
sinh tử luân hồi
vốn là như vậy.
Dù sống trăm năm,
nào có gì vui?
Tuổi trẻ từ lâu
đã không còn nữa.
Nay dù sống chết,
thử hỏi đời này
có gì hệ trọng?
Tu cho đời sau,
mới là trọng yếu.

22. Lạy Quan Thế Âm,
suối nguồn đại bi,
bổn sư từ hòa,
là chốn chở che
duy nhất của con.
Lục tự minh chú,
chân ngôn của Ngài,
chính là diệu pháp.
Từ nay về sau
con chỉ còn biết
trông mong nơi Ngài.

23. Hiểu được bao nhiêu,
chỉ toàn lý thuyết,
nào có ích chi!
làm được bao nhiêu,
đời này xài hết,
nào có ích chi!
nghĩ ngợi bao nhiêu,
chỉ toàn hư vọng,
nào có ích chi!
Nay đã đến lúc
ta phải làm điều
lợi ích thật sự:
trì Lục tự chú.

24. Chỗ nương duy nhất
không hề hư ngụy
chính là Tam Bảo.
Tinh túy duy nhất
ở nơi Tam Bảo,
là Quan Thế Âm.
Với niềm tin tưởng
không hề lay chuyển
nơi trí tuệ ngài:
chắc chắn, quyết tâm,
trì Lục tự chú.

25. Nền tảng Đại thừa
là tâm bồ đề,
là đường duy nhất
mà khắp chư Phật
đã từng đi qua.
Đừng bao giờ xa
đường tu cao quí
của tâm bồ đề,
hãy vì chúng sinh,
trì Lục Tự chú.

26. Trôi lăn luân hồi
kể từ vô thủy
cho đến ngày nay,
mọi việc đã làm
toàn là sai quấy,
càng khiến trầm luân.
Từ tận đáy lòng
phát lộ sám hối
lầm lỗi, đọa rơi
bằng bốn sám lực,
trì lục tự chú.

27. Vì chấp cái tôi,
nên chấp mọi thứ
– đây là nguyên nhân
trầm luân sinh tử.
Vậy hãy cúng dường
cho bậc giác giả
nơi cõi niết bàn;
và hãy bố thí
cho kẻ khốn cùng
ở trong sinh tử;
cho ra tất cả
– thân, của, công đức –
hồi hướng chúng sinh:
tham chấp ném xa,
trì Lục tự chú.

28. Ân sư tôn quí
là chân tánh Phật.
trong mười phương Phật,
ân sư là Phật
từ hòa bậc nhất.
Thấy rõ ân sư
cùng Quan Thế Âm
bất khả phân chia,
thiết tha hướng tâm,
trì Lục tự chú.

29. Giúp thanh tịnh chướng,
khai mở pháp hành,
thành tựu tứ thân,
Bốn pháp quán đảnh,
tinh túy chính là
Thầy Quan Thế Âm.
Chứng Thầy là Tâm
thì bốn quán đảnh
đều được viên thành:
Trong cõi tự thọ
quán đảnh vốn có,
trì Lục tự chú.

30. Luân hồi chỉ là
cái thấy của ta.
Nhận ra tất cả
đều là bổn tôn,
thì việc lợi tha
đều đã viên thành.
Chứng được tánh tịnh
của khắp vạn pháp,
là đồng loạt truyền
bốn pháp quán đảnh
cho khắp chúng sinh:
nạo vét cùng tận
đáy sâu sinh tử,
trì lục tự chú.

31. Tâm không thể gánh
tất cả pháp quán;
quán một Như lai,
là quán đủ cả.
Mọi cảnh hiện ra,
đều là sắc tướng
của đấng Đại Bi:
trong cảnh Phật thân,
sắc hiện vẫn không,
trì Lục tự chú.

32. Tụng niệm, nghi quỹ,
hay là bùa chú,
đều quá phức tạp;
Lục tự chính là
chân âm diệu pháp,
bao hàm tất cả.
Vạn âm đều là
diệu khẩu nhiệm mầu
của đức Quan Âm:
biết âm là chú,
thanh hiện vẫn không,
trì Lục tự chú.

33. Nhị chướng và niệm giảm
thì kinh nghiệm và chứng ngộ tăng.
Nắm được sự thấy
là thắng hết thảy
tà chướng, kẻ thù.
Ban cho thành tựu
thế gian xuất thế
ngay trong đời này,
là Quan Thế Âm:
để bốn pháp hành
tự nhiên thành tựu,
trì Lục tự chú.

34. Vạn pháp khởi sinh,
dùng làm cúng phẩm
dâng khách giải thoát;
mang hết sắc hiện,
dùng làm đất sét
nắn tượng sắc-không;
mang hết tất cả
lễ lạy bất nhị,
dâng đấng Chân Tâm:
khéo tu việc đạo,
trì Lục tự chú.

35. Giặc thù là sân,
hãy chiến thắng bằng
vũ khí đại từ.
Gia đình là khắp
chúng sinh sáu cõi,
hãy bảo vệ bằng
phương tiện đại bi.
Trên ruộng tín tâm,
gặt hái hoa mầu
kinh nghiệm chứng ngộ:
khéo lo việc đời,
trì Lục tự chú.

36. Xác già chấp có,
thiêu bằng vô chấp;
cúng thất bằng tu
tinh túy chánh pháp;
khói cúng thay bằng
hồi hướng đời sau:
vì người quá cố
mà làm việc thiện,
trì Lục tự chú.

37. Tín tâm là con,
đặt nơi gưỡng cửa
của pháp hành trì;
tâm buông sinh tử,
là đứa con trai,
cho gánh việc nhà;
tâm đại từ bi,
là đứa con gái,
gã rể ba cõi:
với người còn sống,
trách nhiệm chu toàn,
trì Lục tự chú.

38. Sắc hiện là vọng,
chưa từng thật có.
Luân hồi – niết bàn,
đều chỉ là niệm,
không là gì khác.
Niệm vừa chớm khởi,
tự giải thoát ngay,
là đủ tất cả
chứng địa, chứng đạo.
Dụng tinh túy pháp
để giải thoát niệm,
trì Lục tự chú.

39. Tự tâm này đây,
giác-không bất nhị,
đó là Pháp thân.
Để cho mọi sự
tự nhiên đơn thuần,
như vậy tánh sáng
sẽ tự hiện ra.
Đừng làm gì cả
mới làm xong hết
những việc cần làm:
trụ trong cảnh giới
giác–không trần trụi,
trì Lục tự chú.

40. Lấy tịnh chặt đứt
đà tăng động niệm;
từ trong loạn động
thấy được tánh tịnh;
tịnh, động bất nhị,
giữ tâm bình thường:
trong cảnh nhất tâm,
trì Lục tự chú.

41. Quán chiếu tục đế,
trực nhận chân đế;
từ trong chân đế,
thấy được tục đế
hiện như thế nào;
nhị đế bất phân,
siêu việt khái niệm,
là cảnh đơn thuần:
ở trong tri kiến
thoát mọi động niệm,
trì Lục tự chú.

42. Từ sắc, đoạn lìa
chấp bám của tâm;
từ tâm, đập tan
sắc hiện hư vọng;
sắc, tâm bất nhị
rộng mở vô biên:
trong cảnh nhất vị,
trì Lục tự chú.

43. Trong chân tánh tâm,
giác-không đơn thuần,
vạn pháp tự tại;
niệm khởi chính là
hoạt dụng của giác,
sẽ tự thanh tịnh;
tâm, giác bất nhị
trong cảnh nhất tánh:
trụ trong cảnh giới
pháp thân vô thiền,
trì Lục tự chú.

44. Biết mọi sắc hiện
đều là bổn tôn,
là then chốt của
giai đoạn khởi hiện;
chấp cảnh đẹp-xấu
tan vào chân tánh;
vô chấp, tướng hiện
tự nhiên của tâm
là thân bổn tôn:
cõi thấy tự thoát,
trì Lục tự chú.

45. Biết thanh là chú,
là then chốt của
pháp tu trì chú;
chấp thanh hay-dở
tan vào chân tánh;
vô chấp, tiếng của
luân hồi niết bàn
là tiếng lục tự.
cõi nghe tự thoát,
trì Lục tự chú.

46. Biết hương vô sinh,
là then chốt của
giai đoạn viên thành;
chấp hương thơm-thúi
tan vào chân tánh;
vô chấp, mùi hương
là hương giới luật
của đấng bổn tôn:
cõi hương tự thoát,
trì Lục tự chú.

47. Biết vị nếm là
phẩm cúng thiêng liêng/
là then chốt của
giai đoạn viên thành;
chấp vị ngon-dở
tan vào chân tánh;
vô chấp, thực phẩm
đều là cúng phẩm
dâng đấng bổn tôn.
cõi vị tự thoát,
trì Lục tự chú.

48. Biết xúc đồng đẳng,
là then chốt của
địa vị nhất vị;
đói, no, lạnh, nóng,
tan vào chân tánh;
vô chấp, xúc cảm
đều là thiện hạnh
của đấng bổn tôn:
cõi xúc tự thoát,
trì Lục tự chú.

49. Biết pháp là không,
then chốt của kiến;
lòng tin chân-vọng
tan vào chân tánh;
vô chấp, vạn pháp
luân hồi niết bàn
là cảnh Pháp thân:
cõi ý tự thoát,
trì Lục tự chú.

50. Đừng theo đối tượng
của lòng sân hận,
hãy nhìn tâm giận;
sân hận vừa chớm
đã tự tan biến,
là cảnh sáng-không;
Sáng-không chính là
đại-viên-cảnh-trí.
Sân tự giải thoát:
trong cảnh giới này,
trì Lục tự chú.

51. Đừng bám đối tượng
của lòng kiêu căng,
hãy nhìn trí chấp;
tự tôn vừa chớm
đã tự tan biến,
là cảnh vốn-không;
Bản-lai-không, là
bình-đẳng-tánh-trí.
Ngã mạn tự thoát:
trong cảnh giới này,
trì Lục tự chú.

52. Đừng luyến đối tượng
của lòng ham muốn,
hãy nhìn lòng tham;
tham luyến vừa chớm
đã tự tan biến
là cảnh lạc-không;
lạc-không chính là
diệu-quán-sát-trí.
Tham tự giải thoát:
trong cảnh giới này,
trì Lục tự chú.

53. Đừng theo đối tượng
của lòng ganh ghen,
xét tâm tầm tư;
ganh ghen vừa chớm
đã tự tan biến,
là cảnh trí-không;
trí-không chính là
thành-sở-tác-trí.
Ganh ghen tự thoát:
trong cảnh giới này,
trì Lục tự chú.

54. Đừng ham khái niệm
do vô minh tạo,
hãy nhìn tự tánh
của vô minh này;
vọng niệm vừa chớm
đã tự tan biến,
là cảnh giác-không;
giác-không là pháp-giới-thể-tánh-trí.
Vô minh tự thoát:
trong cảnh giới này,
trì Lục tự chú.

55. Sắc uẩn vô sinh,
bản lai là không,
tựa như hư không;
cốt tủy tinh túy
của giác-không này,
là Quan Thế Âm;
chẳng ai khác hơn
là bậc tôn quí
Vua Của Trời Rộng:
trong cảnh chứng không,
trì Lục tự chú.

56. Thọ uẩn là dây
buộc tâm vào cảnh;
khi biết thọ này
bình đẳng bất nhị,
thì đó chính là
đức Quan Thế Âm;
Chẳng ai khác hơn
là bậc tôn quí
Bất Không Thòng Lọng:
trụ trong cảnh giới
thâm chứng nhất vị,
trì Lục tự chú.

57. Tưởng uẩn nắm mãi,
cho rằng thật có,
đó là vọng tâm;
còn nắm chúng sinh
bằng tâm đại bi
thì đó chính là
đức Quan Thế Âm;
chẳng ai khác hơn
là bậc tôn quí
Vét Đáy Sinh Tử:
trụ trong cảnh giới
đại bi vô lượng,
trì Lục tự chú.

58. Hành uẩn vọng động
tạo tác sinh tử,
thì trôi luân hồi;
còn chứng luân hồi
niết bàn bình đẳng,
thì đó chính là
đức Quan Thế Âm;
chẳng ai khác hơn
là đấng Đại Bi
Chuyển Hoá Chúng Sinh:
trụ cảnh đồng vị,
làm việc lợi tha,
trì Lục tự chú.

59. Thức uẩn biểu hiện
của tâm phàm phu,
chức năng có tám;
chứng biết tâm này
vốn là Pháp thân,
thì đó chính là
đức Quan Thế Âm;
chẳng ai khác hơn
là bậc tôn quí
Biển Rộng Thế Tôn:
trú trong cảnh giới
tự tâm là Phật,
trì Lục tự chú.

60. Chấp thân thật có,
là nhân sinh ra
nô lệ buộc ràng;
nếu thấy thân này
chính là bổn tôn,
tuy hiện vẫn không,
thì đó chính là
đức Quan Thế Âm;
chẳng ai khác hơn
là bậc tôn quí
đức Liên Hoa Thủ:
trụ trong cảnh giới
thân tướng bổn tôn,
tuy hiện vẫn không,
trì Lục tự chú.

61. Động niệm phân biệt
nơi cõi ngữ thanh,
là nhân sinh vọng;
chứng khẩu là chú,
tuy vang vẫn không,
thì đó chính là
đức Quan Thế Âm;
chẳng ai khác hơn
là bậc tôn quí
Tiếng Gầm Sư Tử:
trụ trong cảnh giới
biết khẩu là chú,
trì Lục tự chú.

62. Chấp ý thật có,
vọng này là nhân
sinh ra luân hồi;
thả ý an trụ
trong tánh tự nhiên
thoát mọi niệm khởi,
thì đó chính là
đức Quan Thế Âm;
chẳng ai khác hơn
là bậc tôn quí
Tháo Nơi Chân Tâm:
trụ trong cảnh giới
tâm là Pháp thân,
trì Lục tự chú.

63. Vạn pháp vốn là
cảnh giới Pháp thân
bản lai thanh tịnh;
diện kiến Pháp thân,
thì đó chính là
đức Quan Thế Âm;
chẳng ai khác hơn
là bậc tôn quí
Đấng Ngự Cõi Thế:
trụ trong cảnh giới
thanh tịnh vô lượng,
trì Lục tự chú.

64. Đức Quan Thế Âm:
một đấng bổn tôn
gồm đủ chư Phật;
Lục tự minh chú:
một câu minh chú
gồm đủ mọi chú;
và bồ đề tâm:
một pháp gồm đủ
hai bước hiện, thành:
trụ cảnh chứng một
giải thoát tất cả,
trì Lục tự chú.

65. Làm để làm gì?
Việc nào cũng gieo
toàn nhân sinh tử;
xem việc đã làm
vô nghĩa biết bao!
Nay thà ngưng hết,
đừng làm gì cả,
thả hết chuyện làm,
trì Lục tự chú.

66. Nói để làm chi?
Toàn chuyện tào lao;
Xem đã khiến tâm
tán loạn cỡ nào!
Nay thà lặng thinh
trong cõi tịch lặng,
ngưng hẳn tiếng lời,
trì Lục tự chú.

67. Tấc bậc làm gì?
tới lui thêm mệt;
nhìn xem chánh pháp
lạc xa cỡ nào!
Nay thà một chỗ,
để tâm thư giãn,
ổn định an nhiên,
trì Lục tự chú.

68. Ăn để làm gì?
chỉ toàn thành phẩn;
xem bụng bây giờ
ăn chẳng biết no!
Nay thà sống bằng
lương thực chánh định,
dứt bỏ chuyện ăn,
trì Lục tự chú.

69. Suy nghĩ làm gì?
càng thêm hư vọng;
xem lại mục tiêu
đạt có là bao!
Nay chuyện đời này
thà chẳng nghĩ xa,
buông mọi lo toan,
trì Lục tự chú.

70. Sở hữu làm gì?
chỉ càng thêm vướng;
nhìn xem sớm ngày
phải bỏ mà đi!
Nay thà đoạn dứt
tham lam tài sản,
ngưng gom của cải,
trì Lục tự chú.

71. Ngủ để làm gì?
càng thêm trì trệ;
nhìn xem đời sống
trôi trong dật dờ!
Nay thà bắt đầu
hết lòng nỗ lực,
ngày cũng như đêm,
đá bỏ tán tâm,
trì Lục tự chú.

72. Không rảnh!
không rảnh để mà ngủ nghỉ!
Thình lình chết đến
biết phải làm sao?
Nay thà tức khắc
diệu pháp khởi tu,
gấp lên, mau lên,
trì Lục tự chú.

73. Nói gì đến chuyện
năm, tháng, hay ngày,
nhìn việc trước mắt
thay đổi liền tay,
cái chết thêm gần,
mỗi phút, mỗi giây:
phải ngay bây giờ,
trì Lục tự chú.

74. Mạng sống cạn dần
như mặt trời lặn;
cái chết đến như
bóng đổ chiều tà;
còn lại chút gì,
vội bóng chiều tan:
Không còn thời gian!
trì Lục tự chú.

75. Dù lục tự chú
có là diệu Pháp,
tán tâm nói nhìn,
tụng cũng như không!
lại ham đếm số,
càng mất trọng điểm:
hãy chuyên quán tâm,
trì Lục tự chú.

76. Nếu biết thường xuyên
liên tục xét tâm,
thì mọi việc làm
đều thành diệu pháp.
Trong vạn lời dạy,
cốt tủy là đây:
Qui về làm một,
trì Lục tự chú.

77. Phần đầu, sầu thảm
chuỗi lời than vãn
thời mạt pháp này,
là lời trách móc
ta dành cho ta.
Xót xa muộn phiền,
sâu thẳm lòng ta,
nay tặng cho con,
nếu cùng cảm nhận.

78. Bằng không, nếu con
đã tự tin nơi
kiến, tu của mình,
đầy ý tưởng hay
đạo đời dung hợp;
hành xử khéo léo
vừa lòng mọi người:
nếu là như vậy,
cho ta xin lỗi.

79. Phần hai, xác định
về kiến và tu.
Kinh nghiệm chứng ngộ
ta đều không có,
chỉ nói ra điều
hiểu nhờ giáo pháp
truyền thừa trân quí
Phụ-Tử Toàn Giác.

80. Phần ba, thúc dục
bỏ hết mà tu,
dù con có thể
không thấy điểm này,
cũng tự tuôn ra.
Nhưng không mâu thuẫn
lời Phật, bồ tát,
Thật biết ơn con
nếu gắng thực hành.

81. Bài pháp này đây,
đầu, giữa và cuối,
cả ba đều lành,
– đáp lời thỉnh cầu
người bạn lâu năm
chẳng thể từ chối,
được viết ra trong
Bạch Thạch Thắng Động
của bậc thành tựu
bởi tên rách rưới,
Apu Hralpo,
năm độc cháy bừng.

82. Từ nãy đến giờ,
toàn lời lãi nhãi,
nhưng vậy đã sao?
Nội dung xứng đáng,
ý không sai lầm,
vậy công đức này,
ta dành cho con
cùng với những ai
trong khắp ba cõi,
nguyện mọi nguyện ước
khởi từ chánh pháp
đều thành sự thật!

HẾT PHÂN CHÁNH VĂN




Gyalse Thogme Zangpo: TRÊN ĐƯỜNG TU BỆNH KHỔ GÁNH LÀM SAO

 

TRÊN ĐƯỜNG TU BỆNH KHỔ GÁNH LÀM SAO
༈ ནད་ལ་སོགས་པ་ལམ་དུ་འཁྱེར་ཚུལ།
Tác luận: རྒྱལ་སྲས་ཐོགས་མེད་བཟང་པོ། Gyalse Thogme Zangpo (1297-1371)
Việt ngữ: Hồng Như, 2015, nhuận văn 2018, 2021


gyalse-tokme-zangpo

Trên Đường Tu, Bệnh Khổ Gánh Làm Sao
Gyalsé Thogmé Zangpo (1297-1371)

Nam mô Thượng Sư

1/ Khối thân huyễn của tôi và người,
Bệnh thì cứ bệnh, bệnh cũng vui.
Ác nghiệp đã gieo nhờ đó cạn.
Thật ra pháp tu nhiều trăm vạn
Chỉ là để tịnh nhị chướng thôi.

2/ Không bệnh thì thôi, khỏe cũng vui.
Thân tâm vui thì thiện hạnh tăng.
Thật ra thân người muốn đừng phí,
Phải giao ba cửa cho việc lành.

3/ Không của thì thôi, nghèo cũng vui.
Khỏi giữ khỏi mất, khỏi lôi thôi.
Thế gian giận dữ bao tranh chấp
Chắc chắn chỉ vì hám của thôi.

4/ Có của thì có, có cũng vui.
Kho công đức tăng là đủ rồi.
Đời này kiếp sau bao lợi lạc,
Chắc chắn đều nhờ phước trổ hoa.

5/ Chết liền thì chết, chết cũng vui.
Nghịch duyên không cản bước chân qua,
Tập khí tốt lành luôn gắn bó,
Đường không mê lạc, chắc chắn vào.

6/ Sống lâu thì sống, sống cũng vui.
Hoa mầu thật chứng đã đâm chồi,
Lời khai thị, nắng mưa đừng giảm,
Gần gũi cho lâu, sẽ chín mùi.

7/ Dẫu thế nào cũng tập mà vui.

Như vầy, có vị Geshe dòng Sakya hỏi rằng khi gặp bệnh khổ nghịch duyên thì phải làm sao, để giải đáp làm thế nào đưa bệnh khổ nghịch duyên vào đường tu, tôi, tôn giả Thogme, người nói chánh pháp, lập ra phương thức này.

Sarva mangalam


English version translated by Adam Pearcey, 2007. Edited by Phillippa Sison. Revised 2012.
Traduction française établie sur la base de l'anglais, Comité de traduction française Rigpa, 2013.
༈ ནད་ལ་སོགས་པ་ལམ་དུ་འཁྱེར་ཚུལ།
Trên Đường Tu, Bệnh Khổ Gánh Làm Sao
How to Transform Sickness and Other Circumstances
Comment Transformer Maladies et Autres Circonstances en Voie d’Éveil

རྒྱལ་སྲས་ཐོགས་མེད་བཟང་པོ།
Gyalsé Thogmé Zangpo (1297-1371)

ན་མོ་གུ་རུ།
Nam mô Thượng Sư
Namo guru!
Namo guru!

༡ ༽བདག་གཞན་སྒྱུ་ལུས་ཀྱི་ཕུང་པོ་འདི། །
1/ Khối thân huyễn của tôi và người,
This illusory heap of a body, which, like others, I possess—
Ce corps que je possède comme les autres, cet amas illusoire,
ན་ན་ན་སྟེ་ན་བས་དགའ། །
Bệnh thì cứ bệnh, bệnh cũng vui.
If it falls sick, so be it! In sickness I’ll rejoice!
S’il est malade, qu’il le soit ! De cette maladie, je me réjouis !
སྔར་བསགས་ཀྱི་ལས་ངན་འཛད་པ་ཡིན། །
Ác nghiệp đã gieo nhờ đó cạn.
For it will exhaust my negative karma from the past.
Elle balaie mon karma négatif du passé ;
ཆོས་སྤྱོད་ཀྱི་བྱ་བ་སྣ་ཚོགས་ཀྱང་། །
Thật ra pháp tu nhiều trăm vạn
And, after all, many forms of Dharma practice,
Et les diverses pratiques du Dharma, après tout,
སྒྲིབ་གཉིས་སྦྱང་བའི་ཆེད་དུ་ཡིན། །
Chỉ là để tịnh nhị chướng thôi.
Are for the sake of purifying the two obscurations.
Servent à purifier les deux obscurcissements.

༢ ༽ན་བ་མེད་ན་མེད་དེ་དགའ། །
2/ Không bệnh thì thôi, khỏe cũng vui.
If I am healthy, so be it! In freedom from sickness I’ll rejoice!
Si je suis en bonne santé, soit ! Je m’en réjouis !
ལུས་སེམས་བདེ་ན་དགེ་སྦྱོར་འཕེལ། །
Thân tâm vui thì thiện hạnh tăng.
When body and mind are well and at ease, Virtuous practice can develop and gain strength.
Avec un corps et un esprit à l’aise,་La pratique de la vertu s’intensifie ;
མི་ལུས་དོན་ཅན་བྱེད་པ་ཡང༌།
Thật ra thân người muốn đừng phí,
And, after all, the way to give meaning to this human life
Et ce qui donne du sens à cette vie humaine, après tout,
སྒོ་གསུམ་དགེ་ལ་སྦྱོར་བ་ཡིན། །
Phải giao ba cửa cho việc lành.
Is to devote body, speech and mind to virtue.
Est de tourner actes, paroles et pensées vers le bien.

༣ ༽འབྱོར་པ་མེད་ན་མེད་དེ་དགའ། །
3/ Không của thì thôi, nghèo cũng vui
If I face poverty, so be it! In lack of riches I’ll rejoice!
Me voilà sans fortune, soit ! Je m’en réjouis !
བསྲུང་བྲལ་གྱི་བྱ་བྲེལ་དེ་ལ་མེད། །
Khỏi giữ khỏi mất, khỏi lôi thôi.
I will have nothing to protect and nothing to lose.
Point du souci incessant de la garder et de la protéger !
འཐབ་རྩོད་ཀྱི་ཁྲོ་འཁྲུགས་ཇི་སྙེད་པ། །
Thế gian giận dữ bao tranh chấp
Whatever quarrels and conflicts there might be,
Les disputes et les conflits quels qu’ils soient
འཛིན་ཆགས་ཀྱི་ནོར་ལས་བྱུང་བར་ངེས། །
Chắc chắn chỉ vì hám của thôi.
All arise out of desire for wealth and gain—that’s certain!
Viennent, pour sûr, de s’attacher aux biens et aux richesses !

༤ ༽འབྱོར་པ་ཡོད་ན་ཡོད་དེ་དགའ། །
4/ Có của thì có, có cũng vui.
If I find wealth, so be it! In prosperity I’ll rejoice!
Me voilà riche, soit ! Je m’en réjouis !
བསོད་ནམས་ཀྱི་དགེ་ཚོགས་སྤེལ་བས་ཆོག །
Kho công đức tăng là đủ rồi.
If I can increase the stock of my merits that will suffice.
Pour augmenter mon accumulation de mérites, rien de tel !
འཕྲལ་ཕུགས་ཀྱི་ཕན་བདེ་ཇི་སྙེད་པ། །
Đời này kiếp sau bao lợi lạc,
Whatever benefit and happiness there might be, now and in the future,
Tout ce que l’on trouve de bonheur, maintenant et dans le futur,
བསོད་ནམས་ཀྱི་འབྲས་བུ་ཡིན་པར་ངེས། །
Chắc chắn đều nhờ phước trổ hoa
All result from merits I have gained—that’s certain!
Est, pour sûr, le fruit du mérite !

༥ ༽མྱུར་དུ་ཤི་ན་ཤི་བས་དགའ། །
5/ Chết liền thì chết, chết cũng vui.
If I must die soon, so be it! In dying I’ll rejoice!
Si je dois mourir bientôt, soit ! De la mort, je me réjouis !
རྐྱེན་ངན་གྱིས་བར་དུ་མ་ཆོད་ཅིང༌། །
Nghịch duyên không cản bước chân qua,
Without allowing negative circumstances to intervene,
Si l’adversité ne me barre pas la route,
མཚམས་སྦྱོར་གྱི་བག་ཆགས་བཟང་འགྲོགས་པས། །
Tập khí tốt lành luôn gắn bó,
And with the support of positive tendencies I have gathered,
Aidé par les habitudes positives que j’ai accumulées,
མ་ནོར་གྱི་ལམ་དུ་ཚུད་པར་ངེས། །
Đường không mê lạc, chắc chắn vào.
I will surely set out upon the genuine, unerring path!
Je rejoindrai, pour sûr, le chemin infaillible !

༦ ༽ཡུན་དུ་གསོན་ན་གསོན་པས་དགའ། །
6/ Sống lâu thì sống, sống cũng vui,
If I live long, so be it! In remaining I’ll rejoice!
Si je reste en vie longtemps, soit ! D’être en vie, je me réjouis !
ཉམས་མྱོང་གི་ལོ་ཐོག་སྐྱེས་པ་ལ། །
Hoa mầu thật chứng đã đâm chồi,
Once the crop of genuine experience has arisen,
La graine de l’expérience, une fois éclose,
གདམས་ངག་གི་རླན་དྲོད་མ་ཡལ་བར། །
Lời khai thị, nắng mưa đừng giảm,
As long as the sun and rainfall of instructions do not diminish,
Nourrie sans faiblir par le soleil et la pluie des instructions,
ཡུན་དུ་བསྟེན་པས་སྨིན་པར་འགྱུར། །
Gần gũi cho lâu, sẽ chín mùi.
If it is tended over time, it will surely ripen.
Finira avec le temps par porter ses fruits.

༧ ༽གང་ཡིན་ཡང་དགའ་བ་སྒོམས་ཤིག་ཨང་། །
7/ Dẫu thế nào cũng tập mà vui.
So, whatever happens then, let us always cultivate joy!
Ainsi, quoi qu’il advienne, entraînons-nous à nous réjouir !

ཞེས་པ་ས་སྐྱར་དགེ་བཤེས་ཤིག་གིས་ནད་ལ་སོགས་པ་བྱུང་ན་ཇི་ལྟར་བྱེད་དྲིས་པའི་ལན་དུ་ནད་ལ་སོགས་པ་ལམ་དུ་འཁྱེར་བའི་ཚུལ་འདི། ཆོས་སྨྲ་བའི་བཙུན་པ་ཐོགས་མེད་ཀྱིས་བཀོད་པའོ། །

  • Như vầy, có vị Geshe dòng Sakya hỏi rằng khi gặp bệnh khổ nghịch duyên thì phải làm sao, để giải đáp làm thế nào đưa bệnh khổ nghịch duyên vào đường tu, tôi, tôn giả Thogme, người nói chánh pháp, lập ra phương thức này.
    • In response to a question from a Sakya geshé, asking what should be done in the event of sickness and the rest, I, the monk Tokmé, who discourses on the Dharma, set down these ways of bringing sickness and other circumstances onto the spiritual path.
      • En réponse à un guéshé Śākya qui demandait ce qu’il faut faire en cas de maladie, moi, le moine Thogmé, qui disserte sur le Dharma, j’ai exposé ces façons d’amener maladies et autres circonstances sur le chemin spirituel.

སརྦ་མངྒ་ལཾ། །
Sarva mangalam!





Langri Thangpa: TÁM THI KỆ CHUYỂN TÂM

 – [Eight Verses for Training the Mind] –
Tác Giả (Author): Geshe Langri Thangpa (thế kỷ thứ 12) –
Ngôn ngữ (language): Việt – English –
Việt ngữ: hồng như – bản dịch 2006

Tám Thi Kệ Chuyển Tâm

1.
Với quyết tâm thành tựu
Lợi lạc lớn lao nhất
Nhờ tất cả chúng sinh,
Tôi nguyện luôn giữ gìn
Chúng sinh trong đáy tim,
Vì chúng sinh quí hơn
Cả bảo châu như ý.

2.
Khi gặp gỡ tiếp xúc

Với bất kỳ một ai,
Nguyện tôi luôn thấy mình
Là kẻ thấp kém nhất,
Từ đáy lòng chân thật
Luôn tôn kính mọi người
Như kính bậc tối cao.

3.
Nguyện trong từng hành động

Tôi luôn tự xét mình,
Phiền não vừa dấy lên,
Ðe dọa mình và người,
Nguyện tức thì nhận diện,
Và tức thì dẹp tan.

4.
Khi gặp người hiểm ác

Vì bị tâm phiền não
Và ác nghiệp tác động,
Nguyện tôi quí người ấy
Như vừa tìm ra được
Kho tàng trân quí nhất.

5.
Khi gặp người vì lòng

Ganh ghen và đố kỵ
Miệt thị phỉ báng tôi,
Nguyện tôi nhận phần thua,
Nhường đi mọi phần thắng.

6.
Khi gặp người mà tôi

Giúp đỡ, đặt kỳ vọng,
Lại vong ân bội nghĩa
Gây tổn hại cho tôi,
Nguyện tôi xem người ấy
Là một đấng tôn sư.

7.
Tóm lại tôi xin nguyện

Trực tiếp và gián tiếp
Trao tặng mọi lợi lạc
Cho tất cả chúng sinh
Ðều là mẹ của tôi
Từ vô lượng kiếp trước.
Nguyện âm thầm gánh chịu
Mọi ác nghiệp khổ não
Thay thế cho chúng sinh

8.
Nguyện những điều nói trên

Không bị vướng ô nhiễm
Bởi tám ngọn gió chướng.
Nguyện tôi thấy mọi sự
Hiện ra trong cõi đời
Ðều chỉ như huyễn mộng
Cho tâm thôi chấp bám
Thoát ràng buộc luân hồi.


<< Đọc Tiếng Anh (Read the English Version) >>

Eight Verses for Training the Mind

1.  With the determination to accomplish
The highest welfare of all sentient beings,
Who excel even the wish-fulfilling jewel,
May I at all times hold them dear.

2.  Whenever I associate with others
May I think of myself as the lowest of all.
And from the depth of my heart
Hold the others as supreme.

3.  In all actions may I search into my mind,
And as soon as delusions arise
That endanger myself and others,
May I firmly face and avert them.

4.  When I see beings of wicked nature,
Oppressed by violent misdeeds and afflictions,
May I hold them dear
As if I had found a rare and precious treasure.

5. When others out of envy treat me badly
With slander, abuse and the like,
May I suffer the loss and
Offer the victory to them.

6. When the one whom I have helped
And benelitted with great hope
Hurts me badly, may I behold him
As my supreme guru.

7. In short, may I directly and indirectly offer
Benefit and happiness to all my mothers.
May 1 secretly take upon myself the harmful actions
And suffering of my mothers.

8. May all this remain undefiled by the stains of
Keeping in view the eight worldly principles.
May I, by perceiving all phenomena as illusory,
Unattached, be delivered from the bondage of samsara.


<< Đọc Tiếng Việt (Read the Vietnamese Version) >>





Kamalashila: TRÌNH TỰ TU THIỀN – Quyển Trung

EnglishStages of Meditation, by Acharya Kalamashila (not available here) –
Tác giả (Author): Liên Hoa Giới  (Kamalashila) –

Việt ngữ: Hồng Như – 
bản hiệu đính, 06/2008, nhuận văn 07/2009, 06/2015.
Hạ Tải văn bản chánh văn tại www.hongnhu.org/thu-muc/#trinh-tu-tu-thien

KÍNH LỄ ĐỨC MẠN THÙ

Tôi sẽ giải thích ngắn gọn trình tự tu thiền cho người bước theo Đại Thừa Hiển Tông. Ai người có trí muốn mau chóng thành tựu trí toàn giác[1], phải ra sức cố công tích tụ đầy đủ nhân duyên.

1. TÂM LÀ GÌ?

Trí toàn giác không thể không nhân mà có, vì nếu là như vậy, bất cứ điều gì cũng có thể là toàn giác. Nếu sự việc sinh ra không tùy thuộc vào điều gì khác, như vậy mọi sự đều có thể hiện hữu không câu thúc, sẽ chẳng lý do gì lại không thể là toàn giác. Chính vì sự vật chỉ phát sinh tùy lúc, nên bắt buộc phải tùy thuộc nhân duyên. Trí toàn giác cũng vậy, rất hiếm hoi, không phải bất cứ lúc nào chỗ nào cũng có thể sinh ra, vì vậy nhất định phải tùy thuộc nhân duyên.

2. LUYỆN TÂM

Hơn nữa, ta cần huân dưỡng nhân tố cho thật chính xác và đầy đủ. Nếu chọn lầm thì dù ra công khổ nhọc trong thời gian dài bao lâu cũng vẫn không thể đạt mục tiêu mong cầu. Giống như vắt sữa từ sừng. Tương tự như vậy, nhân không đủ thì quả không thể phát sinh. Ví dụ nếu thiếu hạt giống hay thiếu những nhân tố khác thì không thể có được mầm non. Vì thế, muốn đạt điều gì, ta cần huân dưỡng mọi nhân tố cần thiết cho thật đầy đủ chính xác.

Nếu quí vị hỏi rằng, “Đâu là nhân duyên tạo trí toàn giác?”. Tôi, người tựa kẻ mù lòa, chẳng thể trả lời,­­ thế nhưng tôi có thể dựa vào lời của đức Phật sau khi giác ngộ dạy cho chúng đệ tử. Đức Phật nói rằng: “Này Kim Cang Thủ, này đấng Thế Tôn Kín Mật, trí toàn giác siêu việt lấy tâm đại bi làm gốc, sinh ra từ nhân, là tâm vị tha, tâm bồ đề và phương tiện thiện xảo.” Vậy, nếu muốn đạt trí toàn giác, ta cần hành trì ba điều sau đây: tâm đại bi, tâm bồ đề và phương tiện thiện xảo.

3. TÂM ĐẠI BI

Vì có tâm đại bi nên bồ tát lập thệ nguyện phổ độ chúng sinh.

Rồi nhờ chiến thắng tâm chấp ngã, bồ tát tinh tấn miên mật dấn thân hành trì pháp tu tích tụ công đức trí tuệ vô vàn khó khăn.

Nhờ dấn thân hành trì như vậy, bồ tát chắc chắn tích tụ đầy đủ công đức trí tuệ. Công đức trí tuệ đủ rồi thì tựa như nắm trí toàn giác trong lòng bàn tay. Vì tâm đại bi là cội rễ duy nhất của trí toàn giác, cho nên ngay từ đầu ta cần làm quen với pháp tu này. Kinh Chánh Pháp Tập Kinh[2] nói rằng, “Kính bạch đức Phật,  Bồ tát không cần hành trì nhiều pháp tu. Nếu Bồ tát có thể giữ một pháp cho thật đúng đắn, tu một pháp cho thật toàn hảo, thì vô lượng thiện đức của Phật đà sẽ nằm gọn trong lòng bàn tay. Nếu hỏi một pháp ấy là gì, đó chính là tâm đại bi.”

Chư Phật tuy thành tựu mục tiêu cứu cánh, nhưng còn chúng sinh thì chư Phật vẫn còn ở lại trong luân hồi. Đó là vì chư Phật có tâm đại bi. Chư Phật không nhập niết bàn an lạc như chư Thanh văn. Vì lợi ích chúng sinh, chư Phật từ bỏ niết bàn an lạc như từ bỏ căn nhà lửa cháy. Vì vậy, nếu muốn thành tựu niết bàn vô trú của một đấng Phật đà thì tâm đại bi là nhân tố duy nhất không thể thiếu.

4. PHÁT TRIỂN ĐẠI XẢ, GỐC RỄ CỦA ĐẠI TỪ

Phương pháp thiền quán tâm bi sẽ được giải thích từ đầu. Bắt đầu bằng pháp quán tâm xả. Hãy cố gắng khởi tâm bình đẳng đối với hết thảy chúng sinh bằng cách đoạn diệt tham và sân.

Tất cả chúng sinh ai nấy đều mong cầu hạnh phúc và không muốn khổ đau. Hãy quán niệm sâu xa rằng, từ vô lượng sinh tử cho đến bây giờ, không có chúng sinh nào không đã từng là thân nhân bằng hữu của mình hàng trăm lần rồi. Vậy chẳng lý do gì lại tham luyến người này, oán hận người kia. Hãy nên khởi tâm bình đẳng đối với hết thảy chúng sinh.  Bắt đầu thiền quán đại xả bằng cách nghĩ đến người dưng kẻ lạ, rồi bạn thân, rồi kẻ thù. Một khi đã khởi tâm đại xả đối với hết thảy chúng sinh, hãy thiền quán đại từ.  Hãy để nước đại từ thấm nhuần dòng tâm thức, tưới tẩm tâm như tưới mảnh đất phì nhiêu. Để hạt giống bi mẫn một khi gieo xuống, sẽ nhanh chóng nảy mầm, tốt tươi tròn vẹn. Một khi tâm thức đã thấm nhuần trong đại từ, hãy thiền quán đại bi.

5. NHẬN DIỆN KHỔ ĐAU

Tâm bi là ước nguyện mong mỏi chúng sinh khổ đau đều được thoát khổ. Thiền quán tâm bi đối với hết thảy chúng sinh, vì chúng sinh trong toàn ba cõi đều luôn bị hành hạ bởi ba loại khổ, biểu hiện thành nhiều sắc thái phong phú. Đức Phật nói rằng nỗi khổ bỏng cháy và những loại khổ đau khác luôn hành hạ chúng sinh cõi địa ngục trong thời gian dài vô kể. Đức Phật cũng nói rằng các loài ngạ quỉ bị nỗi đói khát thiêu đốt, thể xác đớn đau khôn cùng. Chúng ta cũng có thể thấy loài súc sinh phải chịu khổ đau bất hạnh như thế nào: cứ phải nhai nuốt lẫn nhau, nổi sân hận, bị thương, bị giết. Chúng ta có thể thấy loài người cũng phải chịu đủ loại khổ đau bén nhọn. Điều mong cầu đều không đạt được, nên cứ mãi oán hận, gây thương tổn cho nhau. Điều đẹp đẽ mong cầu cứ mãi mất đi, điều xấu xa muốn tránh thì lại phải chịu, còn phải chịu nỗi khốn khổ bần cùng.

Có người bị ràng buộc trong đủ loại cùm gông phiền não như lòng tham ái. Có người rối loạn bởi nhiều loại tà kiến. Toàn là nhân tố tạo khổ, nên chỉ toàn là nỗi đớn đau cùng cực như đứng cheo leo bờ vực thẳm.

Chúng sinh cõi trời phải chịu khổ đau vì sự biến chuyển thay đổi [hoại khổ]. Ví dụ, tâm chư thiên cõi dục giới luôn bị ám ảnh vì biết khi chết sẽ đọa rơi ác đạo, làm sao có thể sống trong bình an?

Hành khổ là do nghiệp và phiền não làm nhân tố tác động mà khởi sinh, nên mang tính chất sát na sinh diệt và bao trùm toàn bộ chúng sinh cõi luân hồi.

Hãy nhìn chúng sinh trầm luân trong biển lửa khổ đau. Nhớ họ cũng như mình, không ai muốn khổ. “Hỡi ôi! Chúng sinh thương quí của tôi đều phải chịu khổ đau cùng cực như vậy. Tôi có thể làm gì để độ thoát cho họ?”, hãy mang khổ đau của họ làm khổ đau của chính mình. Dù đang nhập định hay đang sống trong đời sống hàng ngày, hãy liên tục thiền quán tâm bi, chú tâm vào chúng sinh, vào tâm nguyện mong chúng sinh thoát khổ.

Bắt đầu bằng thân nhân bằng hữu. Thấy họ phải chịu đủ loại khổ đau như đã giải thích ở  trên.

Tiếp theo, vì đã thấy tất cả chúng sinh đều bình đẳng như nhau nên bây giờ hãy quán về người dưng kẻ lạ. Khi tâm bi đối với họ cũng được như đối với người thân, bấy giờ hãy thiền quán tâm bi đối với chúng sinh khắp thế giới mười phương. Như tấm lòng người mẹ đối với đứa con thương yêu bé bỏng đang chịu bệnh khổ, đối với hết thảy chúng sinh bao giờ tự nhiên luôn có được tấm lòng như vậy, bấy giờ đã thành tựu tâm bi. Tâm bi này được gọi là tâm đại bi.

Thiền quán tâm từ bắt đầu với người thân, với những người quí vị thương quí, khởi tâm mong mỏi cho họ được hạnh phúc. Dần dần mở rộng ra, bao gồm cả người dưng kẻ lạ, gồm cả kẻ thù. Lấy tâm bi huân tập, từ từ sẽ tự nhiên phát khởi chí nguyện muốn độ thoát tất cả chúng sinh. Huân tập trong đại bi, lấy đó làm nền tảng để thiền quán phát tâm bồ đề.

Tâm bồ đề có hai: qui ước và cứu cánh. Tâm bồ đề qui ước là sự huân dưỡng chí nguyện ban đầu, vì lợi ích của chúng sinh trầm luân biển khổ mà hướng về quả vị Phật, vì đại bi mà thọ giới phát nguyện độ thoát chúng sinh. Tâm bồ đề qui ước này cần được thuần dưỡng theo quá trình tương tự như những gì được giải thích trong phẩm Giới Luật, Kinh Bồ Tát Địa[3], phát tâm bồ đề bằng cách thọ Bồ tát giới trước một đấng tôn sư nghiêm giữ giới luật bồ tát.

Sau khi phát khởi tâm bồ đề qui ước rồi, hãy dốc sức huân dưỡng tâm bồ đề cứu cánh. Tâm bồ đề cứu cánh siêu việt mọi niệm khởi. Tâm này cực kỳ trong sáng, là đối tượng cứu cánh, không ô nhiễm, không lay động, như ngọn đèn bơ không chao động trước gió.

Tâm này có được là nhờ liên tục huân tập tâm thức bằng pháp tu chỉ quán trong một thời gian dài. Kinh Giải Thâm Mật[4] nói rằng, “Này Đại bồ tát Từ Thị, hết thảy thiện pháp thuộc loại thế gian và xuất thế của Thanh văn, của Bồ tát hay của Như lai, nên biết đều là thành quả của chỉ quán tạo ra.” Vì tất cả chánh định đều thuộc về chỉ quán, nên mọi hành giả đều nên siêng tu chỉ quán. Kinh Giải Thâm Mật còn nói, “Đức Phật dạy rằng vô lượng chánh định của Thanh văn, của Bồ tát và của Như lai, ông nên biết tất cả đều nằm trong chỉ quán.”

Hành giả không thể tu thiền-chỉ một chiều để đoạn diệt phiền não. Tu thiền-chỉ một chiều, chỉ có thể tạm thời dẹp bỏ phiền não vọng tâm. Thiếu ánh sáng trí tuệ thì không thể đoạn diệt tập khí phiền não, vì vậy không thể tận diệt phiền não. Vì lý do này, Kinh Giải Thâm Mật nói rằng, “Định có khả năng hủy diệt phiền não, tuệ có khả năng triệt để hủy diệt tập khí phiền não.” Kinh Chánh Định Vương[5] còn nói:

Dù lấy tâm định / để mà tu thiền
Cũng không thể diệt / vọng tâm chấp ngã
Phiền não sẽ vẫn / quay về quấy phá
Như trong trường hợp / U-drak nhập định
Quán pháp-vô-ngã / cho thật tận tường,
Tu thiền dựa vào / pháp quán như vậy
Đây chính là nhân / tạo quả giải thoát
Chẳng nhân nào khác / mang đến an lạc.

Đại Bồ Tát Tạng Kinh[6] có nói như sau, “Ai chưa từng nghe nói đến giáo pháp của Bồ Tát Tạng, chưa từng nghe nói đến giáo pháp giới luật xuất gia, lại nghĩ rằng chỉ cần đạt định là đủ, người ấy sẽ vì kiêu ngạo mà trở nên tăng thượng mạn. Như vậy, họ sẽ không thể thoát khỏi sinh lão bịnh tử, bần cùng, than khóc, đau đớn, khổ tâm và xáo trộn. Họ cũng không thể giải thoát toàn bộ lục đạo luân hồi, không thể giải thoát ra khỏi núi cao khổ đau thân tâm. Các ông hãy ghi nhớ lời này, Như lai nói rằng nghe giáo pháp này sẽ giúp các ông thoát khỏi tuổi già và cái chết.”

Vì lý do đó, ai muốn đoạn diệt mọi chướng ngại để đạt đến trí tuệ thanh tịnh siêu việt thì phải ở trong định để mà quán tuệ.

6. TRÍ TUỆ

Kinh Bảo Tích[7] nói rằng: Nhờ Giới mà đạt Định. Đạt Định rồi thì tu Tuệ.  Tuệ sẽ giúp đạt trí giác trong sáng. Nhờ trí giác trong sáng mà Giới sẽ toàn hảo.

Kinh Quán Tín Tâm Đại Thừa[8] nói rằng: “Này thiện nam tử, nếu các ông không trụ nơi Tuệ thì Như lai chẳng thể nói các ông bằng cách nào lại có thể có được tín tâm nơi Đại Thừa, cũng không thể nói các ông làm sao có thể đặt mình an trụ trong pháp Đại Thừa.”

“Này thiện nam tử, các ông nên biết, chư bồ tát có được tín tâm nơi Đại thừa, đặt mình an trụ trong pháp Đại thừa, tất cả có được đều nhờ quán chiếu thực tại bằng cái tâm không tán loạn.”

Nếu chỉ tu tuệ quán mà không tu định chỉ, tâm sẽ tán loạn theo nhiều đề mục, chao động như ngọn đèn bơ trước gió. Độ trong sáng của trí giác sẽ không có, vì vậy phải song tu [chỉ quán].  Do đó, Kinh Đại Siêu Thoát Khổ[9] có nói như sau: “Chư Thanh Văn không thấy được Phật tánh, vì định mạnh mà tuệ yếu.”

“Chư Bồ tát thấy được Phật tánh, nhưng không thấy rõ, vì tuệ mạnh mà định yếu. Riêng chư Như Lai có thể thấy tất cả, vì định tuệ ngang nhau.”

Nhờ chỉ, tâm sẽ không bị ngọn gió tư tưởng khái niệm làm cho tán loạn, như ngọn đèn bơ không chao động trước gió.  Nhờ quán, mọi tà kiến đều đoạn lìa, không còn chịu sự chi phối của người khác. Kinh Nguyệt Đăng[10] nói như sau: “Với chỉ, tâm sẽ không lay động. Với quán, tâm sẽ như ngọn núi.” Vậy hãy nên giữ lấy phương pháp song tu chỉ quán.

7. ĐIỀU KIỆN TIÊN QUYẾT TU CHỈ QUÁN

Khởi đầu, hành giả cần hội đủ mọi điều kiện tiên quyết để nhanh chóng dễ dàng thành tựu chỉ quán.

Điều kiện tiên quyết để thành tựu chỉ, đó là : sống trong môi trường thuận tiện; thiểu dục tri túc; không gánh nhiều việc; giữ giới thanh tịnh; triệt bỏ lòng tham ái cùng mọi tư tuởng khái niệm khác.

Môi trường thuận tiện là môi trường có đủ năm yếu tố sau đây: nơi dễ kiếm thực phẩm y phục; nơi ở không có người ác hay kẻ thù; địa phương không có tai ương tật bệnh; gần bên có bạn đạo giữ giới và có chánh kiến; chỗ ở ban ngày ít người qua lại và ban đêm ít tiếng động.

Thiểu dục nghĩa là không ham muốn nhiều áo quần y phục tốt, ví dụ như áo cà sa v.v… Tri túc nghĩa là hài lòng với bất cứ điều gì mình có, ví dụ áo cà sa phẩm lượng kém v.v….

Không gánh nhiều việc nghĩa là xả bỏ những việc làm thế tục như công việc làm ăn; tránh tham dự vào việc thị phi của Phật tử tại gia hay của chúng tăng; từ bỏ mọi hoạt động y khoa và bói toán.

Cho dù nói rằng phạm giới Thanh Văn thì không thể vãng hồi, tuy vậy, nếu hối cải, kiên quyết không tái phạm, lại có được ý thức về tính chất không tự tánh của tâm tạo tác, quen thuộc với tính chất không tự tánh của các pháp, được như vậy thì giới hạnh có thể nói là vẫn thanh tịnh. Điều này được minh giải qua Kinh A Xà Thế Vương Đoạn Hối[11]. Quí vị phải hàng phục tâm hối tiếc, nỗ lực tu thiền.

Luôn nhớ được sự tai hại của lòng tham luyến trong kiếp hiện tại và mọi kiếp tương lai thì sẽ phá hủy được vọng tâm tham luyến này. Sự vật trong cõi luân hồi, dù đẹp hay xấu, đều phù du như nhau, đều sẽ hư hoại.  Chẳng mấy chốc, quí vị sẽ phải lìa xa tất cả, chắc chắn là như vậy. Hãy quán chiếu vì sao cái tôi lại tham luyến sự vật đến như vậy, rồi đoạn diệt mọi tri kiến sai lầm. Thế nào là điều kiện tiên quyết của quán? Đó là: nương dựa vào bậc thánh giả, nghiêm chỉnh thỉnh cầu lời khai thị phong phú, và tư duy chính xác.

Nên nương dựa vào bậc thánh giả nào? Bậc thánh giả học rộng đa văn, khéo giảng chánh pháp, đầy lòng từ bi, giàu sức nhẫn nại.

Nói “nghiêm túc thỉnh cầu lời khai thị phong phú” là nghĩa gì? Đó là bằng trọn lòng tôn kính, nghiêm chỉnh lắng nghe toàn bộ giáo pháp mười hai loại kinh liễu nghĩa và bất liễu nghĩa Phật thuyết. Kinh Giải Thâm Mật nói rằng, “Không lắng nghe bậc thánh giả thuyết pháp cho thỏa chí mong cầu cũng là một chướng ngại cho sự tu quán.”  Kinh này còn nói, “Nhân của quán là chánh kiến; nhân của chánh kiến là văn [nghe] và tư [tư duy chiêm nghiệm].” Narayana Vấn Kinh[12] nói rằng, “nhờ nghe mà phát tuệ, nhờ tuệ mà phiền não ô nhiễm đều đoạn diệt.”

Nói “tư duy chính xác”, là nghĩa gì? Là hiểu được chính xác ý nghĩa của kinh liễu nghĩa và kinh bất liễu nghĩa. Một khi thoát mọi nghi hoặc, Bồ tát có thể nhất tâm hành thiền. Bằng không, cứ để hoài nghi bủa vây, sẽ như người đứng giữa ngã tư đường, không biết phải chọn hướng đi nào.

Hành giả trong mọi lúc phải tránh các món thịt, cá v.v… ăn uống vừa phải điều độ, tránh mọi thức ăn gây hại cho sức khỏe.

Chư Bồ tát một khi hội đủ mọi điều kiện tiên quyết tu chỉ quán, hãy nên bắt đầu tham thiền.

Khi tham thiền, trước tiên phải hoàn tất mọi pháp tu sơ khởi. Phải tiêu tiểu, rồi ở chốn thoải mái không tiếng động quấy nhiễu, nghĩ rằng, “Tôi sẽ độ hết thảy chúng sinh vào niết bàn giác ngộ.” Rồi khởi tâm đại bi, khởi tâm bồ đề, nguyện độ thoát toàn thể chúng sinh, mang hết năm bộ phận gieo xuống chạm đất để mà đảnh lễ chư Phật và chư Bồ tát khắp mười phương.

Hành giả phải đặt ảnh tượng Phật và Bồ tát, ví dụ như tranh vẽ, ở trước mặt, hay ở nơi nào khác. Phải cúng dường xưng tán chư Phật càng nhiều càng tốt. Hành giả cần sám hối tội chướng và tùy hỉ công đức của mọi người.

Tiếp theo, hành giả ngồi thế kiết già Đại Nhật Như Lai, hay thế bán kiết già trên tọa cụ thoải mái. Mắt không mở lớn, không nhắm kín. Hãy nhìn xuôi chóp mũi. Thân không nghiêng về phía trước hay phía sau.  Giữ thân thẳng, tâm xoay vào trong. Hai vai để tự nhiên, đầu không nghiêng về phía sau, phía trước, hay một bên. Mũi giữ thẳng hàng với rốn. Răng và môi để tự nhiên, chót lưỡi chạm hàm trên. Giữ hơi thở thật nhẹ, đều đặn, không phát tiếng động, không cố gắng, không ngắt quảng. Hô hấp tự nhiên, chậm rãi, tựa hồ không có.

8. HÀNH TRÌ THIỀN CHỈ

Phải thành tựu chỉ trước. Chỉ, là cái tâm không tán loạn chạy theo ngoại cảnh, an trụ nơi đề mục một cách tự nhiên, liên tục, nhu nhuyễn khinh an.

Ở trong trạng thái của chỉ, suy xét chính xác về tánh như, đó là quán. Kinh Bảo Vân[13] nói như sau, “Chỉ là cái tâm chuyên nhất bất loạn; quán là cái tâm quán xét riêng biệt về chân tánh.”

Kinh Giải Thâm Mật cũng nói như sau: “Đại Bồ Tát Từ Thị hỏi, “Bạch đức Thế tôn, phải nên cầu về chỉ và khéo về quán như thế nào?’ Đức Phật dạy ‘Đại Bồ tát Từ Thị, giáo pháp Như Lai dạy cho Bồ tát gồm có: khế kinh; xưng tán [ứng tụng]; giáo pháp tiên tri [ký biệt]; thi kệ [phúng tụng]; giáo huấn đặc biệt [tự thuyết]; tùy duyên thuyết pháp [nhân duyên]; hiển lộ thành tựu [thí dụ]; tương truyền [bản sự]; chuyện đản sinh [bản sinh]; giáo pháp rộng lớn [phương quảng]; giáo pháp nhiệm mầu [hy pháp];  thiết lập giáo thuyết [luận nghị]; đối với giáo pháp ấy, Bồ tát khéo lắng nghe, khéo tiếp nhận ghi nhớ, văn khéo rành rẻ, ý khéo tìm tòi. Rồi với cái thấy thông suốt, Bồ tát một mình ở chỗ thanh tịnh mà tác ý tư duy, tiếp tục nhiếp tâm nơi giáo pháp ấy. Giáo pháp nào đã tác ý tư duy thì nhiếp tâm vào nơi đó, giữ cho liên tục. Đây gọi là chánh hạnh của tâm. Khi tâm thường xuyên đứng vững trong chánh hạnh như vậy, đạt sự khinh an nơi thân và nơi tâm, thì tâm ấy gọi là chỉ. Bồ tát cầu về chỉ là như vậy.

Khi Bồ tát đạt được thân tâm khinh an như vậy và an trú trọn vẹn nơi ấy thì sẽ diệt được tán tâm. Nhập chánh định nơi pháp nào thì cần phân tích quán xét pháp ấy, thấy như ảnh hiện. Ảnh hiện này, vốn là đề mục của chánh định, cần dùng trí biết mà chính xác quyết trạch. Phải tầm tư toàn bộ, tận tường quán xét. Phải kiên nhẫn, ưa thích, xét thấy, nhìn thấy và hiểu rõ tận tường. Như vậy gọi là quán. Bồ tát như vậy là khéo về quán.”

Hành giả muốn thành tựu chỉ, ngay từ đầu phải chú tâm để thấy rằng mười hai loại kinh Phật, khế kinh, ứng tụng, v.v…, đều có thể tóm tắt được như sau: tất cả đều đang dẫn đến tánh như, sẽ dẫn đến tánh như, và đã dẫn đến tánh như.

Có thể thiền chỉ bằng cách nhiếp tâm vào các hợp thể thân và tâm [uẩn] là vì đề mục này bao gồm tất cả mọi hiện tượng. Lại có một cách khác: nhiếp tâm vào hình Phật. Kinh Chánh Định Vương nói như sau:

Thân màu hoàng kim,
Đấng ngự cõi thế
Tướng đẹp vô cùng.
Bồ tát nhiếp tâm
Vào đề mục này
Thì được gọi là
Nhập vào chánh định.

Vậy hãy chọn một đề mục thiền chỉ rồi thường xuyên liên tục mang tâm đặt ở nơi ấy. Khi nhiếp tâm vào đề mục như vậy, hãy kiểm soát xem tâm có khéo chuyên chú nơi đề mục hay không. Đồng thời kiểm soát xem tâm có đang bị chìm đắm, có đang bị quấy động vì ngoại cảnh.

Nếu tâm bị chìm đắm vì buồn ngủ, tán loạn, hoặc nếu thấy tâm đang sắp chìm đắm, khi ấy hãy nên nghĩ đến điều đáng vui, ví dụ nghĩ đến hình Phật, hay nghĩ đến ánh sáng. Hết chìm đắm rồi, hãy cố gắng  thấy đề mục cho thật rõ nét.

Phải biết nhận diện khi tâm bị chìm đắm không còn thấy rõ đề mục, cảm giác như bị mù, như vào trong bóng tối, hay như khi đang nhắm mắt. Còn nếu ngồi thiền mà tâm bị ngoại cảnh quấy động, ví dụ chạy theo sắc tướng đáng ưa, hoặc chuyên chú vào đề mục khác, hoặc xao lãng vì ham muốn điều gì trước kia đã từng được hưởng, hoặc nếu nghi ngờ sắp bị tán tâm, những lúc như vậy hãy nhớ tất cả các pháp hữu vi đều vô thường, nhớ nghĩ đến khổ đau luân hồi v.v…, về những đề mục có khả năng giúp tâm an định.

Theo quá trình này, tán tâm là điều cần đoạn diệt, dùng sợi dây chánh niệm và tỉnh giác cột chặt tâm như voi điên vào gốc cây đề mục. Bao giờ thấy tâm thoát mọi chìm đắm, mọi quấy động, không cần cố gắng cũng tự nhiên chuyên chú nơi đề mục, khi ấy, hễ tâm còn được như vậy, hãy thả lỏng tâm trong trạng thái trung tính tự nhiên.

Cần hiểu rằng khi đạt được chỉ thì thân tâm đều khinh an nhờ huân tập lâu dài trong thiền định, và tâm hễ chọn đề mục nào thì đều có được khả năng tùy ý nắm giữ đề mục ấy.

9.  THÀNH TỰU QUÁN

Sau khi thành tựu chỉ, hãy nên thiền quán bằng suy nghĩ như sau: tất cả giáo pháp của Phật đều là giáo pháp tuyệt hảo, đều trực tiếp hay gián tiếp làm hiển lộ tánh như và dẫn đường tới tánh như cực kỳ trong sáng. Nếu hiểu được tánh như, sẽ thoát lưới tà kiến, như bóng tối tan khi ánh sáng hiện. Thiền chỉ một chiều không thể thanh tịnh bản giác, cũng không thể xua tan bóng tối của chướng nghiệp. Dùng tuệ để quán tánh như cho đúng cách thì thanh tịnh được bản giác. Phải có tuệ mới chứng được tánh như. Phải có tuệ mới đoạn được chướng nghiệp. Vậy khi thiền chỉ, phải vận dụng tuệ giác để truy tầm tánh như. Không thể với pháp tu chỉ mà thấy đủ.

Tánh như, là thế nào? Tánh như là chân tánh của vạn pháp, rằng rốt ráo đều là vô pháp ngã và vô nhân ngã. Điều này phải chứng bằng tuệ ba la mật, không có cách nào khác. Kinh Giải Thâm Mật nói như sau: ” ‘Kính bạch Như lai, chư Bồ tát chứng pháp vô ngã bằng ba la mật nào?’ Bồ Tát Quan Tự Tại, muốn chứng pháp vô ngã, phải vận dụng tuệ ba la mật.'” Vì vậy hãy từ trong chỉ mà quán tuệ.

Hành giả nên quán xét như sau: cái tôi không nằm ngoài các uẩn[14], các giới, các căn. Cái tôi cũng không mang cùng tính chất với các uẩn v.v…, vì uẩn thì có nhiều và vô thường, còn cái tôi lại được xem là độc nhất và thường còn. Cái tôi chỉ có thể hoặc là một, hoặc nhiều hơn một, không thể có cách hiện hữu nào khác. Vậy có thể kết luận rằng khái niệm thông thường về “tôi” và “của tôi” đều hoàn toàn sai lầm.

Thiền quán các pháp vô ngã như sau: tất cả các pháp, nói tóm lại, đều bao gồm trong năm uẩn[15], mười hai xứ[16], và mười tám giới[17]. Sắc tướng của uẩn, xứ và giới, nói cho rốt lại, chẳng qua chỉ là sắc tướng của tâm. Đó là vì nếu phân chia sắc thể ra thành từng hạt tử cực vi, xét tánh chất của từng hạt tử ấy, cũng chẳng thể tìm ra đặc tính của sắc.

Nói cho rốt ráo thì chính tâm cũng không thật có. Cái tâm này đây, chỉ biết nhìn vào hình tướng hư vọng của sắc, v.v…, biến hiện thành nhiều sắc thái, tâm như vậy làm sao có thể thật có? Cũng như sắc, v.v…,  chỉ là hư vọng, vì tâm không tách lìa sắc nên tâm cũng hư vọng. Cũng như sắc v.v… có nhiều sắc thái, đặc tính của sắc không phải một cũng không phải nhiều hơn một, tương tự như vậy, vì tâm không khác với sắc, nên đặc tính của tâm cũng không phải một, không phải nhiều hơn một. Do đó, ngay từ bản chất, tâm vốn như huyễn.

Hãy xét như sau, tương tự như tâm, tánh chất vạn pháp cũng đều như huyễn. Vậy khi lấy tuệ giác quán chiếu đặc tính của tâm, rốt lại sẽ thấy tâm không phải ở trong, không phải ở ngoài, cũng không phải không cả ở trong ở ngoài. Tâm của quá khứ, tâm của vị lai, và tâm của hiện tại đều không thể thấy. Khi tâm sinh, chẳng từ đâu mà sinh, khi tâm diệt, chẳng về đâu mà diệt, là vì tâm không thể nắm bắt, không thể chứng minh, không có hình tướng. Nếu có người hỏi thế nào là sự không thể nắm bắt, không thể chứng minh và không có hình tướng, Kinh Bảo Tích nói rằng, “Này Ca Diếp, tâm này nếu truy tầm sẽ chẳng thể tìm thấy. Không thể tìm thấy thì chẳng thể nhận biết. Không thể nhận biết thì chẳng phải là quá khứ, vị lai, hay hiện tại.” Khi quán chiếu như vậy, điểm khởi đầu của tâm rốt lại không thể thấy; điểm kết thúc của tâm rốt lại không thể thấy, đoạn giữa của tâm rốt lại không thể thấy.

Phải hiểu rằng vạn pháp đều không có phần cuối hay phần giữa; cũng giống như tâm, chẳng có khúc giữa, khúc đuôi. Biết tâm không có khúc đuôi, khúc giữa, sẽ nhận biết sự không-có-đặc-tánh của tâm. Điều gì tâm chứng tận tường thì chứng là không. Chứng được như vậy, ngay chính cái đặc tính được gọi là sắc thái của tâm, như đặc tính của sắc, v.v…, rốt lại đều không thể thấy. Hành giả một khi đã vận dụng trí tuệ mà vẫn không thể quán thấy chân tướng của sự vật, sẽ chẳng cần gì phải phân tích xem sắc là thường hay vô thường, không hay chẳng phải không,  ô nhiễm hay không ô nhiễm, sinh hay không sinh, hữu hay không hữu. Đã không quán xét truy tìm sắc, thì thọ, tưởng, hành, thức, cũng vậy, cũng chẳng quán xét truy tìm. Điều gì vốn đã không hiện hữu thì thuộc tính của nó cũng không hiện hữu. Làm sao quán xét truy tìm?

Cứ như vậy vận dụng trí tuệ để quán chiếu truy tìm một vật, vẫn không thể chứng thấy vật ấy vốn thật có, hành giả khi ấy nhập định vô niệm. Và như vậy chứng được sự vô-đặc-tánh của vạn pháp.

Nếu không vận dụng tuệ giác để quán xét chân tướng của từng sự vật mà chỉ đơn thuần đoạn diệt mọi hoạt động tâm thức sẽ không thể siêu việt khái niệm, lại càng không thể chứng biết sự vô đặc tánh, vì thiếu mất ánh sáng trí tuệ. Nếu từ sự quán xét tánh như của từng pháp mà phát được ngọn lửa giác, biết được vạn pháp đúng như sự thật, thì cũng như dùng củi cọ xát vào nhau mà thành lửa, lửa này sẽ thiêu rụi mọi củi gỗ tư tưởng khái niệm. Đó là lời Phật dạy.

Kinh Bảo Vân cũng nói rằng, “Người nào khéo nhận ra lỗi lầm, sẽ nhập định tánh không để siêu việt khái niệm phân biệt. Người như vậy, nhờ thường xuyên thiền quán tánh không nên khi tận tường truy tìm đề mục và đặc tính của đề mục, tâm sẽ thích thú, thư giản, người ấy chứng biết tất cả đều là không. Khi quán chiếu truy tìm ngay chính cái tâm chứng biết ấy, cũng thấy là không. Khi quán chiếu truy tìm đặc tính của điều mà tâm chứng biết, cũng thấy là không. Chứng không như vậy, nguời tu nhập định vô tướng.” Điều này cho thấy chỉ người nào tham thiền quán xét cho thật rốt ráo mới có thể nhập định vô tướng.

[Đức Phật] giải thích rất rõ, rằng nếu tuyệt diệt mọi hoạt động tâm thức, không vận dụng trí tuệ để quán xét đặc tánh của sự vật, sẽ chẳng làm sao có thể nhập định vô niệm. Vậy, đạt định là nhờ vận dụng trí tuệ quán xét rốt ráo chân tướng của sự vật như là sắc, v.v…, chứ không phải nhờ nhiếp tâm vào đề mục sắc, v.v… Cũng không thể đạt định bằng cách trú ở giữa cõi thế gian và xuất thế gian,  đó là vì sắc, v.v…, đều không thể nhận biết. Cho nên định này gọi là định vô trú.

[Hành giả như vậy] được gọi là hành giả tuệ giác vô thượng, là vì khi dùng tuệ giác quán xét đặc tánh của vạn pháp, hành giả ấy chẳng tìm thấy gì. Điều này được nói trong Kinh Không Tạng[18] Kinh Bảo Ngọc Vương Đỉnh[19], v.v…

Vậy, nhờ đi vào tánh như của nhân vô ngã và pháp vô ngã, người tu siêu việt mọi khái niệm, mọi quán xét, là vì không có gì để mà quán xét, quan sát. Người tu thoát mọi niệm khởi, từ trong nhất tâm bất loạn sẽ tự nhiên đi vào trong định mà không cần dụng công. Khi ấy, quán tánh như một cách rõ ràng, trú tâm nơi ấy. Khi trú trong chánh định này, phải giữ tâm cho liên tục, đừng để tán loạn. Khi nào, nói ví dụ, vì tham luyến mà tán tâm theo đối cảnh, tâm phải ghi nhận ngay.  Nhanh chóng đình chỉ sự tán tâm bằng cách quán bất tịnh nơi điều mình đang tham luyến, mau chóng mang tâm về lại với tánh như.

Nếu sinh tâm buồn chán đối với pháp thiền này thì hãy tư duy về lợi ích của tâm định, quán bằng sự phấn chấn. Tâm buồn chán cũng nên dẹp bỏ bằng cách thấy rõ nhược điểm của tán tâm.

Nếu mọi điều trong tâm trở nên mờ mịt, tâm bắt đầu chìm đắm, hay sắp sửa bị chìm đắm, vì tán loạn hay vì buồn ngủ, thì hãy như trước, mau chóng dẹp bỏ sự chìm đắm này bằng cách chú tâm vào những điều khiến tâm phấn chấn. Rồi chuyên chú giữ chặt đề mục tánh như. Khi nào thấy tâm bị quấy động, hay sắp sửa tán tâm vì nhớ lại những việc rộn rã tiếng cười trong quá khứ, hãy như trước, đình chỉ mọi quấy động bằng cách nhớ lại tánh chất vô thường của sự vật, làm như vậy sẽ giúp điều tâm. Rồi hãy cố  gắng không áp dụng biện pháp hóa giải, giữ tâm trong tánh như.

Bao giờ tâm tự nhiên nhập định tánh như, thoát mọi chìm đắm và quấy động, khi ấy hãy để tâm trong trạng thái tự nhiên, thả lỏng mọi cố gắng. Nếu đang khi nhập định mà cố gắng dụng công, tâm sẽ bị tán. Nhưng nếu bị chìm đắm mà không cố gắng dụng công, tâm sẽ vì quá tối mà trở thành như người mù, không thể đạt tuệ. Vậy, khi tâm bị chìm tối thì phải cố gắng dụng công, còn khi ở trong định thì phải thả lỏng. Trong khi thiền quán, nếu để tuệ mạnh mà định yếu, tâm sẽ chao động như ngọn đèn bơ trước gió, hành giả không thể thấy tánh như một cách rõ ràng. Vào lúc ấy hãy nên thiền chỉ. Đến khi định trở nên quá đà, hãy quán tuệ.

10. HỢP NHẤT PHƯƠNG TIỆN VÀ TRÍ TUỆ

Đến khi chỉ quán cân bằng, hãy giữ tâm tịch lặng, không dụng công. Hễ thân tâm còn thoải mái thì cứ giữ như vậy. Nếu thân tâm bắt đầu khó chịu, hãy nhìn toàn cõi thế gian như huyễn, như ảo, như mộng, như bóng trăng, như ảnh hiện. Nghĩ rằng: “Tất cả chúng sinh đang vô cùng khốn khổ trong cõi luân hồi, đó là vì họ không có  được trí tuệ thậm thâm này.” Rồi phát tâm đại bi và tâm bồ đề, nghĩ rằng: “Tôi phải nỗ lực giúp cho họ hiểu được tánh như.” Nghỉ ngơi. Rồi trở lại, như cũ, nhập vào chánh định vô tướng. Nếu tâm buồn nản, hãy lại nghỉ ngơi. Đây là con đường tu tập kết hợp chỉ quán, nhiếp tâm vào đề mục bằng khái niệm và vô niệm.

Qua tiến triển này, hành giả thiền về tánh như một tiếng đồng hồ, hay nửa thời tọa thiền buổi tối, hay trọn một thời tọa thiền, hay lâu hơn nếu thấy thoải mái. Đây là chánh định thâm chứng chân cảnh giới như trong Kinh Nhập Lăng Già[20] có dạy. Tiếp theo, nếu muốn xuất định thì đang khi chân còn xếp bằng, hãy suy nghĩ như sau: “Mặc dù xét theo chân đế, tất cả các pháp này đều không có đặc tánh, nhưng xét theo tục đế, các pháp vẫn hiện hữu. Bằng không, làm sao có nhân quả? Đức Phật dạy rằng:

Vạn pháp sinh ra trong tục đế
Còn trong chân đế, không tự tánh.

Chúng sinh với thái độ ấu trĩ luôn phóng đại thế giới thực tại, cho rằng sự vật có đặc tính cố định, mặc dù thật ra không phải vậy. Vì gán đặt hiện hữu có tự tánh lên những điều vốn không tự tánh, nên tâm thức trở nên mê muội, cứ phải lang thang dài lâu trong cõi luân hồi. Vì vậy, tôi phải nỗ lực cố gắng, không chút sai sót, thành tựu công đức trí tuệ vô thượng, đạt địa vị toàn giác để giúp chúng sinh chứng được tánh như.”

Tiếp theo, chầm chậm xả thế kiết già, đảnh lễ mười phương Phật đà, Bồ tát. Hãy cúng dường và tán dương chư Phật, chư Bồ tát. Phát nguyện rộng lớn bằng cách đọc tụng bài Hạnh Nguyện Vương[21] [Phổ Hiền],  v.v… Sau đó, nỗ lực tích tụ công đức trí tuệ bằng cách thực hành hạnh thí, v.v…, bao gồm đầy đủ tinh túy của tánh không và đại bi.

Làm như vậy sẽ từ trong định chứng được tánh không với đầy đủ mọi thiện đức tối thượng. Kinh Bảo Ngọc Vương Đỉnh dạy rằng “Khoác áo giáp đại từ, an trú trong đại bi, nhập chánh định trực chứng tánh không bao gồm đầy đủ mọi thiện đức tối thượng. Thế nào là tánh không bao gồm đầy đủ mọi thiện đức tối thượng? Là tánh không không rời hạnh thí, không rời hạnh giới, không rời hạnh nhẫn, không rời hạnh tấn, không rời hạnh định, không rời hạnh tuệ, và không rời phương tiện.” Bồ tát phải nương vào thiện hạnh như hạnh thí, dùng làm phương tiện để thành tựu chúng sinh, để thanh tịnh cảnh giới, thân và vô lượng thánh chúng.

Bằng không, lấy gì làm nhân tố để thành tựu cõi Phật như đức Phật thường nói? Trí toàn giác bao gồm đầy đủ mọi thiện đức tối thượng, trí này có thể đạt được nhờ thực hành hạnh thí cùng các hạnh phương tiện khác. Vì vậy đức Phật nói rằng trí toàn giác có được là nhờ phương tiện. Nên Bồ tát cũng phải thực hành hạnh thí cùng các hạnh ba la mật khác, chứ không thể chỉ biết đến tánh không.

Kinh Thiện Pháp Nhiếp Trì Đại Phương Quảng[22] dạy rằng: “Này Di Lạc, chư Bồ tát thành tựu viên mãn sáu hạnh toàn hảo là để đạt quả vị Phật cứu cánh. Nhưng kẻ điên rồ thì lại nói rằng, ‘Bồ tát chỉ cần tu tuệ ba la mật là đủ, cần gì phải tu những ba la mật còn lại?’ Họ từ bỏ các hạnh ba la mật khác. Này Di Lạc, ông nghĩ thế nào? Khi vua Kashi bố thí thịt mình cho chim ưng để cứu chim bồ câu, làm như vậy có phải vì thiếu tuệ?” Bồ tát Di Lạc trả lời, “Không,  không phải là như vậy.” Đức Phật dạy, “Di Lạc, Bồ tát tích lũy thiện căn nhờ thực hành đúng theo sáu hạnh ba la mật. Thiện căn này, có tai hại hay chăng?” Bồ tát Di Lạc trả lời, “Kính bạch đức Phật, không thể nào là như vậy.” Đức Phật nói thêm, “Di Lạc, ông cũng đã từng chính xác hành trì hạnh thí ba la mật trong vòng sáu mươi kiếp, hành trì hạnh giới ba la mật trong vòng sáu mươi kiếp, hành trì hạnh nhẫn ba la mật trong vòng sáu mươi kiếp, hành trì hạnh tấn ba la mật trong vòng sáu mươi kiếp, hành trì hạnh định ba la mật trong vòng sáu mươi kiếp, hành trì hạnh tuệ ba la mật trong vòng sáu mươi kiếp. Đối với việc này, kẻ điên rồ sẽ nói: ‘Chỉ có một con đường để đạt quả vị Phật, đó là con đường tánh không.’ Phương pháp hành trì của họ hoàn toàn sai lầm.”

Bồ tát có tuệ mà thiếu phương tiện sẽ như chư Thanh văn, không có khả năng gánh vác thiện hạnh của Phật đà. Nhưng Bồ tát nếu có phương tiện thì sẽ đủ sức gánh vác. Kinh Bảo Tích nói, “Ca Diếp, sự thể là như vậy. Như đấng quốc vương mà được quần thần hỗ trợ thì sẽ đủ sức chu toàn mọi nhiệm vụ. Tương tự như vậy, trí tuệ của bồ tát  được phương tiện hỗ trợ thì vị bồ tát ấy sẽ đủ khả năng hoàn thành mọi thiện hạnh của Phật đà.” Tri kiến bồ tát đạo khác với tri kiến ngoài Phật giáo, và [tri kiến] thanh văn đạo cũng khác. Vì  tri kiến ngoài Phật giáo lầm thấy có ngã, v.v…, cho nên đường tu của họ hoàn toàn lìa khỏi trí tuệ. Do đó không thể đạt giải thoát.

Chư thanh văn vì tâm lìa đại bi và không có phương tiện nên nhất tâm dốc sức đạt niết bàn. Còn chư Bồ tát trên đường tu luôn trân quí giữ gìn trí tuệ và phương tiện, nên dốc sức đạt niết bàn vô trú. Bồ tát đạo bao gồm trí tuệ và phương tiện, nhờ vậy đạt vô trú niết bàn. Nhờ trí tuệ nên không vướng luân hồi, nhờ phương tiện nên không vướng niết bàn.

Kinh Già Da Thủ[23] nói rằng, “Nói cho ngắn gọn, Bồ tát đạo bao gồm hai phần. Một là phương tiện, hai là trí tuệ.” Kinh Đệ Nhất Tối Thắng Cát Tường[24] nói như sau, “Tuệ giác toàn hảo là mẹ, phương tiện thiện xảo là cha.”

Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh[25] cũng có dạy như sau: “Đối với bồ tát, ràng buộc là thế nào, cởi thoát là thế nào? Sống trong luân hồi mà thiếu phương tiện là ràng buộc. Sống trong luân hồi mà có phương tiện là giải thoát. Sống trong luân hồi mà thiếu tuệ giác là ràng buộc. Sống trong luân hồi mà có tuệ giác là giải thoát. Tuệ giác không phương tiện là ràng buộc. Tuệ giác có phương tiện là giải thoát. Phương tiện không tuệ giác là ràng buộc. Phương tiện có tuệ giác là giải thoát.”

Nếu bồ tát chỉ lo tu tuệ thì sẽ vướng cõi niết bàn mà chư Thanh văn mong cầu. Vậy cũng như bị ràng buộc, không thể giải thoát vào vô trú niết bàn. Nên tuệ giác lìa phương tiện là ràng buộc đối với bồ tát. Như người rét mướt trong cơn gió lạnh trông tìm ngọn lửa ấm, bồ tát cũng vậy, song tu tuệ giác tánh không và phương tiện để diệt trừ ngọn gió vọng kiến, chứ không chỉ riêng đạt tuệ giác tánh không như chư Thanh văn. Kinh Thập Thiện[26] nói rằng, “Này thiện nam tử, sự thể là như vậy. Lấy ví dụ có người hết lòng thờ lửa, kính lửa như kính tôn sư, vẫn không hề nghĩ rằng: “Vì tôi kính ngưỡng, thờ phụng, tôn sùng lửa nên phải ôm chặt lửa bằng cả hai tay.” Là vì người ấy biết nếu làm như vậy sẽ phải chịu đớn đau thể xác tinh thần. Tương tự như vậy, bồ tát biết về niết bàn nhưng không cố đạt niết bàn, vì bồ tát hiểu rằng làm như vậy là quay lưng với giác ngộ viên mãn.

Nếu chỉ dựa vào phương tiện, bồ tát sẽ không thể siêu việt cảnh giới thế tục, tất cả sẽ chỉ là ràng buộc. Vì thế phải song tu phương tiện và trí tuệ. Nương vào tuệ lực, bồ tát có thể chuyển phiền não thành nước cam lồ, như thuốc độc dưới huyền thuật. Chẳng cần gì phải nói đến [lợi ích của] giới ba la mật, v.v…, sẽ đưa đến cảnh giới siêu việt tự nhiên.

Kinh Bảo Tích nói rằng, “Ca Diếp, sự thể là như vậy. Nhờ năng lực của mật chú và dược phẩm, thuốc độc không thể khiến chết người. Tương tự như vậy, nhờ năng lực của trí tuệ, phiền não không thể khiến bồ tát đọa rơi. Vì vậy, nhờ phương tiện, bồ tát không bỏ luân hồi, không rơi niết bàn; nhờ trí tuệ, bồ tát xả bỏ đối cảnh [tưởng lầm là thật có], không trầm luân luân hồi. Từ đó đạt vô trú niết bàn của đấng Phật đà. Kinh Không Tạng cũng có nói, “nhờ trí tuệ nên đoạn diệt phiền não, nhờ phương tiện nên không lìa chúng sinh.” Kinh Giải Thâm Mật  cũng nói, “Như lai chẳng hề nói người không quan tâm đến lợi ích của chúng sinh, không hướng về tuệ giác chứng chân tánh của vạn pháp hữu vi, mà lại có thể chứng được quả vô thượng chánh đẳng giác của đấng Phật đà.” Vì vậy, ai người muốn thành tựu Phật quả cần thuần dưỡng cả trí tuệ và phương tiện.

Khi đang quán tuệ giác siêu việt, hay khi đang đi sâu vào trong định, đều không thể hành trì các hạnh phương tiện như là giới ba la mật. Nhưng phương tiện vẫn có thể được thực hành chung với tuệ giác vào những lúc trước hay sau buổi tọa thiền. Đây là phương pháp song tu trí tuệ và phương tiện.

Hơn nữa, đây là đường tu của bồ tát, con đường hành trì pháp tu hợp nhất trí tuệ và phương tiện. Đường tu này siêu việt, thấm nhuần tâm đại bi hướng về toàn thể chúng sinh. Khi tu phương tiện lúc xuất định, hãy thực hành hạnh thí cùng các hạnh ba la mật khác giống như nhà làm ảo thuật, không hề vướng vọng kiến. Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh nói rằng, “Phương tiện của Bồ tát là gì, trí tuệ của Bồ tát là trí tuệ nào? Phương tiện của bồ tát là, trong khi nhập định, với lòng đại bi, luôn nhớ nghĩ và giữ  tâm gần gũi với chúng sinh. Nhập định với tâm an lạc và tâm an lạc tột cùng, đó là trí tuệ.” Kinh Phật có nhiều nơi cũng nói về nghĩa này. Trong Phẩm Hàng Phục Ma Lực[27] có nói như sau, “Hơn nữa, hạnh ba la mật của chư Bồ tát là ý thức nỗ lực của tâm tuệ, là kho bồ thiện pháp của tâm phương tiện. Tuệ dẫn đến chứng ngộ vô ngã, tính không hiện hữu [có tự tánh] của chúng sinh, của đời sống, của phương tiện sinh sống và của con người. Còn phương tiện thì giúp thành tựu chúng sinh. Thiện Pháp Nhiếp Trì Đại Phương Quảng cũng nói:

Nhà làm ảo thuật / dễ dàng buông xả / tạo vật của mình.
Vì vốn biết rõ / thực chất của nó  / nên không tham luyến.
Tương tự  như vậy / ba cõi như huyễn / Phật biết từ lâu,
trước khi biết đến / chúng sinh trong đó,
và trước cả khi / nỗ lực độ sinh.

Vì phương pháp hành trì trí tuệ và phương tiện của Bồ tát là như vậy, cho nên có nơi nói rằng: hạnh bồ tát trụ ở luân hồi, trí bồ tát trụ nơi niết bàn.

Vậy hãy huân tập tâm thức với hạnh thí và các hạnh ba la mật khác, hồi hướng chánh  đẳng giác, bao gồm tinh túy của tánh không và đại bi. Để phát khởi tâm bồ đề, như đã làm, hãy tinh tấn hành trì chỉ và quán qua các thời tọa thiền đều đặn. Như Kinh Tịnh Hạnh[28] đã dạy, hãy luôn tự huân tập tâm mình trong phương tiện, bằng cách luôn giữ chặt chánh niệm nơi thiện đức của chư Bồ tát, là những người không ngừng nỗ lực vì lợi ích của chúng sinh.

Huân tập trong đại bi, phương tiện và tâm bồ đề như vậy, chắc chắn sẽ được một kiếp sống tuyệt hảo trong hiện tại. Trong mơ luôn thấy chư Phật và chư bồ tát, cùng nhiều giấc mơ cát tường khác. Chư thiên thiện thần đều luôn hộ trì cho người ấy. Bất cứ lúc nào cũng tích tụ được vô lượng công đức trí tuệ.  Phiền não cùng các hiện tượng bất tường đều sẽ được thanh tịnh. Lúc nào cũng được vô vàn hạnh phúc an lạc, được vô vàn bậc thánh trân quí giữ gìn. Thân thể cũng vậy, thoát mọi tật bịnh. Tâm được nhiều khả năng tối thượng, đạt các loại thần thông như nhãn thông.

Người như vậy có thể vận dụng thần thông du hành đến vô lượng cõi giới, cúng dường chư Phật, nghe Phật thuyết pháp. Đến lúc mạng chung sẽ thấy chư Phật cùng chư bồ tát [đến tiếp dẫn]. Trong các đời tương lai, sẽ luôn tái sinh vào gia đình nơi chốn đặc biệt, không xa rời chư Phật chư Bồ tát. Không cần dụng công mà vẫn tích tụ tròn đầy công đức trí tuệ, có được tài sản dồi dào, với đông đảo chúng đệ tử, thị giả, có được trí thông minh sắc bén, đầy đủ khả năng thành tựu tâm chúng sinh. Bất kể là sinh ra ở đâu, sẽ luôn nhớ các đời trước. Hãy cố gắng hiểu những lợi ích vô lượng như vậy, trong các bộ kinh khác cũng có giải thích.

Cứ vậy thiền quán về từ bi, về phương tiện và về tâm bồ đề trong một thời gian dài với lòng kính ngưỡng sâu xa, tâm nhờ vậy sẽ từ từ thanh tịnh, chín mùi. Khi ấy, tương tự như dùng khúc cây cọ xát vào nhau để lấy lửa, quí vị sẽ đạt pháp thiền về chân thực tại. Quí vị sẽ có được tuệ giác cực kỳ trong sáng về pháp giới, thoát mọi khái niệm phân biệt, là tuệ giác siêu việt vượt mọi mạng lưới tư tưởng khái niệm bủa vây. Tuệ giác của tâm bồ đề cứu cánh hoàn toàn vô cấu, như ngọn đèn bơ không lay động trước gió. Tâm bồ đề cứu cánh như vậy là nằm trong kiến đạo, chứng thấy chân tánh vô ngã của vạn pháp. Với thành tựu này, quí vị sẽ hội nhập đường tu chứng biết chân tánh của sự vật, sinh vào dòng giống Như Lai, nhập địa vị vô cấu của bồ tát, quay lưng với mọi kiếp tái sinh lẩn quẩn, trụ trong tánh Như của bồ tát, đạt địa bồ tát thứ nhất. Quí vị có thể tìm hiểu thêm chi tiết của lợi ích này trong các kinh văn khác, như Kinh Thập Địa. Đây là phương pháp thiền chỉ, tập trung nơi tánh như, như Kinh Nhập Lăng Già đã dạy. Đây là phương pháp Bồ tát nhập định vô niệm, thoát mọi khái niệm phân biệt.

Như vậy, hành giả vào địa thứ nhất, rồi khi vào tu tập đạo cần huân tập tâm mình với hai loại tuệ giác siêu việt và trí tuệ phương tiện. Làm như vậy sẽ tuần tự thanh tịnh mọi chướng ngại vi tế nhất, là những điều hành giả trong tu tập đạo cần phải tịnh hóa. Và để bước vào những đạo vị cao hơn, hành giả cần thanh tịnh tất cả mọi đạo vị thấp hơn. Khi bước vào trí giác siêu việt của chư Như lai, nhập biển toàn giác, sẽ đạt được tất cả mọi tâm nguyện mục tiêu.  Cứ như vậy nhờ tu tập theo quán trình tuần tự, tâm thức trở nên hoàn toàn thanh tịnh. Kinh Nhập Lăng Già nói như vậy, Kinh Giải Thâm Mật nói như vậy, nói rằng, “Để thành tựu các đạo vị cao, cần tịnh hóa tâm như đãi lọc vàng, cho đến khi đạt được quả vô thượng tam miệu tam bồ đề.”

Nhập biển toàn giác rồi thì được mọi tánh đức châu ngọc để gìn giữ chúng sinh, hoàn thành tâm nguyện lúc ban đầu. Cá nhân người tu sẽ là hiện thân của từ bi, có được muôn vàn thiện phương tiện nhiệm vận cùng khắp, hoạt hiện thành nhiều sắc tướng thích ứng với căn cơ sở thích của chúng sinh. Lại đủ mọi tướng hảo. Chư Phật đoạn diệt tất cả ô nhiễm cùng tập khí ô nhiễm, trú ở luân hồi để phổ độ chúng sinh. Nhờ thấy được như vậy, hãy khởi tín tâm nơi Phật, cội nguồn của mọi trí tuệ thiện đức nhiệm mầu. Mọi người đều nên nỗ lực cố gắng thành tựu những thiện đức như vậy.

Cho nên đức Phật nói,  “Trí toàn giác siêu việt lấy tâm đại bi làm gốc, tâm bồ đề làm nhân, trở nên toàn hảo nhờ phương tiện thiện xảo. “

Kẻ trí giữ mình
lìa tâm ganh ghen
cùng nhiễm tâm khác.
Nỗi khát trí tuệ
thôi thúc khôn nguôi
như lòng biển rộng.
Sáng suốt phát đoán
chỉ giữ lấy điều
đáng được gìn giữ
như loài thiên nga
chắt sữa từ nước.
học giả giữ mình
lìa xa tất cả
khái niệm phân biệt,
thời cả đứa trẻ
làm được như vậy
ngay cả đứa trẻ
cũng sẽ ngợi khen.

Nay tôi thuyết giảng
pháp trung đạo này
được bao công đức
nguyện xin hồi hướng
về khắp chúng sinh
chứng được trung đạo.

[Hết]


Lời Ghi Xuất Xứ:

Trình Tự Tu Thiền, Quyển Trung, do đức A Xà Lê Liên Hoa Giới [Acharya Kamalashila] trước tác đến đây chấm dứt. Sư Trưởng Ấn Độ Prajna Verma và Tỷ kheo Yeshe De chuyển Tạng ngữ và hiệu đính. Ven. Geshe Lobsang Jordhen, Lobsang Choephel Gangchenpa và Jeremy Russell chuyển Anh ngữ và hiệu đính.
Hồng Như Thubten Munsel chuyển Việt ngữ
hiệu đính, 06/2008, nhuận văn 07/2009, 06/2015.


Ghi chú:

Hồi Hướng: 

Nguyện cho Bồ đề tâm
Nơi nào chưa phát triển
Sẽ nảy sinh lớn mạnh.
Nơi nào đã phát triển
Sẽ tăng trưởng không ngừng
Không bao giờ thoái chuyển.

Mọi sai sót là của người dịch
Mọi công đức xin hồi hướng bồ đề

[1] Trí Toàn Giác là trí Phật, biết hết khắp cả, đúng và đủ.
[2] The Compendium of Perfect Dharma
[3] Bodhisattvabhumi
[4] Unravelling of the Thought Sutra
[5] King Of Concentration Sutra. Bản Anh ngữ ghi  ở đây là Kinh Giải Thâm Mật], đức Đalai Lama đính chính lại thành Kinh Chánh Định Vương [trong kỳ pháp hội Sydney 2008.
[6] The Bodhisattva Collection
[7] Heap of Jewels Sutra
[8] Meditation on Faith in the Mahayana Sutra
[9] Sutra of the Great and Complete Transcendence of Suffering
[10] Moon Lamp Sutra
[11] Sutra on the Elimination of Ajatashatru’s Regret
[12] Questions of Narayana Sutra
[13] Cloud of Jewels
[14] Anh ngữ: mental and physical aggregates, nghĩa là các hợp thể thân và tâm.
[15] Anh ngữ : five aggregates, bao gồm các hợp thể thân tâm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
[16] Anh ngữ: twelve sources of perception, nghĩa là mười hai nguồn nhận thức, gồm có sáu căn [mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý] và sáu trần [hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, tiếp xúc, đối tượng của ý tưởng]
[17] Anh ngữ: eighteen elements, bao gồm sáu căn, sáu trần và sáu thức.
[18] Space Treasure Sutra
[19] Jewel in the Crown Sutra
[20] Descent into Lanka Sutra
[21] Prayer of Noble Conduct
[22] Extensive Collection of All Qualities Sutra
[23] Hill of Gaya Head Sutra
[24] First among the Supreme and Glorious
[25] Teaching of Vimalakirti
[26] Ten Qualities Sutra
[27] The Chapter on Controlling Evil Forces
[28] Pure Field of Engagement Sutra




Lama Tsongkhapa: LAMRIM TINH YẾU LUẬN: Chứng Đạo Ca

– English Title: Song of Experience
– Tác Giả (Author):
Lama Tông Khách Ba (sơ tổ dòng Gelug)
– Việt ngữ: Hồng Như
      1: Bản mới, nhuận văn 2021 (dịch từ Tạng ngữ)
      2: Bản mới 2019: Tạng Anh Việt (dịch từ Tạng ngữ)
      3: Bản cũ 2004 (dịch từ Anh ngữ)

      BẢN MỚI, DỊCH TỪ TẠNG NGỮ (2019, nhuận văn 2021)

      Tiếng Việt

      Tibetan title: Lam rim nyams mgur
      Tựa đề tiếng Việt: LAMRIM CHỨNG ĐẠO CA
      : Tinh Yếu Trình Tự Đường Tu Giác Ngộ

      1. Thân sinh ra từ / muôn vạn thiện lành;
      Lời nói toàn thành / nguyện ước chúng sinh;
      Ý thấy khắp cả / đúng như sự thật:
      Trước bậc đứng đầu / dòng họ Thích ca / con xin đảnh lễ.

      2. Là trưởng tử của / bậc Thầy vô song,
      Đảm đương việc làm / của khắp chư Phật,
      Du hí thị hiện / hằng sa cõi giới:
      Di Lạc, Văn Thù / con xin kính lễ.

      3. Dù nghĩa Phật mẫu / thậm thâm khó lường,
      Vẫn giảng đúng như / ý thật của Phật:
      Long thọ, Vô trước, / ba cõi danh lừng,
      Đê đầu dưới chân / con xin kính lễ.

      4. Là người tiếp giữ / mọi điểm tinh yếu / kho tàng khai thị / đầy đủ không sai
      Của hai đường tu / tri kiến thâm sâu, / thiện hạnh quảng đại,
      Được truyền xuống từ / nhị đại tổ sư.
      Đức Atisa (Di-pam-ka-ra), con xin kính lễ.

      5. Ân sư là mắt / cho chúng con nhìn / muôn trùng kinh điển;
      Là lòng sông cạn / đưa kẻ thiện duyên / sang bờ giải thoát;
      Từ bi vận dụng / mọi thiện phương tiện, / soi tỏ lối đường:
      Khắp đấng Ân sư / con xin kính lễ.

      6. Là ngọc trang nghiêm / trên đỉnh bậc trí / cõi Diêm phù đề;
      Tràng phang danh xưng / lẫy lừng khắp chúng;
      Pháp chân truyền từ / Long thọ, Vô trước:
      Là Trình Tự Đường / Dẫn Đến Giác Ngộ.

      7. Vì bởi pháp này / làm tròn nguyện ước / chín loại chúng sinh
      Nên đây chính là / vua của vua pháp,
      Là lòng biển rộng / rạng ngời khéo giảng,
      Nơi ngàn dòng suối / luận văn đổ về.
      Giúp người tu hiểu / trăm vạn pháp môn / vốn không mâu thuẫn;
      Giúp trọn pháp Phật / tỏa rạng thành lời / trực chỉ khai thị / trong trí người tu;
      Giúp cho dễ dàng / hiểu được ý Phật;
      Giúp giữ người tu / thoát khỏi hố thẳm / của đại ác hạnh.
      Vì vậy nhiều bậc / thiện duyên Ấn-Tạng
      Dốc tâm nương vào / diệu pháp này đây.
      Trình tự đường tu / ba căn cơ này,
      Kẻ trí không ai / không bị cuốn hút.

      8. Pháp này thu nhiếp / trọn lời Phật dạy,
      Nên giảng hay nghe / dù chỉ một lần,
      Đều như giảng, nghe / toàn bộ diệu Pháp,
      Lợi ích nhất định / sẽ như sóng cả, / vì vậy hãy nên / chuyên chú tư duy.

      9. Rồi sẽ thấy ra / gốc rễ duyên lành
      Cho mọi thiện lành / đời này kiếp sau
      Nằm ở nỗ lực / mang tâm và hạnh / nương dựa đúng cách
      Nơi đấng đạo sư, / là người chỉ cho / đường tu giác ngộ.
      Thấy điều này rồi / cho dù mất mạng / cũng không từ bỏ,
      Phải gắng làm cho / đạo sư hoan hỉ / bằng cách tu theo / lời của đạo sư.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      10. Thân người ung dung / quí giá còn hơn / bảo châu như ý
      Đến chỉ một lần / cực kỳ khó gặp,
      Lại dễ mất như / tia chớp giữa trời.
      Thấy rõ kiếp người / chóng vánh như vậy,
      Chuyện đời khác gì / trấu lép loạn bay.
      Nên ngày lẫn đêm / phải luôn tận dụng / tinh túy thân này.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      11. Chết rồi chắc gì / không rơi ác đạo,
      Giúp thoát sợ này / chỉ có Tam Bảo.
      Vậy tâm qui y / phải giữ cho chắc,
      Đừng bao giờ để / phá hạnh qui y.
      Muốn được như vậy / phải khéo nghĩ về / nghiệp quả thiện ác,
      Để biết chọn việc / nên bỏ, nên làm.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      12. Thân người đủ mọi / phẩm tướng cần thiết / để theo thắng đạo,
      Nếu như thiếu đi / thì đường giác ngộ / không thể bứt phá.
      Vậy phải gắng sao / cho có đủ cả.
      Vì bởi ba cửa / nhuốm đầy cấu nhiễm / ác nghiệp, rơi đọa,
      Khẩn thiết nhất là / tẩy tịnh nghiệp chướng,
      Nên bốn sám lực / phải thường trân quí / áp dụng siêng năng.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      13. Tai hại khổ đế / không nỗ lực quán
      Thì tâm cầu thoát / không thật phát sinh.
      Nguyên nhân của khổ / luân chuyển thế nào, / nếu không quán chiếu
      Thì gốc luân hồi / không biết cách chặt.
      Cần nhất phải biết / chán khổ sinh tử, / khởi tâm cầu thoát,
      Và biết điều gì / trói buộc mình trong / sinh tử luân hồi.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      14. Phát tâm bồ đề / là cốt lõi của / đường tu Đại thừa;
      Nền tảng, chỗ dựa / của khắp muôn trùng / sóng cả thiện hạnh;
      Tựa như thuốc tiên / hóa sắc thành vàng, / biến tất cả thành / hai kho phước trí;
      Là cả kho tàng / công đức đồ sộ, / chứa hết vô lượng / thiện đức bồ đề.
      Vì biết điều này / nên chư bồ tát / uy dũng tự tại
      Gìn giữ tâm ấy / sâu thẳm bên trong / cốt tủy pháp hành.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      15. Thí là ngọc quý / toàn thành ước nguyện / cho khắp chúng sanh;
      Vũ khí thượng thặng / chặt phăng nút thắt / của lòng keo bẩn;
      Là hạnh bồ tát / sinh nguồn dũng cảm / không hề chán mệt;
      Và là nền tảng / khiến cho danh lành / truyền khắp mười phương.
      Vì biết điều này / nên người có trí / xả hết thân mạng / tài sản công đức,
      Chỉ để nương theo / con đường lành này.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      16. Giới là nước trong / giặt sạch tất cả / vết nhơ ác nghiệp;
      Là ánh trăng thanh / xoa dịu nỗi đau / rát bỏng phiền não;
      Đứng giữa phàm phu, / thân thể rạng ngời / như núi Tu di,
      Không cần thị uy / nhiếp phục khắp cả.
      Vì biết điều này / nên chư giác giả,
      Giữ giới đã thọ / quí như đôi mắt.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      17. Nhẫn là trang sức / quí giá nhất cho / người có quyền năng;
      Là sức chịu đựng / tuyệt bậc dành cho / bức bách phiền não;
      Là kim sí điểu / bay vút giữa trời, / làm khắc tinh của / rắn thù sân hận;
      Là lớp giáp bào / kiên cố ngăn chận / vũ khí ác ngữ.
      Biết vậy cho nên / giáp bào kham nhẫn,
      Bằng đủ mọi cách / phải tập làm quen.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      18. Khoát lớp giáp bào / tinh tấn bất thoái
      Thì học và chứng / tăng trưởng nhanh như / trăng đến độ rằm,
      Làm gì cũng đều / tràn đầy ý nghĩa,
      Và đều mang đến / kết quả mong cầu.
      Vì biết như vậy / nên chư bồ tát
      Cuộn sóng tinh tấn / quét sạch hết thảy / mọi kiểu biếng lười.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      19. Định là đại vương / ngự trị tâm thức.
      Để yên, bất động / như núi Tu Di
      Mở ra, thu nhiếp / toàn bộ thiện pháp,
      Cho hỉ lạc nhờ / nhu nhuyễn thân tâm.
      Vì biết vậy nên / hành giả tự tại
      Luôn nương pháp định / diệt thù tán tâm.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      20. Tuệ là đôi mắt / thâm chứng tánh Như;
      Là con đường bứng / sạch gốc luân hồi;
      Là kho tánh đức / kinh luận tán thán;
      Và nổi danh là / ngọn đèn vô thượng / xua bóng vô minh.
      Vì biết như vậy / nên người có trí / tìm cầu giải thoát
      Nỗ lực đủ cách / tu theo đường này.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      21. Nếu chỉ dựa vào / mỗi định-nhất-tâm / thì không thấy được
      Khả năng chặt đứt / gốc rễ luân hồi.
      Nếu chỉ có tuệ / thiếu đi tịnh chỉ
      Thì dù quán chiếu / truy tìm đến đâu / vẫn không thể nào / dứt được phiền não.
      Vì vậy kẻ trí / lấy tuệ thâm nhập / vào chân thực tại
      Cưỡi trên lưng ngựa / tịnh chỉ diệu trạm;
      Dùng vũ khí bén / luận lý Trung đạo / không vướng biên kiến
      Phá tan hết thảy / khái niệm phân biệt / chấp thường chấp đoạn.
      Dùng tuệ rộng lớn / quán chiếu chính xác
      Để làm khai mở / trí chứng tánh Như.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      22. Nhờ thiền nhất tâm / mà đạt tam muội,
      Chẳng gì đáng nói. / Dùng quán sát trí
      Truy xét tầm tư, / mà vẫn yên lắng,
      Bất động vững vàng / nơi chân thực tại,
      Thấy rồi nỗ lực / hợp nhất chỉ quán,
      Đây mới chính thật / là điều nhiệm mầu.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      23. Khi vào trong định, Không – như không gian;
      Khi xuất trở ra, Không – như huyễn cảnh;
      Tán dương những ai / nhờ tu như vậy / hợp nhất phương tiện / cùng với trí tuệ
      Nhờ đó siêu việt / các hạnh bồ tát.
      Để chứng điều này / nên bậc thiện duyên
      Không đành lòng với / đường tu riêng lẻ.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      24. Như thế chính là / đường tu phổ thông, / thiết yếu cho hai / thắng đạo đại thừa.
      là cỗ xe nhân / và cỗ xe quả.
      Tu rồi hãy tìm / nương sự che chở / của bậc thuyền trưởng / trí tuệ tài ba
      Để mà bước vào / biển cả mật pháp.
      Rồi nhờ dựa vào / lời giảng toàn hảo
      Sẽ không phí uổng / thân người có đây.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      25. Vì để huân tập / tâm của chính mình,
      Cũng để làm lợi / cho hàng thiện duyên,
      Thầy đã giải thích / bằng lời dễ hiểu
      Trọn vẹn đường tu / khiến Phật đẹp lòng.
      Nương công đức này / nguyện cho chúng sinh
      Không bao giờ lìa / chánh đạo tối thượng.
      Thầy là hành giả / đã nguyện như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy nguyện theo.

      Trình tự đường tu giác ngộ được trình bày ngắn gọn theo dạng dễ nhớ khó quên, do tỷ kheo đa văn, người đã buông xả, tên Lobsang Drakpa [Lama Tsongkhapa] viết nơi núi lớn lan nhã tại Geden Nampar Gyalwai Ling.

      Bản tiếng Việt: Hồng như Thupten Munsel, 2019: Bản mới dịch lại từ Tạng ngữ, tham khảo với ba bản dịch, Alex Berzin, Thupten Jinpa và Ven. Joan Nicell.



      1: Bản mới, nhuận văn 2021 (dịch từ Tạng ngữ)
      2: Bản mới 2019: Tạng Anh Việt (dịch từ Tạng ngữ)
      3: Bản cũ 2004 (dịch từ Anh ngữ)

      TẠNG – ANH – VIỆT (2019)

      [Bản tiếng Anh của Thupten Jinpa]

      ༄། །བྱང་ཆུབ་ལམ་གྱི་རིམ་པའི་ཉམས་ལེན་བསྡུས་དོན་གྱི་ཚིགས་སུ་བཅད་པ་བཞུགས་སོ།།
      Tibetan title: Lam rim nyams mgur
      English title: SONGS OF SPIRITUAL EXPERIENCE: Condensed Points of the Stages of the Path
      Tựa đề tiếng Việt: LAMRIM CHỨNG ĐẠO CA: Tinh Yếu Trình Tự Đường Tu Giác Ngộ

      ༄༅། །ཕུན་ཚོགས་དགེ་ལེགས་བྱེ་བས་བསྐྲུན་པའི་སྐུ། །
      Your body is created from a billion perfect factors of goodness;
      1. Thân sinh ra từ / muôn vạn thiện lành;

      མཐའ་ཡས་འགྲོ་བའི་རེ་བ་བསྐོང་བའི་གསུང༌། །
      Your speech satisfies the yearnings of countless sentient beings;
      Lời nói toàn thành / nguyện ước chúng sinh;
      མ་ལུས་ཤེས་བྱ་ཇི་བཞིན་གཟིགས་པའི་ཐུགས། །
      Your mind perceives all objects of knowledge exactly as they are –
      Ý thấy khắp cả / đúng như sự thật:
      ཤཱཀྱའི་གཙོ་བོ་དེ་ལ་མགོས་ཕྱག་འཚལ། །
      I bow my head to you O chief of the Shakya clan.
      Trước bậc đứng đầu / dòng họ Thích ca / con xin đảnh lễ.

      ཟླ་མེད་སྟོན་པ་དེ་ཡི་སྲས་ཀྱི་མཆོག །
      You’re the most excellent sons of such peerless teacher;
      2. Là trưởng tử của / bậc Thầy vô song,
      རྒྱལ་བའི་མཛད་པ་ཀུན་གྱི་ཁུར་བསྣམས་ནས། །
      You carry the burden of the enlightened activities of all conquerors,
      Đảm đương việc làm / của khắp chư Phật,
      གྲངས་མེད་ཞིང་དུ་སྤྲུལ་པས་རྣམ་རོལ་བ། །
      And in countless realms you engage in ecstatic display of emanations –
      Du hí thị hiện / hằng sa cõi giới:
      མི་ཕམ་འཇམ་པའི་དབྱངས་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། །
      I pay homage to you O Maitreya and Manjushri.
      Di Lạc, Văn Thù / con xin kính lễ.

      ཤིན་ཏུ་དཔག་པར་དཀའ་བ་རྒྱལ་བའི་ཡུམ། །
      So difficult to fathom is the mother of all conquerors,
      3. Dù nghĩa Phật mẫu / thậm thâm khó lường,
      ཇི་བཞིན་དགོངས་པ་འགྲེལ་མཛད་འཛམ་གླིང་རྒྱན། །
      You who unravel its contents as it is are the jewels of the world;
      Vẫn giảng đúng như / ý thật của Phật:
      ཀླུ་སྒྲུབ་ཐོགས་མེད་ཅེས་ནི་ས་གསུམ་ན། །
      You’re hailed with great fame in all three spheres of the world –
      Long thọ, Vô trước, / ba cõi danh lừng,
      ཡོངས་སུ་གྲགས་པའི་ཞབས་ལ་བདག་ཕྱག་འཚལ། །
      I pay homage to you O Nagarjuna and Asanga.
      Đê đầu dưới chân / con xin kính lễ.

      ཤིང་རྟ་ཆེན་པོ་གཉིས་ལས་ལེགས་བརྒྱུད་པའི། །
      Stemming from these two great charioteers with excellence
      4. Hai đại tổ sư / khéo truyền hai đường
      ཟབ་མོའི་ལྟ་བ་རྒྱ་ཆེན་སྤྱོད་བའི་ལམ། །
      Are the two paths of the profound view and the vast conduct;
      Tri kiến thâm sâu, thiện hạnh quảng đại,
      མ་ནོར་ཡོངས་སུ་རྫོགས་པའི་གནད་བསྡུས་པའི། །
      You’re the custodian of the treasury of instructions encompassing all essential points
      Kho tàng khai thị không mê lầm này,
      གདམས་པའི་མཛོད་འཛིན་མར་མེ་མཛད་ལ་འདུད། །
      Of these paths without error, I pay homage to you O Dipamkara.
      Người tiếp giữ trọn / mọi điểm tinh yếu: / Đức Atisa (Dipamkara), con xin kính lễ.

      རབ་འབྱམས་གསུང་རབ་ཀུན་ལ་ལྟ་བའི་མིག །
      You are the eyes to see all the myriad collections of scriptures;
      5. Ân sư là mắt / cho chúng con nhìn / muôn trùng kinh điển;
      སྐལ་བཟང་ཐར་བར་བགྲོད་པའི་འཇུག་ངོགས་མཆོག །
      To the fortunate ones traveling to freedom you illuminate the excellent path,
      Là lòng sông cạn / đưa kẻ thiện duyên / sang bờ giải thoát;
      བརྩེ་བས་སྤྱོད་པའི་ཐབས་མཁས་མཛད་པ་ཡིས། །
      You do this through skillful deeds stirred forth by compassion.
      Từ bi vận dụng / mọi thiện phương tiện, / soi tỏ lối đường:
      གསལ་མཛད་བཤེས་གཉེན་རྣམས་ལ་གུས་ཕྱག་འཚལ།
      I pay respectful homage to you O all my spiritual mentors.
      Kính khắp Ân sư / con xin đảnh lễ.

      ༈ །འཛམ་གླིང་མཁས་པ་ཡོངས་ཀྱི་གཙུག་གི་རྒྱན། །
      You’re the crowning jewels among all the learned ones of this world;
      6. Là ngọc trang nghiêm / trên đỉnh bậc trí / cõi Diêm phù đề;
      སྙན་པའི་བ་དན་འགྲོ་ལ་ལྷང་ངེ་བ། །
      Your banners of fame flutter vibrantly amongst the sentient beings;
      Tràng phang danh xưng / lẫy lừng khắp chúng;
      ཀླུ་སྒྲུབ་ཐོགས་མེད་གཉིས་ལས་རིམ་བཞིན་དུ། །
      O Nagarjuna and Asanga from you flow in an excellent steady stream
      Pháp chân truyền từ / Long thọ, Vô trước:
      ལེགས་བརྒྱུད་བྱང་ཆུབ་ལམ་གྱི་རིམ་པ་ནི། །
      This [instruction on the] stages of the path to enlightenment.
      Là Trình Tự Đường / Dẫn Đến Giác Ngộ.

      སྐྱེ་རྒུའི་འདོད་དོན་མ་ལུས་སྐོང་བས་ན། །
      Since it fulfills all the wishes of beings without exception,
      7. Vì bởi pháp này / làm tròn nguyện ước / chín loại chúng sinh
      གདམས་པ་རིན་ཆེན་དབང་གི་རྒྱལ་བོ་སྟེ། །
      It is the king of kings among all quintessential instructions;
      Nên đây chính là / vua của vua pháp,
      གཞུང་བཟང་སྟོང་གི་ཆུ་བོ་འདུས་པའི་ཕྱིར། །
      Since it gathers into it thousands of excellent rivers of treatises,
      Là lòng biển rộng / rạng ngời khéo giảng,
      དཔལ་ལྡན་ལེགས་པར་བཤད་པའི་རྒྱ་མཚོའང་ཡིན། །
      It’s as well the ocean of most glorious well-uttered insights.
      Nơi ngàn dòng suối / luận văn đổ về.

      བསྟན་པ་ཐམས་ཅད་འགལ་མེད་རྟོགས་པ་དང༌། །
      It helps to recognize all teachings to be free of contradictions;
      Giúp người tu hiểu / trăm vạn pháp môn / vốn không mâu thuẫn;
      གསུང་རབ་མ་ལུས་གདམས་པར་འཆར་བ་དང༌། །
      It helps the dawning of all scriptures as pith instructions;
      Giúp trọn pháp Phật / tỏa rạng thành lời / trực chỉ khai thị / trong trí người tu;
      རྒྱལ་བའི་དགོངས་པ་བདེ་བླག་རྙེད་པ་དང༌། །
      It helps to find easily the enlightened intention of the conquerors;
      Giúp cho dễ dàng / hiểu được ý Phật;
      ཉེས་སྤྱོད་ཆེན་པོའི་གཡང་ས་ལས་ཀྱང་བསྲུང༌། །
      It helps also to guard against the abyss of grave negative deeds.
      Giúp giữ người tu / thoát khỏi hố thẳm / của đại ác hạnh.

      དེ་ཕྱིར་རྒྱ་བོད་མཁས་པའི་སྐྱེ་བོ་ནི། །
      Therefore this most excellent instruction that is sought after
      Vì vậy nhiều bậc / thiện duyên Ấn-Tạng
      སྐལ་ལྡན་དུ་མས་བསྟེན་པའི་གདམས་པ་མཆོག །
      By numerous fortunate ones like the learned ones of India and Tibet,
      Dốc tâm nương vào / diệu pháp này đây.
      སྐྱེས་བུ་གསུམ་གྱི་ལམ་གྱི་རིམ་པ་ཡིས། །
      This [instruction of the] stages of the path of persons of three capacities,
      Trình tự đường tu / ba căn cơ này,
      ཡིད་རབ་མི་ དཔྱད་ལྡན་སུ་ཞིག་ཡོད།
      What intelligent person is there whose mind is not captured by it?
      Kẻ trí không ai / không bị cuốn hút.

      ༈ །གསུང་རབ་ཀུན་གྱི་སྙིང་པོ་བསྡུ་བསྡུ་བ། །
      This concise instruction distilling the essence of all scriptures,
      8. Pháp này thu nhiếp / trọn lời Phật dạy,
      ཚུལ་འདི་ཐུན་རེ་སྟོན་དང་ཉན་པས་ཀྱང༌། །
      Even through reciting it or listening to it only once,
      Nên giảng hay nghe / dù chỉ một lần,
      དམ་ཆོས་འཆད་དང་ཐོས་པའི་ཕན་ཡོན་ཚོགས། །
      The benefits of teaching the dharma, listening to it, and so on,
      Đều như giảng, nghe / toàn bộ diệu Pháp,
      རླབས་ཆེན་སྡུད་པར་ངེས་པས་དེ་དོན་བསམ །
      Since such waves of merit are bound to be gathered contemplate its meaning.
      Lợi ích nhất định / sẽ như sóng cả, / vì vậy hãy nên / chuyên chú tư duy.

      ༈ །དེ་ནས་འདི་ཕྱིའི་ལེགས་ཚོགས་ཇི་སྙེད་པའི། །
      Then, the root of creating well the auspicious conditions
      9. Rồi sẽ thấy ra / gốc rễ duyên lành
      རྟེན་འབྲེལ་ལེགས་པར་འགྲིགས་པའི་རྩ་བ་ནི། །
      For all the excellences of this and future lives
      Cho mọi thiện lành / đời này kiếp sau
      ལམ་སྟོན་བཤེས་གཉེན་དམ་པ་འབད་པ་ཡིས། །
      Is to rely properly with effort both in thought and action
      Nằm ở nỗ lực / mang tâm và hạnh / nương dựa đúng cách
      བསམ་དང་སྦྱོར་བས་ཚུལ་བཞིན་བསྟེན་པར་པ་རུ། །
      Upon the sublime spiritual mentor who reveals the path.
      Nơi đấng đạo sư, / là người chỉ cho / đường tu giác ngộ.

      མཐོང་ནས་སྲོག་གི་ཕྱིར་ཡང་མི་གཏོང་བར། །
      Seeing this we should never forsake him even at the cost of life
      Thấy điều này rồi / cho dù mất mạng / cũng không từ bỏ,
      བཀའ་བཞིན་སྒྲུབ་པའི་མཆོད་པས་མཉེས་པར་བྱེད། །
      And please him with the offering of implementing his words.
      Phải gắng làm cho / đạo sư hoan hỉ / bằng cách tu theo / lời của đạo sư.
      རྣལ་འབྱོར་ངས་ཀྱང་ཉམས་ལེན་དེ་ལྟར་བགྱིས། །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
      ཐར་འདོད་ཁྱོད་ཀྱང་དེ་བཞིན་བསྐྱང་འཚལ་ལོ།
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      ༈ །དལ་བའི་རྟེན་འདི་ཡིད་བཞིན་ནོར་ལས་ལྷག །
      This life of leisure is even more precious than a wish-granting jewel;
      10. Thân người ung dung / quí giá còn hơn / bảo châu như ý
      འདི་འདྲ་རྙེད་པ་ད་རེས་ཙམ་ཞིག་ཡིན། །
      That I have found such an existence is only this once;
      Đến chỉ một lần / cực kỳ khó gặp,
      རྙེད་དཀའ་འཇིག་སླ་ནམ་མཁའི་གློག་དང་འདྲ། །
      So hard to find yet like a flash of lightning it is easy to vanish;
      Lại dễ mất như / tia chớp giữa trời.
      ཚུལ་འདི་བསམས་ནས་འཇིག་རྟེན་བྱ་བ་ཀུན། །
      Contemplating this situation it’s vital to realize that all mundane pursuits
      Thấy rõ kiếp người / chóng vánh như vậy,

      སྦུན་པ་འཕྱར་བ་བཞིན་དུ་རྟོགས་གྱུར་ནས། །
      Are like the empty grain husks floating in the winds
      Chuyện đời khác gì / trấu lép loạn bay.
      ཉིན་མཚན་ཀུན་ཏུ་སྙིང་བོ་ལེན་པ་དགོས། །
      And that we must extract the essence of human existence.
      Nên ngày lẫn đêm / phải luôn tận dụng / tinh túy thân này.
      རྣལ་འབྱོར་ངས་ཀྱང༌
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
      ཐར་འདོད་ཁྱེད་ཀྱང༌། །ཚིག་རྐང་འདི་གཉིས་ཕྱིན་ཆད་ཀུན་ལའང་འགྲེ།
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      ༈ ཤི་ནས་ངན་འགྲོར་མི་སྐྱེའི་གདིང་མེད་ཅིང༌། །
      There is no certainty that after death we may not be born in the lower realms;
      11. Chết rồi chắc gì / không rơi ác đạo,
      དེ་ཡི་འཇིགས་སྐྱོབ་དཀོན་མཆོག་གསུམ་དུ་ངེས། །
      The protection from such terror lies in the Three Jewels alone;
      Giúp thoát sợ này / chỉ có Tam Bảo.
      དེ་ཕྱིར་སྐྱབས་འགྲོ་ཤིན་ཏུ་བརྟན་པ་དང༌། །
      So we must make firm the practice of going for refuge
      Vậy tâm qui y / phải giữ cho chắc,
      དེ་ཡི་བསླབ་བྱ་ཉམས་པ་མེད་པར་བྱ། །
      And ensure that its precepts are never undermined.
      Đừng bao giờ để / phá hạnh qui y.

      དེ་ཡང་དཀར་ནག་ལས་འབྲས་ལེགས་བསམ་ནས། །
      This in turn depends on contemplating well the white and black karma
      Muốn được như vậy / phải khéo nghĩ về / nghiệp quả thiện ác,
      བླང་དོར་ཚུལ་བཞིན་སྒྲུབ་ལ་རག་ལས་སོ། །
      And their effects, and on perfect observance of the ethical norms.
      Để biết chọn việc / nên bỏ, nên làm.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴ །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      ལམ་མཆོག་སྒྲུབ་ལ་མཚན་ཉིད་ཚང་བའི་རྟེན། །
      Until we’ve obtained the most qualified form to pursue the excellent path
      12. Thân người đủ mọi / phẩm tướng cần thiết / để theo thắng đạo,
      མ་རྙེད་བར་དུ་ས་ཕྱོད་མི་འོང་བས། ། [དུས་ཚོད་མི་འོང་བས་??]
      We will fail to make great strides in our journey,
      Nếu như thiếu đi / thì đường giác ngộ / không thể bứt phá.
      དེ་ཡི་མ་ཚང་མེད་པའི་རྒྱུད་ལ་བསླབ། །
      So we must strive in all the conditions without exception of such a form;
      Vậy phải gắng sao / cho có đủ cả.
      སྒོ་གསུམ་སྡིག་ལྟུང་དྲི་མ་མས་སྦགས་པ་འདི། །
      Thus these three doors of ours so sullied with evil karma and downfalls,
      Vì bởi ba cửa / nhuốm đầy cấu nhiễm / ác nghiệp, rơi đọa,

      ལྷག་པར་ལས་སྒྲིབ་སྦྱོང་བ་གནད་ཆེ་བས། །
      Since it is especially essential to purify their karmic defilements,
      Khẩn thiết nhất là / tẩy tịnh nghiệp chướng,
      རྒྱུན་དུ་སྟོབས་བཞི་ཚང་བ་བརྟེན་པ་གཅེས། །
      We must ensure to cherish the constant application all four powers.
      Nên bốn sám lực / phải thường trân quí / áp dụng siêng năng.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴ ༈ །
      I, a yogi, have practiced in this manner; You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      སྡུག་བདེན་ཉེས་དམིགས་བསམ་ལ་མ་འབད་ན། །
      If we do not strive in contemplating the defects of the truth of suffering,
      13. Tai hại khổ đế / không nỗ lực quán
      ཐར་པ་དོན་གཉེར་ཇི་བཞིན་མི་སྐྱེ་ཞིང༌། །
      The genuine aspiration for liberation does not arise in us;
      Thì tâm cầu thoát / không thật phát sinh.
      ཀུན་འབྱུང་འཁོར་བའི་འཇུག་རིམ་མ་བསམ་ན། །
      If we do not contemplate the causal process of the origin of suffering,
      Nguyên nhân của khổ / luân chuyển thế nào, / nếu không quán chiếu
      འཁོར་བའི་རྩ་བ་གཅོད་ཚུལ་མི་ཤེས་པས། །
      We will fail to understand how to cut the root of cyclic existence.
      Thì gốc luân hồi / không biết cách chặt.

      སྲིད་ལས་ངེས་འབྱུང་སྐྱོ་ཤས་བརྟེན་པ་དང༌། །
      So it’s vital to seek true renunciation of disenchantment with existence
      Cần nhất phải biết / chán khổ sinh tử, / khởi tâm cầu thoát,
      འཁོར་བར་གང་གིས་བཅིངས་པ་ཤེས་པ་གཅེས། །
      And to recognize which factors chain us in the cycle of existence.
      Và biết điều gì / trói buộc mình trong / sinh tử luân hồi.
      རྣལ་འབྱོར། །ཐར་འདོད།
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      ༈ སེམས་བསྐྱེད་ཐེག་མཆོག་ལམ་གྱི་གཞུང་ཤིང་སྟེ། །
      Generating the mind is the central axle of the supreme vehicle path;
      14. Phát tâm bồ đề / là cốt lõi của / đường tu Đại thừa.
      རླབས་ཆེན་སྤྱོད་པ་རྣམས་ཀྱི་གཞི་དང་རྟེན། །
      It’s the foundation and the support of all expansive deeds;
      Nền tảng, chỗ dựa / của khắp muôn trùng / sóng cả thiện hạnh
      ཚོགས་གཉིས་ཀུན་ལ་གསེར་འགྱུར་རྩི་ལྟ་བུ། ། །
      To all instances of two accumulations it is like the elixir of gold;
      Tựa như thuốc tiên / hóa sắc thành vàng, / biến tất cả thành / hai kho phước trí
      རབ་འབྱམས་དགེ་ཚོགས་སྡུད་པའི་བསོད་ནམས་གཏེར། །
      It’s the treasury of merits containing myriad collections of virtues;
      Là cả kho tàng / công đức đồ sộ, / chứa hết vô lượng / thiện đức bồ đề.
      དེ་ལྟར་ཤེས་ནས་རྒྱལ་སྲས་དབང་བོ་རྣམས། །
      Recognizing these truths the heroic bodhisattvas
      Vì biết điều này / nên chư bồ tát / uy dũng tự tại
      རིན་ཆེན་སེམས་མཆོག་ཐུགས་དམ་མཐིལ་དུ་འཛིན། །
      Uphold the precious supreme mind as the heart of their practice.
      Gìn giữ tâm ấy / sâu thẳm bên trong / cốt tủy pháp hành.
      རྣལ་འབྱོར། །ཐར་འདོད། །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      སྦྱིན་པ་འགྲོ་བའི་རེ་སྐོང་ཡིད་བཞིན་ནོར། །
      Giving is the wish-granting jewel that satisfies the wishes of all beings;
      15. Thí là ngọc quý / toàn thành ước nguyện / cho khắp chúng sanh;
      སེར་སྣའི་མདུད་པ་གཅོད་པའི་མཚོན་ཆ་མཆོག །།
      It’s the best weapon to cut the constricting knots of miserliness;
      Vũ khí thượng thặng / chặt phăng nút thắt / của lòng keo bẩn;
      མ་ཞུམ་སྙིང་སྟོབས་བསྐྱེད་པའི་རྒྱལ་སྲས་སྤྱོད།
      It’s an undaunted deed of the bodhisattva giving birth to courage;
      Là hạnh bồ tát / sinh nguồn dũng cảm / không hề chán mệt;
      སྙན་པའི་གྲགས་པ་ཕྱོགས་བཅུར་སྒྲོགས་པའི་གཞི། །
      It’s the basis to proclaim one’s fame throughout all ten directions;
      Và là nền tảng / khiến cho danh lành / truyền khắp mười phương.
      དེ་ལྟར་ཤེས་ནས་ལུས་དང་ལོངས་སྤྱོད་དགེ། །
      Knowing this the learned ones seek the excellent path
      Vì biết điều này / nên người có trí / xả hết thân mạng / tài sản công đức,
      ཡོངས་སུ་གཏོང་བའི་ལམ་བཟང་མཁས་པས་བསྟེན། །
      Of giving away entirely their body, wealth and virtues.
      chỉ để nương theo / con đường lành này.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴ །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      ཚུལ་ཁྲིམས་ཉེས་སྤྱོད་དྲི་མ་འཁྱུད་པའི་ཆུ། །
      Morality is the water that washes off the stains of ill deeds;
      16. Giới là nước trong / giặt sạch tất cả / vết nhơ ác nghiệp;
      ཉོན་མོངས་ཚ་གདུང་སེལ་བའི་ཟླ་བའི་འོད། །
      It’s the cooling moonlight dispelling the burning agony of afflictions;
      Là ánh trăng thanh / xoa dịu nỗi đau / rát bỏng phiền não;
      སྐྱེས་དགུའི་དབུས་ན་ལྷུན་པོ་ལྟ་བུར་བརྗིད། །
      In the midst of people it is most majestic like the Mt Meru;
      Đứng giữa phàm phu, / thân thể rạng ngời / như núi Tu di,
      སྟོབས་ཀྱིས་བསྡིགས་པ་མེད་པར་འགྲོ་ཀུན་འདུད། །
      It draws together all beings without any display of force;
      Không cần thị uy / nhiếp phục khắp cả.
      དེ་ལྟར་ཤེས་ནས་ཡང་དག་བླངས་པའི་ཁྲིམས། །
      Knowing this the sublime ones guard as if they would their eyes,
      Vì biết điều này / nên chư giác giả,
      དམ་པ་རྣམས་ཀྱིས་མིག་བཞིན་བསྲུང་བར་མཛོད། །
      The perfect disciplines which they have chosen to adopt.
      Giữ giới đã thọ / quí như đôi mắt.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴ །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      བཟོད་པ་སྟོབས་ལྡན་རྣམས་ལ་རྒྱན་གྱི་མཆོག །
      Forbearance is the supreme ornament for those who have power;
      17. Nhẫn là trang sức / quý giá nhất cho / người có quyền năng;
      ཉོན་མོངས་གདུང་བའི་དཀའ་ཐུབ་ཀུན་གྱི་ཕུལ། །
      It’s the greatest fortitude against the agonies of afflictions;
      Là sức chịu đựng / tuyệt bậc dành cho / bức bách phiền não;
      ཞེ་སྡང་ལག་འགྲོའི་དགྲ་ལ་ནམ་མཁའ་ལྡིང༌། །
      Against its enemy the snake of hate it is a garuda cruising in the sky;
      Là kim sí điểu / bay vút giữa trời, / làm khắc tinh của / rắn thù sân hận;
      ཚིག་རྩུབ་མཚོན་ལ་སྲ་བའི་གོ་ཆ་ཡིན། །
      Against the weapon of harsh words it’s the strongest armor;
      Là lớp giáp bào / kiên cố ngăn chận / vũ khí ác ngữ.

      དེ་ལྟར་ཤེས་ནས་བཟོད་མཆོག་གོ་ཆ་ལ། །
      Knowing this we should habituate ourselves with
      Biết vậy cho nên / giáp bào kham nhẫn,
      རྣམ་པ་སྣ་ཚོགས་ཚུལ་གྱིས་བསྒོམས་པར་མཛད། །
      The armor of excellent forbearance by all possible means.
      Bằng đủ mọi cách / phải tập làm quen.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴ །
      I, a yogi, have practice in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      མི་ལྡོག་བརྟན་པའི་བརྩོན་འགྲུས་གོ་བགོས་ན། །
      If the armor of unflinching perseverance is worn,
      18. Khoát lớp giáp bào / tinh tấn bất thoái
      ལུང་རྟོགས་ཡོན་ཏན་ཡར་ངོའི་ཟླ་བཞིན་འཕེལ། །
      Knowledge of scripture and realization increases like waxing moon;
      Thì học và chứng / tăng trưởng nhanh như / trăng đến độ rằm,
      སྤྱོད་ལམ་ཐམས་ཅད་དོན་དང་ལྡན་པར་འགྱུར། །
      All conducts become fused with good purpose;
      Việc làm nào cũng / tràn đầy ý nghĩa,
      གང་བརྩམས་ལས་ཀྱི་མཐའ་རྣམས་ཡིད་བཞིན་འགྲུབ། །
      And whatever initiatives we may begin succeeds as hoped for;
      Và đều mang đến / kết quả mong cầu.
      དེ་ལྟར་ཤེས་ནས་ལེ་ལོ་ཀུན་སེལ་བའི། །
      Knowing this the bodhisattvas apply great waves of effort,
      Vì biết như vậy / nên chư bồ tát
      རླབས་ཆེན་བརྩོན་འགྲུས་རྒྱལ་སྲས་རྣམས་ཀྱིས་བརྩམས། །
      Which help to dispel all forms of laziness.
      Cuộn sóng tinh tấn / quét sạch hết thảy / mọi kiểu biếng lười.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴ །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      བསམ་གཏན་སེམས་ལ་དབང་སྒྱུར་རྒྱལ་བོ་སྟེ། །
      Concentration is the king that reigns over the mind;
      19. Định là đại vương / ngự trị tâm thức.
      བཞག་ན་གཡོ་མེད་རི་ཡི་དབང་བོ་བཞིན། །
      When left it is as unwavering as the king of mountains;
      Để yên, bất động / như núi Tu Di
      བཏང་ན་དགེ་བའི་དམིགས་པ་ཀུན་ལ་འཇུག །
      When set forth it engages with all objects of virtue;
      Mở ra, thu nhiếp / toàn bộ thiện pháp,
      ལུས་སེམས་ལས་སུ་རུང་བའི་བདེ་ཆེན་འདྲེན། །
      It induces the great bliss of a serviceable body and mind;
      Cho hỉ lạc nhờ / nhu nhuyễn thân tâm.
      དེ་ལྟར་ཤེས་ནས་རྣལ་འབྱོར་དབང་བོ་རྣམས། །
      Knowing this the great accomplished yogis
      Vì biết vậy nên / hành giả tự tại,
      རྣམ་གཡེང་དགྲ་འཇོམས་ཏིང་འཛིན་རྒྱུན་ཏུ་བསྟེན། །
      Constantly apply meditations destroying the enemy of distraction.
      Luôn nương pháp định / diệt thù tán tâm.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴ །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      ཤེས་རབ་ཟབ་མོའི་དེ་ཉིད་བལྟ་བའི་མིག །
      Wisdom is the eye that sees the profound suchness;
      20. Tuệ là đôi mắt / thâm chứng tánh Như;
      སྲིད་པའི་རྩ་བ་དྲུང་ནས་འབྱིན་པའི་ལམ། །
      It’s the path eradicating cyclic existence from its very root;
      Là con đường bứng / sạch gốc luân hồi;
      གསུང་རབ་ཀུན་ལས་བསྔགས་པའི་ཡོན་ཏན་གཏེར། །
      It’s a treasury of higher qualities that are praised in all scriptures;
      Là kho tánh đức / kinh luận tán thán;
      གཏི་མུག་མུན་སེལ་སྒྲོན་མེའི་མཆོག་ཏུ་གྲགས། །
      It’s known as the supreme lamp dispelling the darkness of delusion;
      Và nổi danh là / ngọn đèn vô thượng / xua bóng vô minh.
      དེ་ལྟར་ཤེས་ནས་ཐར་འདོད་མཁས་པ་ཡིས། །
      Knowing this the learned ones who aspire for liberation
      Vì biết như vậy / nên người có trí / tìm cầu giải thoát
      ལམ་དེ་འབད་པ་དུ་མས་བསྐྱེད་པར་མཛད། །
      Endeavor with multiple efforts to cultivate this path.
      Nỗ lực đủ cách / tu theo đường này.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴ །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo

      རྩེ་གཅིག་བསམ་གཏན་ཙམ་ལས་འཁོར་བ་ཡི། །
      In a mere one-pointed concentration I fail to see
      Nếu chỉ dựa vào / mỗi định-nhất-tâm / thì không thấy được
      རྩ་བ་གཅོད་པའི་ནུས་པ་མ་མཐོང་ཞིང༌། །
      The potency to cut the root of cyclic existence;
      Khả năng chặt đứt / gốc rễ luân hồi.
      ཞི་གནས་ལམ་དང་བྲལ་བའི་ཤེས་རབ་ཀྱིས། །
      Yet with wisdom devoid of the path of tranquil abiding,
      Nếu chỉ có tuệ / thiếu đi tịnh chỉ
      ཇི་ཙམ་དཔྱད་ཀྱང་ཉོན་མོངས་མི་ལྡོག་པས། །
      No matter how much one may probe, the afflictions will not be overcome.
      Thì dù quán chiếu / truy tìm đến đâu / cũng không thể nào / dứt được phiền não.
      ཡིན་ལུགས་ཕུག་ཐག་ཆོད་པའི་ཤེས་རབ་དེ། །
      So this wisdom decisively penetrating the true mode of being,
      Vì vậy kẻ trí / lấy tuệ thâm nhập / vào chân thực tại
      གཡོ་མེད་ཞི་གནས་རྟ་ལ་བསྐྱོན་ནས་ནི། །
      The learned ones saddle it astride the horse of unwavering calm abiding;
      Cưỡi trên lưng ngựa / tịnh chỉ diệu trạm;
      མཐའ་བྲལ་དབུ་མའི་རིག་པའི་མཚོན་རྣོན་གྱིས། །
      And with the sharp weapon of reasoning of the Middle Way free of extremes,
      Dùng vũ khí bén / luận lý Trung đạo / không vướng biên kiến
      མཐར་འཛིན་དམིགས་གཏད་ཐམས་ཅད་འཇིག་བྱེད་པའི། །
      They dismantle all locus of objectification of the mind grasping at extremes;
      Phá tan hết thảy / khái niệm phân biệt / chấp thường chấp đoạn.
      ཚུལ་བཞིན་དཔྱོད་པའི་ཡངས་པའི་ཤེས་རབ་ཀྱིས། །
      With such expansive wisdom that probes with precision,
      Dùng tuệ rộng lớn / quán chiếu chính xác
      དེ་ཉིད་རྟོགས་པའི་བློ་གྲོས་རྒྱས་པར་མཛད། །
      The learned ones enhance the wisdom realizing the suchness.
      Để làm khai mở / trí chứng tánh Như.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴ །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      རྩེ་གཅིག་བསྒོམས་པས་ཏིང་འཛིན་འགྲུབ་པ་ནི། །
      What need is there say that through one-pointed cultivation
      22. Nhờ thiền nhất tâm / mà đạt tam muội,
      སྨོས་པར་ཅི་འཚལ་ཚུལ་བཞིན་དཔྱོད་པ་ཡི། །
      Absorption is realized? Through discriminative awareness
      Chẳng gì đáng nói. / Dùng quán sát trí
      སོ་སོར་རྟོག་པ་ཡིས་ཀྱང་ཡིན་ལུགས་ལ། །
      Probing with precision as well one can abide unwavering
      Truy xét tầm tư, / mà vẫn yên lắng,
      གཡོ་མེད་ཤིན་ཏུ་བརྟན་པར་གནས་པ་ཡི། །
      And utterly stable upon the true mode of being.
      Bất động vững vàng / nơi chân thực tại,
      ཏིང་འཛིན་བསྐྱེད་པར་མཐོང་ནས་ཞི་ལྷག་གཉིས། །
      Wondrous are those who see this
      Thấy rồi nỗ lực / hợp nhất chỉ quán,
      ཟུང་འབྲེལ་སྒྲུབ་ལ་བརྩོན་རྣམས་ཡ་མཚན་ནོ། །
      And strive for the union of abiding and insight.
      Đây mới chính thật / là điều nhiệm mầu.
      རྣལ་འབྱོར། །ཐར་འདོད། །
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      མཉམ་བཞག་ནམ་མཁའ་ལྟ་བུའི་སྟོང་ཉིད་དང༌། །
      The space-like emptiness of meditative equipoise,
      23. Khi vào trong định, Không – như không gian;
      རྗེས་ཐོབ་སྒྱུ་མ་ལྟ་བུའི་སྟོང་བ་གཉིས། །
      And the illusion-like emptiness of the subsequent realizations,
      Khi xuất trở ra, Không – như huyễn cảnh;
      བསྒོམས་ནས་ཐབས་ཤེས་ཟུང་དུ་འབྲེལ་བ་ཡིས། །
      Praised are those who cultivate them and bind together
      Tán dương những ai / nhờ tu như vậy / hợp nhất phương tiện / cùng với trí tuệ
      རྒྱལ་སྲས་སྤྱོད་པའི་ཕ་རོལ་འགྲོ་བ་བསྔགས། །
      The method and wisdom and travel beyond the bodhisattva deeds.
      Và rồi siêu việt / các hạnh bồ tát.
      དེ་ལྟར་རྟོགས་ནས་ཕྱོགས་རེའི་ལམ་གྱིས་ནི། །
      It’s the way of the fortunate ones
      Để chứng điều này / nên bậc thiện duyên
      ཚིམ་པ་མེད་པ་སྐལ་བཟང་རྣམས་ཀྱི་ལུགས། །
      To realize this and not to be content with partial paths;
      Không đành lòng với / đường tu riêng lẻ.
      རྣལ་འབྱོར༴ །ཐར་འདོད༴
      I, a yogi, have practiced in this manner; You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      ༈ །དེ་ལྟར་རྒྱུ་དང་འབྲས་བུའི་ཐེག་ཆེན་གྱི། །
      Thus having cultivated as they are the common paths
      24. Như thế chính là / đường tu phổ thông, / thiết yếu cho hai / thắng đạo đại thừa.
      ལམ་མཆོག་གཉིས་ཀར་དགོས་པའི་ཐུན་མོང་ལམ། །
      Essential for the two supreme paths of causal and resultant great vehicles,
      là cỗ xe nhân / và cỗ xe quả.
      ཇི་བཞིན་དཔྱད་ནས་མཁས་པའི་དེད་དཔོན་གྱི། །
      I have entered the great ocean of tantras
      Tu rồi hãy tìm / nương sự che chở / của bậc thuyền trưởng / trí tuệ tài ba
      མགོན་ལ་བརྟེན་ནས་རྒྱུད་སྡེ་རྒྱ་མཚོ་ཆེར། །
      By relying upon the leadership of the learned navigators;
      Để mà bước vào / biển cả mật pháp.
      ཞུགས་ནས་ཡོངས་རྫོགས་མན་ངག་བརྟེན་པ་དེས། །
      And through application of the quintessential instructions,
      Rồi nhờ dựa vào / lời giảng toàn hảo
      དལ་འབྱོར་ཐོབ་པ་དོན་དང་ལྡན་པར་བྱས། །
      I have made meaningful human existence that I have obtained.
      Sẽ không phí uổng / thân người có đây.
      རྣལ་འབྱོར༴ ། ཐར་འདོད༴
      I, a yogi, have practiced in this manner;
      You, who aspire for liberation, too should do likewise.
      Thầy là hành giả / đã tu như vậy
      Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.

      ༈ ། རང་གི་ཡིད་ལ་གོམས་པར་བྱ་ཕྱིར་དང༌། །
      In order to make familiar to my own mind,
      25. Vì để huân tập / tâm của chính mình,
      སྐལ་བཟང་གཞན་ལའང་ཕན་པར་བྱ་བའི་ཕྱིར། །
      And to help benefit fortunate others as well,
      Cũng để làm lợi / cho hàng thiện duyên,
      རྒྱལ་བ་དགྱེས་པའི་ཡོངས་སུ་རྫོགས་པའི་ལམ། །
      I’ve explained here in words easy to understand
      Thầy đã giải thích / bằng lời dễ hiểu
      གོ་སླའི་ངག་གིས་བཤད་པའི་དགེ་བ་དེས། །
      In its entirety the path that pleases the conquerors.
      Trọn vẹn đường tu / khiến Phật đẹp lòng.

      འགྲོ་བ་ཀུན་ཀྱང་རྣམ་དག་ལམ་བཟང་དང༌། །
      “Through this virtue may all beings be never divorced
      25.Nương công đức này / nguyện cho chúng sinh
      འབྲལ་མེད་གྱུར་ཅིག་ཅེས་ནི་སྨོན་ལམ་འདེབས། །
      From the perfectly pure excellent path” thus I pray;
      Không bao giờ lìa / chánh đạo tối thượng.
      རྣལ་འབྱོར་ངས་ཀྱང་སྨོན་ལམ་དེ་ལྟར་བཏབ། །
      I, a yogi, have made aspirations in this manner;
      Thầy là hành giả / đã nguyện như vậy.
      ཐར་འདོད་ཁྱེད་ཀྱང་དེ་བཞིན་འདེབས་འཚལ་ལོ།
      You, who aspire for liberation, too should pray likewise.
      Con cầu giải thoát / cứ hãy nguyện theo.

      ཞེས་བྱང་ཆུབ་ལམ་གྱི་རིམ་པའི་ཉམས་ལེན་གྱི་རྣམ་བཞག་མདོར་བསྡུས་ཏེ་བརྗོད་པ་རང་བྱས་པ་འདི་ནི་མང་དུ་ཐོས་པའི་དགེ་སློང་སྤོང་བ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པའི་དཔལ་གྱིས འབྲོག་རི་བོ་དགེ་ལྡན་རྣམ་པར་རྒྱལ་བའི་གླིང་དུ་སྦྱར་བའོ། །
      This brief presentation of the practices of the stages of the path to enlightenment written in the format of a memorandum was composed by the well-read monk, the renunciate Lobsang Drakpa at the great mountain retreat of Geden Nampar Gyalwai Ling.
      Pháp môn trình tự đường tu giác ngộ trình bày ngắn gọn theo thể tóm lược, do tỷ kheo đa văn, người đã buông xả, tên Lobsang Drakpa viết tại núi lớn lan nhã tại Geden Nampar Gyalwai Ling
      © English translation. Geshé Thupten Jinpa, 2004; revised 2007.
      Bản tiếng Việt dịch từ  Tạng ngữ, Hồng Như Thupten Munsel, 2019.




      BẢN DỊCH CŨ 2004 

      (1) Con xin chí thành
      đảnh lễ đức Phật,
      là người đứng đầu
      dòng họ Thích Ca.
      Thân Phật nhiệm màu
      phát sinh ra từ
      vô vàn thiện hạnh
      cùng với vô vàn
      thành tựu viên mãn.
      Ngữ Phật nhiệm màu
      hoàn thành ước nguyện
      vô lượng chúng sinh.
      Ý Phật nhiệm màu
      thấy hết khắp cả
      đúng như sự thật.

      (2) Con xin đảnh lễ
      Bồ tát Di lạc,
      Bồ tát Văn thù,
      là bậc trưởng tử
      của đấng Đạo Sư,
      không đâu sánh bằng.
      Hai vị là người
      giữ gìn thiện hạnh
      của mười phương Phật;
      thị hiện sắc thân
      hằng sa cõi giới.

      (3) Con xin đảnh lễ
      dưới chân hai ngài
      Long thọ, Vô Trước,
      quí như châu ngọc
      trang hoàng cõi Nam.
      Danh hiệu hai ngài
      vang lừng ba cõi,
      là người thuyết giảng
      ý nghĩa “Phật mẫu”,
      giáo pháp thâm sâu
      khó tin nhận nhất
      hoàn toàn thuận theo
      ý thật của Phật.

      (4) Con đảnh lễ thầy
      Đi-pam-ka-ra,
      [đức A-ti-sha]
      là người tiếp giữ
      kho tàng chánh pháp,
      giữ gìn ngọn đèn
      soi đường giác ngộ.
      Bao nhiêu tinh túy
      đường tu quảng, thâm,
      truyền lại từ hai
      bậc đại tổ sư
      đều được giữ gìn
      chính xác nguyên vẹn
      trong giáo pháp này.

      (5) Con xin kính cẩn
      đảnh lễ đạo sư.
      Đạo sư là mắt
      giúp chúng con nhìn
      vào biển kinh điển
      bao la vô tận;
      là lòng sông cạn
      nâng đỡ gót chân
      cho kẻ thiện duyên
      vượt sang bờ giác.
      Thầy mở lòng từ
      vô lượng vô biên,
      vận dụng muôn vàn
      phương tiện thiện xảo
      giúp cho mọi sự
      rõ ràng trong sáng.

      (6) Con đường tuần tự
      dẫn đến giác ngộ
      được các bậc thầy
      nối gót hai tổ
      Long Thọ, Vô Trước
      khéo léo giữ gìn.
      trong số chư Tăng
      nơi vùng đất Nam
      các thầy là hạt
      ngọc châu vương đỉnh.
      tràng phang các thầy
      cao trội hơn cả.
      Tu theo con đường
      tuần tự giác ngộ
      sẽ có khả năng
      hoàn thành ước nguyện
      chín loại chúng sinh.
      Vì vậy pháp này
      là đấng Pháp vương,
      là lòng biển rộng
      cho ngàn dòng suối
      luận văn đổ về.

      (7) Pháp này vi diệu
      – giúp cho người tu
      hiểu được dễ dàng
      trăm vạn pháp môn
      vốn không mâu thuẫn;
      – giúp cho toàn bộ
      biển rộng kinh điển
      đồng loạt tỏa rạng
      trong trí người tu
      như lời giáo hóa
      dành riêng cho mình;
      – giúp cho dễ dàng
      hiểu được ý Phật;
      – hộ trì người tu
      thoát khỏi hố thẳm
      sai lầm tai hại.
      Vì bốn lợi ích
      lớn lao như vậy
      nên các hành giả
      Ấn độ, Tây tạng
      ai người có trí
      cũng đều hoan hỉ
      với diệu pháp này;
      là pháp chỉ rõ
      con đường tuần tự
      dẫn đến giác ngộ
      tùy theo căn cơ;
      là pháp cao tuyệt
      mà kẻ thiện duyên
      luôn luôn dốc tâm
      tinh tấn tu hành.

      (8) Diệu pháp này do
      ngài A-ti-sa
      thu gọn tinh túy
      của lời Phật dạy
      mà soạn thành luận.
      Vì vậy dù chỉ
      đọc nghe một lần
      cũng sẽ có được
      vô vàn công đức,
      như là tu tập
      toàn bộ chánh pháp.
      Huống chi gắng công
      chuyên cần học hỏi,
      giảng giải phong phú
      cho người cùng nghe,
      chắc chắn công đức
      sẽ như sóng cả.
      Vì vậy các con
      hãy gắng chú tâm
      (Tu học pháp này
      Cho thật đúng đắn.)

      (9) (Sau khi phát tâm
      Qui y Tam Bảo)
      Các con phải thấy
      gốc rễ điều lành
      của kiếp hiện tiền
      và mọi kiếp sau
      đều nằm ở tâm
      nương dựa đúng cách
      nơi đấng đạo sư,
      trong từng ý tưởng
      trong từng hành động.
      Đạo sư là người
      đưa các con vào
      đường tu giác ngộ,
      vì vậy các con
      phải gắng làm cho
      Đạo sư hoan hỉ
      bằng cách chăm chỉ
      tinh tấn tu hành
      theo đúng như lời
      của đạo sư dạy;
      dù mất mạng sống
      cũng không từ bỏ
      lời dạy của thầy,
      lấy sự tu hành
      dâng thành cúng phẩm.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (10) Kiếp người này có
      tám sự tự tại,
      quí giá còn hơn
      bảo châu như ý,
      đến chỉ một lần,
      cực kỳ khó gặp,
      nhưng lại dễ mất,
      tựa như tia chớp
      thoắt trên trời không.
      Nhìn rõ kiếp người
      chóng vánh như vậy
      thấy chuyện thế tục
      khác gì trấu lép.
      Các con hãy gắng
      vắt lấy tinh túy
      của kiếp sống này,
      trong từng phút giây,
      ngày cũng như đêm
      đừng để phí uổng.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (11) Khi vào cõi chết
      Khi vào cõi chết
      không thể biết chắc
      mình sẽ không rơi
      vào cõi ác đạo.
      Chỉ có Tam Bảo
      là đủ khả năng
      che chở cho con
      thoát cơn sợ hãi.
      Vì vậy phải gắng
      giữ tâm qui y
      cho thật vững chắc,
      đừng để sơ sót
      phá hạnh qui y.
      Muốn được như vậy
      phải hiểu nghiệp quả
      sống thuận chánh pháp
      làm mọi thiện hạnh
      lánh mọi ác pháp.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (12) Thân người đầy đủ
      tám sự tự tại
      nếu như thiếu đi
      thì không thể có
      bước nhảy vượt bực
      trên con đường tu
      thành tựu giác ngộ.
      Do đó phải nên
      lánh ác làm lành
      để khỏi tái sinh
      vào cảnh khiếm khuyết;
      cũng nên siêng năng
      tẩy sạch ác nghiệp
      phá phạm giới hạnh
      đang vấy bẩn ba
      cửa thân miệng ý;
      và nhất là để
      tẩy loại nghiệp chướng
      khiến ta không thể
      tái sinh làm người.
      Các con hãy gắng
      siêng năng áp dụng
      bốn lực sám hối
      thanh tịnh chướng nghiệp.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (13) Nếu không cố gắng
      quán chiếu về khổ
      sẽ không thể nào
      tinh tấn nhất tâm
      hướng về giải thoát.
      Không biết đâu là
      nguyên nhân của khổ,
      không biết điều gì
      ràng buộc mình trong
      cảnh sống luân hồi
      thì không thể thấy
      đâu là phương tiện
      bứng sạch gốc rễ
      của vòng tái sinh
      triền miên lẩn quẩn.
      Các con nên biết
      chán cảnh sinh tử
      từ bỏ luân hồi;
      phải biết quán sát
      điều gì trói chặt
      mình trong sinh tử.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (14) Cốt tủy đại thừa
      là sao cho tâm
      vô thượng bồ đề
      luôn luôn tăng trưởng.
      Đây là căn bản
      cũng là nền tảng
      của khắp mười phương
      hành trạng giác ngộ
      trùng trùng vời vợi
      như sóng đại dương
      [của chư Phật đà].
      Tựa như thuốc tiên
      hóa sắc thành vàng
      tâm bồ đề cũng
      có được khả năng
      khiến mọi hành động
      biến thành hai bồ
      tư lương phước trí,
      tích lũy kho tàng
      công đức đồ sộ
      đến từ vô lượng
      tánh đức bồ đề.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (15) Thí ba la mật
      là ngọc Như Ý
      có được khả năng
      hoàn thành ước nguyện
      của mọi chúng sinh;
      là loại vũ khí
      hữu hiệu bậc nhất
      chặt phăng nút thắt
      của lòng keo bẩn.
      Thái độ vì người
      sẽ làm tăng nguồn
      can đảm, tự tín.
      Người có hạnh Thí
      mười phương thế giới
      sẽ đều tán dương.
      Vì biết điều này
      nên người có trí
      dốc tâm tinh tấn
      tu hành hạnh Thí,
      cho đi toàn vẹn
      thân thể, của cải,
      cho cả hai bồ
      tư lương công đức.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (16) Giới là nước trong
      giặt sạch tất cả
      vết nhơ ác nghiệp.
      Giới là trăng thanh
      xoa dịu tất cả
      vết bỏng nhiễm tâm.
      Ai người tu Giới
      thân thể rạng ngời
      như núi Tu Di
      chiếu soi khắp cả
      chín loại chúng sinh.
      Năng lực của Giới
      sẽ giúp các con
      thuần phục tất cả
      không cần thị uy.
      Chúng sinh cứng cõi
      sẽ đều qui thuận.
      Vì biết điều này
      nên các bậc Thánh
      giữ gìn giới hạnh
      quí như đôi mắt.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (17) Nhẫn là trang sức
      đẹp nhất cho người
      có nhiều quyền năng.
      Nhẫn là pháp tu
      khổ hạnh tốt nhất
      cho người thường bị
      vọng tâm tác hại;
      là cánh chim ưng
      bay vút trời cao,
      khắc tinh của rắn
      sân hận giận dữ;
      là áo giáp dày
      ngăn chận tất cả
      vũ khí thóa mạ.
      Vì biết điều này
      nên người có trí
      tu tập đủ cách
      thích ứng tâm mình
      với lớp áo giáp
      Hạnh Nhẫn tối thượng.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (18) Khoát được giáp bào
      của hạnh Tinh Tấn
      khi ấy sức học,
      tu hành, chứng ngộ
      sẽ tăng trưởng nhanh
      như vầng trăng non
      đang đến độ rằm,
      hành động nào cũng
      tràn đầy ý nghĩa
      hướng về giải thoát
      và đều mang lại
      kết quả mong cầu.
      Vì biết điều này,
      nên chư bồ tát
      cuộn sóng tinh tấn
      quét sạch hết thảy
      giải đãi biếng lười.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (19) Định là đại vương
      ngự trị tâm thức.
      Khi thâu tâm lại,
      tâm sẽ an trụ
      như núi Tu Di,
      vững không lay động.
      Khi mở tâm ra
      tâm sẽ thâu nhiếp
      toàn bộ thiện pháp.
      Định khiến thân tâm
      nhu nhuyễn bén nhạy
      hỉ lạc khinh an.
      Vì biết điều này
      nên các hành giả
      ai người khéo tu
      cũng đều dốc sức
      miên mật thiền chỉ
      cố gắng hàng phục
      kẻ thù tán tâm.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (20) Tuệ là đôi mắt
      thâm chứng tánh Không
      và là con đường
      bứng sạch toàn bộ
      gốc rễ luân hồi.
      Tuệ là tất cả
      kho tàng nhiệm màu
      mà bao kinh luận
      vẫn hằng tán dương.
      Là đèn tối thượng
      phá tan bóng tối
      cố chấp hẹp hòi.
      Vì biết điều này
      nên người có trí
      mong cầu giải thoát
      đều dốc tâm sức
      nỗ lực bước theo
      con đường tu Tuệ.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (21) Có Định thiếu Tuệ
      chẳng đủ khả năng
      chặt đứt gốc rễ
      ràng buộc luân hồi.
      Có Tuệ thiếu Định
      thì dù quán sát
      miên mật đến đâu
      cũng không thể nào
      tách lìa vọng cảnh.
      Vì vậy các bậc
      Đạo sư luôn lấy
      mắt Tuệ thâm nhập
      vào chân thực tại
      mà trụ vững vàng
      trên lưng ngựa Định,
      rồi dùng vũ khí
      cực kỳ bén nhọn
      của luận Trung Đạo,
      thoát mọi cực đoan,
      phá hủy nền tảng
      chấp thường chấp đoạn
      chấp bám cực đoan,
      nhờ vậy Không-Tuệ
      dần dần khai mở.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (22) Nhờ quen tu định
      đến khi đạt chỉ
      bấy giờ tu quán.
      Tâm càng quán chiếu
      lại càng an định
      vững vàng thấy rõ
      chân tánh thực tại.
      Vì biết điều này
      ai người tinh tấn
      phối hợp chỉ-quán
      đều thấy nhiệm mầu,
      huống gì các con!
      hãy nên mong cầu!
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (23) (Đến khi chỉ quán
      phối hợp được rồi)
      hãy nên quán chiếu
      hai loại tánh Không:
      không – tựa không gian,
      thu nhiếp tất cả
      khi nhập vào định;
      không – tựa huyễn cảnh,
      hiện ra như mộng
      khi từ trong định
      mà bước trở ra.
      Nhờ tu như vậy
      phương tiện, trí tuệ
      thuần nhất bất nhị
      nên được tán dương
      là người viên toàn
      các hạnh bồ tát.
      Vì ngộ điều này
      mà bậc thiện duyên
      không bao giờ nhận
      đường tu phân chia.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (24) – Chán khổ sinh tử,
      – phát tâm bồ đề,
      – trực chứng tánh không,
      là ba yếu tố
      căn bản cần thiết
      để bước lên hai
      cỗ xe Đại Thừa:
      là xe tu nhân
      và xe tu quả.
      Vậy khi các con
      phát huy đúng đắn
      ba điểm này rồi
      phải nên nương dựa
      vào đấng đạo sư
      đầy đủ phẩm hạnh.
      Xin thầy hộ niệm
      đưa các con vào
      (cỗ xe tu quả)
      vượt qua biển rộng
      bốn bộ Mật tông.
      Ai biết tôn kính
      noi theo lời dạy
      của đấng đạo sư
      sẽ không phí uổng
      kiếp người hiếm hoi
      đầy tự tại này.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      (25) Vì để thuần dưỡng
      tâm của chính mình
      và để lợi ích
      cho kẻ thiện duyên
      (đã gặp được đấng
      Đạo sư chân chính
      và đủ khả năng
      tu tập đúng theo
      những gì thầy dạy)
      nên Thầy dùng lời
      rõ ràng dễ hiểu
      nói lại trọn vẹn
      đường tu giác ngộ
      mà mười phương Phật
      vẫn hằng hoan hỉ.
      Nguyện công đức này
      giúp cho chúng sinh,
      không bao giờ xa
      đường tu trong sáng
      chắc thật, nhiệm mầu.
      Thầy là hành giả
      đã tu như vậy;
      các con ai người
      đang cầu giải thoát
      hãy tự thuần dưỡng
      đúng theo lối này.

      [Hết]

      Đến đây chấm dứt bài Tiểu Luận về Đường Tu Tuần Tự Giác Ngộ, soạn theo thể dạng cực ngắn, dễ nhớ khó quên. Luận giải do tỷ kheo Losang Dragpa [Lama Tông Khách Ba] soạn thảo – là hành giả đã thọ trì nhiều chánh pháp – viết tại Tu viện Ganden Nampar Gyelwa’i, trên ngọn núi Riwoch, Tây tạng.

      Nguyên bản Anh ngữ : The Short Lamrim or Lines of Experience or Songs of Spiritual Experiences. trích trong Illuminating the Path to Enlightenment, do đức Đalai Lama thuyết giảng, Thubten Dhargye Ling Archive, Long Beach, California ấn hành.




      Atisa: BỒ ĐỀ ĐẠO ĐĂNG LUẬN: Ngọn Đèn Soi Đường Giác Ngộ

      English version: A Lamp for the Path to Enlightenment << Link to Lama Yeshe Wisdom Archives >> –
      Tác Giả: Atisha Dipamkara Shri Jnana (982-1054) –
      Tựa Đề: Bồ Đề Đạo Đăng Luận (Đèn Soi Đường Giác Ngộ) – 
      Việt ngữ:  Hồng Như, ấn bản tháng 07 năm 2005.
      Hạ Tải văn bản chánh văn tại www.hongnhu.org/thu-muc/#bo-de-dao-dang-luan


      GP0010_atisa

      Con xin tán dương Bồ tát Mạn thù, tướng mạo trẻ trung.

      1. Với lòng tôn kính
      con xin tán dương
      Phật, là những đấng
      đại hùng của khắp
      mười phương ba thời;
      Pháp, là giáo pháp
      do Phật truyền lại;
      Tăng, là những vị
      bước theo Phật Pháp.
      Đáp lời thỉnh cầu
      đệ tử cao trọng
      tên Jangchub O,
      con xin thắp sáng
      ngọn đèn soi đường
      dẫn đến giác ngộ.

      2. Căn cơ người tu
      vốn có ba loại
      thấp, vừa và cao,
      Vì vậy thầy sẽ
      nói rõ căn cơ
      của từng loại người.

      3. Có người vận dụng
      đủ loại phương tiện
      để tìm cho mình
      lạc thú thế gian,
      những người như vậy
      là bậc sơ căn.

      4. Lại có người vì
      an lạc cá nhân
      mà từ bỏ hết
      lạc thú thế gian,
      hết thảy ác nghiệp,
      họ đều không làm,
      những người như vậy
      là bậc trung căn.

      5. Lại có những người
      đã từng phải chịu
      rất nhiều khổ não
      nên mang tâm nguyện
      tận diệt khổ đau
      cho mình, cho người,
      những người như vậy
      là bậc thượng căn.

      6. Vì bậc thượng căn
      hướng về thượng Pháp,
      thầy sẽ nói về
      phương tiện tuyệt hảo
      do các đạo sư
      ân cần truyền dạy.

      7. Đối trước tranh vẽ
      hay trước hình tượng
      của đấng vô thượng
      chánh đẳng chánh giác,
      đối trước bảo tháp
      và trước kinh điển,
      các con hãy tùy
      khả năng bày biện
      hương hoa cúng dường.

      8. Thành tâm hiến cúng
      Thất chi Phổ hiền
      theo hạnh nguyện vương,
      lập chí kiên quyết
      nguyện không quay lại
      nếu chưa đến được
      bến bờ nẻo giác.

      9. Lòng tin kiên định
      đặt nơi Tam bảo,
      hãy quì một chân,
      và chắp hai tay,
      đọc câu phát nguyện
      qui y ba lần.

      10. Rồi hãy để cho
      tâm Từ rộng mở,
      yêu thương hết thảy
      các loài chúng sinh.
      Nhìn rõ chúng sinh
      vướng trong khổ não,
      khổ trong ác đạo,
      khổ vì sinh tử.
      Hãy nhìn cùng khắp,
      đừng sót một ai.

      11. Vì mong chúng sinh
      thoát hết tất cả
      khổ khổ, hoại khổ
      cùng với hành khổ,
      thoát cả nguyên nhân
      tạo nên nỗi khổ,
      nên lập đại nguyện
      phát tâm bồ đề
      quyết không thoái chuyển.

      12. Phát tâm như vậy
      mang ý nghĩa gì,
      đều đã được đức
      Di lạc Từ tôn
      giải thích rõ trong
      Kinh Thân Tỏa Rộng.

      13. Nhờ đọc kinh này,
      hay nhờ nghe giảng,
      mà hiểu tường tận
      lợi ích vô lượng
      phát tâm bồ đề.
      Hiểu rồi phải gắng
      liên tục phát tâm,
      cho tâm bồ đề
      ngày thêm tỏa rạng.

      14. Trong bộ Vira-
      datta Vấn Kinh
      có giải thích về
      công đức bồ đề.
      Nay thầy nói lại
      tóm lược ý kinh.

      15. Công đức bồ đề
      nếu như có thân,
      thân ấy nhất định
      đầy ắp không gian,
      và còn tỏa rộng
      quá hơn vậy nữa.

      16. Ai mang châu báu
      lấp đầy cõi Phật
      nhiều bằng số cát
      có trong sông Hằng
      để mà hiến cúng
      chư Phật Thế tôn,

      17. thì công đức ấy
      vẫn không thể sánh
      với đôi tay chắp
      tâm hướng bồ đề,
      vì công đức này
      bao la vô tận.

      18. Tâm nguyện bồ đề
      một khi đã phát,
      phải hằng ghi nhớ
      phát triển không ngừng;
      đời này kiếp sau
      không bao giờ xa
      hạnh nguyện bồ tát.

      19. Nhưng tâm bồ đề
      sẽ không phát sinh
      nếu không dấn thân
      phát tâm thọ giới.
      Vậy con hãy gắng
      thọ giới bồ tát
      cho bồ đề tâm
      bắt rễ đâm chồi.

      20. Muốn đủ điều kiện
      thọ giới bồ tát
      thì phải thọ giữ
      một trong bảy bộ
      giới biệt giải thoát
      [ba la đề mộc xoa, praktimosha].

      21. Phật thuyết bảy bộ
      giới biệt giải thoát,
      cao nhất là giới
      dành cho tỷ kheo
      và tỷ kheo ni.

      22. Làm theo lời kinh
      Thập Địa Bồ Tát
      trong chương “Giới Luật”,
      con hãy đi tìm
      vị thầy có đủ
      khả năng truyền giới.

      23. Thầy đủ khả năng
      phải là vị thầy
      khéo biết nghi thức
      truyền giới bồ tát,
      trang nghiêm giới hạnh,
      đầy đủ tự tín
      và tâm từ bi
      truyền giới cho người.

      24. Nếu tìm không gặp
      vị thầy như vậy,
      vẫn còn một cách
      thọ giới bồ tát.

      25. Trong Kinh Trang Nghiêm
      Văn Thù Tịnh Độ
      có kể tường tận
      chuyện xưa khi ngài
      Văn thù còn là 
      Quốc vương Am-ba [Amba raja],
      đã từng phát tâm
      theo phương pháp này.
      Bây giờ thầy sẽ
      giải thích rõ ràng
      phương pháp phát tâm
      đúng theo như vậy.

      26. “Con xin đối trước
      các bậc hộ trì,
      nguyện xin phát tâm
      vô thượng bồ đề.
      Mời chúng sinh về
      chứng giám cho con.
      Nguyện sẽ quảng độ
      chúng sinh thoát khỏi
      ràng buộc luân hồi”.

      27. “Từ nay đến ngày
      con đạt giác ngộ,
      nguyện từ bỏ hết
      tâm lý ô nhiễm,
      ác ý, giận dữ
      keo bẩn, ganh ghen.

      28. “Nguyện giữ giới hạnh
      từ bỏ ác, tham,
      vui việc giữ giới
      nối gót chư Phật.

      29. “Nguyện không vì mình
      mà ham mau chóng
      thành tựu giác ngộ.
      Nguyện luôn ở lại
      làm người sau cùng.

      30. “Nguyện sẽ làm sạch
      vô lượng cõi giới,
      làm nên tịnh độ
      không thể nghĩ bàn.
      nguyện vì những ai
      gọi đến tên con,
      mà khắp mười phương
      con đều có mặt.

      31. “Nguyện làm thanh tịnh
      hết thảy ác nghiệp
      từ thân ngữ ý
      mà phát sinh ra.
      mọi việc bất thiện,
      con đều không làm.
      trang nghiêm giữ gìn
      giới hạnh bồ tát.”

      32. Lấy tâm bồ đề
      mà khéo giữ gìn
      ba loại giới luật,
      tâm sẽ kiên định
      vững tin nơi giới.
      Đây chính là nhân,
      khiến thân ngữ ý
      trở nên thanh tịnh.

      33. Bồ tát phát tâm,
      kiên trì giữ giới,
      sẽ gom đầy đủ
      tất cả tư lương
      thành tựu bồ đề.

      34. Chư Phật dạy rằng
      nhân duyên giúp ta
      gom đủ phước, tuệ,
      chính là thần thông.

      35. Tựa như chim non
      không thể cất cánh
      vút lên trời rộng;
      người thiếu thần thông
      không thể làm việc
      lợi ích chúng sinh.

      36. Chưa đạt thần thông
      dù tu trăm kiếp,
      được bao công đức
      vẫn không thể sánh
      công đức một ngày
      khi có thần thông.

      37. Ai muốn nhanh chóng
      tích lũy phước, tuệ,
      thành tựu viên mãn
      vô thượng bồ đề,
      thì đừng biếng nhác,
      siêng tu lục thông.

      38. Muốn đạt thần thông,
      tâm phải an trụ.
      Vậy phải không ngừng
      nỗ lực tu chỉ [samatha].

      39. Nhân duyên tu chỉ
      nếu chưa gom đủ
      thì dù tọa thiền
      kiên trì vạn năm
      vẫn không thể nào
      khiến tâm an trụ.

      40. Vậy phải cố gắng
      gom đủ nhân duyên
      như đã ghi trong
      Công Đức Thiền Chỉ.
      Hãy chọn đề mục
      để mà nhiếp tâm.

      41. Bao giờ đạt chỉ
      sẽ đạt thần thông.
      Nhưng nếu thiếu tuệ,
      vẫn chẳng thể nào
      tận diệt tất cả
      các loại chướng ngại.

      42. Muốn dẹp tất cả
      chướng ngại ngăn che
      giải thoát, giác ngộ,
      phải luôn tu tuệ
      phối hợp cùng với
      phương tiện thiện xảo.

      43. Tuệ thiếu phương tiện,
      phương tiện thiếu tuệ
      đều thành dây trói
      ràng buộc luân hồi.
      Vì vậy cần phải
      phối hợp cả hai.

      44. Để tan nghi vấn
      về ý nghĩa của
      trí tuệ, phương tiện,
      thầy sẽ nói rõ
      về sự khác biệt
      giữa hai điều này.

      45. Chư Phật dạy rằng
      ngoài hạnh thứ sáu
      là Tuệ Toàn Hảo,
      năm hạnh còn lại,
      kể từ hạnh Thí
      cho đến hạnh Định
      đều là phương tiện.

      46. Lấy tâm thuần thục
      phương tiện thiện xảo
      để mà tu tuệ
      sẽ chóng thành tựu
      vô thượng bồ đề;
      chứ không thể dựa
      vào quán vô ngã
      mà thành tựu được.

      47. Thấy uẩn, giới, xứ
      đều là vô sinh,
      nhờ đó chứng được
      tất cả các pháp
      đều không tự tánh:
      đó là trí tuệ.

      48. Nếu như tự tánh
      của một vật gì
      là thật sự có
      thì chính vật ấy
      vốn không làm sao
      có thể phát sinh.
      Nếu như tự tánh
      của một vật gì
      là thật sự không
      thì giống như hoa
      hiện ra giữa trời,
      vốn không có gì
      để mà nói tới.
      Cả hai điều này
      phi lý như nhau.
      Sự vật khởi sinh
      vốn không như vậy.

      49. Sự vật sinh ra
      không phải tự sinh;
      cũng không phải do
      yếu tố bên ngoài
      mà phát sinh ra;
      cũng không phải từ
      hai điều nói trên
      mà phát sinh ra;
      cũng không phải là
      không có nguyên nhân
      mà phát sinh ra.
      Sự vật sinh ra,
      vốn không tự tánh.

      50. Quán chiếu tận tường
      tất cả các pháp
      xem là đồng nhất
      hay là dị biệt,
      sẽ không thể thấy
      có một pháp nào
      hiện hữu độc lập.
      Nhờ đó thấy rõ
      các pháp hoàn toàn
      không có tự tánh.

      51. Bảy Mươi Luận Tụng
      nói về tánh Không
      hay Luận Trung Quán
      của ngài Long thọ
      đều giải thích rằng
      chân tánh các pháp
      chính là tánh Không.

      52. Biển luận văn này
      vô cùng phong phú
      thầy không thể trích
      hết cả ra đây,
      chỉ xin tóm lược
      đôi câu kết luận
      xác định tông môn,
      tiện cho các con
      thiền quán tu hành.

      53. Quán về vô ngã,
      thấy ra sự vật
      không có tự tánh:
      đó là tu tuệ.

      54. Vận dụng trí tuệ
      quán chiếu vạn pháp,
      sẽ không thể thấy
      pháp có tự tánh.
      Tương tự như vậy,
      quán chiếu trí tuệ
      sẽ thấy tuệ này
      cũng không tự tánh.
      Các con hãy gắng
      siêu việt khái niệm
      mà quán như vậy.

      55. Toàn bộ cõi sống
      do tâm khái niệm
      mà phát sinh ra,
      vì vậy cõi sống
      vốn thật chỉ là
      khái niệm phân biệt.
      Tách lìa phân biệt
      là đại niết bàn

      56. Đức Phật nói rằng
      khái niệm phân biệt
      là đại vô minh,
      ném chúng ta vào
      luân hồi sinh tử.
      Tách lìa phân biệt,
      trụ trong vô niệm,
      khi ấy cảnh giới
      siêu việt khái niệm
      tựa như không gian
      hiện ra trong sáng.

      57. Trong Đà la ni
      Nhập Tâm Vô Niệm,
      Đức Phật dạy rằng;
      “Nếu chư bồ tát
      lìa tâm phân biệt
      để mà quán chiếu
      thì dù khái niệm
      khó vượt đến đâu
      cũng sẽ từng phần
      vượt qua được cả,
      bước vào cảnh giới
      siêu việt khái niệm.

      58. Nhờ văn và tư,
      hiểu rằng các pháp
      không từng khởi sinh,
      không có tự tánh,
      khi ấy các con
      từ sự hiểu này
      tu thiền chỉ quán
      siêu việt khái niệm.

      59. Quán chiếu cảnh giới
      chân thật như vậy
      sẽ tiến từng phần
      trên đường giác ngộ
      thành tựu “nội hỏa”
      thành tựu “đại lạc”
      cùng những điều khác.
      Rồi chẳng bao lâu
      sẽ thành tựu được
      vô thượng bồ đề.

      60. Nếu muốn dễ dàng
      tích đủ phước tuệ
      thành tựu bồ đề,
      có thể nương nhờ
      năng lực minh chú,
      hành trì các pháp
      hàng phục, tăng trưởng.

      61. Đồng thời nương vào
      năng lực của tám
      thành tựu vĩ đại,
      hay thành tựu khác,
      như là “Bình Quí”,
      nếu muốn bước vào
      con đường tu Mật,
      thuận theo hành mật
      và thiện xảo mật

      62. Và nếu muốn nhận
      đại pháp quán đảnh
      Đạo sư Kim Cang,
      phải đối với Thầy
      hết lòng tận tụy,
      phụng sự, cúng dường,
      chăm chỉ làm theo
      những điều Thầy dạy.

      63. Đạo sư hoan hỉ
      ban cho đại pháp
      Quán Đảnh Đạo Sư,
      bấy giờ tất cả
      ác nghiệp chướng ngại
      đều tiêu tan cả.
      tâm sáng thanh tịnh,
      đồng vị niết bàn.

      64. Trong Đại Mật Kinh
      Đức Phật Bản Lai
      hết lòng nghiêm dạy
      các vị tỷ kheo
      và tỷ kheo ni
      giữ giới thuần tịnh
      tuyệt đối không được
      nhận hai mật pháp
      quán đảnh kín mật,
      quán đảnh trí tuệ.

      65. Là người giữ gìn
      phạm hạnh thanh tịnh
      mà nhận hai pháp
      quán đảnh nói trên
      là phá giới hạnh.

      66. Nếu như đang giữ
      phạm hạnh nghiêm mật
      mà nhận pháp này
      là phá hủy giới,
      sa đọa trầm luân
      tận cùng ác đạo,
      không thể có được
      chút thành tựu nào.

      67. Tuy vậy nếu là
      nhận pháp quán đảnh
      Đạo Sư Kim Cang
      thể hội chân như
      thì vẫn có thể
      nghe giảng mật pháp,
      hay tự mình giảng,
      thi hành nghi lễ
      thiết lập đạo tràng,
      cúng lửa, sám hối,
      mà không phạm lỗi.

      68. Thầy là trưởng tử
      Shri Dipamkara,
      đã học điều này
      từ nơi kinh luận.
      Vì lời yêu cầu
      Của Jangchub O
      mà viết ra đây
      bài giảng ngắn gọn
      vạch ra con đường
      tuần tự giác ngộ.

      Đến đây chấm dứt bài kệ Đèn Soi Đường Giác Ngộ do đại đạo sư Atisha Dipamkara Shri Jnana soạn và đích thân dịch sang Tạng ngữ với sự góp sức của vị tỷ kheo dịch giả người Tây tạng tên Geway Lodro. Bài pháp này được viết tại  tu viện Tholing ở Zhang Zhong.


      Hồng Như Thubten Munsel chuyển Việt ngữ tháng 07/2005, dựa trên bản dịch Anh ngữ của Dr. Thubten Jinpa trong Illuminating the Path (tác giả: đức Đalai Lama, xuất bản: Thubten Dhargye Ling Archive, Long Beach, California), tham khảo với bản dịch của Ruth Sonam.




      Jamgon Kongtrul đời thứ 1: GỌI THẦY TỪ CHỐN XA

      – English Title: A Prayer Calling the Lama from Afar – (Not available on this website) –
      Tựa đề tiếng Tạng: ༄༅།།བླ་མ་རྒྱང་འབོད་ཀྱི་གསོལ་འདེབས་མོས་གུས་སྙིང་གི་གཟེར་འདེབས་ཞེས་བྱ་བ་བཞུགས་སོ།། –
      Tác luận (Author): Jamgon Kongtrul đời thứ nhất Lodro Thayé –
      Việt ngữ: Hồng Như – Bản dịch hiệu đính tháng 7/2015.
      Điều kiện hành trì: Pháp phổ thông, mọi người đều có thể đọc tụng.

      Đọc Nguyên Văn Tiếng Tạng: << Tạng Ngữ >>

      GỌI THẦY TỪ CHỐN XA
      Nhớ Thầy Tha Thiết Tâm Can

      Nam mô Gurube. Gọi Thầy Từ Chốn Xa là bài tụng mọi người đều biết. Then chốt để thỉnh lực gia trì là tâm hướng đạo sư phát xuất từ lòng chân thành sám hối lối cũ, buông xả sinh tử luân hồi. Tâm hướng đạo sư này không chỉ là lời nói đầu môi mà phải phát xuất từ tận đáy lòng, từ trong xương tủy, với niềm tin xác quyết rằng ngoài Đạo Sư ra, vốn không có Phật nào khác. Với niềm tự tín tròn đầy như vậy, chúng con tụng rằng:

      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con. /
      Bổn sư từ hòa, xin nghĩ đến con. //

      (I.1.) Thầy là tinh túy của Phật ba thời,/
      cội nguồn chánh pháp, kinh điển, thành tựu /
      Là bậc thượng thủ Tăng đoàn tôn quí,/
      bổn sư từ hòa, xin nghĩ đến con. //

      (I.2.) Thầy là kho tàng gia trì, đại bi, /
      là cội nguồn của hai loại thành tựu, /
      Thiện hạnh của Phật, ban sự như ý, /
      bổn sư từ hòa, xin nghĩ đến con.//

      (I.3.) Thầy A Di Đà, xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con từ cõi Pháp thân, thoát mọi đối đãi /
      Chúng con là kẻ / trầm luân sinh tử / chỉ vì nghiệp ác, /
      xin Thầy cho con / vãng sinh về cõi / Cực Lạc của Thầy. //

      (I.4.) Thầy Quan Thế Âm, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ cõi Báo thân / rạng ngời trong sáng /
      Quét sạch khổ đau / sáu loại chúng sanh, /
      chuyển hóa toàn bộ / ba cõi luân hồi.//

      (I.5.) Thầy Liên Hoa Sanh, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ đóa sen sáng / của Nga Yab Ling /
      Trong thời tối ám, / Thầy vì từ bi / mà mau hộ trì / cho chúng đệ tử / ở xứ Tây Tạng, / những kẻ khốn cùng / không chốn chở che.//

      (I.6.) Đức Yeshe Tsogyal /, xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ chốn đại lạc / của Đà kì ni /
      Dẫn dắt chúng con, / kẻ phạm ác nghiệp, / vượt biển luân hồi, /
      đạt đến thành trì / vĩ đại giải thoát. //

      (I.7.) Chư tổ các dòng / nhĩ truyền, tàng truyền, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ cõi trí giác / hợp nhất hiện – không. /
      Phá tan ngục tối / của vọng tâm này, /
      cho rạng ánh ngày / mặt trời thành tựu.//

      (I.8.) Đấng Nhất Thiết Trí / Drime Ozer, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ nơi cảnh giới / ngũ quang bản nhiên
      Giúp con viên thành / hoạt dụng của tâm, / bản lai thanh tịnh, /
      Đạt bốn giai đoạn / a tì du già.//

      (I.9.) Đức A ti sa / cùng bậc trưởng tử, / không ai sánh bằng, /
      từ giữa trăm đấng / bổn tôn Đâu Xuất / mà nhìn chúng con /
      Cho trong tâm con / sinh tâm bồ đề, /
      tinh túy tánh không, / cùng tâm đại bi. //

      (I.10.) Đại thành tựu giả / Marpa, Mila, / cùng Gampopa, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ nơi cảnh giới / đại lạc kim cang /
      Giúp cho chúng con / đạt Đại Thủ Ấn / lạc-không hợp nhất, /
      thức tỉnh Pháp thân / ngay giữa trái tim.//

      (I.11.) Bậc ngự cõi thế, / đức Karmapa, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ nơi cảnh giới / chúng sinh vô biên / đều đã viên thành. /
      Giúp con chứng biết / vạn pháp như huyễn, / không chút tự tánh; /
      chính từ nơi tâm / và tướng của tâm / hiện ba thân Phật.//

      (I.12.) Chư tổ Kagyu, / bốn chánh, tám phụ / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ nơi cảnh giới / thanh tịnh bản nhiên. /
      Quét sạch mê lầm / ở nơi bốn cảnh, /
      cho con viên thành / kinh nghiệm, thành tựu.//

      (I.13.) Năm đấng sơ tổ / dòng tu Sakya, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ cảnh bất nhị / luân hồi niết bàn /
      Giúp con hợp nhất / ba pháp thanh tịnh: / tri kiến, thiền, hành /
      Đưa chúng con vào / đường tu tối thượng / mật thừa kim cang.//

      (I.14.) Chư tổ Shangpa / Kagyu vô song, /  xin nghĩ đến con. /
      Nhìn chúng con từ / cõi Phật thanh tịnh /
      Giúp con thuần luyện / pháp tu giải thoát, /
      đưa con vào quả / hợp nhất cứu cánh / của vô học đạo./

      (I.15.) Đại thành tựu giả / Thangtong Gyalpo, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ cõi đại bi / không chút dụng công /
      Giúp con đắc pháp / vô sinh cứu cánh /
      và giúp chúng con / điều phục khí tâm.//

      (I.16.) Từ phụ duy nhất, / Dampa Sangye, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ nơi cảnh giới / viên thành Phật hạnh /
      Cho tim chúng con / tràn lực gia trì, /
      cho điềm cát tường / tràn khắp mọi nơi. //

      (I.17.) Từ mẫu duy nhất / Labkyi Dronma, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ cõi bát nhã / ba la mật đa /
      Cho con đoạn ngã, / cội của lòng kiêu, /
      thâm chứng vô ngã / bất khả tư nghì. //

      (I.18.) Đấng Nhất Thiết Trí / Dolpo Sangye, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ nơi cảnh giới / đủ mọi thắng tướng /
      Giúp con nhiếp khí / về nơi trung đạo, /
      và chứng đắc thân / bất hoại kim cang. //

      (I.19.) Đức Taranatha / vô vàn tôn quí, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ cõi tam ấn /
      Giúp con bước qua / kim cang mật đạo / không vướng chướng ngại, /
      để rồi chứng đắc / quả thân cầu vồng. //

      (I.20.) Đức Jamyang Khyentse Wangpo, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ cõi trí giác / biết đúng và khắp /
      Phá tan bóng tối / mê muội vô minh, /
      tăng nguồn ánh sáng / trí tuệ vô thượng. //

      (I.21.) Đức Osel Tulpay Dorje, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ nơi cảnh giới / ngũ sắc cầu vồng /
      Tịnh hết cấu nhiễm / nơi giọt, khí, tâm, /
      đưa chúng con đến / với quả giác ngộ / của thân bình trẻ. /

      (I.22.) Đức Pema Do Ngak Lingpa, / xin nghĩ đến con.  /
      Nhìn về chúng con / từ cõi bất biến / lạc-không hợp nhất /
      Cho con viên thành /
      ý thật của khắp / Phật đà bồ tát. //

      (I.23.) Đức Ngakwang Yonten Gyamtso, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ nơi cảnh giới / bản lai hợp nhất /
      Cho chúng con thôi / chấp bám tướng hiện, /
      thuần dưỡng khả năng / mang hết cảnh hiện / vào trong đường tu. //

      (I.24.) Bồ tát Lodro Thaye, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ nơi cảnh giới / đại từ đại bi /
      Cho con thấy ra / khắp cả chúng sinh / đều là mẹ hiền /
      Có đủ khả năng / từ tận đáy lòng / gánh vác chúng sinh. //

      (I.25.) Đức Pema Gargyi Wangchuk, / xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ cõi lạc-sáng /
      Giải thoát năm độc / chuyển thành năm trí /
      Cho tâm đối đãi / chấp bám được mất / hoàn toàn tận diệt. //

      (I.26.) Đức Tenyi Yungdrung Lingpa, / xin nghĩ đến con./
      Nhìn về chúng con / từ trong cảnh giới / luân hồi niết bàn / bình đẳng như một. /
      Cho tâm hướng Thầy / chân thành nảy sinh, /
      cho con đắc quả / giác ngộ bản nhiên / và quả giải thoát. //

      (I.27.) Bổn sư từ hòa, xin nghĩ đến con. /
      Nhìn về chúng con / từ chốn đại lạc / trên đỉnh đầu con /
      Cho con nhìn thấy / gương mặt Pháp thân , / là tâm chứng tánh, /
      Ngay trong đời này / đưa chúng con vào / quả đại giác ngộ. //

      (II.1.) Than ôi!
      Chúng sinh như chúng con đây, / phạm bao ác nghiệp, /
      trôi lăn luân hồi / kể từ vô thủy /
      cho đến bây giờ / vẫn khổ triền miên, /
      vậy mà chưa từng / ăn năn sám hối. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con phát tâm chán khổ. //

      (II.2.) Thân người quí giá / nay đã đạt rồi, / sao lại lãng phí! /
      Siêng việc tào tạp, / rỗng không vô nghĩa, /
      Còn quả giải thoát / thì lại biếng lười. /
      Thật giống như người / lên đảo châu ngọc / trở về tay không. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con sống cho xứng đáng. //

      (II.3.) Thế gian này đây / có ai không chết, /
      đang biết bao người / nối gót nhau đi. /
      Chính chúng con đây, / sớm ngày cũng chết, /
      sao còn ngu xuẩn / tính việc sống đời. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con dứt lòng toan tính. //

      (II.4.) Thân nhân bằng hữu, / rồi sẽ lìa xa, /
      tài sản chắt chiu / cho người khác hưởng, /
      thân dù chăm chút, / cũng bỏ phía sau, /
      tâm phải thang lang / trong cảnh trung hữu /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con thấy đời vô nghĩa. //

      (II.5.) Trước mặt tối đen / bóng đêm kinh hãi / chực nuốt con vào /
      Sau lưng đỏ ngòm / ngọn gió nghiệp chướng / rượt cuốn con đi /
      Ngục tốt Diêm vương / dị hình dị dạng / nào đâm nào chém. /
      Rồi con phải chịu / cảnh khổ cùng tận / ác đạo luân hồi. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con thoát vực ác đạo. //

      (II.6.) Chúng con chôn dấu / ở trong tâm mình / núi cao ác nghiệp /
      Vậy mà lỗi người / nhỏ như hạt mè / vẫn lớn tiếng chê. /
      Mảy may thiện đức / con đều không có, / chỉ giỏi khoe khoang. /
      Mang tiếng là tu, / nhưng chỉ tu toàn / điều trái chánh pháp. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, / đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con lìa tâm ngã mạn cùng tâm ngã ái. //

      (II.7.) Dấu ở bên trong / quỉ dữ ngã chấp / chỉ để đọa rơi. /
      Niệm nào cũng khiến / cho phiền não tăng. /
      Việc nào cũng gieo / toàn quả bất thiện. /
      Tâm chưa từng biết / hướng về giải thoát. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con đoạn tâm ngã chấp. //

      (II.8.) Được chút tiếng khen / là lòng rộn vui; /
      nghe chút lời chê, / lòng tê tái buồn. /
      Chạm lời thô ác, / áo giáp kham nhẫn / đã vội vất đi. /
      Thấy kẻ khốn cùng, / lòng không thương xót. /
      Gặp dịp bố thí, / bó chặt lòng tham. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con trú ở chánh pháp. //

      (II.9.) Thấy cảnh luân hồi / con lại tưởng vui./
      Tri kiến vô thượng / con vì áo cơm / mà từ bỏ hết. /
      Việc gì cũng có, / con vẫn muốn thêm. /
      Mê lầm chạy theo / cảnh huyễn không thật. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con dứt tâm mê đắm nơi chuyện đời này. //

      (II.10.) Chút khổ thân tâm / đều không kham nổi, /
      cớ sao ác đạo / lại không ngần ngại / mù quáng xông vào? /
      Dù biết nhân quả / nhất định không sai, /
      vẫn không làm thiện, / lại tăng điều ác. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con thâm tín nhân quả. //

      (II.11.) Con ghét kẻ thù, / luyến tham bằng hữu, /
      lạc trong bóng tối / mê muội vô minh, / không biết điều gì / cần theo cần bỏ. /
      Ngồi tu thì tâm / mê mờ trì trệ, / dứt tu tâm lại / sáng suốt thông minh. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con hàng phục kẻ thù nhiễm tâm phiền não. //

      (II.12.) Nhìn tướng bên ngoài / thấy giống người tu, /
      sao tâm bên trong / không thuận chánh pháp /
      Dấu diếm phiền não / như nuôi rắn độc, /
      khi gặp nghịch cảnh / phơi bày tánh xấu / của người vụng tu. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con hàng phục tâm này. //

      (II.13.) Chúng con không biết / tự xét lỗi mình. /
      Khoác áo hành giả, / nhưng lại đeo đuổi / toàn những mục tiêu / không thuận chánh pháp. /
      Tâm đã quen trong / phiền não bất thiện. /
      Thiện tâm thoạt hiện / là đoạn lìa ngay. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con biết thấy lỗi mình. //

      (II.14.) Theo từng ngày qua / thêm gần cõi chết. /
      Theo từng ngày đến / tâm càng khô khan. /
      Phụng sự đạo sư / mà tâm-hướng-Thầy / ngày thêm mờ nhạt./
      Tấm lòng yêu quí / dành cho đồng đạo, / càng lúc càng tan. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, / đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con luyện tâm khó luyện. //

      (II.15.) Chúng con qui y, / phát tâm bồ đề, / thỉnh cầu rộng rãi, /
      nhưng tâm đại bi / và tâm hướng Thầy / vẫn chưa phát khởi. /
      Phật sự, công phu, / chỉ giỏi đầu môi. /
      Thành tựu đủ điều, / sao chẳng có gì / khiến tâm rung động. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con,
      giữ gìn sao cho mọi việc con làm đều thuận chánh pháp. //

      (II.16.) Chúng con vẫn biết / khổ đau đến từ / thủ lợi riêng mình; /
      giác ngộ bồ đề / có được là nhờ / tâm muốn lợi người./
      Nay đã phát tâm, / nhưng vẫn kín đáo / nuông chiều ái ngã. /
      Đã không lợi tha, / lại còn vô tình / nhiễu hại chúng sinh. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con có đủ khả năng hoán chuyển ngã tha. //

      (II.17.) Thầy chính là Phật / nhưng con lại thấy / Thầy là kẻ phàm. /
      Quên ơn đạo sư / từ bi cho pháp. /
      Muốn mà không được / là lòng không vui. /
      Nhìn việc Thầy làm / xuyên qua bức màn / hoài nghi ác kiến. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con tăng lòng kính ngưỡng. //

      (II.18.) Tâm con là Phật / mà con không biết. /
      Niệm là pháp thân, / con cũng chẳng hay. /
      Chân tánh tự nhiên / lại không giữ được. /
      Thật tánh của tâm / luôn tự an trú, / cũng chẳng hề tin. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con giải thoát tâm mình vào trong trú xứ. //

      (II.19.) Cái chết là điều / chắc chắn sẽ đến / lại không thể nhớ. /
      Chánh pháp là điều / chắc chắn lợi ích / lại không thể tu. /
      Nghiệp và nhân quả, / chắc chắn không sai, / lại không thể chọn / điều cần lấy, bỏ. / Chánh niệm tỉnh giác / chắc chắn cần thiết / lại không thể giữ, / để tâm tán loạn. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, / đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con trú trong chánh niệm, thoát mọi tán tâm. //

      (II.20.) Vì ác nghiệp cũ / nên nay con phải / sinh thời mạt pháp./
      Nghiệp cũ chỉ toàn / gieo nhân khổ đau. /
      Bạn xấu rợp đầy / bóng tối bất thiện. /
      Được chút thiện hạnh, / là thói ngồi lê / làm cho hư hết./
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con ấp ủ chánh pháp nơi tận đáy tim. //

      (II.21.) Lúc đầu tâm con / toàn là chánh pháp, /
      sao rồi rốt lại / chỉ gieo toàn nhân / sinh tử, ác đạo. /
      Hoa mầu giải thoát / bị băng ác hạnh / phá hủy cả đi. /
      Thành loài cặn bã, / đánh mất tất cả / mục tiêu cứu cánh. /
      Thầy ơi, xin Thầy nhớ nghĩ đến con, /
      đưa mắt từ bi nhìn khắp chúng con. /
      Giữ gìn cho con viên thành chánh pháp. //

      (II.22.) Giữ gìn cho con sám hối thành tâm. /
      Giữ gìn cho con dứt lòng toan tính. /
      Giữ gìn cho con nhớ chết trong tim. /
      Giữ gìn cho con thâm tín nhân quả /

      (II.23.) Giữ cho đường tu thoát mọi ác chướng. /
      Cho con tinh tấn tu tập hành trì. //
      Giữ cho nghịch cảnh chuyển thành đường tu. /
      Cho pháp đối trị đều luôn hữu hiệu /
      Cho tâm hướng Thầy chân thành nảy sinh. /
      Cho con chứng được diện mục chân tánh. //
      Đánh thức bản giác ngay giữa trái tim. /
      Đoạn lìa tất cả mọi tướng hư vọng /
      Con thành chánh quả ngay kiếp hiện tiền.//

      (II.24.) Con khẩn xin Thầy, đạo sư trân quí, vô vàn từ hòa, ngự cõi chánh pháp, /
      con hướng về Thầy thiết tha khẩn nguyện. /
      Chúng con là kẻ khốn khổ bất hạnh, được Thầy là nguồn hy vọng duy nhất /
      Xin Thầy gia trì / tâm Thầy, tâm con / hòa vào trong nhau./.


      Trước đây có một vài tăng sĩ đã nhờ tôi viết ra bài tụng như thế này, thế nhưng thời gian như bóng câu. Gần đây có vị nữ thí chủ Samdrub Dronma, là hành giả thuộc gia đình quí tộc, và Deva Rakshita đã thiết tha thỉnh cầu, do đó mà tôi, Lodro Thaye, kẻ sống thời mạt pháp, chỉ là hình bóng mờ nhạt của bậc đạo sư, đã soạn tác bài tụng này ở chốn già lam tên gọi Dzongsho Deshek Dupa. Nguyện thiện đức tăng trưởng.


      Mọi sai sót là của người dịch
      mọi công đức xin hồi hướng vô thượng bồ đề



      ༄༅།།བླ་མ་རྒྱང་འབོད་ཀྱི་གསོལ་འདེབས་མོས་གུས་སྙིང་གི་གཟེར་འདེབས་ཞེས་བྱ་བ་བཞུགས་སོ།།
      ན་མོ་གུ་རུ་བེ། བླ་མ་རྒྱང་འབོད་ཀུན་ལ་གྲགས་ཆེའང་། བྱིན་བརླབས་བསྐུལ་བའི་གནད་སྐྱོ་ཤས་དང་ངེས་འབྱུང་གིས་བསྐུལ་བའི་མོས་གུས་ཁ་ཙམ་ཚིག་ཙམ་མ་ཡིན་པར་སྙིང་གི་དཀྱིལ། རུས་པའི་གཏིང་ནས་བསྐྱེད། བླ་མ་ལས་ལྷག་པའི་སངས་རྒྱས་གཞན་ན་མེད་པར་ཐག་ཆོད་པའི་ངེས་ཤེས་དང་ལྡན་པས་དབྱངས་རྟ་སྙན་པོས།།

      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ། དྲིན་ཅན་རྩ་བའི་བླ་མ་མཁྱེན་ནོ།།
      དུས་གསུམ་སངས་རྒྱས་ཀྱི་ངོ་བོ།།
      ལུང་རྟོག་དམ་ཆོས་ཀྱི་འབྱུང་གནས།།
      འཕགས་ཚོགས་དགེ་འདུན་གྱི་མངའ་བདག།
      རྩ་བའི་བླ་མ་ཁྱེད་མཁྱེན་ནོ།`

      བྱིན་རླབས་ཐུགས་རྗེ་ཡི་གཏེར་ཆེན།།
      དངོས་གྲུབ་རྣམ་གཉིས་ཀྱི་འབྱུང་གནས།།
      ཕྲིན་ལས་ཅི་འདོད་ཀུན་སྩོལ་མཛད།།
      རྩ་བའི་བླ་མ་ཁྱེད་མཁྱེན་ནོ།།

      བླ་མ་འོད་དཔག་མེད་པ་མཁྱེན་ནོ།།
      སྤྲོས་བྲལ་ཆོས་སྐུའི་ཀློང་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      བདག་སོགས་ལས་ངན་འཁོར་བར་འཁྱམས་རྣམས།།
      བདེ་ཆེན་དག་པའི་ཞིང་དུ་དྲོངས་མཛོད།།

      བླ་མ་སྤྱན་རས་གཟིགས་དབང་མཁྱེན་ནོ།།
      འོད་གསལ་ལོངས་སྐུའི་ཀློང་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      རིགས་དྲུག་སྡུག་བསྔལ་རྩད་ནས་ཞི་ཞིང་།།
      ཁམས་གསུམ་འཁོར་བ་དོང་ནས་སྤྲུགས་མཛོད།།

      བླ་མ་པདྨ་འབྱུང་གནས་མཁྱེན་ནོ།།
      རྔ་ཡབ་པདྨ་འོད་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      སྙིགས་དུས་སྐྱབས་མེད་བོད་འབངས་ཉམ་ཐག
      །ཐུགས་རྗེས་མྱུར་བ་ཉིད་དུ་སྐྱོབས་མཛོད།

      བླ་མ་ཡེ་ཤེས་མཚོ་རྒྱལ་མཁྱེན་ནོ།།
      མཁའ་སྤྱོད་བདེ་ཆེན་གྲོང་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      སྡིག་ལྡན་བདག་སོགས་སྲིད་པའི་མཚོ་ལས།།
      ཐར་པའི་གྲོང་ཁྱེར་ཆེན་པོ་གྲོལ་མཛོད།།

      བཀའ་གཏེར་བརྒྱུད་པའི་བླ་མ་མཁྱེན་ནོ།།
      ཟུང་འཇུག་ཡེ་ཤེས་ཀློང་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      བདག་རྒྱུད་འཁྲུལ་པའི་མུན་ཁང་བརྟོལ་ནས།།
      རྟོག་པའི་ཉི་མ་ཤར་བར་མཛོད་ཅིག།

      ཀུན་མཁྱེན་དྲི་མེད་འོད་ཟེར་མཁྱེན་ནོ།།
      ལྷུན་འགྲུབ་འོད་ལྔའི་ཀློང་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      ཀ་དག་དགོངས་པའི་རྩལ་ཆེན་རྫོགས་ནས།།
      སྣང་བཞི་མཐའ་རུ་ཕྱིན་པར་མཛོད་ཅིག།

      །མཉམ་མེད་ཇོ་བོ་ཡབ་སྲས་མཁྱེན་ནོ།།
      དགའ་ལྡན་ལྷ་བརྒྱའི་དབུས་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      སྟོང་ཉིད་སྙིང་རྗེའི་སྙིང་པོ་ཅན་གྱི།།
      བྱང་སེམས་རྒྱུད་ལ་སྐྱེ་བར་མཛོད་ཅིག།

      གྲུབ་མཆོག་མར་མི་དྭག་གསུམ་མཁྱེན་ནོ།།
      བདེ་ཆེན་རྡོ་རྗེའི་དབྱིངས་ནས་གཟིགས་ཤིག
      །བདེ་སྟོང་ཕྱག་ཆེན་མཆོག་དངོས་གྲུབ་ཅིང་།།
      ཆོས་སྐུ་སྙིང་དབུས་སད་པར་མཛོད་ཅིག།

      །འཇིག་རྟེན་དབང་ཕྱུག་ཀརྨ་པ་མཁྱེན་ནོ།།
      མཁའ་ཁྱབ་འགྲོ་འདུལ་དབྱིངས་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      ཆོས་ཀུན་བདེན་མེད་སྒྱུ་མར་རྟོགས་ནས།།
      སྣང་སེམས་སྐུ་གསུམ་འཆར་བར་མཛོད་ཅིག།

      བཀའ་བརྒྱུད་ཆེ་བཞི་ཆུང་བརྒྱད་མཁྱེན་ནོ།།
      རང་སྣང་དག་པའི་ཞིང་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      གནས་སྐབས་བཞི་ཡི་འཁྲུལ་པ་སང་ནས།།
      ཉམས་རྟོགས་མཐའ་རུ་ཕྱིན་པར་མཛོད་ཅིག།

      །རྗེ་བཙུན་གོང་མ་རྣམ་ལྔ་མཁྱེན་ནོ།།
      འཁོར་འདས་དབྱེར་མེད་ཀློང་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      རྣམ་དག་ལྟ་སྒོམ་སྤྱོད་གསུམ་འབྲེལ་ནས།།
      གསང་བའི་ལམ་མཆོག་བགྲོད་པར་མཛོད་ཅིག།

      མཉམ་མེད་ཤང་པ་བཀའ་བརྒྱུད་མཁྱེན་ནོ།།
      རྣམ་དག་སངས་རྒྱས་ཞིང་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      ཐབས་གྲོལ་ཉམས་ལེན་ཚུལ་བཞིན་འབྱོངས་ནས།།
      མི་སློབ་ཟུང་འཇུག་བརྙེས་པར་མཛོད་ཅིག།

      གྲུབ་ཆེན་ཐང་སྟོང་རྒྱལ་པོ་མཁྱེན་ནོ།།
      རྩོལ་མེད་ཐུགས་རྗེས་ཀློང་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      བདེན་མེད་རྟོགས་པའི་བརྟུལ་ཞུགས་གྲུབ་ནས།།
      རླུང་སེམས་རང་དབང་འདུ་བར་མཛོད་ཅིག།

      ཕ་གཅིག་དམ་པ་སངས་རྒྱས་མཁྱེན་ནོ།།
      ལས་རབ་གྲུབ་པའི་དབྱིངས་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      བརྒྱུད་པའི་བྱིན་རླབས་སྙིང་ལ་ཞུགས་ནས།།
      རྟེན་འབྲེལ་ཕྱོགས་མེད་འཆར་བར་མཛོད་ཅིག།

      །མ་ཅིག་ལབ་ཀྱི་སྒྲོན་མ་མཁྱེན་ནོ།།
      ཤེས་རབ་ཕར་ཕྱིན་ཀློང་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      བདག་འཛིན་སྙེམས་བྱེད་རྩད་ནས་ཆོད་ཅིང་།།
      བདག་མེད་སྤྲོས་བྲལ་བདེན་མཐོང་མཛོད་ཅིག།

      ཀུན་མཁྱེན་དོལ་པོ་སངས་རྒྱས་མཁྱེན་ནོ།།
      རྣམ་ཀུན་མཆོག་ལྡན་དབྱིངས་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      འཕོ་བའི་དབུགས་རྣམས་དབུ་མར་འགགས་ནས།།
      འཕོ་བྲལ་རྡོ་རྗེའི་སྐུ་ཐོབ་མཛོད་ཅིག།

      །རྗེ་བཙུན་ཏཱ་ར་ན་ཐ་མཁྱེན་ནོ།།
      རྣམ་གསུམ་ཕོ་ཉའི་དབྱིངས་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      རྡོ་རྗེའི་གསང་ལམ་གེགས་མེད་བགྲོད་ནས།།
      འཇའ་ལུས་མཁའ་སྤྱོད་འགྲུབ་པར་མཛོད་ཅིག།

      འཇམ་དབྱངས་མཁྱེན་རྩེ་དབང་པོ་མཁྱེན་ནོ།།
      མཁྱེན་གཉིས་ཡེ་ཤེས་དབྱིངས་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      མི་ཤེས་བློ་ཡི་མུན་པ་སངས་ནས།།
      མཁྱེན་རབ་སྣང་བ་རྒྱས་པར་མཛོད་ཅིག།

      །འོད་གསལ་སྤྲུལ་པའི་རྡོ་རྗེ་མཁྱེན་ནོ།།
      འཇའ་ཟེར་འོད་ལྔའི་ཀློང་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      ཐིག་རླུང་སེམས་ཀྱི་དྲི་མ་དག་ནས།།
      གཞོན་ནུ་བུམ་སྐུར་བྱང་ཆུབ་མཛོད་ཅིག།

      པདྨ་མདོ་སྔགས་གླིང་པ་མཁྱེན་ནོ།།
      བདེ་སྟོང་འགྱུར་མེད་ཀློང་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      རྒྱལ་དང་རྒྱལ་སྲས་དགོང་པ་མཐའ་དག
      །བདག་གི་ཡོངས་སུ་སྐོང་ནུས་མཛོད་ཅིག།

      །ངག་དབང་ཡོན་ཏན་རྒྱ་མཚོ་མཁྱེན་ནོ།།
      དབྱིངས་ཡེ་ཟུང་འཇུག་ཀློང་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      སྣང་བའི་བདེན་འཛིན་ཧྲུལ་གྱིས་ཞིག་ནས།།
      གང་བྱུང་ལམ་དུ་འཁྱེར་ནུས་མཛོད་ཅིག།

      རྒྱལ་སྲས་བློ་གྲོས་མཐའ་ཡས་མཁྱེན་ནོ།
      བྱམས་དང་སྙིང་རྗེའི་ངང་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      འགྲོ་ཀུན་དྲིན་ཅན་ཕ་མར་ཤེས་ནས།།
      གཞན་ཕན་སྙིང་ནས་སྒྲུབ་ནུས་མཛོད་ཅིག།

      །པདྨ་གར་གྱི་དབང་ཕྱུག་མཁྱེན་ནོ།།
      བདེ་ཆེན་འོད་གསལ་དབྱིངས་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      དུག་ལྔ་ཡེ་ཤེས་ལྔ་རུ་གྲོལ་ནས།།
      སྤང་ཐོབ་གཉིས་འཛིན་ཞིག་པར་མཛོད་ཅིག།

      བསྟན་གཉིས་གཡུང་དྲུང་གླིང་པ་མཁྱེན་ནོ།།
      སྲིད་ཞི་མཉམ་ཉིད་དབྱིངས་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      མོས་གུས་རྣལ་མ་རྒྱུད་ལ་སྐྱེས་ནས།།
      རྟོགས་གྲོལ་དུས་མཉམ་ཆེན་པོར་མཛོད་ཅིག།

      །དྲིན་ཅན་རྩ་བའི་བླ་མ་མཁྱེན་ནོ།།
      སྤྱི་གཙུག་བདེ་ཆེན་གནས་ནས་གཟིགས་ཤིག།
      རང་རིག་ཆོས་སྐུའི་རང་ཞལ་མཇལ་ནས།།
      ཚེ་ཅིག་སངས་རྒྱས་འགྲུབ་ནུས་མཛོད་ཅིག།

      ༈  ཀྱེ་མ།།
      བདག་འདྲའི་སེམས་ཅན་ལས་ངན་སྡིག་ཏོ་ཅན།།
      ཐོག་མེད་དུས་ནས་འཁོར་བར་ཡུན་རིང་འཁྱམས།།
      ད་དུང་སྡུག་བསྔལ་མཐའ་མེད་མྱོང་འགྱུར་བས།།
      སྐྱོ་ཤས་སྐད་ཅིག་ཙམ་ཡང་མ་སྐྱེས་པས།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      ངེས་འབྱུང་གཏིང་ནས་སྐྱེ་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      །དལ་འབྱོར་ཐོབ་ཀྱང་མི་ཚེ་སྟོང་ཟད་མཁན།།
      དོན་མེད་ཚེ་འདིར་བྱ་བས་རྟག་ཏུ་གཡེང་།།
      དོན་ཆེན་ཐར་པ་སྒྲུབ་ལ་ལེ་ལོས་ཁྱེར།།
      ནོར་བུའི་གླིང་ནས་ལག་སྟོང་ལོག་གྱུར་པས།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      མི་ལུས་དོན་ལྡན་འགྲུབ་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      མ་ཤི་ས་སྟེང་ལུས་པ་གཅིག་ཀྱང་མེད།།
      ད་ལྟ་གཅིག་རྗེའི་གཉིས་མཐུད་ཕ་རོལ་འགྲོ།།
      རང་ཡང་མྱུར་བ་ཉིད་དུ་འཆི་དགོས་ཀྱང་།།
      ཡུན་རིང་སྡོད་གྲབས་བྱེད་པའི་སྙིང་རུལ་པོ།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      ལོང་མེད་བློ་སྣ་ཐུང་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      སྙིང་དུ་སྡུག་པའི་མཛའ་བཤེས་སོ་སོར་བྲལ།།
      སེར་སྣས་བསག་པའི་ནོར་རྫས་གཞན་གྱིས་སྤྱོད།།
      གཅེས་པའི་ལུས་ཀྱང་ཤུལ་དུ་བོར་ནས་སུ།།
      རྣམ་ཤེས་བར་དོ་གཏོལ་མེད་འཁོར་བར་འཁྱམས།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      ཅིས་ཀྱང་དགོས་མེད་རྟོགས་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      འཇིག་པའི་མུན་པ་ནག་པོས་སྔོན་ནས་བསུ།།
      ལས་ཀྱི་རླུང་དམར་དྲག་པོས་རྒྱབ་ནས་དེད།།
      མི་སྡུག་གཤེན་རྗེའི་ཕོ་ཉས་བརྡེག་ཅིང་བཙོག།
      བཟོད་དཀའ་ངན་འགྲོའི་སྡུག་བསྔལ་མྱོང་དགོས་ན།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      ངན་སོང་གཡང་ལས་ཐར་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      རང་སྐྱོན་རི་བོ་ཙམ་ཡང་ཁོང་དུ་སྦས།།
      གཞན་སྐྱོན་ཏིལ་འབྲུ་ཙམ་ཡང་སྒྲོག་ཅིང་སྨོད།།
      ཡོན་ཏན་ཅུང་ཟད་མེད་ཀྱང་བཟང་པོར་རློམ།།
      ཆོས་པའི་མིང་བཏགས་ཆོས་མིན་ཁོ་ནར་སྤྱོད།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      རང་འདོད་ང་རྒྱལ་ཞི་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      གཏན་ཕུང་བདག་འཛིན་འགོང་པོ་ཁོང་དུ་བཅུག
      །བསམ་ཚད་ཐམས་ཅད་ཉོན་མོངས་འཕེལ་བའི་རྒྱུ།།
      བྱས་ཚད་ཐམས་ཅད་མི་དགེའི་འབྲས་བུ་ཅན།
      ཐར་པའི་ལམ་དུ་ཕྱོགས་ཙམ་མ་ཕྱིན་པས།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      ངར་འཛིན་རྩད་ནས་ཆོད་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      བསྟོད་སྨད་ཙམ་ལ་དགའ་དང་མི་དགའ་སྐྱེ།།
      ཚིག་ངན་ཙམ་ལ་བཟོད་པའི་གོ་ཆ་ཤོར།།
      ཉམ་ཐག་མཐོང་ཡང་སྙིང་རྗེའི་སེམས་མི་སྐྱེ།།
      སྦྱིན་ཡུལ་བྱུང་དུས་སེར་སྣའི་མདུད་པས་བཅིང་།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      སེམས་རྒྱུད་ཆོས་དང་འདྲེས་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      འཁོར་བ་སྙིང་པོ་མེད་ལ་སྙིང་པོ་བཟུང་།།
      ལྟོ་གོས་ཕྱིར་དུ་གཏན་འདུན་ལིང་གིས་བོར།།
      མཁོ་རྒུ་ཚང་ཡང་དགོས་དགོས་ཕྱིར་ཕྱིར་མང་།།
      མི་བདེན་སྒྱུ་མའི་ཆོས་ཀྱིས་རང་སེམས་བསླུས།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      ཚེ་འདི་བློ་ཡིས་ཐོང་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      ལུས་སེམས་སྡུག་བསྔལ་ཕྲ་མོའང་མི་བཟོད་ཀྱང་།།
      ངན་འགྲོར་འགྲོ་ལ་མི་འཚེར་སྙིང་རྡོས་ཅན།།
      རྒྱུ་འབྲས་བསླུ་མེད་མངོན་སུམ་མཐོང་བཞིན་དུ།།
      དགེ་བ་མི་འགྲུབ་སྡིག་པའི་ཡོ་ལང་འཕེལ།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      ལས་ལ་ཡིད་ཆེས་སྐྱེ་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      དགྲ་ལ་སྡང་སེམས་གཉེན་ལ་ཆགས་སེམས་སྐྱེ།།
      བླང་དོར་གནས་ལ་གཏི་མུག་མུན་ལྟར་འཐོམ།།
      ཆོས་བཞིན་སྤྱོད་ཚེ་བྱིང་རྨུགས་གཉིད་དབང་ཤོར།།
      ཆོས་མིན་སྤྱོད་ཚེ་དབང་པོ་གསལ་ཅིང་གྲུང་།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      ཉོན་མོངས་དགྲ་བོ་ཆོམ་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      ཕྱི་ནས་བལྟས་ན་ཡང་དག་ཆོས་པའི་གཟུགས།།
      ནང་དུ་རང་སེམས་ཆོས་དང་མ་འདྲེས་པས།།
      སྦྲུལ་གདུག་བཞིན་དུ་ཉོན་མོངས་ཁོང་ན་སྦས།།
      རྐྱེན་དང་འཕྲད་ཚེ་ཆོས་པའི་མཚང་རྟགས་སྟོན།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      རང་རྒྱུད་རང་གི་ཐུལ་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      རང་སྐྱོན་ངན་པ་རང་གིས་མ་རྟོགས་པས།།
      ཆོས་པའི་གཟུགས་བཟུང་ཆོས་མིན་སྣ་ཚོགས་སྤྱོད།།
      ཉོན་མོངས་མི་དགེའི་ལས་ལ་ཤུགས་ཀྱིས་གོམས།།
      དགེ་བློ་ཡང་ཡང་སྐྱེས་ཀྱང་ཡང་ཡང་ཆད།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      རང་སྐྱོན་རང་གིས་མཐོང་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།

      །ཞག་རེ་སོང་བཞིན་འཆི་ལ་ཕར་ཕར་ཉེ།།
      ཉིན་རེ་ལོན་བཞིན་རང་རྒྱུད་ཕྱིར་ཕྱིར་གྱོང་།།
      བླ་མ་བསྟེན་བཞིན་མོས་གུས་རིམ་གྱིས་འགྲིབ།།
      མཆེད་ལ་བརྩེ་གདུང་དག་སྣང་ཇེ་ཆུང་སོང་།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      རྨུ་རྒོད་རང་རྒྱུད་ཐུལ་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      སྐྱབས་འགྲོ་སེམས་བསྐྱེད་གསོལ་འདེབས་བྱས་ན་ཡང་།།
      མོས་གུས་སྙིང་རྗེ་གཏིང་ནས་མ་སྐྱེས་པས།།
      ཚིག་ཙམ་དབང་གྱུར་ཆོས་སྤྱོད་དགེ་སྦྱོར་རྣམས།།
      བྱས་ལོ་ཙམ་ལས་རྒྱུད་ཐོག་མ་ཁེལ་བས།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      ཅི་བྱས་ཆོས་སུ་འགྲོ་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      བདག་བདེ་འདོད་ལས་སྡུག་བསྔལ་ཐམས་ཅད་འབྱུང་། །
      གཞན་ཕན་སེམས་ཀྱིས་སངས་རྒྱས་འགྲུབ་གསུངས་ཀྱང་། །
      སེམས་མཆོག་བསྐྱེད་ཅིང་རང་འདོད་ཕུག་ཏུ་བཅུག །
      གཞན་ཕན་ལྟ་ཅི་གཞན་གནོད་ཞོར་ལ་སྒྲུབ། །
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས། །
      བདག་གཞན་བརྗེ་བར་ནུས་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      སངས་རྒྱས་དངོས་སྣང་བླ་མ་མི་རུ་བཟུང་།།
      གདམས་ཟབ་སྟོན་པའི་བཀའ་དྲིན་ངང་གིས་བརྗེད།།
      རང་འདོད་མ་བྱུང་ཚེ་ན་ཡི་ཆད་བསྒོམས།།
      མཛད་སྤྱོད་རྣམས་ལ་ཐེ་ཚོམ་ལོག་ལྟས་སྒྲིབ།།
      །བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      མོས་གུས་འགྲིབ་མེད་འཕེལ་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      རང་སེམས་སངས་རྒྱས་ཡིན་ཀྱང་ངོ་མ་ཤེས།།
      རྣམ་རྟོག་ཆོས་སྐུ་ཡིན་ཀྱང་དོན་མ་རྟོགས།།
      མ་བཅོས་གཉུག་མ་ཡིན་ཀྱང་སྐྱོང་མ་ནུས།།
      རང་བབས་གནས་ལུགས་ཡིན་ཀྱང་ཡིད་མ་ཆེས།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      རང་རིག་རང་སར་གྲོལ་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      ཡོང་ངེས་འཆི་བ་སྙིང་ནས་དྲན་མ་ཐུབ།།
      ཕན་ངེས་དམ་ཆོས་ཚུལ་བཞིན་སྒྲུབ་མ་ནུས།།
      བདེན་ངེས་ལས་འབྲས་བླང་དོར་ཚུལ་བཞིན་མེད།།
      དགོས་ངེས་དྲན་ཤེས་མ་བསྟེན་གཡེང་བས་ཁྱེར།།
      །བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      ཡེངས་མེད་དྲན་པས་ཟིན་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      སྔོན་ལས་ངན་པས་སྙིགས་མི་དུས་མཐར་སྐྱེས།།
      སྔར་བྱས་ཐམས་ཅད་སྡུག་བསྔལ་རྒྱུ་རུ་སོང་།།
      གྲོགས་ངན་རྣམས་ཀྱིས་སྡིག་པའི་གྲིབ་མས་གཡོགས།།
      དོན་མེད་གླིང་མོས་དགེ་སྦྱོར་གཡེང་བས་ཁྱེར།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      ཆོས་ལ་སྙིང་རུས་ནུས་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      དང་པོ་བསམ་རྒྱུ་ཆོས་ལས་མེད་པ་ལ།།
      ཐ་མ་གྲུབ་འབྲས་འཁོར་བ་ངན་སོང་རྒྱུ།།
      ཐར་པའི་ལོ་ཏོག་མི་དགེའི་སད་ཀྱིས་བཅོམ།།
      གཏན་འདུན་ཉེས་པའི་རྨུ་རྒོད་བདག་འདྲ་རྣམས།།
      བླ་མ་མཁྱེན་ནོ་ཐུགས་རྗེས་མྱུར་དུ་གཟིགས།།
      དམ་ཆོས་མཐའ་རུ་ཕྱིན་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      སྐྱོ་ཤས་གཏིང་ནས་སྐྱེ་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།
      ལོང་མེད་བློ་སྣ་ཐུང་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།
      འཆི་བ་སྙིང་ནས་དྲན་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།
      ལས་ལ་ཡིད་ཆེས་སྐྱེ་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།
      ལམ་ལ་བར་ཆད་མེད་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།
      སྒྲུབ་ལ་རྩོན་འགྲུས་ནུས་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      རྐྱེན་ངན་ལམ་དུ་ལོང་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།
      གཉེན་པོ་རང་ཚུགས་ཐུབ་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།
      བཅོས་མིན་མོས་གུས་སྐྱེ་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།
      གནས་ལུག་རང་ཞལ་འཇལ་བར་བྱིན་གྱིས་རློབས།

      རང་རིག་སྙིང་དབུས་སད་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།
      འཁྲུལ་སྣང་གཞི་རྩ་ཆོད་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།
      ཚེ་ཅིག་སངས་རྒྱས་འགྲུབ་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།

      །གསོལ་བ་འདེབས་སོ་བླ་མ་རིན་པོ་ཆེ།།
      གདུང་བས་འབོད་དོ་དྲིན་ཅན་ཆོས་ཀྱི་རྗེ།།
      སྐལ་མེད་བདག་ལ་རེ་ས་ཁྱེད་ལས་མེད།།
      ཐུགས་ཡིད་དབྱེར་མེད་འདྲེས་པར་བྱིན་གྱིས་རློབས།།

      ཚུལ་འདིར་མོས་ལྡན་དགེ་སྦྱོང་འགའ་ཞིག་གིས་སྔར་སོར་ནས་བསྐུལ་ཡང་རིམ་ལུས་སུ་གྱུར་པ་ཉེ་ཆར་རིགས་ལྡན་ཆོས་མཛད་མ་བསམ་འགྲུབ་སྒྲོན་མ་དངདེ་བ་རཀྵི་ཏ་ཟུང་གིས་བསྐུལ་ངོར་སྙིགས་དུས་བླ་མའི་གཟུགས་བརྙན་འཛིན་པ་བློ་གྲོས་མཐའ་ཡས་ཀྱིས་རྫོང་ཤོད་བདེ་གཤེགས་འདུས་པའི་སྒྲུབས་གནས་ཆེན་པོར་བགྱི་པ་དགེ་ལེགས་འཕེལ།།  །།




      Dza Patrul Rinpoche: CHÓI RẠNG ÁNH MẶT TRỜI (Cẩm Nang Hành Trì Nhập Bồ Đề Hạnh Luận)

       – A commentary on Shantideva’s Bodhisattva Way Of Life, by Patrul Rinpoche
      ༄༅། །བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའི་སྤྱོད་པ་ལ་འཇུག་པའི་སྒོམ་རིམ་རབ་གསལ་ཉི་མ་ཞེས་བྱ་བ་བཞུགས་སོ། ། –
      Tác Luận: Đức DZA PATRUL RINPOCHE
      Việt ngữ
      : Hồng Như, bản tháng 9/2013
      Hạ Tải PDF:  <<Chói Rạng Ánh Mặt Trời – Sách PDF  >>
      Điều kiện hành trì: Pháp phổ thông, mọi người đều có thể đọc và hành trì.

      Cẩm nang hành trì: Thọ Bồ Tát Giới – Tu Bồ Tát Hạnh theo Nhập Bồ Đề Hạnh Luận của ngài Tịch Thiên (Shantideva) –


      SƯỜN BÀI

      • A1. NGƯỜI TU                                           [=CHƯƠNG 1]
      • A2. TÂM NGƯỜI TU
        • B1. Bồ Đề Tâm Nguyện
        • B2. Bồ Đề Tâm Hành
        • B3. Thọ Bồ Tát Giới
          • C1. Chuẩn bị Thọ Giới
            • D1. Mở Tâm Hoan Hỉ
            • D2. Bảy Hạnh Phổ Hiền
              • E1. Cúng Dường           [=CHƯƠNG 2]
              • E2. Qui Y, Đảnh Lễ
              • E3. Sám hối
              • E4. Tùy hỉ                       [=CHƯƠNG 3]
              • E5-7. Thỉnh chuyển pháp luân, Thỉnh Phật trụ thế, Hồi hướng công đức
            • D3. Chuyển Tâm
          • C2. Thọ Giới Bồ Tát
          • C3. Hoàn Tất Thọ Giới
      • A3. NỘI DUNG PHÁP TU  Làm thế nào tu theo pháp hành của bồ tát
      • Dẫn nhập.
        • B1. Hạnh Thí                                    [=CHƯƠNG 4 & 5]
        • B2. Hạnh Giới
          • C1. Phương tiện giữ giới
          • C2. Vận dụng phương tiện giữ giới
            • D1. Giới Hạnh Bồ Đề Tâm Nguyện
              • E1. Điều cần tránh
              • E2.Điều cần giữ
            • D2. Giới Hạnh Bồ Đề Tâm Hành
              • E1. Điều cần tránh
              • E2.Điều cần giữ
        • B3. Hạnh Nhẫn                               [=CHƯƠNG 6]
        • Cơ hội tu hạnh nhẫn
          • C1. Ba lý do nên tiếp nhận khổ đau [an thọ khổ nhẫn]
          • C2. Ba lý do không nên bận tâm cho việc bị hại [nại oán hại nhẫn]
          • C3. Ba pháp quán thậm thâm [đế sát pháp nhẫn]
        • B4. Hạnh Tấn                                   [=CHƯƠNG 7]
          • C1. Diệt Yếu Tố Nghịch
          • C2. Nuôi Yếu Tố Thuận
        • B5. Hạnh Định                                  [=CHƯƠNG 8]
          • C1. Xả bỏ yếu tố nghịch
            • D1. Xả bỏ bận tâm thế tục
            • D2. Xả bỏ tán tâm
              • C2. Nhiếp tâm nơi đề mục
            • D1. Quán bình đẳng ngã tha
            • D2. Quán hoán chuyển ngã tha
        • B6. Hạnh Tuệ                                     [=CHƯƠNG 9]
          • C1. Nhận diện
          • C2. Áp dụng vào tánh không
            • D1. Nhân vô ngã
            • D2. Pháp vô ngã
              • E1. Thân niệm xứ
              • E2. Thọ niệm xứ.
              • E3. Tâm niệm xứ.
              • E4 Pháp niệm xứ.
      • A4. KẾT QUẢ PHÁP TU                           [=CHƯƠNG 10]

      BẢN VIỆT NGỮ

      I.1. Đệ tử đảnh lễ / Thiện Thệ, Pháp Thân,
      chư vị Trưởng tử / cùng người xứng đáng.
      Nay tôi kính xin / thuận theo lời Phật,
      tóm lược lối vào / giới hạnh bồ tát. [NBĐHL – I. 1]

      Ở đây có bốn tiêu đề

      • A1. Người tu
      • A2. Tâm người tu
      • A3. Nội dung pháp tu
      • A4. Kết quả pháp tu

      A1. NGƯỜI TU

      Thứ nhất, hành giả bước theo pháp hành này phải là một người hội đủ mọi tự tại và thuận duyên, phải có chánh tín và tâm từ bi.

      A2. TÂM NGƯỜI TU

      Thứ hai, tâm bồ đề có hai: bồ đề tâm nguyện và bồ đề tâm hành.

      B1. Bồ Đề Tâm Nguyện

      Về bồ đề tâm nguyện, kinh sách dạy rằng:

      Phát tâm bồ đề là / Vì lợi ích chúng sinh / Nguyện đạt chánh đẳng giác.
      [Hiện Quán Trang Nghiêm, chương 1, đoạn 18]

      Nói cách khác, đây là tâm nguyện vì lợi ích của chúng sinh mà cầu quả vị Phật.

      B2. Bồ Đề Tâm Hành

      Bồ đề tâm hành là lập chí bước theo pháp hành của bồ tát.

      B3. Thọ Bồ Tát Giới

      Để mang tâm bồ đề về khởi phát trong tâm, người tu cần thọ giới từ một đấng chân sư. Trong trường hợp này, cần theo đúng nghi thức thọ giới bồ tát, hoặc của Duy Thức tông, hoặc của Trung Quán tông. Ở đây hướng dẫn phương pháp tự thọ giới.

      Có ba phần: chuẩn bị; chánh lễ; hoàn tất.

      C1. Chuẩn bị Thọ Giới

      Có ba bước: mở tâm hoan hỉ; dâng bảy hạnh phổ hiền; chuyển tâm

      D1. Mở Tâm Hoan Hỉ

      Khởi tâm mừng vui vì hiểu lợi ích của tâm bồ đề được giải thích trong chánh văn chương

      D2. Bảy Hạnh Phổ Hiền

      Dâng bảy hạnh Phổ hiền để tích lũy công đức. Hãy nghĩ rằng mình và chúng sinh đang thật sự ở trước mặt phước điền với hết thảy chư Thế Tôn cùng chư bồ tát. Hướng tâm về vô vàn thiện đức nhiệm mầu của chư thánh chúng để dâng bảy hạnh Phổ hiền.

      E1. Cúng Dường

      Bày biện hoa, hương, đèn, nước sạch, thực phẩm, càng nhiều càng tốt. Rồi để hiện trong tâm hết thảy núi châu ngọc, rừng gỗ quí, cảnh thiên nhiên thanh tịnh đẹp rạng ngời của toàn cõi thế gian. Đây là phẩm vật cúng dường thuộc loại “không sở hữu”. Hãy cúng dường cả hai loại, phẩm vật sở hữu và không sở hữu, với các câu kệ sau đây:

      Với các câu kệ tiếp theo, mang thân khẩu ý về phụng sự:

      Với các câu kệ tiếp theo, tán dương đảnh lễ:

      Với đầy đủ tám phẩm cúng dường[1]. Để câu tụng xuất phát từ tận đáy tim sâu thẳm, cúng dường bằng trọn tấm lòng thiết tha chân thành.

      Cảnh giới thanh tịnh, là vì cúng phẩm này dâng lên Tam Bảo đang thật sự hiện diện. Chất liệu thanh tịnh, là vì phẩm cúng dường không bị việc bất chính hay ý tham lẫn làm cho ô nhiễm. Động cơ cũng thanh tịnh, là vì không mong hồi báo, không cầu công đức.

      E2. Qui Y, Đảnh Lễ

      Hướng về ruộng phước phi phàm này, là tam bảo tối thượng của cỗ xe đại thừa phi thường, khởi bằng cái tâm phi phàm vì lợi ích của hết thảy chúng sinh, phát nguyện từ nay cho mãi đến khi thành tựu quả vô thượng bồ đề, sẽ quay về nương dựa nơi Tam Bảo, và đọc ba lần câu kệ số 26:

      E3. Sám hối

      Với câu này, hướng về ruộng phước tối thượng để phát lộ sám hối, thỉnh chư vị rộng lượng đoái thương. Nghĩ rằng:

      • Hối hận cho ác nghiệp đã gieo, tựa như lỡ uống thuốc độc;
      • Tam bảo là nền tảng, là điểm dựa, tựa như thần y chữa lành mọi bệnh dữ do thuốc độc gây nên;
      • Chánh pháp là biện pháp hóa giải, tựa như thuốc giải độc;
      • Kiên quyết không tái phạm, tựa như nước cam lồ giúp thân thể phục hồi thể lực.

      Khởi bốn ý niệm trên, đọc như sau:

      Phát huy năng lực hối cải:

      Phát huy năng lực nền tảng

      Phát huy năng lực hóa giải

      E4. Tùy hỉ

      Khởi tâm chân thành mừng vui trước tất cả thiện căn công đức, cùng quả mà công đức này mang đến, đọc tụng như sau:

      E5-7. Thỉnh chuyển pháp luân, Thỉnh Phật trụ thế, Hồi hướng công đức

      Để hành trì hạnh thứ năm là thỉnh chuyển pháp luân,  hạnh thứ sáu là thỉnh Phật trụ thế, và hạnh thứ bảy là hồi hướng công đức, hãy đọc các câu kệ sau đây, để ý nghĩa lời kệ xuất phát từ tận đáy lòng:

      D3. Chuyển Tâm

      Nói về phần chuyển tâm, khởi từ câu kệ 11, hãy luyện tâm mình bằng cách dâng hiến trọn vẹn thân mạng, tài sản và công đức của cả ba thời quá khứ hiện tại và vị lai, phụng sự cho lợi ích của chúng sinh, không chút ngần ngại. Khởi tâm nguyện sâu xa rằng nhờ đó mà chúng sinh hữu tình ở khắp mọi nơi đều sẽ đạt tất cả mọi an vui thắng diệu, từ niềm vui trước mắt cho đến tận quả đại lạc cứu cánh.

      C2. Thọ Giới Bồ Tát

      Thứ hai, để khởi đầu phần thọ giới, cần thỉnh mời chư Phật đà Bồ tát đoái tưởng:

      Kính thỉnh hết thảy / mười phương Phật đà,
      Hết thảy Bồ tát / trên mười thánh địa,
      Hết thảy đạo sư / chấp giữ kim cang,
      Kính xin chư vị / thương tưởng cho con

      Rồi thọ giới bồ đề tâm nguyện và bồ đề tâm hành cùng một lúc, bằng cách đọc ba lần hai câu tụng dưới đây:

      C3. Hoàn Tất Thọ Giới

      Khởi tâm mừng vui, đọc từ câu 26 đến 33. Rồi mời người khác cùng vui và đọc câu kệ 34

      Sau đó, có thể đọc tụng bài nguyện sau đây:

      Bồ đề tâm trân quý
      Nơi nào chưa có, nguyện sẽ phát sinh
      Nơi nào đã sinh, nguyện không thoái chuyển
      Vĩnh viễn tăng trưởng / không bao giờ ngừng

      Ngang đây hoàn tất phần phát khởi tâm bồ đề trong tâm người tu.


      A3. NỘI DUNG PHÁP TU
      Làm thế nào tu theo pháp hành của bồ tát

      Dẫn nhập

      Hết thảy mọi pháp hành của bồ tát đều bao gồm trong sáu hạnh ba la mật [còn gọi là lục độ].

      Tinh túy sáu hạnh này có thể tóm lược như sau:

      1. Thí, bao gồm bốn đặc tính
      2. Giới, bao gồm bốn đặc tính
      3. Nhẫn, bao gồm bốn đặc tính
      4. Tấn, bao gồm bốn đặc tính
      5. Định, bao gồm bốn đặc tính
      6. Tuệ, bao gồm bốn đặc tính.

      Bốn đặc tính là gì? Kinh sách dạy bốn đặc tính là:

      1. phá tan mọi chướng ngại;
      2. đi chung với trí tuệ siêu việt khái niệm;
      3. toàn thành mọi nguyện ước;
      4. thành thục chúng sinh ba loại căn cơ.

      Chướng ngại có sáu, tương ứng với sáu hạnh ba la mật:

      • tham lẫn;
      • giới bất nghiêm;
      • sân hận;
      • lười biếng;
      • tán tâm;
      • ác tuệ.

      Toàn thành nguyện ước chúng sinh, là vì:

      • hạnh thí: cho ra mọi sở hữu;
      • hạnh giới: thành nơi chốn cho người phát khởi tín tâm;
      • hạnh nhẫn: tự tại trước nghịch cảnh;
      • hạnh tấn: làm được việc cần làm;
      • hạnh định: đạt thần thông, khiến chúng sinh tăng trưởng tín tâm
      • hạnh tuệ: biết điều cần làm, cần bỏ.

      Nhờ đó mang lại mọi điều chúng sinh nguyện mong, giúp tâm chúng sinh chín mùi một cách trực tiếp hay gián tiếp bằng cách đưa chúng sinh đạt quả giác ngộ, quả A la hán, Bích Chi Phật, hay quả vị Phật.

      Dưới đây hướng dẫn phương pháp đưa sáu hạnh ba la mật vào pháp chuyển tâm.

      B1. Hạnh Thí

      Một là hạnh thí, tu bằng cách nhớ đến hậu quả tai hại của lòng tham lẫn, của thói quen tham luyến thân thể, tài sản, công đức trong cả ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai, đồng thời nhớ đến lợi ích của hạnh thí, lý do vì sao nên cho ra v.v…

      B2. Hạnh Giới

      Thứ hai là hạnh giới, lời khai thị nói rõ về hai việc: phương tiện giữ giới và vận dụng phương tiện này để giữ giới.

      C1. Phương tiện giữ giới

      Phương tiện giữ giới có ba:

      1. bất phóng dật là tâm cẩn trọng, tỉ mỉ quán xét điều cần lấy, cần bỏ (Skt.apramāda; Tib.བག་ཡོད་ bayö);
      2. chánh niệm là tâm ghi nhớ chính xác, không quên điều cần lấy, bỏ. (Skt.smṛti; Tib.དྲན་པ་ drenpa)
      3. chánh tri là tâm tỉnh giác, tự kiểm soát tình trạng của thân khẩu và ý (Skt.saṃprajanya; Tib.ཤེས་བཞིན་, she zhin)

      C2. Vận dụng phương tiện giữ giới

      Trước hết, vận dụng chánh niệm để luôn nhớ không quên điều cần lấy, cần bỏ.

      Tiếp theo, vận dụng chánh tri để tự kiểm soát thân khẩu và ý của chính mình, vừa chớm muốn lánh điều thiện, ham điều bất thiện, là có thể nhận biết được ngay.

      Lúc ấy, vận dụng tâm bất phóng dật để nhớ lại lợi ích của việc thiện mà làm ngay, hoặc nhớ lại hậu quả tai hại của việc bất thiện mà ngừng ngay.

      Niềm tự tín nơi nhân quả là nền tảng của mọi pháp hành, vì vậy cần nương lời của Như lai để khởi tâm thâm tín nhân quả. Từ tận đáy lòng, giữ tâm xác quyết sâu xa vể cảnh khổ sinh tử, biết rõ làm ác thì gặp ác, một khi sa cõi ác đạo rồi, khổ đau bức bách triền miên, đừng nói chi toàn thành lợi ích cho chúng sinh, ngay cả chính mình cũng không tự gánh nổi!

      D1. Giới Hạnh Bồ Đề Tâm Nguyện

      E1. Điều cần tránh

      Giới hạnh có nhiều loại, nhưng có ba nguyên tắc đặc biệt cần tránh vì đi ngược với bồ đề tâm nguyện:

      1. từ bỏ chúng sinh
      2. thoái chuyển thành tâm nhị thừa (thanh văn duyên giác)
      3. phạm bốn pháp bất tịnh

      Bốn pháp bất tịnh được nói rõ trong câu kệ sau đây:

      Lừa bậc đáng tôn kính / hối hận không đúng chỗ /
      Phỉ báng bậc thánh nhân / Lừa đảo chúng hữu tình /
      là bốn pháp bất tịnh / phải nỗ lực từ bỏ. /
      Nếu làm điều ngược lại / thì gọi là tịnh pháp.

      E2.Điều cần giữ

      Yếu tố thuận

      1. hướng quả vô thượng bồ đề cùng với nhân của quả này;
      2. vui cùng thiện hạnh của người khác, từ tận đáy lòng cảm thấy rất biết ơn khi chúng sinh làm việc lành;
      3. hồi hướng mọi thiện căn công đức về cho chúng sinh thành tựu Phật quả.

      Ba pháp quán đại thừa này cần được mang về giữ ở trong tim.

      D2. Giới Hạnh Bồ Đề Tâm Hành

      E1. Điều cần tránh

      Trong số những yếu tố nghịch với bồ đề tâm hành, nói chung cần phải từ bỏ tâm tác hại chúng sinh cùng tất cả mọi điểm tựa của tâm này. Đặc biệt đối với các trọng giới như xâm phạm sở hữu của Tam Bảo, phỉ báng bồ tát, từ bỏ chánh pháp, đều cần được giữ gìn thận trọng như giữ mạng sống của chính mình.

      E2.Điều cần giữ

      Nói về yếu tố thuận, đừng bao giờ chê việc thiện nhỏ mà không làm, và phải luôn xét kỹ xem mình có đang tu với ba nguyên tắc hay không.

       

      B3. Hạnh Nhẫn

      Cơ hội tu hạnh nhẫn

      Có nhiều trường hợp cần phải nhẫn, bắt đầu với bốn cảnh sau đây:

      • Bị người khinh khi
      • Bị người chửi mắng
      • Bị người dèm pha
      • Hay bị gây đau đớn

      Và, tương tự như vậy, khi bốn cảnh nói trên xảy ra cho sư phụ, bằng hữu hay người thân [cộng lại thành tám cảnh]

      Thêm vào bốn cảnh tiếp theo đây, xảy ra cho kẻ thù hay những kẻ đối đầu với ta:

      • Khi họ được an vui hạnh phúc
      • Khi họ được danh vọng, lợi lạc
      • Khi họ được tôn vinh
      • Khi họ người đời ngợi khen

      Thêm vào đó, có lúc cảnh trái ngược với mười hai cảnh nghịch ý này, nghĩa là mười hai cảnh thuận ý, bị ngăn trở, vậy tổng cộng có hai mươi bốn cơ hội để tu hạnh nhẫn.

      Bất kể thế nào, đừng bao giờ để tâm thoái chí nản lòng vì cảnh hiện trước mắt hay vì khổ đau phải gánh chịu, thay vào đó, hãy tiếp nhận khổ đau, đừng nổi giận với người gây hại, đừng bận tâm đến việc bị hại, giữ tâm vững vàng an định nơi tánh không thâm sâu của thực tại.

      Vậy, mỗi trường hợp nhân lên ba lần, thành 72 loại nhẫn cần tu.

      C1. Ba lý do nên tiếp nhận khổ đau [an thọ khổ nhẫn]

      • Nhờ khổ mà sạch được ác nghiệp. Vậy hãy nên tiếp nhận khổ đau, biết đây là cây chổi quét đi mọi lỗi lầm.
      • Nhờ khổ mà biết chán khổ sinh tử luân hồi, khởi tâm từ bi với chúng sinh, hướng thiện hạnh, tránh ác hạnh. Vậy hãy nên tiếp nhận khổ đau, biết đây sẽ là điều thúc đẩy mình đến với thiện đức.
      • Nhờ khổ mà quét tâm kiêu ngạo, dẹp nọc ganh ghen, thắng sức mạnh của tham chấp, đưa đến quả thành tựu. Vậy hãy nên tiếp nhận khổ đau, biết đây chính là phẩm trang nghiêm cõi tâm.

      C2. Ba lý do không nên bận tâm cho việc bị hại  /
      [nại oán hại nhẫn]

      • Vì lòng từ bi đối với người hại mình: thử nghĩ xem, chúng sinh mê muội bị phiền não khống chế, đối với chính bản thân họ còn tác hại, huống chi người khác.
      • Vì biết lỗi ở nơi mình: người ta hại mình bây giờ chỉ là do nghiệp của mình trong quá khứ và thái độ của mình trong hiện tại.
      • Vì biết rằng nhờ kẻ thù gây hại nên ta mới có cơ hội tích lũy công đức tu nhẫn, vốn là nền tảng của hết thảy mọi thiện hạnh bồ tát. Vậy kẻ thù chính là bạn lành, thật sự mang lợi ích lớn lao đến cho ta.

      C3. Ba pháp quán thậm thâm [đế sát pháp nhẫn]

      Hạnh nhẫn có thể huân dưỡng bằng cách quán niệm với lòng xác quyết về giáo pháp thậm thâm qua ba cách sau đây:

      • Quán về chân đế, là chân tánh không, siêu việt mọi khái niệm: tu hạnh nhẫn bằng cách quán chiếu việc bị hại và người gây hại, cả hai đều không thật có.
      • Quán về tục đế, cảnh hiện huyễn ảo của duyên sinh: tu hạnh nhẫn bằng cách chứng biết người gây hại và việc bị hại, không bên nào có một cách độc lập.
      • Quán về sự hợp nhất bất khả phân của chân tánh của tâm: tu hạnh nhẫn bằng cách nhận diện cơn sân hận này bản lai thanh tịnh, hoàn toàn không có nền tảng hay nguồn gốc.

      B4. Hạnh Tấn

      Ở đây có hai phần: diệt yếu tố nghịch với hạnh tấn, là ba loại giải đãi; và nuôi sáu lực, là yếu tố thuận với hạnh tấn.

      C1. Diệt Yếu Tố Nghịch

      1. nhờ móc câu vô thường thúc hối mà diệt được sự giải đãi thích ngồi không;
      2. nhờ vui cùng diệu Pháp mà diệt được sự giải đãi thích việc bất thiện;
      3. nhờ nâng đỡ lòng tự tin của chính mình mà diệt được sự giải đãi thoái chí nản lòng.

      C2. Nuôi Yếu Tố Thuận

      1. Phần chuẩn bị, ứng với năng lực chí nguyện: đây là chí nguyện tu theo Phật pháp, do thấy được lợi ích của việc thiện và hậu quả tai hại của việc bất thiện.
      2. Phần chính, ứng với năng lực tự tín: đây là nguồn nghị lực phát sinh từ sức mạnh của trái tim, bảo đảm một khi việc thiện đã bắt đầu là sẽ hoàn tất. Lực tự tín này có ba phương diện:
      3. Tự tín trong hành động: Như mặt trời ló dạng trên mặt đất, đừng để chướng ngại quấy nhiễu, cũng đừng để nghịch cảnh xô đẩy. Như mặt trời chuyển động một mình: tự mình chiến thắng sức mạnh của Ma Vương, đừng cậy nhờ ai khác, cứ thế, thành tựu quả vô thượng bồ đề. Cuối cùng, như mặt trời tỏa ánh sáng chan hòa trên toàn cõi thế, nhờ vận dụng trí, bi và nguyện của bồ tát mà tự mình, chính mình, đủ khả năng giữ gìn sự sống cho toàn thể chúng sinh. Nói cách khác, hãy hăng hái nỗ lực mang lợi ích về cho chúng sinh ở khắp mọi nơi, cùng tận không gian.
      4. Tự tín trong khả năng: Hãy ý thức mình thuộc dòng giống thượng căn, phát chí nguyện mãnh liệt không để bất kỳ một phá giới phạm giới nào, dù là nặng hay nhẹ, làm nhơ dòng giống Phật.
      5. Tự tín trước phiền não: Hãy xem nhẹ phiền não, đừng để bất cứ nghịch cảnh nào khiến phải bận tâm.
      6. Năng lực niềm vui: Luôn tu thiện pháp với trọn niềm hăng say vui thú, nhưng không mong cầu bất cứ quả lành nào, cứ hễ làm được việc lành là tâm đều rộn rã mừng vui.
      7. Năng lực chừng mực: Bao giờ thân nhọc tâm mệt, quét sạch mọi che chướng bằng cách buông nghỉ một thời gian, để rồi mau chóng tiếp tục làm việc thiện với trọn niềm hăng say.
      8. Năng lực chuyên cần: Tận diệt những gì cần diệt bỏ, tận tụy áp dụng chánh niệm và chánh tri để phá nhiễm tâm.
      9. Năng lực tự chủ: Tự luyện mình trong mọi giới luật, nhớ lời dạy về tâm bất phóng dật để tự giữ gìn ba cửa thân khẩu và ý của chính mình.

      B5. Hạnh Định

      Có hai phần: xả bỏ yếu tố nghịch với hạnh định, và nhiếp tâm vào đề mục thiền chỉ.

      C1. Xả bỏ yếu tố nghịch

      Phần đầu, xả bỏ yếu tố nghịch, có hai tiêu đề: xả bỏ bận tâm thế tục, và xả bỏ tán tâm.

      D1. Xả bỏ bận tâm thế tục

      Nói về các mối bận tâm thế tục, tâm sẽ không thể đạt định nếu còn luyến cha mẹ, thân nhân, bằng hữu, thị giả. Vậy cần xả bỏ thói quen lo toan và bận rộn, một mình ở chốn cách ly vắng vẻ thích hợp với pháp tu thiền.

      Để tâm tham lợi, tham danh, tham lời khen, tham vinh dự, tham nhu cầu vặt vãnh, đeo đuổi theo lòng tham chỉ tạo chướng ngại cho đường tu chân chính, vậy phải đoạn lìa mọi khuynh hướng mong cầu và âu lo tương tự [thiểu dục], luyện tâm biết vui với những gì mình có [hỉ túc].

      D2. Xả bỏ tán tâm

      Cho dù ở nơi cách ly, không khởi tâm mong cầu vật chất hay những thứ tương tự, nhưng nếu còn vướng ái dục thì vẫn không thể đạt định, tâm sẽ không có khả năng an trụ trong tịnh chỉ. Muốn đạt các tầng thiền tịnh chỉ, bắt buộc phải dứt bỏ ái dục, điều này rất quan trọng, vì vậy cần tuyệt hết tâm niệm mê luyến người khác phái, bằng cách quán về nhân, vốn không dễ kiếm; về tánh, vốn bất tịnh, và về quả, đưa đến nhiều hậu quả tai hại v.v…

      Hơn nữa, cần ý thức tám mối bận tâm thế tục [bát phong] và mọi ý nghĩ hướng về đời sống hiện tiền đều là kẻ thù chân chính. Vì vậy cần chiêm nghiệm về hậu quả của dục niệm, giữ nội tâm trang nghiêm, chân thành nỗ lực xả bỏ tất cả, bất kể dục niệm có trùng điệp đến mức nào.

      C2. Nhiếp tâm nơi đề mục

      Nói về nội dung của pháp tu định, tuy có nhiều phương pháp, nhưng ở đây chủ yếu là để huân dưỡng tâm bồ đề. Pháp tu này có hai mặt: quán bình đẳng ngã tha, và quán hoán chuyển ngã tha.

      D1. Quán bình đẳng ngã tha

      Cần thấy rằng nếu chỉ biết quan tâm cho bản thân mà bỏ mặc người khác, thái độ này thật trái lẽ. Là vì ta cùng người khác đều giống như nhau, đều mong cầu hạnh phúc, không muốn khổ đau. Vì vậy mà phải quán về sự bình đẳng giữa mình và người khác.

      Như kinh sách nói

      Niệm bình đẳng ngã tha
      cần tinh tấn huân dưỡng
      ngay từ đầu pháp hành.
      Vì ta và hữu tình
      đối với vui và khổ
      đều bình đẳng như nhau,
      cần gánh vác hữu tình
      như gánh vác bản thân.

      Vậy thì ở bước đầu hãy tu pháp quán tâm bồ đề bình đẳng ngã tha. Quán như sau:

      Chúng sinh hữu tình nhiều như không gian vô tận, tuy vậy không một chúng sinh nào không từng là cha, là mẹ, hay là bạn của ta. Đức Long Thọ dạy rằng:

      Mỗi người mẹ của ta
      trong các đời quá khứ
      nếu nhỏ bằng hạt mầm,
      số lượng nhiều vô tận,
      mặt đất toàn cõi thế
      cũng không sao chứa nổi.

      Dựa vào kinh sách và lý lẽ, ta có thể xác định rằng hết thảy chúng sinh đều đã từng rất thân thiết với mình.

      Mỗi khi vui, từ tận đáy lòng hãy khởi tâm nguyện: “nguyện khắp cả chúng sinh có được hạnh phúc, cùng nhân duyên tạo hạnh phúc.” Tương tự như vậy, mỗi khi khổ, từ tận xương tủy hãy khởi ước nguyện: “nguyện tôi cùng hết thảy chúng sinh thoát được khổ đau cùng nhân duyên gây khổ!”

      Ở giai đoạn này, có khi chướng ngại sẽ đến, người tu có thể sẽ khởi tâm nhị thừa, nghĩ rằng: “tôi sẽ diệt khổ đau của chính mình, tôi chẳng mong đợi gì nơi ai, cũng chẳng cần phí công cố gắng diệt khổ cho người.” Thế nhưng Nhập Bồ Đề Hành Luận có nói:
      [NBĐHL – chương VIII, câu 97]

      Nói vậy cần gì lánh khổ tương lai,
      vốn chẳng phạm đến tôi trong hiện tại?

      Cần gì phải nỗ lực tích lũy tìm cầu sức khỏe, thực phẩm, y phục v.v… cho tương lai. Cái tôi này đây mỗi sát na đều đã không còn, sát na sau đã thành “kẻ khác”. Chỉ vì vô minh nghĩ rằng tôi trong tương lai cũng chính là tôi trong hiện tại, nhưng đó chỉ là vọng tưởng. Đúng như Nhập Bồ Đề Hành Luận có nói:
      [NBĐHL – chương VIII, câu 98]

      Ý nghĩ: “Nhưng tôi là người chịu khổ!”
      thật ra chỉ là ý nghĩ sai lầm,
      là vì khi chết là một người khác,
      mà khi tái sinh lại là người khác.

      Lấy ví dụ, người mê muội nghĩ rằng: “Đây là dòng nước năm ngoái tôi làm rơi chiếc áo”, hay là “đây là con sông hôm qua tôi đi qua”. Nhưng nước cuốn trôi chiếc áo năm ngoái đâu phải là nước bây giờ, và sông của ngày hôm qua cũng đã khác. Tương tự như vậy, tâm của quá khứ đâu phải là tôi và tâm của tương lai cũng đâu phải là tôi, đều khác nhau cả.

      Ở đây ta có thể nghĩ rằng: “mặc dù tâm trong tương lai không phải là “tôi” trong hiện tại, nhưng đều cùng là một dòng tâm thức, vậy tôi phải lo cho an nguy của chính mình!” Đã nghĩ như vậy thì lại càng phải lo cho an nguy của người khác, là vì mặc dù chúng sinh hữu tình không phải là cá nhân tôi, nhưng đều là loài hữu tình trong cùng một cõi thế.

      Nếu nghĩ rằng: “Việc ai nấy lo, tuyết đầu ai nấy phủi chứ làm sao có thể giúp hết mọi người,” vậy hãy thử chiêm nghiệm câu này trong Nhập Bồ Đề Hành Luận:
      [NBĐHL – chương VIII, câu 99]

      Vậy thì chân đau, tay đâu cần giúp?

      Như đã nói, chân đạp gai, việc gì tay phải tốn công lo nhổ? Tương tự như vậy, tay giúp khi mắt bị vướng bụi, cha mẹ nâng đỡ cho con, tay đút cơm cho miệng. Để lo cho mình, vốn phải làm hết những việc như vậy.

      Tóm lại, nếu việc ai nấy lo không cần quan tâm đến kẻ khác, làm như vậy nhất định việc gì cũng khó lòng làm xong. Biết điều này rồi, hãy hết lòng phụng sự lợi ích chúng sinh.

      D2. Quán hoán chuyển ngã tha

      Thứ hai, quán tâm bồ đề hoán chuyển ngã tha.
      Nhập Bồ Đề Hành Luận nói như sau:
      [NBĐHL – chương VIII, câu 131]

      Không đổi vui mình / để lấy khổ người
      thì vô thượng giác / sẽ không thể đạt,
      trôi trong sinh tử / không chút niềm vui.

      Như sách nói, cần mang hạnh phúc của mình tặng cho chúng sinh, và nhận khổ chúng sinh về phần mình. Chi tiết quán tưởng, sách nói như sau:
      [NBĐHL – chương VIII, câu 140]

      Lấy cảnh của người,
      thấp, bằng hay cao,
      đổi thành của tôi.
      Và đổi cảnh tôi
      thành của người khác.
      Dẹp hết tán tâm
      để mà quán chiếu:
      khởi tâm ganh tị
      cạnh tranh, kiêu căng

      Câu này có nghĩa như sau:

      Ở pháp quán đầu tiên, “người khác” là một người thấp kém hơn tôi, đối với người này, địa vị tôi cao quí hơn nhiều. Nhìn từ mắt nhìn của người địa vị thấp kém để cảm nhận lòng ganh ghen đối với tôi là kẻ địa vị cao sang. Sau khi quán như vậy, tự nhiên sẽ cảm nhận được điều sau đây:

      “Tôi cao, người ta thấp, chỉ mới tưởng tượng lòng ganh ghen của người khác thôi đã khiến tâm tôi khốn khổ thế này! Vậy có lý nào lại tự mình khởi tâm ganh ghen người khác để làm gì?” Cứ thế, lòng ganh ghen sẽ tan biến.

      Tương tự như vậy, quán về lòng cạnh tranh đối với người cùng địa vị với mình. Trong pháp quán này, tôi đổi vị trí cùng người ngang hàng với mình, nhìn từ quan điểm của người này để thấy tôi là kình địch. Tôi lấy vị trí của người kia, nung nấu cạnh tranh trên mọi phương diện. Khi ngưng pháp quán này, trong lòng sẽ cảm thấy như sau:

      “Nếu tôi là địch thủ, chỉ mới tưởng tượng thái độ cạnh tranh mờ ám của người khác thôi đã khiến tâm tôi kiệt quệ thế này, vậy còn tự mình khởi tâm cạnh tranh gây hại cho người khác để làm gì!” Làm như vậy sẽ tự nhiên chế ngự được tâm cạnh tranh của chính mình.

      Rồi lại theo cùng một phương pháp, quán về lòng kiêu mạn, ở đây tôi là người thấp kém, người khác là kẻ trên. Đặt mình vào chỗ của người khác ở trên, trong lòng phát sinh lòng kiêu căng khinh mạn đối với kẻ dưới, dựa vào gia thế học vấn v.v… Khi ngưng pháp quán này, trong lòng sẽ thấy rằng, “Chỉ mới tưởng tượng lòng khinh mạn của người khác mà đã khốn khổ thế này, vậy làm sao có thể tự mình khởi tâm khinh mạn người khác?” Làm như vậy sẽ tự nhiên hàng phục được thói kiêu căng.

      Có thể quán theo chi tiết hướng dẫn trong Nhập Bồ Đề Hành Luận.

      Nếu không thể tu các pháp quán này, muốn một pháp tu ngắn gọn hơn thì có thể chọn câu kệ trong Bảo Hành Vương Chánh Luận:

      Nguyện việc ác người / trổ quả nơi tôi;
      nguyện việc thiện tôi / trổ quả nơi người.
      Hễ còn chúng sinh / chưa được giải thoát,
      cho dù có đã / đạt vô thượng giác
      tôi cũng nguyện xin / vì một hữu tình /  mà vào sinh tử.

      Công đức lời này / nếu như có thân
      thì bao thế giới / số lượng nhiều như / số cát sông Hằng
      cũng không làm sao / có thể chứa hết.
      Điều này thuận theo / lời của Phật dạy,
      và cũng thuận theo / lý lẽ hiển nhiên.

      Nhập Bồ Đề Hành Luận nói rằng:
      [NBĐHL – chương X, câu 56]

      Nguyện cho khổ nạn / của khắp chúng sinh / trổ quả nơi tôi.
      Nương vào năng lực / chúng Tăng bồ tát
      nguyện khắp chúng sinh / hưởng được đầy nguồn
      an vui thắng diệu.

      Nên quán niệm ý nghĩa của những câu kệ này, đọc lớn tiếng nếu muốn. Quán bình đẳng và hoán chuyển ngã tha như vậy tương tự với pháp tu do Sakya Pandita soạn tác. Tuy có một vài khác biệt nhỏ nơi hầu hết các luận giải, nhưng khi tu cứ hãy tùy ý chọn cách nào thích hợp nhất với tâm của chính mình.

      B6. Hạnh Tuệ

      Tuệ trước tiên được nhận diện, sau đó được áp dụng vào đề mục vô ngã.

      C1. Nhận diện

      Trước tiên, tuệ là trí chứng biết vạn pháp giai không trong thời tọa thiền, và chứng biết vạn pháp như huyễn trong thời xuất thiền.

      C2. Áp dụng vào tánh không

      Sau đó, vận dụng trí tuệ này để quán vô ngã. Ở đây có hai pháp quán: quán nhân vô ngã và quán pháp vô ngã.

      D1. Nhân vô ngã

      Trước tiên, nhìn lại phàm phu ngu muội lấy kẻ gieo nghiệp và chịu quả mà gọi là ngã, là tôi, một cá nhân, một con người, một sinh thể. Vậy cũng nên tự hỏi cái được gọi là “tôi” đó là ứng vào với thân, với khẩu, với ý, hay là ứng với điều gì khác? Là vô tình hay hữu tình? Là vô thường hay thường còn? v.v…

      Quán như vậy, rồi sẽ thấy mặc dù không có “ngã” nhưng ta vẫn chấp ngã, không có “tha” nhưng ta vẫn chấp tha, chỉ vì đã để cho vọng tâm thao túng. Sự vật, thật ra, tự nó vốn không có cái gì để có thể gọi là “tôi” hay là “người khác”.

      D2. Pháp vô ngã

      Thứ hai, quán pháp vô ngã bao gồm bốn pháp thiền gọi là Tứ niệm xứ

      E1. Thân niệm xứ

      Tất cả mọi sự hiện ra và tồn tại trong toàn cõi luân hồi và niết bàn này, đều đơn thuần do tâm mà hiện, hoàn toàn không có một khả năng hiện hữu nào ngoài những gì do tâm gán đặt. Tâm này cũng tùy thuộc vào thân, vì vậy mà cần quán về thân bằng cách nêu những thắc mắc như sau:

      • Cái được gọi là “thân” này đây, vốn là đồng nhất hay dị biệt với tổng thể các thành phần cấu tạo?
      • Thân này sinh từ đâu?
      • Thân này trú ở đâu?
      • Thân này diệt về đâu?

      Cuối cùng, để tâm an trụ trong chánh định tánh không của thân.

      Bao giờ thân khởi ái dục, hãy quán về tánh bất tịnh và như huyễn của thân mình và thân người, nhờ đó dẹp được lòng ham muốn nhục dục.

      E2. Thọ niệm xứ

      Cảm giác khoái lạc hay đớn đau là cội rễ sinh ra tâm bất thiện như ái và thủ, vậy cần xét thử xem cảm giác này là đồng nhất hay là dị biệt với tâm… Quán về tánh chất không thật có của hai loại cảm giác này, cùng mọi cảm giác khác [ví dụ cảm giác dửng dưng], để biết rốt lại mọi cảm thọ đều chỉ là khổ đau, hoàn toàn không có chút thực thể nào cả.

      E3. Tâm niệm xứ

      Thử xét lại cái tâm sinh ra “sáu thức” và quán chiếu xem dòng tâm thức với muôn vàn biến hiện – thời điểm đi trước, thời điểm theo sau, thiện, bất thiện v.v… – là một thứ hay nhiều thứ. Xét xem nhiều trạng thái tâm thức hiện ra như vậy – thích và không thích, tín và bất tín, thuận và nghịch với chánh pháp, vui và buồn, tham và sân, v.v… – là cùng một tâm hay không cùng một tâm. Nếu nói rằng cùng một tâm, vậy thử xét xem vì sao cùng một tâm lại sinh ra nhiều trạng thái khác nhau như vậy, vui buồn, tham sân v.v… Nếu nói rằng những trạng thái tâm thức này tùy duyên sinh ra, vậy thử xét xem nếu không bị duyên chi phối, không tiếp với đối cảnh, thì tâm này thực chất ra sao? có hiện hữu hay không hiện hữu? Thường còn hay vô thường? Hãy dùng lý trí liên tục quán xét như vậy để có được niềm xác quyết rằng tâm này vốn vô sinh.

      E4 Pháp niệm xứ

      Chứng biết một cách xác quyết rằng những gì không phải là thân, thọ hay là tâm – nghĩa là tất cả những gì thuộc phạm vi của tưởng, hành và thức – đều tùy thuộc nhân duyên mà có, vì vậy hoàn toàn không tự tánh. Chúng đều đơn thuần là tánh không, siêu việt mọi phạm trù đối đãi phân biệt.

      a4. KẾT QUẢ PHÁP TU

      Chứng biết tướng hiện của tục đế chỉ đơn thuần là huyễn ảo, như trò ảo thuật, như một giấc mơ, từ đó thuần luyện công hạnh quảng đại, tận diệt bảy loại tham chấp. Chứng biết cảnh giới của chân đế dù chỉ một vi trần cũng không hề có tự tánh, từ đó mà đưa pháp hành về nơi tim, không chấp bám vào bất cứ điều gì.
      [NBĐHL, Chương X, câu 58]

      Nguyện cho chánh pháp,
      là thuốc duy nhất
      chữa lành bệnh khổ,
      là gốc rễ của
      mọi nguồn an vui,
      luôn được muôn loài
      hỗ trợ tôn kính,
      tồn tại dài lâu.

      Đây là lời của Ragged Abu – Nguyện mọi sự cát tường.

      Hồng như chuyển Việt ngữ – 18/07/2013

      ——————–

      Ghi Chú Phần Việt Ngữ:

      [1] Tám phẩm cúng dường: 1. phẩm sở hữu, 2. phẩm không sở hữu, 3. thân mạng, 4. tắm Phật, 5. cúng phẩm làm tươi đẹp giác quan, 6. cúng phẩm qua nguyện lực, 7. cúng phẩm vô thượng, 8. nnhạc, tán dương

      CHÁNH VĂN TẠNG NGỮ

      ༄༅། །བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའི་སྤྱོད་པ་ལ་འཇུག་པའི་སྒོམ་རིམ་རབ་གསལ་ཉི་མ་ཞེས་བྱ་བ་བཞུགས་སོ། །

      ༄༅། །བདེར་གཤེགས་ཆོས་ཀྱི་སྐུ་མངའ་སྲས་བཅས་དང༌། ཕྱག་འོས་ཀུན་ལའང་གུས་པས་ཕྱག་འཚལ་ཏེ། །བདེ་གཤེགས་སྲས་ཀྱི་སྡོམ་ལ་འཇུག་པ་ནི། །ལུང་བཞིན་མདོར་བསྡུས་ནས་ནི་བརྗོད་པར་བྱ། དེ་ལ་བཞི། གང་འཇུག་པ་པོ་རྟེན་གྱི་གང་ཟག གང་གིས་འཇུག་པའི་བསམ་པ། ཚུལ་ཇི་ལྟར་འཇུག་པའི་སྦྱོར་བ། དེ་ལྟར་ཞུགས་པའི་འབྲས་བུའོ།། དང་པོ་རྟེན་གྱི་གང་ཟག་ནི་དལ་འབྱོར་ཐོབ་ཅིང་དད་དང་སྙིང་རྗེ་ལྡན་པའོ།། གཉིས་པ་བསམ་པ་སེམས་བསྐྱེད་པ་འདི་ལ་སྨོན་འཇུག་གཉིས། དང་པོ་ནི། སེམས་བསྐྱེད་པ་ནི་གཞན་དོན་ཕྱིར། ཡང་དག་རྫོགས་པའི་བྱང་ཆུབ་འདོད། ཅེས་གསུངས་པས་གཞན་དོན་དུ་སངས་རྒྱས་ཐོག་འདོད་ཀྱི་བསམ་པ། གཉིས་པ་འཇུག་པ་ནི། རྒྱལ་བའི་སྲས་ཀྱི་བསླབ་བྱ་ལ་སློབ་པར་དམ་བཅའ་བ། དེ་ལྟ་བུའི་སེམས་བསྐྱེད་དེ་རང་རྒྱུད་ལ་བཟུང་བར་བྱ་བ་ལ་བླ་མ་ལས་ལེན་ན་དབུ་སེམས་གང་རུང་གི་ཆོ་ག་ལྟར་བྱ། འདིར་སྡོམ་པ་རང་ཉིད་ཀྱིས་བླང་བའི་ཚུལ་ལ་སྦྱོར་དངོས་རྗེས་གསུམ། དང་པོ་སྦྱོར་བ་ལ་གསུམ། ཕན་ཡོན་གྱི་བྲོད་པ་བསྐྱེད་པ་སྤྱོད་འཇུག་ལེའུ་དང་པོ་ལྟར་བྱ། ཚོགས་བསགས་པ་ཡན་ལག་བདུན་པ་བྱ་བའི་དང་པོ་ཚོགས་ཞིང་རྒྱལ་བ་སྲས་བཅས་མངོན་སུམ་དུ་བཞུགས་པའི་སྤྱན་སྔར་རང་གཞན་སེམས་ཅན་ཐམས་ཅད་ལྷན་ཅིག་ཏུ་རྒྱལ་བ་སྲས་བཅས་ཀྱི་ཡོན་ཏན་རྗེས་སུ་དྲན་པ་དང་བཅས་ཡན་ལག་བདུན་པ་འབུལ་བར་བསམ་ལ། དང་པོ་མཆོད་པའི་ཡན་ལག མེ་ཏོག་བདུག་སྤོས་མར་མེ་ཆུ་གཙང་གི་ཡོན་ཆབ་བཟའ་བཏུང་སྣ་ཚོགས་པའི་ཞལ་ཟས་ལ་སོགས་ཅི་འབྱོར་བའི་མཆོད་པ་དངོས་སུ་བཤམས། རིན་པོ་ཆེའི་རི་བོ་ཡིད་དུ་འོང་བའི་ནགས་ཚལ། དབེན་ཞིང་ཉམས་དགའ་བའི་ས་ཕྱོགས་སོགས་ཕྱོགས་བཅུའི་འཇིག་རྟེན་ན་ཡོད་པ་རྣམས་བློས་བླང་ནས་འབུལ་བ་བདག་པོས་ཡོངས་སུ་མ་བཟུང་བའི་མཆོད་པ་གཉིས་པོ་རིན་ཆེན་སེམས་དེ་སོགས་ཀྱིས་འབུལ། རྒྱལ་དང་དེ་སྲས་སོགས་ཀྱིས་རང་གི་སྒོ་གསུམ་བྲན་དུ་འབུལ་བའི་མཆོད་པ། ཁྲུས་ཀྱི་ཁང་བ་སོགས་ཀྱིས་ཡིད་ཀྱི་སྤྲུལ་པའི་མཆོད་པ། དེ་ལས་གཞན་ཡང་སོགས་ཀྱིས་སྨོན་ལམ་སྟོབས་ཀྱི་མཆོད་པ། ཇི་ལྟར་འཇམ་དབྱངས་སོགས་ཀྱིས་བླ་ན་མེད་པའི་མཆོད་པ། ཡོན་ཏན་རྒྱ་མཚོ་སོགས་ཀྱིས་བསྟོད་པ་དབྱངས་ཀྱི་མཆོད་པ། དུས་གསུམ་བཞུགས་སོགས་ཀྱིས་གུས་པ་ཕྱག་གི་མཆོད་པ་དང་བརྒྱད་པོ་ཚིག་རྗེས་དོན་དྲན་སྙིང་ཐག་པ་ནས་བྱ། དེ་དག་ཀྱང་ཞིང་དག་པ་དཀོན་མཆོད་གསུམ་གྱི་སྤྱན་སྔར། དངོས་པོ་དག་པ་སྡིག་པ་དང་མ་འདྲེས་ཤིང་སེར་སྣས་མ་བཅིང་བ། བསམ་པ་དག་པ་ལན་དང་རྣམ་སྨིན་ལ་རེ་བ་མེད་པའི་སེམས་ཀྱིས་འབུལ་བའོ།། གཉིས་པ་སྐྱབས་སུ་འགྲོ་བ། ཡུལ་ཁྱད་པར་ཅན་ཐེག་ཆེན་ཐུན་མོང་མ་ཡིན་པའི་དཀོན་མཆོག་གསུམ་ལ། བསམ་པ་ཁྱད་པར་ཅན་སེམས་ཅན་ཐམས་ཅད་ཀྱི་དོན་དུ། དུས་རྫོགས་པའི་བྱང་ཆུབ་མ་ཐོབ་བར་དུ་སྐྱབས་སུ་འགྲོ་སྙམ་པས་བྱང་ཆུབ་སྙིང་པོ་སོགས་ལན་གསུམ་བྱ། གསུམ་པ་སྡག་པ་བཤགས་པ་ཕྱོགས་རྣམས་སོགས་ཀྱིས་བཤགས་ཡུལ་ལ་མཁྱེན་པར་གསོལ་ཏེ། སྔར་བྱས་ཀྱི་སྡིག་པ་ལ་ཁོང་དུ་དུག་སོང་བ་ལྟ་བུ། རྟེན་དཀོན་མཆོག་གསུམ་ལ་དུག་ནད་གསོ་བའི་སྨན་པ་ལྟ་བུ། གཉེན་པོ་དམ་པའི་ཆོས་ལ་སྨན་ལྟ་བུ། ཕྱིན་ཆད་མི་བྱེད་པའི་སྡོམ་སེམས་ལ་ལུས་ཟུང་གསོ་བའི་བཅུད་ལེན་བདུད་རྩི་ལྟ་བུའི་འདུ་ཤེས་དང་བཞི་བསྐྱེད་ནས། ཐོག་མ་མེད་ལྡན་སོགས་ཀྱིས་སུན་འབྱིན་པའི་སྟོབས། དེ་བས་རྒྱལ་བ་སོགས་རྟེན་གྱི་སྟོབས། ཐ་མལ་ནད་ཀྱིས་སོགས་ཀྱིས་གཉེན་པོ་ཀུན་སྤྱོད་ཀྱི་སྟོབས། འདི་ནི་བཟང་པོ་ཞེས་རྐང་པ་གཉིས་ཀྱིས་སྡོམ་པའི་སྟོབས་རྣམས་སྙིང་ཐག་པ་ནས་བྱའོ།། བཞི་པ་རྗེས་སུ་ཡི་རང་བ་འཇིག་རྟེན་དང་འཇིག་རྟེན་ལས་འདས་པའི་དགེ་རྩ་འབྲས་བུ་དང་བཅས་པ་ཀུན་ལ་སྙིང་ཐག་པ་ནས་དགའ་ཞིང་རྗེས་སུ་ཡི་རང་བ་དང་བཅས། སེམས་ཅན་ཀུན་གྱི་སོགས། ལྔ་པ་ཆོས་ཀྱི་འཁོར་ལོ་བསྐོར་བར་བསྐུལ་བ་དང༌། དྲུག་པ་མྱ་ངན་ལས་མི་འདའ་བར་གསོལ་བ་འདེབས་པ། བདུན་པ་བསྔོ་བ་རྣམས་ཕྱོགས་རྣམས་སོགས་ཀྱིས་ཚིག་དོན་དྲན་པར་བྱ། དེ་ནས་བློ་སྦྱགས་པ་ལུས་དང་དེ་བཞིན་སོགས་ཀྱིས་རང་གི་ལུས་ལོངས་སྦྱོད་དུས་གསུམ་བསགས་པའི་དགེ་བ་དང་བཅས་པ་སེམས་ཅན་གྱི་དོན་བསྒྲུབ་པའི་ཕྱིར་དུ་ཕངས་པ་མེད་པར་བསྔོས་ཏེ་གནས་སྐབས་དང་མཐར་ཐུག་ཀུན་ཏུ་འགྲོ་བའི་ཉེར་འཚོ་བླ་ན་མེད་པའི་རྒྱུ་སྙིང་ཐག་པ་ནས་སྨོན་པ་ལ་བློ་སྦྱངས། གཉིས་པ་དངོས་གཞི་དགོངས་གསོལ་སྔོན་དུ་འགྲོ་བས་ཇི་ལྟར་སྔོན་གྱི་སོགས་ལན་གསུམ་གྱིས་སྨོན་འཇུག་སྟབས་གཅིག་ཏུ་བླང༌། གསུམ་པ་མཇུག་ལ། དེང་དུས་བདག་སོགས་ཀྱིས་རང་དགའ་བ་བསྒོམ། བདག་གིས་དེ་རིང་སོགས་ཀྱིས་གཞན་དགའ་བ་སྒོམ་དུ་གཞུགས། དེ་དག་གི་རྗེས་སུ་བྱང་ཆུབ་སེམས་མཆོག་སོགས་ཀྱིས་སྨོན་ལམ་ཀྱང་བྱའོ།། དེས་བསམ་པ་བྱང་ཆུབ་ཀྱི་སེམས་རང་རྒྱུད་ལ་བཟུང་བ་དེ་སོང༌། གསུམ་པ་ཚུལ་ཇི་ལྟར་འཇུག་པའི་སྦྱོར་བ་ལ་ཉམས་ལེན་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པ་དྲུག་ཏུ་འདུ་བས་ནེ་དག་གི་ངོ་བོ་རིམ་པ་བཞིན། ཁྱད་ཆོས་བཞི་དང་ལྡན་པའི་གཏོང་སེམས། སྤོངས་སེམས། མི་འཁྲུག་པའི་སེམས། སྤྲོ་བའི་སེམས། མི་གཡེང་བའི་སེམས། ཆོས་རབ་ཏུ་རྣམ་པར་འབྱེད་པ་རྣམས་ཡིན། ཁྱད་ཆོས་བཞི་ནི། སྦྱིན་པ་མི་མཐུན་ཕྱོགས་ཉམས་དང༌། རྣམ་པར་མི་རྟོག་ཡེ་ཤེས་ལྡན། འདོད་པ་ཐམས་ཅད་ཡོངས་རྫོགས་བྱེད། སེམས་ཅན་ཡོངས་སྨིན་བྱེད་རྣམ་གསུམ། ཞེས་གསུངས། མི་མཐུན་པའི་ཕྱོགས་ནི་རིམ་པ་བཞིན་སེར་སྣ། ཚུལ་འཆལ། ཁོང་ཁྲོ། ལེ་ལོ། རྣམ་གཡེང༌། ཤེས་འཆལ་དྲུག སེམས་ཅན་གྱི་འདོད་པ་ཡོངས་སུ་རྫོགས་ཚུལ་ནི། སྦྱིན་པས་ལོངས་སྤྱོད་སོགས་སྦྱིན། ཚུལ་ཁྲིམས་ཀྱིས་ཡིད་དྭངས་པར་བྱེད། བཟོད་པས་གནོད་པ་དྭང་དུ་ལེན། བརྩོན་འགྲུས་ཀྱིས་དགོས་པའི་གྲོགས་བྱེད། བསམ་གཏན་གྱིས་རྫུ་འཕྲུལ་དང་མངོན་ཤེས་ཀྱིས་འདུན་པར་བྱེད། ཤེས་རབ་ཀྱིས་བླང་དོར་གྱི་གནས་སྟོན་པར་བྱེད། དེ་དག་གིས་འདོན་པ་ཡོངས་སུ་རྫོགས་པར་བྱས་ཏེ་དངོས་སམ་བརྒྱུད་ནས་ཉན་ཐོས་རང་རྒྱལ་རྫོགས་པའི་བྱང་ཆུབ་གསུམ་གང་རུང་ལ་འགོད་པ་སེམས་ཅན་ཡོངས་སྨིན་བྱེད་པ་ཡིན། དེ་ལྟ་བུའི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པ་དེ་དག་ཀྱང་སེམས་སྦྱོང་བའི་སྤྱོད་པ་ལ་འདུ་བའི་ཚུལ། དང་པོ་སྦྱིན་པ་ནི་རང་གི་ལུས་ལོངས་སྤྱོད་དུས་གསུམ་གྱི་དགེ་བའི་རྩ་བ་དང་བཅས་པ་ཐམས་ཅད་མ་བཏང་བའི་ཉེས་གམིགས། བཏང་བའི་ཕན་ཡོན། གཏོང་དགོས་པའི་རྒྱུ་མཚན་སོགས་ལ་བསམ་ནས་སྙིང་ཐག་པ་ནས་གཏོང་སེམས་སྦྱོང་བ་དེ་ཡིན། གཉིས་པ་ཚུལ་ཁྲིམས་ལ་སྲུང་བྱེད་ཐབས་དང། དེས་ཇི་ལྟར་བསྲུང་ཚུལ་གཉིས། དང་པོ་སྲུང་བྱེད་ཀྱི་ཐབས་ལ་འཇུག་ལྡོག་གི་གནས་ལ་གཟོབ་པའི་བག་ཡོད། བླང་དོར་མི་བརྗེད་པའི་དྲན་པ། སྒོ་གསུམ་གྱི་གནས་སྐབས་ལ་བརྟགས་པའི་ཤེས་བཞིན་དང་གསུམ། གཉིས་པ་དེས་ཇི་ལྟར་སྲུང་ཚུལ། དང་པོ་དྲན་པས་བླང་དོར་མི་བརྗེད་པར་བྱས་ཏེ་ཤེས་བཞིན་གྱིས་རང་གི་ལུས་ངག་ཡིད་དསུམ་གྱི་གནས་སྐབས་ལ་བརྟག་ནས་བསྒྲུབ་བྱ་དགེ་བའི་ཕྱོགས་དང་དུ་མི་ལེན་པ་དང༌། སྤང་བྱ་མི་དགེ་བ་ལ་འཇུག་འདོད་ཀྱི་བསམ་པ་སྐྱེས་ངོ་ཤེས་པར་བྱ། དེའི་ཚེ་བག་ཡོད་ཀྱིས་དགེ་བའི་ཕན་ཡོན་དྲན་ནས་དྭང་དུ་བླང་ཞིང༌། ཉེས་སྤྱོད་མི་དགེ་བའི་ཕྱོགས་ཀྱི་ཉེས་དམིགས་དྲན་ནས་སྤང་བར་བྱ་བ་ལ་བསླབ། དེ་དག་གི་རྒྱུ་ཡང་ལས་འབྲས་ལ་ཡིད་ཆེས་པ་ཡིན་པས་རྒྱལ་བའི་བཀའ་འཁྲུལ་བ་མེད་པའི་རྗེས་སུ་འབྲང་སྟེ་ཡིད་ཆེས་བསྐྱེད། དེ་ནས་མི་དགེ་བ་བྱས་ན་ངན་སོང་དུ་འགྲོ་ངེས། ངན་སོང་དུ་སྐྱེས་ན་སྡུག་བསྔལ་འདི་ལྟ་བུ་ཡོད་པས། གཞན་དོན་ལྟ་ཅི་རང་དོན་ཡང་མི་འགྲུབ་སྙམ་དུ་འཁོར་བའི་སྡུག་བསྔལ་དྲན་པ་འདི་སྙིང་ནས་རྒྱུད་ལ་སྐྱེ་ངེས་བྱ། བསྲུང་བྱ་རྣམ་གྲངས་མང་ཡང་སྨོན་སེམས་ཀྱི་མི་མཐུན་ཕྱོགས་སེམས་ཅན་བློས་བཏང་བ། ཉན་རང་གི་སར་སེམས་བསྐྱེད་པ། ནག་པོའི་ཆོས་བཞི་སྤང་བ་གསུམ་གཙོ་བོར་སྲུང༌། ནག་པོའི་ཆོས་བཞི་ནི། མཆོད་འོས་བསླུ་དང་འགྱོད་མེད་འགྱོད་པ་བསྐྱེད། དམ་པར་སྐུར་འདེབས་འགྲོ་ལ་གཡོ་སྒྱུས་སྤྱོད། ནག་པོའི་ཆོས་བཞི་སྤངས་ཤིང་ལྡོག་པ་ནི། དཀར་པོའི་ཆོས་བཞི་ཡིན་པས་ཀུན་ཏུ་སྤྱད། ཅེས་གསུངས། མཐུན་ཕྱོགས་འབྲས་བུ་རྫོགས་པའི་བྱང་ཆུབ་དང༌། དེའི་རྒྱུ་བྱང་ཆུབ་ཀྱི་སྦྱོད་པ་ལ་སྙིང་ཐག་པ་ནས་མོས་པ། གཞན་གྱི་དགེ་བ་གང་བྱེད་ཀུན་ལ་སྙིང་ནས་སྤྲོ་བས་ཡི་རང༌། དེ་དག་གི་དགེ་རྩ་གཞན་དོན་རྫོགས་བྱང་དུ་བསྔོ་བ་སྟེ། ཐེག་ཆེན་གྱི་བསྒོམ་ལམ་གསུམ་པོ་འདི་ཁོ་ན་ཉམས་སུ་བླངས། འཇུག་སྡོམ་གྱི་མི་མཐུན་ཕྱོགས་སྤྱིར་གཞན་གནོད་གཞིར་བཅས་སྤོངས་པ་དང༌། ཁྱད་པར་ཉེས་དམིགས་ཆེ་ཤོས། དཀོན་མཆོག་གི་དཀོར་ཕྲོག་པ། བྱང་སེམས་ལ་སྐུར་བ་འདེབས་པ། ཆོས་སྤོང་གི་ལས་བྱེད་པ་སོགས་སྲོག་དང་བསྡོས་ཏེ་བསྲུང༌། མཐུན་ཕྱོགས་དགེ་རྩ་ཕྲ་མོ་ཚུན་ཆད་ཁྱད་དུ་མི་གསོད་པར་དམ་པ་གསུམ་གྱིས་ཟིན་པར་ཉམས་སུ་བླང་བར་བྱའོ།། གསུམ་པ་བཟོད་པའི་ཕ་རོལ་ཕྱིན་པ་ལ། བཟོད་པའི་ཡུལ་བདག་ལ་བརྙས་པ་བྱེད་པ་དང༌། ཚིག་རྩུབ་སྨྲ་བ། ལྐོག་ཏུ་མི་སྙན་སྨྲ་བ། སྡུག་བསྔལ་བྱེད་པ་དང་བཞི། བདག་གི་བླ་མ་དང་མཛའ་བཤེས་སོགས་ལ་དེ་ལྟར་བཞི་བྱེད་པ་དང༌། བདག་གི་དགྲ་དང་མི་མཐུན་པའི་ཕྱོགས་ལ་བདེ་བ་བྱེད་པ། རྙེད་བཀུར་བྱེད་པ། བསྟོད་པ། སྙན་པར་སྨྲ་བ་བཞི་སྟེ་མི་འདོན་པ་བཅུ་གཉིས། དེ་དག་ལས་ལྡོག་པ་འདོད་པ་བཅུ་གཉིས་ཀྱི་གེགས་བྱེད་པ་སྟེ་བཟོད་པའི་ཡུལ་ཉི་ཤུ་རྩ་བཞིའོ།། དེ་དག་རེ་རེ་བཞིན་ཡང་རྒྱུ་མཚན་དང་རྒྱུ་དེ་དག་ལས་བྱུང་བའི་སྡུག་བསྔལ་གྱིས་མི་སྐྱོ་བ་སྡུག་བསྔལ་དྭང་ལེན། བྱེད་པ་པོ་གང་ཟག་ལ་མི་ཁྲོ་བ་གནོད་བྱེད་ལ་ཅི་མི་སྙམ་པ་སྟོང་ཉིད་ཟབ་མོའི་དོན་ལ་བློ་འཇོག་པ་དང་གསུམ་གསུམ་གྱིས་བཟོད་པར་བྱེད་པའི་ནང་ཚན་བཟོད་པའི་རྣམ་གྲངས་བདུན་ཅུ་རྩ་གཉིས་ལ་གོམ་པར་བྱེད་པའོ།། དེ་ཡང་རྒྱུ་མཚན་གསུམ་གྱིས་སྡུག་བསྔལ་དྭང་དུ་ལེན་ཏེ། སྡུག་བསྔལ་ལ་བརྟེན་ནས་བདག་གི་སྡིག་པ་འཛད་པས་སྡུག་བསྔལ་སྡིག་པའི་ཕྱག་མར་ཤེས་ནས་དྭང་དུ་བླང༌། སྡུག་བསྔལ་ལ་བརྟེན་ནས་འཁོར་བ་ལ་ངེས་འབྱུང་སེམས་ཅན་ལ་སྙིང་རྗེ། དགེ་སྡིག་ལ་བླང་དོར་སོགས་སྐྱེ་བས་སྡུག་བསྔལ་དགེ་བའི་བསྐུལ་མར་ཤེས་ནས་དྭང་དུ་བླང༌། སྡུག་བསྔལ་གྱིས་ང་རྒྱལ་གྱི་མགོ་གནོན། དངོས་གྲུབ་ཀྱི་སྣ་འདྲེན་པས་སྡུག་བསྔལ་སེམས་ཀྱི་རྒྱན་དུ་ཤེས་ནས་དྭང་དུ་བླང༌། རྒྱུ་མཚན་གསུམ་གྱིས་གནོད་བྱེད་ལ་ཅི་མི་སྙམ་པའི་བཟོད་པ་སྒོམ་སྟེ། སེམས་ཅན་རྨོངས་པ་ཉོན་མོངས་ཀྱིས་དབང་དུ་གྱུར་ནས་རང་ལའང་གནོད་པ་བྱེད་ན་གཞན་ལ་ལྟ་ཅི་སྨོས་སྙམ་དུ་གནོད་བྱེད་སྙིང་རྗེའི་ཡུལ་དུ་བལྟས་ནས་བཟོད་པར་བྱ། དེའང་རང་གི་སྔོན་བྱས་ཀྱི་ལས་དང་འཕྲལ་གྱི་སྤྱོད་ལམ་མི་བཟོད་པས་བདག་ལ་གནོད་བྱེད་རྣམས་བྱུང་བ་ཡིན་སྙམ་དུ་ལེ་ལེན་ཐམས་ཅད་རང་ལ་བདའ་ཞིང་བཟོད་པ་སྒོམ། དགྲ་ལ་བརྟེན་ནས་བདག་གི་བཟོད་པའི་ཚོགས་རྫོགས་ཤིང་བྱང་ཆུབ་སྤྱོད་པའི་གྲོགས་སུ་འགྱུར་བས་ཕན་འདོགས་པའི་བཤེས་སུ་བསམ་ནས་བཟོད་པར་བྱའོ།། རྒྱུ་མཚན་གསུམ་གྱིས་ཆོས་ཟབ་མོ་ལ་ངེས་པར་བསམ་ནས་བཟོད་པ་སྒོམ་སྟེ། དོན་དམ་སྟོང་ཉིད་སྤྲོས་བྲལ་ལ་བསམ་ན་གནོད་བྱ་གནོད་བྱེད་རང་བཞིན་མེད་པ་ལ་བསམ་ནས་བཟོད་པ་སྒོམ། ཀུན་རྫོབ་རྟེན་འབྲེལ་སྒྱུ་མ་ལ་བསམ་ན་ཐམས་ཅད་རྐྱེན་གྱིས་བསྐུལ་བས་གནོད་བྱེད་དང་སྡུག་བསྔལ་རང་དབང་མེད་པ་ལ་བསམ་ནས་བཟོད་པ་སྒོམ། ཟུང་འཇུག་རང་གི་སེམས་ཉིད་ལ་བསམ་ན་ཁོང་ཁྲོ་གཞི་མེད་རྩ་བྲལ་དུ་དག་པ་ལ་བསམ་ནས་བཟོད་པ་སྒོམ་པར་བྱའོ།། བཞི་པ་བརྩོན་འགྲུས་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པ་ལ། མི་མཐུན་ཕྱོགས་ལེ་ལོ་གསུམ་སྤང་བ། མཐུན་ཕྱོགས་སྟོབས་དྲུག་བསྐྱེད་པ་གཉིས་ལས། དང་པོ་ནི་མི་རྟག་པའི་ལྕགས་ཀྱི་བསྐུལ་ཏེ་སྦྱོར་བ་མེད་པའི་ལེ་ལོ་སྤང༌། དམ་པའི་ཆོས་ཀྱི་དགའ་བ་ལ་བསམ་ནས་བྱ་བ་ངན་ཞེན་གྱི་ལེ་ལོ་སྤང༌། རང་གི་སེམས་གཟེངས་བསྟོད་དེ་སྒྱིད་ལུག་གི་ལེ་ལོ་སྤང་ངོ༌།། གཉིས་པ་སྟོབས་དྲུག་ནི། དགེ་བའི་ཕན་ཡོན་དང་སྡིག་པའི་ཉེས་དམིགས་ལ་བསམ་ནས་ཆོས་ལ་མོས་པ་བསྐྱེད་པ་སྦྱོར་བ་མོས་པའི་དཔུང༌། སྙིང་སྟོབས་ཀྱི་དམ་བཅའ་བརྟན་པོས་བརྩམ་པའི་དགེ་རྩ་མཐར་དབྱུང་བ་དངོས་གཞི་བརྟན་པའི་དཔུང༌། འདི་ལ་གསུམ། འཇིག་རྟེན་ན་ཉི་མ་ཤར་བ་ལ་དཔེ་བྱས་ཏེ། བར་ཆད་གཞན་དབང་དུ་མི་གཏོང་བར་རྐྱེན་གྱིས་བརྫི་བ་མེད་པ་དང༌། ཉི་མ་གཅིག་པུར་རྒྱུ་བ་ལ་དཔེར་བྱས་ཏེ་བདག་ཉིད་གཅིག་པུ་གཞན་ལ་མི་སྟོས་པར་བདུད་སྡེ་ཕམ་པར་བྱས་ནས་རྫོགས་པའི་བྱང་ཆུབ་བསྒྲུབ་པ་དང༌། ཉི་མ་ཀུན་ལ་སྣང་བ་ལྟར་བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའི་ཡེ་ཤེས་སྙིང་རྗེ་སྨོན་པ་གསུམ་གྱིས་རང་ཉིད་འགྲོ་བའི་ཉེར་འཚོར་བྱིན་གྱིས་བརླབས་ཏེ་མཁའ་མཉམ་གྱི་འགྲོ་དོན་དྭང་དུ་བླང་བ་དང་གསུམ་ལས་ཀྱི་ང་རྒྱལ། བདག་ཉིད་མཆོག་ཏུ་བལྟས་ཏེ་ལྟུང་བ་ཕྲ་རགས་ཀྱིས་མ་གོས་པར་བྱ་བ་ནུས་པའི་ང་རྒྱལ། ཉོན་མོངས་རྣམས་དམན་པར་བལྟས་ཏེ་མི་མཐུན་ཕྱོགས་ཁྱད་དུ་གསོད་པ་ཉོན་མོངས་པའི་ང་རྒྱལ་དང་གསུམ་མོ།། རང་གི་ལེགས་བྱས་དགེ་རྩ་སྒྲུབ་པ་ལ་མཆོག་ཏུ་དགའ་བར་བསམ་ནས་རྣམ་སྨིན་ལ་རེ་བ་མེད་པར་སྤྲོ་བ་དྭང་དུ་བླང་བ་ཁྱད་པར་དགའ་བའི་དཔུང༌། རང་ཉིད་སྟོབས་ཉམས་པ་དང་ཧ་ཅང་སྐྱོ་བར་གྱུར་པ་ན་སླར་བྱའི་དོན་དུ་རེ་ཞིག་དོར་བགེགས་སེལ་དོར་བའི་དཔུང༌། དྲན་པ་དང་ཤེས་བཞིན་གྱི་སྒོ་ནས་ཉོན་མོངས་འཇོམས་པའི་བྱ་བ་ལྷུར་བླང་ནས་སྤང་བྱ་འཇོམས་པ་ལྷུར་ལེན་གྱི་སྟོབས། རང་གི་སྒོ་གསུམ་ལ་དབང་བསྒྱུར་ཏེ་བག་ཡོད་ཀྱི་གཏམ་དྲན་པས་བསླབ་བྱ་ཀུན་ལ་རང་དབང་གིས་སློབ་པ་དབང་བསྒྱུར་གྱི་སྟོབས་དང་སྟོབས་དྲུག་གོ། ལྔ་པ་བསམ་གཏན་གྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པ་ལ་བསམ་གཏན་གྱི་མི་མཐུན་ཕྱོགས་སྤངས་པ་དང༌། ཞི་གནས་ཀྱི་དམིགས་པ་ཡིད་ལ་བྱ་བ་གཉིས། དང་པོ་མི་མཐུན་ཕྱོགས་སྤང་བ་ལ་གཉིས། འཇིག་རྟེན་སྤང་བ་དང༌། རྣམ་རྟོག་དོར་བ་གཉིས། དང་པོ་འཇིག་རྟེན་སྤང་བ་ནི། རང་གི་ཕ་མ། གཉེན་བཤེས། འཁོར་གཡོག་ལ་སོགས་ནང་སེམས་ཅན་གྱི་ཚོགས་ལ་ཆགས་ནས་དེ་དག་གི དབང་དུ་གྱུར་ན་རང་གི་སེམས་རྩེ་གཅིག་ཏུ་མཉམ་པར་འཇོག་པར་མི་འགྱུར་བས་དེ་དག་དང་འབྲེལ་འདྲིས་འདུ་འཛི་ཐམས་ཅད་སྤངས་ཏེ་དགོན་པ་དབེན་པ་ལ་སོགས་པར་རང་ཉིད་གཅིག་པུར་གནས། དེར་ཡང་རྙེད་པ་དང་བཀུར་སྟི། བསྟོད་པ་དང་སྙན་གྲགས། འཕྲལ་དགོས་ཀྱི་ཡོ་བྱད་སོགས་ལ་ཆགས་ནས་དེ་དག་དོན་དུ་གཉེར་ན། ཡང་དག་པའི་ལམ་ལ་བར་དུ་གཅོད་པས་ཐམས་ཅད་ལ་རེ་དྭོགས་བཅད་དེ་གང་བྱུང་དེས་ཆོག་ལ་བསླབ། གཉིས་པ་རྣམ་རྟོག་དོར་བ་ནི། ལུས་དབེན་པར་གནས་ཤིང་ཧ་ཅང་ཡོ་བྱད་སོགས་དོན་དུ་མི་གཉེར་ཡང་སེམས་འདོད་པའི་དབང་དུ་གྱུར་ན་བསམ་གཏན་རྣལ་མ་རྒྱུད་ལ་མི་སྐྱེ་ཞིང་སེམས་མཉམ་པར་འཇོག་མི་ནུས་པས་དེ་དག་སྤང་དགོས། ཁྱད་པར་གོང་མའི་ཏིང་ངེ་འཛིན་ཁྱད་པར་ཅན་ཐོབ་པ་ལ་འདོད་པའི་འདོད་ཆགས་ལ་བློ་ལོག་པ་འདི་གལ་ཆེ་བས་རྒྱུ་བསྒྲུབ་པར་དཀའ་བ། ངོ་བོ་མི་གཙང་བ་ཡིན་པ། འབྲས་བུ་གནོད་པ་མང་བ་ལ་སོགས་ལ་བསམ་ནས་ཡུལ་བུད་མེད་ཀྱི་སྲེད་པ་ལས་བློ་ལོག་ངེས་བྱ། གཞན་ཡང་ཆོས་བརྒྱད་ཚེ་འདི་སྒྲུབ་པའི་རྣམ་རྟོག་ཐམས་ཅད་དགྲ་ལྟར་བལྟས་ཏེ་ཞེ་འདོད་ངན་པའི་རྟོག་ངན་ཇི་ཙམ་སྐྱེས་ཀྱང་དེ་དག་གི་ཉེས་དམིགས་ཡུན་རིང་དུ་བསམ་ནས་རང་ལ་རང་གི་ཁྲེལ་བཏབ་སྟེ་སྙིང་ཐག་པ་ནས་སྤང་བར་བྱའོ།། གཉིས་པ་དངོས་གཞི་བསམ་གཏན་བསྒོམ་པ་ལ། སྒོམ་ཚུལ་མང་ཡང་འདིར་བྱང་ཆུབ་ཀྱི་སེམས་བསྒོམ་པ་ལ་གཉིས། བདག་གཞན་མཉམ་པ་བསྒོམ་པ་དང༌། བདག་གཞན་བརྗེ་བ་བསྒོམ་པ་གཉིས། དང་པོ་ནི། བདག་དང་སེམས་ཅན་ཐམས་ཅད་བདེ་བ་འདོད་མཉམ་དུ་གཅིག་སྡུག་བསྔལ་མི་འདོད་མཉམ་པ་ལ་བདག་གཅིག་པུ་བསྲུང་ཞིང་གཞན་མི་བསྲུང་བ་ནི་རིགས་པ་མ་ཡིན་པས་བདག་གཞན་མཉམ་པར་སྒོམ་དགོས་ཏེ། བདག་དང་གཞན་དུ་མཉམ་པ་ནི། དང་པོ་ཉིད་དུ་འབད་དེ་བསྒོམ། བདེ་དང་སྡུག་བསྔལ་མཉམ་པས་ནི། ཐམས་ཅད་བདག་བཞིན་བསྲུང་བར་བྱ། ཞེས་གསུངས་པ་ལྟར་ཐོག་མར་བདག་བཞན་མཉམ་པའི་བྱང་ཆུབ་སེམས་བསྒོམ་མོ།། དེའི་ཚུལ་འདི་ལྟར་དགོས་ཏེ། ནམ་མཁའི་མཐའ་དང་མཉམ་པའི་སེམས་ཅན་ཐམས་ཅད་བདག་གི་ཕ་མ་གཉེན་ཚོར་མ་གྱུར་པ་གང་ཡང་མེད་དེ། སློབ་དཔོན་ཀླུ་སྒྲུབ་ཀྱིས། མ་ཡི་གྲངས་མཐའ་རྒྱ་ཤུགས་ཚིག་གུ་ཙམ། །རིལ་བུར་དྲིལ་ཀྱང་ས་ཡིས་ལང་མ་ཡིན། །ཞེས་གསུངས་པ་ལ་སོགས་པའི་ལུང་དང་རིགས་པས་སེམས་ཅན་ཐམས་ཅད་རང་གི་ཉེ་དུར་ཐག་བཅད་ལ། དེ་ནས་བཟུང་བདག་ལ་བདེ་བ་སྐྱེས་པ་ན་སེམས་ཅན་ཐམས་ཅད་བདག་གི་བདེ་བ་དང་བདེ་བའི་རྒྱུ་འདི་ལྟ་བུ་དང་ལྡན་པར་གྱུར་ཅིག་ཅེས་ཞེ་ཐག་པ་ནས་བསྒོམ། ཡང་བདག་ལ་སྡུག་བསྔལ་ཞིག་སྐྱེས་པ་ན། བདག་དང་སེམས་ཅན་ཐམས་ཅད་སྡུག་བསྔལ་དང་སྡག་བསྔལ་གྱི་རྒྱུ་འདི་ལྟ་བུ་དང་བྲལ་བར་གྱུར་ཅིག་སྙམ་དུ་སྙིང་གི་ཁོང་རུས་པའི་གཏིང་ནས་བསྒོམ། དེའི་ཚེ་བསམ་པ་ལ་གེགས་འདི་ལྟ་བུ་སྐྱེ་སྲིད་དེ། བདག་གི་སྡུག་བསྔལ་སེལ་བ་གཞན་ལ་མི་རེ། གཞན་གྱི་སྡུག་བསྔལ་བསལ་བ་བདག་གིས་མི་འགྲུབ་སྙམ་པ་ཉན་ཐོས་ཀྱི་བློ་སྐྱེ་ན། སྤྱོད་འཇུག་ལས། མ་འོངས་པ་ཡི་སྡུག་བསྔལ་ཡང༌། །གནོད་མི་བྱེད་ན་ཇི་ལྟར་བསྲུང༌། །ཞེས་གསུངས་པ་ལྟར་རང་ཉིད་ཀྱིས་ནངས་པར་ཕན་ཆད་ཀྱི་ནད་མེད་པ་དང་ཟས་གོས་ལ་སོགས་ཐོབ་པའི་འབད་པ་ཇི་སྟེ་བྱེད། བདག་སྐད་ཅིག་གིས་འགགས་ནས་དེ་ཕན་ཆད་གཞན་དུ་འགྱུར་བའི་ཕྱིར་རོ།། དེ་ལ་འདི་སྙམ་དུ་མ་རིག་པའི་བག་ཆགས་ཀྱིས་ནངས་པར་ཕན་ཆད་ཀྱང་བདག་ཡིན་ནོ་སྙམ་ན་འཁྲུལ་ཏེ། སྤྱོད་འཇུག་ལས། བདག་གིས་དེ་ནི་མྱོང་སྙམ་པའི། །རྣམ་པར་རྟོག་པ་ལོག་པ་སྟེ། །འདི་ལྟར་སྐྱེ་བའང་གཞན་ཉིད་ལ། འཆི་བ་ཡང་ནི་གཞན་ཞིག་ཡིན། །ཞེས་གསུངས་པ་ལྟར་རོ།། དཔེར་ན་བླུན་པོ་དག་འབབ་ཆུ་འདིས་ན་ནིང་ངའི་གོས་ཁྱེར་རོ་སྙམ་པ་དང་ནངས་པར་ཆུ་འདི་བརྒལ་ལོ་སྙམ་དུ་སེམས་མོད་ཀྱང༌། ན་ནིང་གོས་ཁྱེར་བའི་ཆུ་དེ་ཡང་གཞན་ཡིན་ལ། ནངས་པར་བརྒལ་བའི་ཆུ་དེ་ཡང་གཞན་ཡིན་ནོ།། དེ་བཞིན་དུ་འདས་པའི་སེམས་ཀྱང་བདག་མ་ཡིན་ལ། མ་འོངས་པའི་སེམས་ཀྱང་བདག་མ་ཡིན་པར་གཞན་ཡི་ནོ།། དེ་ལ་འདི་སྙམ་དུ་མ་འོངས་པའི་སེམས་ད་ལྟར་གྱི་བདག་མ་ཡིན་ཡང་བདག་གི་སེམས་ཀྱི་རྒྱུན་ཡིན་ནོ་སྙམ་པའི་སེམས་ཀྱིས་རང་དོན་སྒྲུབ་བོ་ཞེ་ན། སེམས་ཅན་གཞན་བདག་མ་ཡིན་ཡང་བདག་གི་སེམས་ཅན་ཡིན་ནོ་སྙམ་པའི་འདུ་ཤེས་ཀྱི་གཞན་གྱི་དོན་ལ་འཇུག་པར་བྱའོ།། གལ་ཏེ་མགོ་གང་གི་ཁ་བ་སྤུག་སྙམས་པའི་ཚུལ་གྱིས་རང་རང་གི་དོན་ལ་འབད་ཀྱིས། ཕན་ཚུན་གཅིག་གི་དོན་གཅིག་གིས་བསྒྲུབ་མི་ནུས་སོ་སྙམ་ན། སྤྱོད་འཇུག་ལས། རྐང་པའི་སྡུག་བསྔལ་ལག་པས་མིན། ཞེས་གསུངས་པ་ཡང་རྐང་པ་ལ་ཚེར་མ་ཟུག་པ་ཡང་ལག་པས་ཅི་སྟེ་འདོན། དེ་བཞིན་དུ་མིག་ཏུ་རྡུལ་སོང་བ་ལག་པས་དང༌། བུ་ཚའི་དོན་ཕ་མ་དང༌། ཁར་ཟས་འཛུད་པ་ལག་པ་ལ་སོགས་པ་ཡང་རང་རང་གི་དོན་བྱེད་དགོས་པར་འགྱུར་ཏེ་ཧ་ཅང་ཐལ་ལོ།། མདོར་ན་ཕན་ཚུན་གཅིག་གིས་གཅིག་གི་དོན་མ་བྱས་པར་རང་རང་གི་དོན་བསྒྲུབ་དགོས་ན་འགྲུབ་པ་ཤིན་ཏུ་དཀའོ།། དེས་ན་དེ་ལྟར་ཤེས་པར་བྱས་ལ་སེམས་ཅན་གྱི་དོན་ལ་འཇུག་པར་བྱའོ།། གཉིས་པ་བདག་གཞན་བརྗེ་བ་བྱང་ཆུབ་ཀྱི་སེམས་བསྒོམ་པ་ཡང༌། སྤྱོད་འཇུག་ལས། བདག་བདེ་གཞན་གྱི་སྡུག་བསྔལ་དག །ཡང་དག་བརྗེ་བར་མ་བྱས་ན། །སངས་རྒྱས་ཉིད་དུ་མི་འགྲུབ་ཅིང༌། །འཁོར་བ་ན་ཡང་བདེ་བ་མེད། །ཅེས་གསུངས་པ་ལྟར་བདག་གི་བདེ་བ་སེམས་ཅན་ལ་སྦྱིན། སེམས་ཅན་གྱི་སྡུག་བསྔལ་བདག་གིས་བླང་ངོ༌།། དེའི་དམིགས་པ་ཡང༌། དམན་སོགས་བདག་ཏུ་བྱས་པ་དང༌། གཞན་ཉིད་དུ་ནི་བདག་བྱས་ནས། རྣམ་རྟོག་མེད་པའི་སེམས་ཀྱིས་སུ། ཕྲག་དོག་འགྲན་སེམས་ང་རྒྱལ་བསྒོམ། །ཞེས་གསུངས་པའི་དོན་ནི། རང་ལས་དམའ་བའི་གནས་སུ་དགྲ་བཞག དགྲ་འམ་གཞན་མཐོན་པོའི་གནས་སུ་རང་བཞག་ལ་རང་མཐོ་བ་དེ་ལ་དགྲ་དམའ་བ་དེས་ཕྲག་དོག་སྒོམ་དུ་གཞུག བསྒོམ་དེ་ཚར་བ་ན་འདི་ལྟ་བུའི་བསྒོམ་པའི་བསམ་པ་འབྱུང་སྟེ། རང་མཐོན་པོར་བསྒོམ་གཞན་དམའ་བར་བསྒོམ་པ་དེས་རང་ལ་ཕྲག་དོག་བྱས་པར་བསྒོམ་པ་ལ་ཡང་འདི་ལྟ་བུའི་སྡུག་བསྔལ་འབྱུང་ན་གཞན་ལ་ཕྲག་དོག་བྱེད་པ་ག་ལ་འཐད་ཅེས་ཕྲག་དོག་རང་ཞི་བར་འགྱུར་རོ།། དེ་བཞིན་དུ་བདག་དང་མཉམ་པ་ལ་བལྟས་ནས་འགྲན་སེམས་སྒོམ་པ་ཡང་བདག་དང་མཉམ་པའི་དགྲའི་གནས་སུ་རང་ཉིད་བཞག རང་གི་གནས་སུ་དགྲ་དེ་བཞག་ལ་དགྲ་དེས་ཕྱོགས་མཐའ་དག་གི་སྒོ་ནས་བདག་ལ་འགྲན་པར་བསྒོམ་མོ།། བསྒོམ་དེ་གྲོལ་ན་འདི་ལྟ་བུ་བསམ་པ་འབྱུང་སྟེ། རང་དགྲར་བསྒོམ་ནས་གཞན་གྱིས་གནོད་པ་དང་འགྲན་སེམས་བྱས་པར་བསྒོམ་པ་ལ་ཡང་འདི་ལྟ་བུའི་སྡུག་བསྔལ་འབྱུང་ན། གཞན་ལ་གནོད་པ་དང་འགྲན་སེམས་བྱར་ག་ལ་རུང་སྙམ་ནས་འགྲན་སེམས་རང་ཞིར་འགྱུར་རོ།། ཡང་དེ་བཞིན་ང་རྒྱལ་བསྒོམ་པ་ཡང་རང་བས་དམའ་བའི་གནས་སུ་བདག་ཉིད་བཞག རང་གི་གནས་སུ་རང་བས་དམའ་བ་དེ་བཞག་ལ་གཞན་མཐོ་བ་དེས་རང་དམའ་བ་དེ་ལ་རིགས་དང་ཡོན་ཏན་ལ་སོགས་པའི་སྒོ་ནས་ང་རྒྱལ་བྱེད་དུ་གཞུགས། བསྒོམ་དེ་ཚར་བ་ན་བདག་ལ་གཞན་གྱིས་ང་རྒྱལ་བསྒོམ་པ་ན་འདི་ལྟ་བུའི་སྡུག་བསྔལ་འབྱུང་ན་དེའི་ཕྱིར་བདག་གིས་གཞན་ལ་ང་རྒྱལ་བྱར་ག་ལ་རུང་སྙམ་དུ་ང་རྒྱལ་ངོ་བོ་ཉིད་ཀྱིས་ཞི་བར་འགྱུར་རོ།། འདི་དག་གི་དོན་ཞིབ་ཏུ་སྤྱོད་འཇུག་ནས་ཇི་ལྟར་འབྱུང་བ་བཞིན་ཉམས་སུ་བླང་བར་བྱའོ།། དེ་ཙམ་བསྒོམ་པར་མི་ནུས་པས་བསྡུས་ཏེ་བསྒོམ་པར་འདོད་ན། རིན་ཆེན་ཕྲེང་བ་ལས། བདག་ལ་དེ་དག་སྡིག་སྨིན་ཞིང༌། །བདག་བདེ་མ་ལུས་དེར་སྨིན་ཤོག །ཇི་སྲིད་སེམས་ཅན་འགའ་ཞིག་ཀྱང༌། །གང་དུ་མ་གྲོལ་དེ་སྲིད་དུ། །དེ་ཕྱིར་བླ་ན་མེད་པ་ཡི། །བྱང་ཆུབ་ཐོབ་ཀྱང་གནས་གྱུར་ཅིག །དེ་སྐད་བརྗོད་པའི་བསོད་ནམས་འདི། །གལ་ཏེ་དེ་ནི་གཟུགས་ཅན་འགྱུར། །གངྒའི་བྱེ་མ་སྙེད་ཀྱིས་ནི། །འཇིག་རྟེན་ཁམས་སུ་ཤོང་མི་འགྱུར། །འདི་ནི་བཅོམ་ལྡན་འདས་ཀྱིས་གསུངས། །གཏན་ཚིག་ཀྱང་ནི་འདི་ལ་སྣང༌། །ཞེས་བྱ་བ་དང༌། སྤྱོད་འཇུག་ལས། །འགྲོ་བའི་སྡུག་བསྔལ་གང་ཅི་ཡང་རུང༌། །དེ་ཀུན་བདག་ལ་སྨིན་གྱུར་ཅིག །བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའི་དགེ་བ་ཡིས། །འགྲོ་བ་བདེ་ལ་སྤྱོད་པར་ཤོག །ཅེས་བྱ་བའི་དོན་སྒོམ་ཞིང་ངག་ཏུའང་བརྗོད་པར་བྱའོ།། དེ་ལྟར་བདག་གཞན་མཉམ་བརྗེ་སྒོམ་ཚུལ་ནི། འཇམ་དབྱངས་ས་པ་གྱི་གསུང་ལས་བྱུང་བ་ལྟར་བཀོད་པ་ཡིན་ལ། འགྲེལ་པ་རྣམས་ལས་འདི་དང་སྒོམ་ཚུལ་མི་འདྲ་ཙམ་སྣང་ཡང་རང་གི་བློ་གང་བདེ་ལྟར་བསྒོམ་པར་བྱའོ།།

      དྲུག་པ་ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པ་ལ། ཤེས་རབ་ཀྱི་ངོ་བོ་ངོས་བཟུང་བ་དེ་ཡུལ་བདག་མེད་ལ་འཇུག་པའོ།། དང་པོ་ཤེས་རབ་ཀྱི་ངོ་བོ་ནི། མཉམ་བཞག་གི་དུས་སུ་ཆོས་ཐམས་ཅད་སྟོང་ཉིད་དུ་ཤེས་པ་དང༌། རྗེས་ཐོབ་ཏུ་སྒྱུ་མ་དང་རྨི་ལམ་ལྟར་བདེན་མེད་དུ་ཤེས་པ་ཉིད་ཤེས་རབ་ཀྱི་ངོ་བོ་ཡིན་ནོ།།

      གཉིས་པ་དེ་ཡུལ་བདག་མེད་ལ་འཇུག་པ་ནི། གང་ཟག་གི་བདག་མེད་དང༌། ཆོས་ཀྱི་བདག་མེད་བསྒོམ་པའོ།། དང་པོ་ནི་རྨོངས་པ་རྣམས་ལས་བསོག་པ་པོ་དང་འབྲས་བུ་མྱོང་བ་པོ་བདག་གམ་གང་ཟག་གམ་སྐྱེས་བུའམ་སེམས་ཅན་ལ་སོགས་པར་གདགས་པའི་གཞི་དེ་ཀ་ལུས་ངག་ཡིད་གསུམ་དང་གཅིག་པ་ཡིན་ནམ། ཐ་དད་པ་ཞིག་ཡིན་ནམ། བེམ་པོ་ཞིག་ཡིན་ནམ། ཤེས་པ་ཞིག་ཡིན་ནམ། རྟག་པ་ཞིག་ཡིན་ནམ། མི་རྟག་པ་ཞིག་ཡིན་ནམ་སྙམ་པ་ལ་སོགས་རིགས་པ་དུ་མས་བརྟགས་ཤིང་དཔྱད་པ་བློ་འཁྲུལ་པའི་དབང་གིས་བདག་མེད་ལ་བདག་དང༌། གཞན་མེད་ལ་གཞན་དུ་བཟུང་བ་མ་གཏོགས་དོན་རང་ངོས་ནས་གྲུབ་པའི་བདག་གམ་སེམས་ཅན་ཅུང་ཟད་ཀྱང་མེད་པར་ཐག་བཅད་དོ།། གཉིས་པ་ཆོས་ཀྱི་བདག་མེད་སྒོམ་པ་དྲན་པ་ཉེ་བར་བཞག་པ་བཞི་ལས། དང་པོ་ལུས་དྲན་པ་ཉེ་བར་བཞག་པ་ནི། འདི་ལྟར་སྣང་སྲིད་འཁོར་འདས་ཀྱིས་བསྡུས་པའི་ཆོས་ཐམས་ཅད་ཀྱང་རང་གི་སེམས་ལ་སྣང་ཞིང་སེམས་ཀྱིས་བཏགས་པ་མ་གཏོགས་ཅུང་ཟད་ཀྱང་མེད་ལ། སེམས་དེ་ཉིད་ཀྱང་ལུས་ལ་བརྟེན། ལུས་ཀྱི་དབང་དུ་གྱུར་པ་ཡིན་པས་ན་ལུས་བརྟགས་པར་བྱ་སྟེ། ལུས་ཞེས་བྱ་བ་དེ་ཡན་ལག་ཚོགས་པ་འདི་དག་དང་གཅིག་གམ་ཐ་དད་དམ་ལུས་དེ་དང་པོ་གང་ནས་བྱང་བ་ཡིན། བར་དུ་ད་ལྟ་གར་གནས། མཐར་གར་འགྲོ་སོགས་བརྟགས་ལ་ལུས་རང་བཞིན་མེད་པའི་དོན་ལ་མཉམ་པར་བཞག ཡང་ལུས་ལ་ཞེན་པ་སྐྱེས་ན་རང་གཞན་གྱི་ལུས་མི་གཙང་བ་སྒྱུ་མ་ལྟ་བུ་སོགས་སུ་བསྒོམ་ལ་ལུས་ཀྱི་ཞེན་པ་སྤང་ངོ༌།། གཉིས་པ་ཚོར་བ་དྲན་པ་ཉེ་བར་བཞག་པ་ནི། ཚོར་བ་བདེ་སྡུག་འདི་དག་ནི་སྲེད་ལེན་སོགས་ཉོན་མོངས་པ་ཐམས་ཅད་ཀྱི་རྩ་བ་ཡིན་པས་སེམས་དང་གཅིག་གམ་ཐ་དད་ལ་སོགས་པ་ལ་བརྟགས་ལ། ཚོར་བ་རང་བཞིན་མེད་པའི་དོན་སྒོམ་ཞིང་གཞན་ཚོར་བ་ཐམས་ཅད་སྡུག་བསྔལ་དང་སྙིང་པོ་མེད་པ་ལ་སོགས་པར་སྒོམ་པར་བྱའོ།། གསུམ་པ་སེམས་དྲན་པ་ཉེ་བར་བཞག་པ་ནི། ཚོགས་དྲུག་གིས་བསྡུས་པའི་སེམས་རྣམ་པར་ཤེས་པའི་རིགས་རྒྱུན་འདི་ཉིད་སྔ་ཕྱི་དང་བཟང་ངན་ལ་སོགས་པ་དུ་མར་སྣང་བ་འདི་རྣམས་གཅིག་པ་ཞིག་ཡིན་ནམ། ཐ་དད་པ་ཞིག་ཡིན་ནམ། དགའ་དང་མི་དགའ། དད་དང་མ་དད། ཆོས་དང་ཆོས་མིན། དགའ་སྡུག་ཆགས་སྡང་ལ་སོགས་པར་སྣང་བའི་སེམས་འདི་དག་གཅིག་ཡིན་ནམ། ཐ་དད་པ་ཞིག་ཡིན་ལ་སོགས་པར་བརྟགས། གཅིག་ཡིན་ན་སེམས་གཅིག་ལ་དགའ་སྡུག་དང་ཆགས་སྡང་ལ་སོགས་དུ་མར་སྣང་བའི་རྒྱུ་ཅི་ཡིན་བརྟགས། དེ་དག་གནས་སྐབས་རྐྱེན་གྱི་དབང་གིས་བྱུང་བ་ཡིན་སྙམ་ན། རྐྱེན་ཅུང་ཟན་ཀྱིས་ཀྱང་མ་བསྒྱུར་ཞིང་ཡུལ་གང་དང་མ་འཕྲད་པའི་སེམས་རང་གི་ངོ་བོ་ཇི་ལྟ་བུ་ཞིག དེ་ཡོད་པ་ཞིག་གམ། མེད་པ་ཞིག་གམ། རྟག་པ་ཞིག་གམ། མི་རྟག་པ་ཞིག་སྙམ་པ་ལ་སོགས་པ་དུ་མས་ཡང་དང་ཡང་དུ་བརྟགས་ལ་སེམས་གཞི་མེད་རྩ་བྲལ་དུ་གཏན་ལ་ཕབ་བོ།། བཞི་པ་ཆོས་དྲན་པ་ཉེ་བར་བཞག་པ་ནི། དེ་ལྟར་ལུས་ཚོར་སེམས་གསུམ་ལས་གཞན་པའི་འདུ་ཤེས་དང་འདུ་བྱེད་འདུས་མ་བྱས་གསུམ་གྱིས་བསྡུས་པའི་ཆོས་ཐམས་ཅད་ཀྱང་རྒྱུ་རྐྱེན་རྟེན་འབྲེལ་ལས་སྐྱེས་པའི་ཕྱིར་ན་རང་བཞིན་བདེན་པར་མ་གྲུབ་པའི་སྟོང་ཉིད་སྤྲོས་པའི་མཐའ་ཐམས་ཅད་དང་བྲལ་བར་གཏན་ལ་ཕབ་ནས་ཀུན་རྫོབ་སྒྱུ་མ་རྨི་ལམ་ལྟ་བུའི་རོལ་པས་ཆགས་བདུན་སྤང་བའི་སྤྱོད་པ་རྒྱ་མཚོ་ལ་བསླབ་ཅིང༌། དོན་དམ་པར་ཆོས་ཐམས་ཅད་རང་བཞིན་གྱིས་གྲུབ་པ་རྡུལ་ཙམ་ཡང་མེད་པར་ཤེས་པས་གང་ལ་ཡང་ཞེན་པ་མེད་པར་ཉམས་སུ་བླང་ངོ༌།། འགྲོ་བའི་སྡུག་བསྔལ་སྨན་གཅིག་པུ། །བདེ་བ་ཐམས་ཅད་འབྱུང་བའི་གནས། །བསྟན་པ་རྙེད་དང་བཀུར་སྟི་དང༌། །བཅས་ཏེ་ཡུན་རིང་གནས་གྱུར་ཅིག ཅེས་པ་འདིའང་ཨ་བུ་ཧྲལ་པོས་སྨྲས་སོ།། དགེའོ།། བཀྲ་ཤིས།། །།




      Shantideva: NHẬP BỒ ĐỀ HẠNH LUẬN

       Entering the Bodhisattva Way Of Life (English translation not available here) –
      Bước Vào Đường Đi của Bồ Tát
      Tác Luận: Thánh Giả Tịch Thiên [Shantideva] –
      Vìệt dịch: hồng như – Bản hiệu đính, 21/03/2014.
      Điều kiện hành trì: Pháp phổ thông, ai cũng có thể đọc và hành trì.

      Lời Dịch Giả

      Thầy tôi dạy rằng: “Cảnh giới chứng ngộ của ngài Shantideva, kẻ phàm như chúng ta đây không làm sao có thể tưởng tượng nổi. Vậy mà các con lại đủ túc duyên để nghe được những lời này, thật là phước báu khó tìm cầu, phải biết trân quí.”

      Bằng tấm lòng trân quí như vậy, tôi xin dịch bài pháp này. Là niềm tri ân sâu xa đối với Ân Sư cùng hết thảy những ai còn nán lại trong khổ đau sinh tử để cho kẻ chậm chân như tôi đây vẫn còn hy vọng phát khởi tâm bồ đề.

      đệ tử tại gia hồng như
      10/2013

      MỤC LỤC

      Tiểu Sử Tác Giả Shantideva

      Hai nguồn sử liệu chính về cuộc đời ngài Shantideva (Tịch Thiên) đến từ ngài Butön (1290-1364) – và ngài Jetsün Tāranātha (1575-1608). Ngoài ra còn một bản văn ngắn được tìm thấy trong các tác phẩm của học giả Yeshe Peljor (thế kỷ 18). Gần đây, các nhà nghiên cứu phát hiện thêm một đoản văn trong bản thảo chép tay ở Nepal thế kỷ 14.

      Ngài Kunzang Pelden trong bộ luận “Văn Thù Kim Khẩu Cam Lồ” đã dựa theo bản văn của ngài Butön để soạn tiểu sử của ngài Shantideva. Bản tiếng Việt lược dịch từ tiểu sử này.

      Nhập Bồ Đề Hạnh Luận (Bodhicaryāvatāra) do Bồ tát Shantideva (Tịch Thiên) trước tác. Ngài là bậc thầy uyên thâm hội đủ ba phẩm tính cần có của luận giả: trực chứng chân đế, trực kiến bổn tôn, thông làu ngũ minh. Khi còn tại thế, ngài Shantideva viên thành bảy công hạnh phi thường. Đặc biệt ngài là người được đấng bổn tôn Diệu Âm[1] trực tiếp hộ niệm gia trì.

      Ngài Shantideva vốn mang dòng máu đế vương. Vào khoảng đầu thế kỷ VIII tại miền Nam xứ Saurashtra (nay là Bang Gujarat tại Tây Bắc Ấn Độ), quốc vương Kalyanavarnam hạ sanh thái tử, đặt tên là Shantivarman. Từ nhỏ thái tử đã sớm hướng tâm về chư Phật trong các thời quá khứ, tự nhiên mang sẵn dòng giống Đại Thừa, dành trọn tấm lòng tôn kính phi thường cho chư Tăng sĩ, Đạo sư. Ngài phụng sự hiến cúng khắp cả, đặc biệt quan tâm chăm sóc cho người nghèo hèn, tật bệnh, đọa rơi. Với trái tim kiên định hướng về nẻo giác, ngài tích lũy tri thức, thông làu ngũ minh. Đặc biệt ngài thỉnh được nghi quỹ đức Văn Thù từ một vị khất sĩ khổ hạnh, hành trì miên mật và xem đức Văn Thù là bổn tôn.

      Khi Quốc vương băng hà, vương quyền trao về cho Thái tử Shantivarman. Ngai vàng được dựng lên lộng lẫy để chuẩn bị cho lễ Đăng quang. Ngay đêm hôm trước đại lễ, thái tử nằm mộng thấy đức Diệu Âm tọa trên ngai vàng, nhìn ngài mà nói như sau:

      Con yêu duy nhất, / ngai này của ta.
      Ta là Văn Thù / sư phụ con đây.
      Sao con có thể / sánh với sư phụ
      ngang vai ngang vế / ngồi cùng một ngai?

      Giật mình tỉnh giấc, thái tử Shantisarman hiểu rằng việc kế thừa vương vị là điều chẳng nên làm. Lòng không lưu luyến tài sản thế gian, ngài từ bỏ ngai vàng, đến học viện Na-lan-đà thọ giới cùng ngài Jayadeva, thượng thủ của năm trăm vị Hiền Thánh, và được sư phụ ban cho pháp hiệu Shantideva[2].

      Trong thời gian tu học tại Na-lan-đà, ngài được đức Văn Thù trực tiếp truyền cho Tam Tạng kinh điển. Ngài dựa theo đó tu tập miên mật, qui nạp nội dung chánh pháp thành hai bộ luận: Học Tập LuậnKinh Tập Luận. Mặc dù ngài Shantideva thành tựu vô lượng thiện đức từ cả hai pháp diệt và đạo, thế nhưng chư Tăng đồng học vẫn không hay biết, chỉ thấy người này hết ăn (Bhuj) lại ngủ (Sup), rồi lại đi lang thang (Kutimgata), nên gọi ngài là Bhu-su-ku. Họ vô cùng bất bình, than rằng, “cả ba việc của người xuất gia tại đây[3], người này chẳng được việc nào cả, sao đủ tư cách thọ trai tăng! Phải đuổi đi mới được!” Họ liền bàn cách đuổi ngài đi, bày ra việc chư Tăng thay phiên nói pháp, tin chắc rằng bao giờ đến phiên phải nói pháp, chắc chắn ngài sẽ xấu hổ mà trốn đi. Họ liên tục đến thúc dục, nhưng lần nào ngài cũng từ chối, bảo rằng không biết gì để nói. Họ kéo nhau đến thỉnh Viện trưởng ra lệnh cho ngài nói pháp. Viện trưởng vừa lên tiếng, ngài liền hứa ngay. Thấy vậy, một số tăng sĩ bắt đầu chột dạ. Để thách thức ngài, họ bày biện cúng phẩm cao như núi, mời thật đông người đến dự, dựng một tòa sư tử chênh vênh ngay chính giữa, rồi mời ngài đến. Bất ngờ thấy ngài đã tọa sẵn trên pháp tòa, họ kinh ngạc hoang mang, không hiểu ngài thượng lên pháp tòa bằng cách nào.

      Lúc bấy giờ ngài Shantideva điềm nhiên cất tiếng hỏi: “Các ông muốn nghe pháp nào, pháp thường nghe, hay pháp chưa từng nghe?”

      Cả pháp hội sững sờ. “Xin cho chúng tôi nghe pháp chưa từng nghe.”

      Học Tập Luận quá dài, Kinh Tập Luận lại quá ngắn, vì vậy ngài Shantideva thuyết Nhập Bồ Đề Hạnh Luận, nghĩa rộng nhưng văn gọn. Lúc bấy giờ đức Văn Thù hiện ra ngay giữa trời không, nhiều người thấy được, tín tâm trào dâng vô bờ. Khi đọc đến chỉnh cú 34, chương 9, “cả sắc và không / đều vắng trong tâm…”,  ngài Shantideva và đức Văn Thù cùng thăng lên không trung, cao dần, rồi biến mất, chỉ còn giọng nói ngài Shantideva vọng về cho đến cuối bộ luận.

      Trong chúng hội, các vị trí nhớ phi thường liền vội vã chép lại bài pháp, nhưng các bản văn dài ngắn không đồng: có vị chép thành bảy trăm chỉnh cú, có vị chép thành một ngàn chỉnh cú, có vị lại chép thành nhiều chỉnh cú hơn. Chư Hiền giả vùng Kashmir chép thành bảy trăm chỉnh cú và gom thành chín chương, trong khi đó chư vị ở Trung Ấn (Magadha – Ma Kiệt Đà) lại chép thành một ngàn chỉnh cú gom thành mười chương. Lúc ấy, bản văn có sự bất nhất như vậy. Hơn nữa, không ai biết gì về hai bộ luận mà ngài Shantideva dặn dò là cần phải đọc, bộ Học Tập LuậnKinh Tập Luận (xem chương 5, chỉnh cú 105-106).

      Về sau, nghe nói ngài Shantideva đang ở tại bảo tháp Shrīdakṣngahiṇa, vùng Nam Ấn, hai vị hiền thánh với trí nhớ thần thông đã lặn lội tìm đến gặp, xin ngài chuẩn xác lại bộ luận. Ngài xác định bản chép của chư Hiền giả vùng Magadha là chính xác. Khi hỏi đến Học Tập LuậnKinh Tập Luận, ngài bảo rằng hai vị sẽ tìm thấy hai bộ luận này giấu trên mái nhà trong tịnh xá của ngài tại Học Viện Na-lan-đà. Ngài cũng nhân dịp này truyền khẩu và ban lời khai thị cho hai vị.

      Ngài Shantideva sau đó du hành về hướng Đông, vận dụng thần thông hàng phục cuộc xung đột nghiêm trọng, mang lại hòa bình cho cả đôi bên.

      Ngài cũng độ cho năm trăm người ngoại đạo miền Tây gần xứ Magadha. Lúc ấy nhằm lúc thiên tai, cả làng lâm nạn đói. Dân làng bảo nếu được ngài cứu mạng, họ nguyện tin theo giáo pháp của ngài. Ngài khi ấy mang bình bát chứa cơm khất thực, cầm trong tay, gia trì bằng đại định. Chỉ với một bình bát, cả làng đều được thỏa thuê no đủ. Nhờ duyên lành này, cả làng bỏ mê tín để bước vào chánh pháp.

      Thêm một thời gian sau đó, lại trong một nạn đói kinh khiếp, ngài đã cứu mạng một ngàn hành khất.

      Về sau ngài làm cận vệ cho Quốc Vương Arivishana, lúc bấy giờ đang gặp nạn chiến tranh với giặc Machala phía Đông Ấn. Ngài đeo bên mình thanh kiếm gỗ đầy uy lực, đủ khả năng hàng phục mọi hiểm họa, mang an bình đến khắp mọi nơi, được sự nể trọng của khắp cả. Tuy vậy, một số quần thần sanh lòng ganh ghét, đến bẩm báo với vua rằng: “đây chỉ là tên bịp bợm, ngưỡng mong bệ hạ suy xét. Hắn nào có vũ khí gì đâu, chỉ đeo mỗi thanh kiếm gỗ, làm sao bảo vệ được cho bệ hạ!” Vua nghe xong nổi giận, xét vũ khí của từng người. Đến khi vua bảo ngài Shantideva tuốt kiếm, ngài từ tốn thưa rằng làm như vậy sẽ khiến vua bị thương.

      “Ta bị thương mặc lòng!  ngươi cứ hãy rút kiếm ta xem!” Vua ra lệnh.

      Không thể cãi lệnh, ngài mời vua đến nơi vắng vẻ, thỉnh vua lấy tay che một mắt, chỉ nhìn bằng con mắt còn lại. Khi thanh kiếm rút ra khỏi vỏ, hào quang rực rỡ chói lòa khiến mắt vua rơi ngay xuống đất. Vua cùng tùy tùng kinh hãi, xin ngài lượng thứ chở che. Ngài Shantideva lúc bấy giờ trả mắt lại cho vua, nhờ lực gia trì của ngài, mắt vua bình thường như cũ, không chút đau đớn. Cả vương quốc bấy giờ khởi tín tâm sâu xa, quay về quy thuận chánh pháp.

      Về sau ngài Shantideva đến vùng Shriparvata miền Nam, sống lẫn trong đám hành khất lõa thể. Ở đó ngài ăn nước rửa chén rửa nồi người ta đổ ra. Có một lần cô thị nữ của vua Khatavihara tên là Kachalaha đổ nước rửa chén, chợt thấy nước hắt lên người Shantideva thì lập tức sôi rít lên, chẳng khác gì đổ trên nền sắt nóng. Cô ta lấy đó làm lạ.

      Cũng vào lúc bấy giờ, có một vị sư phụ Ấn giáo tên là Shankaradeva tìm đến gặp vua để ra lời thách đố. Ông ta tuyên bố sẽ vẽ mạn-đà-la Maheshvara trên trời không, nếu Phật giáo không ai phá được thì mọi ảnh tượng kinh sách Phật giáo trong vương quốc đều phải vất vào lửa đỏ, trăm dân phải theo đạo của ông ta. Trước lời thách đố này, nhà vua lập tức triệu tập hết thảy cao tăng về báo việc, nhưng không một ai đủ khả năng nhận lời thách đố. Vua ăn ngủ không yên. Thấy vậy, thị nữ Kachalaha bẩm bạch cùng vua chuyện kỳ lạ về gã hành khất, vua liền ra lệnh tìm Shantideva. Quần thần vội vã tìm trong tìm ngoài, rốt cuộc tìm được ngài đang ngồi dưới một gốc cây. Khi nghe đầu đuôi câu chuyện, ngài nói rằng việc này chẳng khó gì, nhưng phải cho ta một bình đầy nước, hai tấm vải, và lửa. Mọi thứ đều được nhanh chóng chuẩn bị theo đúng ý của ngài.

      Buổi chiều ngày hôm sau, hành giả ấn giáo đến vẽ mấy lằn lên không trung rồi bỏ đi. Mọi người đều cảm thấy vô cùng bất an. Sáng sớm hôm sau, đương lúc mạn đà la còn đang thành hình, cửa Đông chưa kịp xong thì ngài Shantideva đã nhập vào đại định. Ngay tức thì, trận cuồng phong nổi lên, quét sạch mạn đà la vào hư không. Hết thảy cây cối, hoa màu, nhà cửa đều bị cuốn tan hoang. Vị hành giả Ấn giáo bị gió tốc như một con chim con. Bóng tối bao trùm khắp lãnh thổ. Rồi hào quang chiếu ra từ giữa hai lông mày của ngài Shantideva, soi lối cho vua và hoàng hậu. Cả hai đều bị gió cuốn, tuột hết siêm y, toàn thân đầy bụi. Và cứ thế, ngài Shantideva dùng lửa để sưởi, dùng nước để tắm, dùng vải để vua và hoàng hậu che thân. Ngài lại dùng thần lực của đại định gom hết dân chúng bị gió cuốn trở về lại, tắm rửa, chăm sóc, trấn an. Biết bao người khởi chánh tín, nhờ đó ngoại đạo suy tàn, chánh pháp hưng thịnh dài lâu. Vương quốc này vì vậy mà được gọi là nơi “hàng phục ngoại đạo.”

      Mặc dù ngài Shantideva lúc nào cũng tự cho mình chỉ là kẻ phàm phu, nhưng theo lời ngài Jetari, ngài Shantideva là hiện thân của đức Diệu Âm (Văn Thù). Theo lời ngài Prajnaka-ramati thì ngài Shantideva là bậc thánh tăng. Còn riêng nói về hành trạng của ngài, đức Vibhutichandra nói rằng:

      Trên cõi thế gian / đã từng xuất hiện
      nhiều đấng Pháp Vương, / vua của chánh pháp,
      thế nhưng xét về / thành tựu, kinh nghiệm,
      chẳng ai sánh bằng / Shan-ti-đê-va.

      Ngài Shantideva để lại cho hậu thế ba tuyệt tác: Hai tác phẩm đầu là Học Tập Luận (Shikṣhāsamucchaya) và Kinh Tập Luận (Sūtrasamucchaya), một phong phú, một ngắn gọn. Tác phẩm thứ ba tựa đề Nhập Bồ Đề Hạnh Luận (Bodhicaryāvatāra), hình thức ngắn gọn nhưng nội dung vô cùng phong phú. Ở xứ Ấn có hơn 108 luận giải viết về bài luận bất hủ này.

      ———–

      Ghi chú phần Tiểu Sử:

      [1] Bồ Tát Diệu Âm (Manjushosha) là tên khác của Bồ Tát Văn Thù (Manjushri)
      [2] Shanti- là một phần tên của ngài, và –deva là một phần tên của sư phụ, ghép lại thành Shantideva
      [3] Học, tu, và làm Phật sự như in sách, làm thuốc v.v…

      Xem Tiếp Chương 1 >>>

      Tựa đề tiếng Phạn:
      Bodhicaryāvatāra (còn gọi là Bodhisattvacaryāvatāra)

      Tựa đề tiếng Tạng:
      ༄༅། །བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའི་སྤྱོད་པ་ལ་འཇུགས་པ་ཞེས་བྱ་བ་བཞུགས་སོ།།

      Tựa đề tiếng Việt:
      Nhập Bồ Đề Hạnh Luận, (hay là Nhập Bồ Tát Hạnh Luận).


      CHƯƠNG MỘT: LỢI ÍCH TÂM BỒ ĐỀ

      I-1. Đệ tử đảnh lễ
      Thiện Thệ, Pháp Thân,
      chư vị Trưởng tử
      cùng người xứng đáng.
      Nay tôi kính xin
      thuận theo lời Phật,
      tóm lược lối vào
      giới hạnh bồ tát.

      I-2. Lời tôi nói đây
      chẳng có gì mới,
      cũng chẳng có gì
      khéo nói hơn ai.
      Tôi không viết vì
      lợi ích chúng sinh,
      mà chỉ là để
      tự tâm huân tập.

      I-3. Lời này có thể
      tăng chút tín tâm,
      cho tôi huân dưỡng
      thuận theo thiện đức.
      Ai người may mắn
      tương tự như tôi,
      nhờ đọc lời này
      đôi khi có lợi.

      I-4. Tự tại, thuận duyên
      là điều khó đạt,
      đủ sức toàn thành
      nguyện ước chúng sinh.
      Vậy nếu nay tôi
      thủ lợi riêng mình,
      kiếp sau đâu thể
      thuận duyên như vậy.

      I-5. Tựa như tia chớp
      giữa nền trời đen,
      trong một phút giây
      sáng soi khắp cả.
      Nhờ Phật gia hộ
      mà người thế gian
      đôi khi thoạt hiện
      một vài thiện đức.

      I-6. Cho nên tâm thiện
      bao giờ cũng yếu;
      tâm ác thì lại
      mạnh dữ vô cùng.
      Muốn điều ngự tâm,
      ngoài tâm bồ đề,
      thử hỏi có còn
      thiện tâm nào khác ?

      I-7. Mâu Ni nhiều kiếp
      thâm sâu chiêm nghiệm,
      thấy chỉ tâm này
      mới thật lợi sinh.
      Vô lượng chúng sinh
      nương vào tâm này,
      có thể dễ dàng
      viên thành đại lạc.

      I-8. Ai người mong cầu
      diệt trăm khổ nạn,
      mong quét bất hạnh
      của khắp chúng sinh,
      hay mong được hưởng
      vạn cảnh yên vui,
      tâm bồ đề này
      chớ nên lìa bỏ.

      I-9. Chúng sinh khốn khổ
      trôi lăn luân hồi
      mà phát được tâm,
      thì ngay lúc ấy
      sẽ được gọi là
      Như lai trưởng tử,
      thành nơi xứng cho
      trời, người hiến cúng.

      I-10. Tương tự thuốc tiên
      hóa sắt thành vàng,
      nay thân ô nhiễm
      nhờ tâm bồ đề
      mà thành thân Phật
      vô vàn trân quí.
      Vậy hãy giữ chắc
      tâm bồ đề này.

      I-11. Đấng độ quần sinh
      dùng trí vô lượng
      quán chiếu tận tường
      và đều thấy rõ:
      ai người muốn thoát
      cảnh khổ luân hồi,
      phải giữ cho chặt
      ngọc bồ đề tâm.

      I-12. Những thiện đức khác
      giống như thân chuối,
      ra quả một lần
      rồi là tàn rụi.
      Nhưng tâm bồ đề
      triền miên kết trái,
      không bao giờ tàn,
      vững vàng lớn mạnh.

      I-13. Sợ cảnh hung hiểm,
      ta nương anh hùng;
      cho dù phạm phải
      tội ác tột cùng,
      chỉ cần phát tâm
      tức thì vượt thoát.
      Vậy sao những kẻ
      sợ cảnh đọa rơi
      lại chẳng tìm đến
      nương tâm bồ đề ?

      I-14. Như lửa hoại kiếp
      thiêu rụi thế gian,
      tâm bồ đề này
      thiêu tan ác nghiệp.
      Lợi ích vô lượng,
      bất khả tư nghì,
      bậc trí Từ Thị
      dạy cho Thiện Tài.

      I-15. Cần biết tâm này
      nói gọn, có hai,
      một là ước muốn:
      bồ đề tâm nguyện;
      hai là thực hiện:
      bồ đề tâm hành.

      I-16. Cũng như muốn đi
      khác với lúc đi,
      tương tự như vậy,
      kẻ trí cần hiểu
      thứ tự khác biệt
      giữa hai tâm này.

      I-17. Cho dù còn vướng
      ở trong sinh tử,
      bồ đề tâm nguyện
      đơm quả lớn lao,
      tuy nhiên cũng vẫn
      chưa được liên tục
      như là công đức
      bồ đề tâm hành.

      I-18. Bao giờ phát tâm
      không còn thoái chuyển,
      nguyện độ chúng sinh
      thoát khổ luân hồi,
      liền ngay lúc ấy,
      từ đấy trở đi,

      I-19. cho dù ngủ nghỉ,
      hay dù tán tâm,
      cả một suối nguồn
      công đức bất tận
      cũng vẫn trỗi mạnh
      rộng sánh không gian.

      I-20. Chính đức Như lai
      đã dạy điều này
      trong bộ Kinh Su-ba-hu Thỉnh Vấn,
      là để giúp cho
      những người tâm nhỏ
      có thể phát khởi
      tín tâm đại thừa.

      I-21. Vì muốn lợi người
      mà khởi tâm cầu
      thoát bệnh nhức đầu
      cho khắp chúng sinh,
      thì công đức này
      cũng đã vô tận.

      I-22. Huống chi công đức
      cầu khắp chúng sinh
      thoát vô lượng khổ,
      rồi đưa chúng sinh
      viên thành vô lượng
      thiện căn công đức.

      I-23. Thử hỏi tâm này
      mấy ai có được ?
      dù cha hay mẹ
      chư thiên, thiện giả,
      ngay cả Phạm Thiên
      biết có được chăng ?

      I-24. Tâm này chúng sinh
      chưa từng có được,
      dù là trong mơ,
      dù chỉ cho mình.
      Làm sao có thể
      có được tâm địa
      vì khắp chúng sinh ?

      I-25. Chúng sinh phàm phu
      chưa từng khởi tâm;
      Độ cho chính mình
      còn chưa nghĩ tới !
      Tâm bồ đề này
      mà khởi sinh được
      là điều nhiệm mầu
      chưa từng thấy qua !

      I-26. Là thuốc chữa lành
      mọi cơn bệnh dữ,
      là nguồn hạnh phúc
      cho khắp chúng sinh.
      Công đức bồ đề
      vô vàn quí giá,
      thật chẳng lấy gì
      cân đo cho được.

      I-27. Chỉ cần một niệm
      gánh vác chúng sinh,
      công đức quá hơn
      công đức cúng Phật,
      huống chi nỗ lực
      mang nguồn an lạc
      về cho chúng sinh.

      I-28. Là vì chúng sinh
      dù cầu thoát khổ,
      nhưng vẫn mê mải
      chọn khổ mà theo.
      Dù cầu an vui,
      thế nhưng an vui
      thì lại u mê
      hủy diệt tất cả
      như diệt kẻ thù.

      I-29. Ai mang vui đến
      cho người bất hạnh,
      ai quét khổ nạn
      cho kẻ khốn cùng,

      I-30. ai xua bóng tối
      mê muội vô minh,
      thiện đức này đây
      lấy gì sánh nổi ?
      có bạn nào hơn
      người bạn lành này ?
      chẳng công đức nào
      tương tự như vậy !

      I-31. Giúp người đền ơn
      mà còn được khen,
      huống chi bồ tát
      làm lợi chúng sinh
      chẳng đợi ai cầu.

      I-32. Bủn xỉn mang ra
      chút ít thực phẩm,
      khinh miệt bố thí
      cho đôi ba người,
      chỉ đủ ấm bụng
      nửa ngày mà thôi,
      cũng còn được khen
      là làm việc thiện.

      I-33. Huống chi vĩnh viễn
      tặng khắp chúng sinh
      suối nguồn hỉ lạc
      vô thượng bồ đề;
      chúng sinh trong tâm
      có ước nguyện gì,
      thì đều hết thảy
      làm cho như nguyện.

      I-34. Bậc trí dạy rằng:
      với chư trưởng tử
      từ bi của Phật
      mà khởi niệm ác,
      khởi bao ác niệm
      thì phải đọa rơi
      đủ bấy nhiêu kiếp
      vào cảnh địa ngục.

      I-35. Nhưng nếu khởi được
      tín tâm trong sáng,
      thời quả gặt hái
      tươi tốt xum xuê,
      vì bồ tát dù
      rơi vào nghịch cảnh,
      công đức bồ đề
      vẫn không suy thoái,
      thiện đức vững vàng
      tăng trưởng tự nhiên.

      I-36. Nay tôi nguyện xin
      đê đầu đảnh lễ
      tất cả những ai
      sinh tâm bồ đề.
      Nguyện xin quy y
      suối nguồn an lạc:
      người mang vui đến
      cho kẻ hại mình.

      / Hết Chương 1 /

      | Đọc Tiếp Chương 2 >>>

      Chương Hai: SÁM HỐI

      II-1. Nay để phát tâm
      vô thượng bồ đề,
      bao phẩm tốt lành
      tôi xin dâng hiến
      Như lai, Diệu Pháp
      vô cấu cực hiếm,
      cùng chư Trưởng tử
      thiện đức như biển.

      II-2. Nào hoa, nào quả,
      nào là diệu dược,
      bao nhiêu châu ngọc
      của khắp thế gian,
      hết thảy nguồn nước
      trong thanh thơm ngọt,

      II-3. bao núi châu bảo,
      bao rừng tịnh yên,
      bao nhiêu nhánh cây
      ngàn hoa kín rợp,
      bao nhiêu đại thụ
      trái nặng trĩu cành;

      II-4. hương thơm của khắp
      cõi tiên, cõi phàm,
      hương đốt, cây ngọc,
      cùng cây như ý,
      vụ mùa tốt tươi
      không người cấy trồng,
      phẩm lượng phong phú
      xứng dâng lên Phật;

      II-5. Này là ao hồ
      rực rỡ cánh sen,
      này là tiếng chim
      nhẹ nhàng thanh thoát,
      cùng bao phẩm vật
      không của riêng ai,
      thênh thang đầy khắp
      không gian vô tận.

      II-6. Nguyện xin dâng hiến
      từ giữa nơi tâm,
      dâng đức Mâu ni
      bậc lưỡng túc tôn
      cùng chư trưởng tử,
      kính xin chư vị
      thương tưởng cho tôi
      từ bi tiếp nhận.

      II-7. Vì công đức cạn
      nên tôi bần hàn,
      không có gì khác
      để mà dâng Phật.
      Chư Phật đã nguyện
      gánh vác chúng sinh,
      xin hãy vì tôi
      tiếp nhận cúng phẩm.

      II-8. Bao nhiêu thân mạng
      kể từ muôn kiếp,
      tôi xin kính dâng
      chư Phật, bồ tát,
      xin bậc đại hùng
      thu nhận cho tôi,
      với trọn lòng thành
      nguyện về phụng sự.

      II-9. Nếu chư vị thương
      thu nhận tôi về,
      thời tôi không còn
      khuất phục sinh tử,
      ngược lại có thể
      lợi ích chúng sinh.
      Bao nhiêu ác nghiệp
      vất bỏ phía sau,
      sẽ không bao giờ
      quay đầu trở lại.

      II-10. Nhà tắm ngát hương
      nguy nga tráng lệ,
      nền đất pha lê
      trong veo ngời sáng,
      cột trụ uy nghi
      khảm đầy châu báu,
      dù lọng kín rợp
      lấp lánh ngọc trai.

      II-11. Đây bình châu ngọc
      đầy ắp nước hương,
      nhã nhạc du dương,
      thỉnh Như lai tắm.

      II-12. Đây khăn thơm sạch,
      chất liệu phi phàm,
      đệ tử kính xin
      lau khô thân Phật.
      Dâng y cõi thiên
      sạch thơm tươi thắm,

      II-13. mang hết y phục
      mềm mại dịu êm,
      trang sức quí giá
      nhiều hàng trăm vạn,
      kính dâng chư tôn
      Phổ Hiền, Văn Thù,
      đức Quan Thế Âm
      cùng chư bồ tát.

      II-14. Hương xoa dịu ngát
      toàn cõi đại thiên,
      đệ tử kính xin
      thoa lên ngọc thể
      của đấng Mâu ni,
      rạng tỏa ánh vàng
      như là hào quang
      vàng ròng tinh luyện.

      II-15. Trước đấng Mâu Ni,
      ruộng phước tối thượng,
      đệ tử bày biện
      rực rỡ ngàn hoa,
      măn đa ra va,
      sen và ưu đàm…
      bao nhiêu hoa thơm
      kết dăng thành chuỗi.

      II-16. Đệ tử kính dâng
      trầm hương cuộn khói,
      ngút ngàn trời mây,
      ngây ngất hương bay.
      Kính dâng chư Phật
      yến tiệc cõi thiên,
      thực phẩm, thức uống,
      cao lương mỹ vị.

      II-17. Dâng bao đèn quí
      khảm đế sen vàng,
      trang nghiêm bày biện
      từng hàng thắp sáng.
      Mặt đất tẩy trần,
      tưới tẩm trầm hương,
      rải đầy thảm hoa
      tươi thơm thanh mát.

      II-18. Trước đấng đại bi,
      đệ tử kính dâng
      điện ngọc ngân vang
      tiếng lời xưng tán,
      trướng ngọc rèm treo
      lấp lánh châu bảo,
      trang nghiêm vô tận
      cùng khắp không gian.

      II-19. Bảo cái sáng quí,
      cán vàng viền ngọc,
      thẳng tắp, cân xứng,
      tươi đẹp mắt người,
      xin mang tất cả
      dâng hiến Như lai.

      II-20. Trùng điệp cúng phẩm,
      nhạc vọng ngàn mây,
      xoa dịu sầu khổ
      khắp chúng hữu tình.

      II-21. Nguyện rải mưa hoa
      ở trên pháp bảo,
      trên tháp xá lợi
      cùng mọi biểu tượng
      ruộng phước Như lai.

      II-22. Văn Thù Sư Lợi
      cùng chư bồ tát
      đã từng cúng dường
      Thế tôn ra sao,
      nay tôi nguyện xin
      làm theo như vậy,
      cúng dường Như lai
      cùng chư bồ tát.

      II-23. Với hải triều âm,
      tôi xin tán dương
      biển rộng công đức;
      nguyện diệu âm này
      theo mây lan rộng
      cùng khắp mọi nơi.

      II-24. Tam thiên thế giới
      có bao vi trần,
      tôi nay cũng nguyện
      hiện bấy nhiêu thân,
      kính lạy khắp cả
      chư Phật ba thời,
      lạy Pháp và Tăng,
      không hề thiếu sót.

      II-25. Tôi xin kính lạy
      tháp cùng trú xứ
      của tâm bồ đề,
      phương trượng truyền giới,
      đạo sư uyên thâm,
      hành giả thánh chúng.

      II-26. Từ nay đến ngày
      đạt quả bồ đề,
      tôi nguyện quay về
      qui y nơi Phật,
      qui y nơi Pháp
      cùng chư bồ tát.

      II-27. Xin chắp hai tay
      thành tâm khẩn nguyện,
      Phật và bồ tát
      trú ở mười phương,
      rộng lượng từ bi
      chứng giám cho tôi:

      II-28. Kể từ vô thủy
      sinh tử luân hồi,
      đời này đời khác,
      bao nhiêu việc ác,
      tôi đã tự làm,
      hay bảo người làm.

      II-29. Lại còn để cho
      vô minh thao túng,
      làm ác mà lại
      thích thú vui cùng.
      Nay đã biết lỗi,
      xin đấng chở che
      cho tôi quay về
      thành tâm sám hối.

      II-30. Bao nhiêu lầm lỗi
      do tâm phiền não
      động thân khẩu ý
      mà phát sinh ra,
      xúc phạm Tam Bảo,
      xúc phạm mẹ, cha,
      với cả đạo sư,
      cùng bao việc khác.

      II-31. Tôi, kẻ đọa rơi,
      vướng bao lầm lỗi,
      bao nhiêu ác nghiệp
      tôi đã làm nên,
      nay xin đối trước
      Thầy của trời người,
      nguyện không che đậy,
      một lòng sám hối.

      II-32. Lỡ như chết đi
      mà chưa kịp sám,
      thời biết làm sao
      thoát được ác nghiệp !
      tôi thành khẩn xin
      chư tôn che chở
      cho tôi sớm về
      sám hối qui y.

      II-33. Thần chết thì chẳng
      tin tưởng được đâu,
      việc xong hay chưa
      có bao giờ đợi.
      Ai bệnh ai khỏe,
      mạng sống phù du,
      làm sao có thể
      tin vào cho được.

      II-34. Rồi cũng phải đi,
      Lìa xa tất cả.
      Nhưng tôi thì có
      ý thức được đâu.
      Cứ bạn cứ thù,
      ân ân oán oán,
      trùng trùng điệp điệp,
      ác nghiệp đầy thân.

      II-35. Kẻ thù mà chi,
      rồi cũng sẽ tan.
      bằng hữu mà chi,
      rồi cũng sẽ mất.
      ngay chính tôi đây
      cũng sẽ không còn,
      tất cả mọi cảnh
      đều là như vậy.

      II-36. Hết thảy mọi sự
      hiện trong cõi đời,
      phù du ngắn ngủi
      như một giấc mơ,
      rồi tan biến hết
      vào trong ký ức,
      khi đã tan rồi
      tìm chẳng thấy đâu.

      II-37. Cứ mỗi phút giây
      trong đời sống này,
      kẻ thù bằng hữu
      cứ thế mà đi.
      vậy mà vì họ
      tôi gieo ác nghiệp,
      quả báo thì vẫn
      còn nằm phía trước.

      II-38. Thế nhưng tâm tôi
      chẳng hề nghĩ tới,
      rằng tôi đây cũng
      ngắn ngủi không bền.
      cứ vậy quay cuồng
      với tham cùng sân,
      gieo biết bao nhiêu
      ác nghiệp ác chướng.

      II-39. Hết ngày lại đêm,
      có bao giờ ngớt,
      mạng sống thúc ngắn
      đều đặn không ngừng,
      chẳng có cách gì
      nối cho dài lại.
      Làm sao khỏi chết
      người giống như tôi ?

      II-40. Khi ấy tôi nằm
      trên giường hấp hối,
      thân nhân bằng hữu
      dù ở cạnh bên,
      cũng chỉ mình tôi
      lìa xa cõi thế,
      nghe đời sống cạn
      mạng sống đoạn lìa.

      II-41. Đến khi thần chết
      đến bắt tôi đi,
      thân nhân bằng hữu
      liệu có ích gì ?
      chỉ còn thiện đức
      làm nơi che chở,
      vậy mà tôi đã
      khinh xuất bỏ qua.

      II-42. Lạy đấng chở che !
      tôi vì vô tâm,
      chẳng ngờ có cảnh
      kinh hoàng như vậy.
      Chỉ vì đời sống
      phù du không bền,
      mà gieo biết bao
      ác nghiệp chồng chất.

      II-43. Nếu như có người
      đang bị dẫn đến
      nơi chốn hành hình
      chặt chân chặt tay,
      chắc chắn kinh hãi
      cổ khô, mắt trợn,
      thần sắc biến đổi
      chẳng được như xưa.

      II-44. Huống chi là tôi.
      Khi ấy bị lũ
      ngục tốt diêm vương
      dị hình dị dạng
      túm lên lôi xuống,
      khổ bệnh hành hạ,
      bấn loạn hãi hùng.

      II-45. Ai cứu tôi đây,
      che chở cho tôi,
      giúp cho tôi thoát
      cảnh kinh hoàng này ?
      Mắt tôi hoảng hốt
      nhìn quanh tứ phía,
      hoang mang mong gặp
      một chốn chở che.

      II-46. Nhưng nhìn bốn phía
      vẫn chẳng tìm ra,
      có được chốn nào
      làm nơi nương dựa.
      Đớn đau tràn ngập,
      thất vọng vô bờ,
      không nơi che chở
      giờ biết làm sao !

      II-47. Vậy ngay hôm nay
      nguyện qui y Phật:
      là bậc chở che
      cho kẻ trầm luân,
      cứu vớt chúng sinh
      trôi lăn sinh tử,
      là bậc uy dũng
      ban sự vô úy.

      II-48. Tôi nguyện quay về
      qui y nơi Pháp:
      là mọi thành tựu
      Phật chứng trong tâm,
      phá tan hết thảy
      khổ nạn luân hồi.
      Tôi cũng quay về
      qui y bồ tát:

      II-49. vì quá kinh hãi
      bao mối hiểm nguy,
      tôi mang bản thân
      dâng đức Phổ Hiền;
      tôi cũng nguyện xin
      mang hết thân mạng
      kính dâng lên đức
      Diệu Âm bồ tát.

      II-50. Đấng đại chở che
      đức Quan Thế Âm,
      thiện hạnh từ bi
      không hề hư ngụy:
      tận cùng thống khổ
      tôi gọi thiết tha,
      “xin hãy cứu con
      kẻ bất thiện này.”

      II-51. Đức Hư Không Tạng,
      đức Địa Tạng Vương,
      cùng với hết thảy
      các đấng chở che,
      đại từ đại bi,
      lòng con hướng về
      thiết tha níu gọi,
      xin được qui y.

      II-52. Nguyện về nương dựa
      đức Kim Cang Thủ,
      thoáng thấy bóng ngài
      là lũ ác hung
      ngục tốt diêm vương
      hoảng chạy tứ phía.

      II-53. Trước kia lời Phật
      tôi chẳng chịu nghe,
      nhưng nay thấy cảnh
      kinh hãi thế này,
      xin cho tôi về
      tìm nơi nương dựa,
      xin hãy giúp tôi
      quét sạch hiểm nguy.

      II-54. Bệnh nhỏ đã phải
      nghe lời thầy thuốc,
      huống chi trăm vạn
      trọng bệnh trầm kha,
      do tham sân si
      tác hại tơi bời.

      II-55. Chỉ một bệnh thôi
      đã đủ hủy diệt
      toàn cõi Diêm Phù;
      kiếm khắp mọi nơi
      cũng chẳng thế nào
      tìm ra thuốc chữa.

      II-56. Vậy thì lời Phật,
      bậc đại y vương,
      đủ sức chữa lành
      mọi cơn bệnh dữ,
      nếu như tôi chẳng
      thuận ý làm theo,
      thì có phải là
      chí ngu không vậy !

      II-57. Đi cạnh vực thẳm
      bé nhỏ tầm thường
      mà đã ra công
      đề phòng hết sức,
      huống chi hiểm họa
      vực thẳm địa ngục,
      sa vào ngàn trượng
      rơi đọa triền miên.

      II-58. Chẳng thể nhởn nhơ
      nghĩ mình không chết,
      nhất định có ngày
      tôi phải ra đi.

      II-59. Vậy ai là người
      giúp được tôi đây ?
      làm sao có thể
      chắc mình thoát nạn ?
      Biết rồi có ngày
      cũng sẽ tan biến,
      làm sao có thể
      thanh thản ngồi yên ?

      II-60. Cảnh sống vừa đến
      là đã tan bay.
      Còn gì cho tôi ?
      Có gì ở lại ?
      Vậy mà cứ níu
      điều không còn nữa,
      tôi đã phụ lời
      dạy của Thầy tôi !

      II-61. Đến khi đời này
      bỏ lại phía sau,
      cùng với hết thảy
      thân nhân bằng hữu,
      một mình tôi phải
      lang thang vô định,
      thân nhân bằng hữu
      giữ có ích gì !

      II-62. “Làm sao có thể
      quét sạch ác nghiệp ?
      là điều chắc chắn
      mang quả khổ đau !”
      Đây mới là điều
      đáng phải quan tâm,
      ngày cũng như đêm
      đừng lo việc khác.

      II-63. Tôi bởi ngu si,
      tạo bao việc ác,
      phạm mười bất thiện,
      phá giới Phật cho,

      II-64. Vì sợ quả báo
      nhất định sẽ đến,
      tôi chắp hai tay,
      kính lạy không ngừng.
      thiết tha mong cầu
      các đấng chở che,
      chứng giám cho tôi
      phát lộ sám hối.

      II-65. Thỉnh Phật thương xót
      lấy nghiệp dùm tôi.
      Đối với hết thảy
      mọi điều bất thiện,
      từ nay tôi sẽ
      nhất định không làm.

      / Hết Chương 2 /

      || Đọc Tiếp Chương 3 >>>

      Chương Ba: NẮM LẤY TÂM BỒ ĐỀ

      III-1. Tôi xin vui cùng
      tất cả việc làm
      khiến vơi khổ đau
      trong cõi ác đạo;
      hay là khiến nơi
      khổ đau chưa đến
      có thể giữ nguồn
      hạnh phúc an vui.

      III-2. Tôi xin vui cùng
      công đức bồ đề,
      nhờ đó chúng sinh
      đoạn lìa phiền não,
      đạt quả giải thoát,
      thoát khổ thọ sinh.

      III-3. Tôi xin tùy hỉ
      quả vị Phật đà;
      vui cùng chứng địa
      của chư trưởng tử;

      III-4. Vui với biển cả
      công đức phát tâm,
      đưa hết chúng sinh
      đến bờ an lạc;
      vui cùng thiện hạnh
      nâng đỡ chúng sinh.

      III-5. Đối trước chư Phật
      ở khắp mười phương,
      tôi chắp hai tay
      thiết tha khẩn nguyện:
      xin vì chúng sinh
      thắp ngọn chánh pháp,
      soi cõi tối tăm
      khốn khổ hoang mang.

      III-6. Chư Phật Thế Tôn
      muốn hiện niết bàn,
      thì tôi chắp tay
      thiết tha khẩn nguyện:
      kính xin chư Phật
      sống cùng đời kiếp,
      đừng bỏ chúng tôi
      đui mù lang thang.

      III-7. Làm những điều này
      được bao công đức,
      tôi nguyện hồi hướng
      về khắp chúng sinh
      thoát mọi cảnh khổ.

      III-8. Chúng sinh có bệnh,
      bệnh nếu chưa lành,
      thời tôi còn vẫn
      theo làm thầy thuốc,
      làm người điều dưỡng,
      làm cả thuốc thang.

      III-9. Nguyện tôi mưa xuống
      đầy tràn thực phẩm
      giải cơn đói khát.
      Nguyện trong thời kỳ
      dữ dội kiếp nạn,
      thân tôi sẽ thành
      nước uống thức ăn.

      III-10. Chúng sinh có nghèo,
      khổ cực cơ hàn,
      nguyện tôi sẽ là
      kho bồ bất tận,
      hiện ngay trước mặt
      của khắp chúng sinh;
      bao nhiêu nhu cầu
      tôi cung ứng đủ.

      III-11. Tài sản, thân mạng,
      ba thời công đức,
      tôi mang cho hết,
      cầu lợi chúng sinh,
      không hề cảm thấy
      có gì mất mát.

      III-12. Muốn đạt niết bàn
      phải cho ra hết,
      trọn vẹn tâm tôi
      chỉ hướng quả này.
      Dù sao rồi cũng
      phải bỏ mà đi,
      chi bằng bây giờ
      mang ra bố thí.

      III-13. Thân mạng này đây
      tôi xin hiến cúng
      cho khắp chúng sinh
      tùy ý hưởng dụng.
      Dù giết, dù chê
      dù là đánh đập,
      tôi cũng cam tâm.

      III-14. Cứ mang tôi ra
      mà làm trò vui,
      tha hồ bỡn cợt,
      chê bai, chế nhạo.
      tấm thân này đây
      tôi đã hiến cúng,
      thì còn có gì
      đáng để quan tâm.

      III-15. Muốn làm gì tôi
      cứ mặc tình làm,
      miễn đừng làm điều
      tự hại mà thôi.
      Mỗi tâm mỗi niệm
      họ nhắm vào tôi,
      nguyện cho hết thảy
      đều thành lợi ích.

      III-16. Nếu nghĩ đến tôi
      mà tâm không yên,
      sùng sục nổi sân,
      nổi cơn ác hận,
      nguyện ác hận này
      luôn trở thành nhân
      giúp cho họ được
      sở cầu như ý.

      III-17. Cùng khắp những ai
      chỉ trỏ mặt tôi,
      gieo xuống cho tôi
      bao điều tổn hại,
      hoặc mang tôi ra
      dèm pha, chế diễu,
      nguyện cho họ đạt
      thiện duyên bồ đề.

      III-18. Ai thiếu chỗ nương,
      tôi làm chỗ nương;
      ai khách lữ hành,
      tôi xin dẫn lối;
      ai người đang cần
      vượt biển vượt sông,
      tôi đây xin nguyện
      làm ghe, thuyền, cầu.

      III-19. Ai ngóng đất liền,
      tôi làm hòn đảo;
      ai tìm ánh sáng,
      tôi sẽ là đèn;
      ai cần ngơi nghỉ,
      tôi là giường chiếu;
      ai cần giúp việc,
      tôi đây tôi đòi.

      III-20. Làm ngọc như ý,
      làm bình bảo quí,
      làm câu chân ngôn,
      thuốc quí, cây thần,
      làm trâu như nguyện,
      cho khắp chúng sinh.

      III-21. Như là đại địa,
      như là không gian,
      cùng các thành phần
      nước lửa và gió,
      nguyện thân tôi đây
      biến hiện phong phú,
      làm nền tảng sống
      cho khắp chúng sinh.

      III-22. Nguyện làm phương tiện
      giữ gìn sự sống
      cho khắp chúng sinh
      trên toàn cõi thế
      nhiều sánh không gian
      bao la vô tận,
      chờ khắp chúng sinh
      giải thoát niết bàn.

      III-23. Cũng như Như Lai
      trong thời quá khứ,
      đã vì chúng sinh
      phát tâm bồ đề,
      rồi về trú ở
      tu theo trình tự
      pháp hành bồ tát.

      III-24. Nay tôi cũng nguyện
      vì khắp chúng sinh
      phát tâm bồ đề,
      nơi pháp hành này
      tôi về trú ở
      tuần tự tu theo.

      III-25. Ai người vận dụng
      trí tuệ trong sáng
      để nắm lấy tâm
      thanh tịnh bồ đề.
      nắm rồi có thể
      tăng trưởng tâm này
      bằng lời sau đây:

      III-26. “Đời sống tôi nay
      tràn đầy ý nghĩa,
      tôi đã đạt kiếp
      làm người tốt đẹp,
      hôm nay tôi sinh
      vào giòng giống Phật,
      trở thành đứa con
      của đấng Thế Tôn.”

      III-27. “Nay dù ra sao
      quyết không làm ố
      giống Phật tuyệt hảo,
      hành động cẩn trọng
      xứng địa vị mình,
      không để lỗi lầm
      làm nhơ giống Phật.”

      III-28. Như kẻ mù lòa
      mò trong đống rác,
      không ngờ tìm được
      một khối ngọc châu.
      Chẳng hiểu nhờ đâu
      may mắn lạ kỳ,
      mà tâm bồ đề
      trong tôi lại khởi.

      III-29. Đây chính là nước
      cam lồ bất tử,
      chiến thắng Thần Chết
      của khắp chúng sinh;
      là cả kho tàng
      đầy tràn bất tận,
      phá cảnh bần cùng
      cho kẻ trầm luân.

      III-30. Đây là thuốc thần
      chữa mọi ác bệnh,
      của khắp chúng sinh
      trôi lăn sinh tử;
      là gốc đại thụ
      cho chúng hữu tình
      trên đường trôi lạc
      ghé đến nghỉ chân;

      III-31. là chiếc cầu chung
      đưa khắp chúng sinh
      vượt thoát khổ nạn
      ác đạo luân hồi;
      là trăng ngời sáng
      giữa nền trời tâm,
      xoa dịu cơn đau
      rát bỏng phiền não;

      III-32. và cũng chính là
      mặt trời chiếu sáng,
      quét sạch màn sương
      mê muội vô minh;
      là bơ kết tinh
      trên sữa diệu Pháp.

      III-33. Khách trần lang thang
      trên đường sinh tử,
      mong sao nếm thử
      chút vị an vui,
      thì đây là nguồn
      an vui thắng diệu,
      khách trần chắc chắn
      sẽ rất hài lòng.

      III-34. Hôm nay đối trước
      mọi nẻo qui y,
      tôi mời chúng sinh
      về làm khách quí,
      hưởng an vui đến
      vô thượng bồ đề.
      Chư thiên, thiện thần,
      cùng khắp mọi loài,
      kính xin chư vị
      tùy hỉ cho tôi.

      / Hết Chương 3 /

      || Đọc Tiếp Chương 4 >>>

      Chương Bốn: TÂM BẤT PHÓNG DẬT

      IV-1. Đã làm con Phật
      giữ tâm bồ đề,
      thì đừng bao giờ
      để cho thoái chuyển,
      cũng đừng bao giờ
      phá phạm giới tu.

      IV-2. Đối với những việc
      tùy hứng mà làm,
      vì tâm khinh xuất
      hay thiếu suy nghĩ,
      cho dù có đã
      thề thốt hứa hẹn,
      vẫn nên nghĩ lại
      nên làm hay không.

      IV-3. Thế nhưng điều mà
      hết thảy chư Phật
      cùng chư trưởng tử
      đã dùng diệu trí
      quán chiếu tận tường,
      chính bản thân tôi
      cũng cân nhắc kỹ,
      làm sao có thể
      đổi ý rút lui ?

      IV-4. Thề thốt hứa hẹn
      rồi lại không làm,
      thành trò lừa đảo
      khắp cả chúng sinh,
      mai sau ác báo
      biết tôi thế nào ?

      IV-5. Đức Phật dạy rằng:
      Ai người khởi tâm
      tặng món vật mọn,
      nhưng rồi không cho,
      nghiệp này sẽ khiến
      đọa sinh ngạ quỉ.

      IV-6. Vậy mà tôi đây,
      từ tận đáy lòng,
      mời hết chúng sinh
      về hưởng đại lạc,
      để rồi trở tâm
      dối gạt hết thảy,
      làm sao có thể
      mong hái quả lành ?

      IV-7. Thoái tâm bồ đề
      mà còn giải thoát,
      đường đi của nghiệp
      thậm thâm khó hiểu,
      chỉ chư Toàn Giác
      mới rõ mà thôi.

      IV-8. Bồ tát thoái tâm,
      không đọa rơi nào
      hơn đọa rơi này,
      vì nếu xảy ra
      thì mọi phúc lợi
      của khắp chúng sinh
      đều bị đánh mất.

      IV-9. Nếu như có ai,
      chỉ trong phút giây,
      cản trở công đức
      của một bồ tát,
      sẽ phải trầm luân
      đọa cõi ác đạo,
      là vì tổn hại
      lợi ích chúng sinh.

      IV-10. Phá niềm an lạc
      của một chúng sinh
      đã tự gieo nạn
      hủy hoại chính mình,
      huống chi phá hủy
      niềm an vui của
      vô lượng hữu tình
      cùng tận không gian.

      IV-11. Với lực phá giới,
      cho dù có chữa
      bằng lực phát tâm,
      cũng vẫn tới lui
      trong cõi sinh tử,
      khó lòng có thể
      bước vào chứng địa.

      IV-12. Vậy thì tôi nay
      vì lời đã hứa,
      nguyện mọi việc làm
      đều luôn cẩn trọng,
      từ đây về sau
      nếu không cố gắng,
      đọa ác đạo rồi
      lại đọa sâu hơn.

      IV-13. Chư Phật xuất thế
      nhiều hàng vô lượng,
      phổ độ chúng sinh,
      rồi hiện niết bàn.
      nhưng tôi phước cạn,
      nghiệp chướng sâu dày,
      đã chẳng thể nào
      hưởng nguồn ân phước.

      IV-14. Vậy nếu như tôi
      không biết sửa đổi,
      thì muôn đời vẫn
      cứ thế mà trôi.
      khổ đau ràng buộc
      sinh tử luân hồi,
      bị xé bị giết
      trong cõi ác đạo.

      IV-15. Được Phật xuất thế,
      lại được chánh tín,
      cùng với thân người,
      đều là thiện duyên
      vô vàn quí hiếm,
      có thể giúp cho
      thiện đức gia tăng,
      bao giờ tôi mới
      đủ duyên như vậy ?

      IV-16. Mặc dù tôi nay
      không đói, không bệnh,
      không gặp hiểm nguy,
      thế nhưng đời sống
      ngắn ngủi không bền,
      thân thể chỉ là
      món đồ vay mượn
      trong chốc lát thôi.

      IV-17. Vậy mà lại sống
      như thế này đây,
      chắc chắn chẳng thể
      lại sinh làm người.
      thân người quí giá
      một khi mất rồi,
      ác nghiệp càng đầy
      thiện đức càng vơi.

      IV-18. Đây chính là lúc
      đủ duyên làm thiện
      lại chẳng chịu làm.
      Đợi khi đọa rơi,
      trôi lăn vô tận,
      biết đến bao giờ !

      IV-19. Khi ấy cho dù
      mảy may thiện đức
      cũng chẳng thể đạt,
      ngược lại ác nghiệp
      lại thêm chồng chất.
      Muôn vạn thời kỳ
      đến chữ thiện đạo
      cũng chẳng hề nghe.

      IV-20. Vì thế Phật dạy,
      tựa như rùa mù
      giữa lòng đại dương,
      làm sao có thể
      chui đầu vào ách
      nổi trên mặt biển.

      IV-21. Cho mỗi việc ác
      phạm chỉ một lúc,
      địa ngục vô gián
      đã phải trầm luân
      vô lượng thời kỳ.
      Huống chi việc ác
      tôi đã gieo từ
      vô thủy sinh tử,
      chắc chắn chẳng thể
      đạt chốn an vui.

      IV-22. Khổ báo chịu rồi,
      nghiệp vẫn chưa dứt,
      càng khổ lại càng
      gieo nghiệp nhiều thêm.

      IV-23. Nay được lơi nghỉ
      lại không tu thiện,
      có nỗi ngu nào
      bằng nỗi ngu này ?
      chẳng thể đối xử
      với mình tệ hơn !

      IV-24. Nếu như đã biết
      mà vẫn không chừa,
      đến khi mạng chung
      khổ đau khó tránh.

      IV-25. Khi mà thân thể
      bị lửa hỏa ngục
      thiêu cháy lâu dài,
      tâm tôi nhất định
      triền miên thống khổ
      vì lửa ăn năn.

      IV-26. Thân người quí hiếm
      khó đạt biết bao,
      tôi đã đạt rồi.
      Đã biết như vậy
      mà vẫn còn kéo
      mình vào địa ngục.

      IV-27. Khác gì bùa chú
      khiến cho mất trí.
      tôi thật chẳng hiểu
      trong tôi thế nào !

      IV-28. Kẻ thù sân, tham,
      không chân không tay,
      không cả giác quan.
      Chúng chẳng gan dạ,
      cũng chẳng khôn ngoan,
      bằng cách nào đây
      tôi lại bị chúng
      biến thành nô lệ !

      IV-29. Chúng ngự trong tôi,
      tùy hứng hại tôi.
      Tôi lặng lẽ chịu,
      không chút oán hờn.
      Nhẫn nhịn thế này
      thật là trái chỗ !

      IV-30. Dù hết chư thiên
      cùng a tu la
      đồng loạt tấn công
      cũng không thể nào
      đẩy được tôi vào
      lửa ngục vô gián,

      IV-31. vậy mà phiền não
      chỉ trong thoáng chốc
      đã ném tôi vào
      sâu thẳm địa ngục,
      nơi mà ngay cả
      ngọn núi Tu di
      cũng cháy tan tro.

      IV-32. Phiền não chính là
      kẻ thù truyền kiếp,
      vô thủy vô chung
      bám dính theo tôi.
      Kẻ thù thế gian
      không bền như vậy.

      IV-33. Kẻ thù thế gian
      nếu tôi gần gũi
      xử tốt với họ,
      có khi họ cũng
      giúp đỡ cho tôi.
      Thế nhưng phiền não
      tôi càng chăm sóc
      chúng càng tác hại.

      IV-34. Triền miên, liên tục,
      luôn chỉ là thù,
      luôn ám hại tôi,
      khiến tôi thêm khổ.
      Kẻ thù này lại
      ngự trị trong tôi.
      Thử hỏi luân hồi
      sống yên sao được !

      IV-35. Hết thảy cai ngục
      trấn cửa sinh tử
      cùng bọn đồ tể
      ngục tốt diêm vương
      hành hạ tôi trong
      cảnh khổ địa ngục,
      bọn chúng đang ngồi
      ngay ở trong tôi,
      trong lưới tham dục.
      Thử hỏi phận tôi
      nào có vui gì !

      IV-36. Trận chiến này đây
      tôi quyết không bỏ,
      cho đến mãi khi
      tận diệt kẻ thù.
      Người ta bị hại
      chút ít mà thôi,
      đã nổi lôi đình,
      bỏ cả giấc ngủ,
      hung hăng quyết thắng.

      IV-37. Kẻ thù thế gian
      vốn đầy phiền não,
      cho dù không giết
      tự nhiên cũng chết.
      Vậy mà xông pha,
      giáo gươm chẳng sợ,
      chưa thắng kẻ thù
      chưa chịu thoái lui !

      IV-38. Huống chi tôi đây,
      với kẻ thù này,
      đâu thể phóng tâm,
      đâu quản gian khó !
      Chúng chỉ có một
      chức năng duy nhất
      là làm tôi khổ.

      IV-39. Cho những cuộc chiến
      vô nghĩa thế gian,
      thương tích còn được
      xem là thành tích.
      Huống chi trận chiến
      cứu cánh này đây,
      xá gì đôi chút
      thương vay trận mạc !

      IV-40. Vì chuyện áo cơm
      mà người đánh cá,
      đồ tể, nông dân,
      chịu nóng, chịu rét.
      Vậy nay tôi đây
      vì nguồn hạnh phúc
      của khắp chúng sinh,
      lẽ nào không thể
      chịu chút khổ này ?

      IV-41. Khi kia tôi nguyện
      chúng sinh mười phương
      cùng tận không gian,
      tôi đều độ thoát
      nhiễm tâm phiền não.
      Trong khi chính tôi
      chưa được như vậy !

      IV-42. Thật là không biết
      tự lượng sức mình !
      Chẳng phải đã quá
      điên rồ hay sao ?
      Nhưng đã trót thề
      thì trận chiến này
      chống thù phiền não
      càng không thể thua !

      IV-43. Là điều duy nhất
      nung nấu tâm can,
      tôi quyết khai chiến,
      lòng tràn oán hận !
      Não hận loại này
      sẽ diệt phiền não,
      vì vậy phải giữ,
      đừng vội quét đi.

      IV-44. Chẳng thà thân tôi
      chết vì lửa cháy,
      hay là đầu này
      bị chém lìa thân,
      quyết chẳng bao giờ
      hàng thuận tôn vinh
      kẻ thù truyền kiếp
      nhiễm tâm phiền não !

      IV-45. Kẻ thù thế gian
      khi bị đánh đuổi,
      có thể tháo lui
      ẩn binh xứ khác,
      củng cố lực lượng
      chờ dịp phản công.
      Nhưng thù phiền não
      lại không như vậy.

      IV-46. Phiền não tội nghiệp,
      nếu bị mắt tuệ
      tấn công tơi bời,
      đánh đuổi khỏi tâm,
      chúng biết trốn đâu ?
      bao giờ trở lại ?
      Cơ sự chỉ tại
      vì tôi yếu, lười !

      IV-47. Phiền não chẳng trú
      bên trong đối cảnh,
      hay nơi giác quan,
      hay ở chính giữa.
      Cũng chẳng trú ở
      nơi chốn nào khác.
      Vậy chúng ở đâu
      mà hại chúng sinh
      khốn đốn thế này ?
      Chỉ là ảo ảnh,
      có gì đáng sợ !
      Cứ hãy kiên trì
      khai tuệ, chứng tánh.
      Khổ đau địa ngục
      thật không cần thiết,
      chẳng cần phải theo !

      IV-48. Tư duy như vậy.
      Ra công như vậy.
      Nỗ lực thực hành
      giới hạnh như vậy.
      Người bệnh nếu không
      nghe lời thầy thuốc,
      bệnh làm sao lành ?

      / Hết Chương 4 /

      || Đọc Tiếp Chương 5 >>>

      Chương Năm: GÌN GIỮ CHÁNH TRI

      V-1. Muốn tu cần phải
      tự giữ lấy tâm.
      Không giữ được tâm
      thì mọi công phu
      đều không giữ được.

      V-2. Tâm như voi điên,
      nếu như thả lỏng
      sẽ đẩy ta vào
      địa ngục vô gián.
      Voi lớn bất thuần
      của khắp thế gian
      cũng không thể nào
      hại ta như vậy.

      V-3. Nhưng nếu voi này
      dùng dây chánh niệm
      trói chặt mọi bề,
      thì bao sợ hãi
      đều tan biến hết,
      tất cả thiện pháp
      rơi vào lòng tay.

      V-4. Cọp, sư tử, voi,
      gấu, rắn, kẻ thù,
      quỉ giữ địa ngục,
      các loài tà ma,
      quỉ ăn xác chết,
      cùng với tất cả
      mọi loài quỉ dữ,

      V-5. chỉ cần trói tâm
      là trói được cả,
      chỉ cần thuần tâm
      là thuần tất cả.

      V-6. Đức Phật là người
      nói đúng sự thật
      đã tuyên thuyết rằng:
      sợ hãi, khổ đau,
      hết thảy đều do
      nơi tâm mà có.

      V-7. Ai đã cố tình
      tạo ra binh khí
      hành hạ chúng sinh
      trong cõi địa ngục ?
      Nền sắt cháy đỏ
      là do ai nung ?
      Giống quỷ ăn thịt
      đội lốt mỹ nhân
      từ đâu mà có ?

      V-8. Bậc Đại Trí dạy:
      những điều nói trên
      đều do nơi tâm
      tạo sinh ác nghiệp.
      Nên khắp ba cõi
      ngoài tâm này ra
      thời không có gì
      đáng để sợ hãi.

      V-9. Nếu như nói rằng
      thí độ nghĩa là
      làm cho chúng sinh
      không còn nghèo khổ,
      thế thì hạnh thí
      chư Phật ngày xưa
      viên thành thế nào,
      để cho bây giờ
      vẫn còn kẻ đói ?

      V-10. Thí độ thật ra
      là mang tất cả
      những gì mình có
      tặng cho chúng sinh;
      được bao công đức
      cũng bố thí cả.
      Vì vậy mà nói
      viên mãn Thí độ
      ngay từ nơi tâm.

      V-11. Tôm cá các loại
      mang giấu đi đâu
      để khỏi bị giết ?
      Giới độ nghĩa là
      ngay từ nơi tâm
      không còn ý nghĩ
      tác hại chúng sinh.

      V-12. Những kẻ ác hiểm
      cùng khắp không gian,
      làm sao có thể
      hủy diệt tất cả ?
      Nhưng nếu hủy diệt
      ác hận nơi tâm
      thì cũng giống như
      diệt hết kẻ thù.

      V-13. Tìm đâu ra da
      phủ khắp mặt đất ?
      Chỉ cần miếng da
      lót dưới gót giày,
      thì cũng như là
      phủ da mặt đất.

      V-14. Tương tự như vậy,
      sự việc bên ngoài
      làm sao điều phục ?
      Điều phục được tâm
      thì chẳng còn gì
      để mà điều phục.

      V-15. Ý niệm trong sáng
      đủ sức tạo quả
      thọ sinh Phạm thiên.
      Quả thân, khẩu nghiệp
      đều không thể sánh.

      V-16. Bậc Biết Thực Tại
      dạy rằng: nếu như
      tâm ý xao lãng,
      thì dù miệng tụng,
      thân tu khổ hạnh
      trong thời gian dài
      cũng đều vô ích.

      V-17. Những ai không hiểu
      bí ẩn của tâm
      siêu việt vạn pháp,
      thì dù mong cầu
      an lạc, thoát khổ,
      cũng chỉ có thể
      trầm luân vô định
      trong cõi luân hồi.

      V-18. Vậy nay tôi xin
      giữ lấy tâm mình.
      tâm này chẳng giữ
      thì bao giới luật
      giữ có ích gì ?

      V-19. Giữa đám hỗn loạn,
      nếu thân bị thương,
      chắc chắn ta sẽ
      thận trọng giữ gìn.
      Vậy nay đứng giữa
      thế gian hiểm ác,
      tâm là vết thương
      cần được gìn giữ.

      V-20. Vết thương thân thể
      đau đớn là bao,
      mà ta vẫn sợ
      hết sức giữ gìn.
      Vậy sao chẳng sợ
      đớn đau cùng cực
      địa ngục núi đè,
      để lo giữ gìn
      vết thương nơi tâm ?

      V-21. Nếu cách hành xử
      luôn được như vậy,
      thì dù ở giữa
      ác nhân, nữ sắc,
      giới vẫn kiên định,
      không bị đọa rơi.

      V-22. Tài sản, danh dự,
      thân mạng, sinh kế,
      đều có thể mất,
      ngay như tất cả
      mọi thiện đức khác,
      có thể hư mòn,
      thế nhưng không thể
      để thoái chuyển tâm !

      V-23. Này người mong muốn
      gìn giữ tâm mình,
      tôi chắp hai tay
      thiết tha khẩn nguyện:
      hãy giữ chánh niệm,
      cùng với chánh tri,
      như thể giữ gìn
      chân tay, thân mạng.

      V-24. Thân này nếu bị
      bệnh khổ hành hạ,
      thì chẳng có sức
      để làm gì cả.
      Tương tự như vậy,
      tâm này nếu bị
      vô minh hành hạ,
      thì không đủ sức
      giữ gìn hành động.

      V-25. Tựa như bình rỉ
      chẳng giữ được nước,
      tâm thiếu chánh tri
      thì dù có nghe,
      tư duy, tu tập,
      trí nhớ cũng chẳng
      giữ được chút gì.

      V-26. Nhiều người đa văn,
      tinh tấn, chánh tín,
      nhưng vì sai lầm
      thiếu mất chánh tri,
      nên vẫn đọa rơi.

      V-27. Sự thiếu chánh tri
      tựa như kẻ trộm,
      rình rập lẻn vào
      cướp đi chánh niệm,
      cướp luôn tất cả
      phước đức tích tụ,
      khiến phải đọa rơi
      tận cùng ác đạo.

      V-28. Phiền não cũng như
      một lũ trộm cướp,
      rình rập thời cơ
      cướp đoạt thiện đức,
      khiến ta không thể
      sinh vào thiện đạo.

      V-29. Nên đừng bao giờ
      để cho chánh niệm
      xa rời cửa ý.
      nếu lỡ rời xa,
      hãy mau nhớ lại
      cảnh khổ ác đạo
      để gọi ngay về.

      V-30. Nhờ nghe lời khuyên
      phương trượng trụ trì,
      nhờ sợ ác đạo,
      và nhờ sống gần
      bên cạnh đạo sư,
      mà người thiện duyên
      với lòng thành kính
      dễ sinh chánh niệm.

      V-31. Chư Phật, Bồ Tát
      mắt không ngăn ngại,
      thấy biết khắp cả,
      luôn luôn có mặt
      ở cạnh bên tôi.

      V-32. Biết nghĩ như vậy
      sẽ biết kính sợ,
      sinh tâm tàm quí,
      nhờ vậy thường xuyên
      nhớ nghĩ đến Phật.

      V-33. Khi lấy chánh niệm
      để làm lối ngõ
      gìn giữ cửa tâm.
      chánh tri sẽ khởi.
      Những gì đã mất
      sẽ đều trở lại.

      V-34. Trước khi phát xuất
      lời nói, hành động,
      nếu như thấy tâm
      không được thanh tịnh,
      thì phải lập tức
      tự chế ngự mình:
      yên như khúc gỗ.

      V-35. Không để ánh mắt
      lơ đễnh nhìn quanh,
      hãy nên nhiếp tâm
      xuôi mắt nhìn xuống.

      V-36. Thỉnh thoảng để mắt
      thư thả nhìn quanh.
      Khi gặp người quen
      hãy nên nhìn thẳng,
      nói lời chào hỏi.

      V-37. Khi cần canh chừng
      nguy hiểm trên đường,
      hãy nên cẩn thận
      nhìn quanh bốn hướng.
      Khi cần nghỉ ngơi,
      hãy nên quay lại
      nhìn ở phía sau.

      V-38. Nhìn rõ trước sau
      để mà tới lui.
      Trong mọi hoàn cảnh,
      phải nên thấy rõ
      việc gì cần làm
      thì hãy nên làm.

      V-39. “Tôi giữ thân thể
      theo tư thế này,”
      rồi trở lại với
      những việc đang làm.
      Thỉnh thoảng xét lại
      xem thân thể đang
      trong tư thế nào.

      V-40. Tâm như voi điên,
      bây giờ trói chặt
      vào cột chánh pháp.
      Phải nên nỗ lực
      hết sức canh chừng,
      đừng cho sổng chạy.

      V-41. Nếu muốn cố gắng
      tu cho đạt định,
      thì dù một niệm
      cũng không để mất.
      Phải luôn quán sát
      xem tâm hiện tại
      đang ở nơi đâu.

      V-42. Nếu như không thể
      giữ được như vậy,
      vào lúc hiểm nghèo
      nguy hại tính mạng,
      hay lúc lễ lạt
      pháp hội cúng dường,
      thì hãy tùy cảnh,
      hành động thích đáng.
      Đức Phật có dạy,
      khi hành hạnh thí,
      có thể xả bỏ
      giới luật chi li.

      V-43. Toan tính việc gì,
      một khi bắt đầu
      thì đừng suy nghĩ
      đến những việc khác,
      chuyên chú cho xong
      việc mình đang làm.

      V-44. Có được như vậy,
      mọi việc mới thành,
      bằng không việc gì
      cũng chẳng làm xong.
      Làm theo như vậy,
      tâm bất chánh tri
      sẽ không phát triển.

      V-45. Khi đi vào nơi
      náo nhiệt vui vẻ,
      với nhiều chuyện phiếm,
      nhiều trò giải trí,
      thì đừng ham vui,
      dứt tâm mê luyến.

      V-46. Nếu như thấy mình
      tự nhiên vô cớ
      đào đất, bứng cỏ,
      vạch hình mặt đất,
      thì hãy nhớ lại
      lời đức Thiện thệ,
      để mà biết sợ,
      lập tức ngừng tay.

      V-47. Khi muốn cử động,
      hay muốn nói năng,
      hãy xét tâm trước:
      kiên định giữ gìn
      hành động đúng đắn.

      V-48. Tâm nổi tham luyến,
      hoặc nổi sân hận:
      thì đừng làm gì,
      cũng đừng nói gì.
      phải nên giữ mình
      lặng yên như cây.

      V-49. Khi tâm lăng xăng,
      mỉa mai, kiêu mạn,
      muốn nhạo báng người,
      muốn gây chia rẽ,
      lừa đảo, dối láo,

      V-50. muốn tự khen mình,
      chê bai người khác,
      dùng lời thô ác
      kiếm chuyện sinh sự,
      những lúc như vậy
      phải nên giữ mình
      lặng yên như cây.

      V-51. Khi tâm nổi tham,
      muốn danh, muốn lợi,
      muốn người tôn kính,
      thị giả đệ tử
      muốn họ chăm lo,
      muốn người hầu hạ,
      những lúc như vậy
      phải nên giữ mình
      lặng yên như cây.

      V-52. Khi tâm quẳng hết
      lợi ích của người,
      muốn nói những điều
      nhằm thủ lợi riêng,
      những lúc như vậy
      phải nên giữ mình
      lặng yên như cây.

      V-53. Khi thiếu kiên nhẫn,
      làm biếng, nhát gan,
      hay quá tự tin,
      ồn ào khinh mạn,
      hay là chấp thủ
      những thứ của mình,
      những lúc như vậy
      phải nên giữ mình
      lặng yên như cây.

      V-54. Hãy quán xét tâm,
      nhận diện phiền não
      và tính ưa thích
      những chuyện tào tạp
      để mà can đảm
      nắm giữ lấy tâm
      bằng thuốc đối trị.

      V-55. Tín tâm sâu xa,
      kiên định, cung kính,
      lễ độ, hổ thẹn,
      biết sợ quả báo,
      an định mang lại
      hạnh phúc chúng sinh.

      V-56. Đối trước tất cả
      đòi hỏi vô lý,
      tranh cãi ấu trĩ,
      bồ tát cũng không
      sinh tâm chán ngán,
      vì những điều này
      chỉ do phiền não
      tác động mà thành,
      cho nên phải hiểu
      để trải từ tâm.

      V-57. Vì chính bản thân
      và vì người khác
      mà giữ thiện hạnh
      cho thật toàn hảo,
      phải luôn ghi nhớ
      rằng chính tâm này
      vô ngã, như huyễn.

      V-58. Thường xuyên nghĩ rằng:
      “Khó khăn chờ đợi
      không biết bao lâu
      nay mới có được
      thân người quí hiếm,”
      giữ tâm bất động
      trong ý nghĩ này,
      kiên định vững vàng
      như ngọn núi vương.

      V-59. Này tâm, cho dù
      kên kên háu đói
      xâu xé thi thể,
      lôi kéo khắp nơi,
      ngươi cũng chẳng buồn.
      vậy sao bây giờ
      ngươi lại mải mê
      nuông chiều thân thể ?

      V-60. Này tâm, sao ngươi
      lại bám thân này
      gọi là “của tôi” ?
      Giữa ngươi và nó
      hoàn toàn khác biệt.
      nó nào có ích
      gì cho ngươi đâu ?

      V-61. Này tâm hư vọng
      sao chẳng chọn thân
      chạm trong gỗ sạch
      làm thân của mình,
      mà lại chọn lấy
      dụng cụ ô uế
      làm bằng của dơ ?

      V-62. Trước hết dùng trí
      mà lột lớp da;
      rồi hãy vận dụng
      lưỡi gươm trí tuệ
      để lóc hết thịt
      ra khỏi bộ xương;

      V-63. rồi xẻ cả xương
      tìm vào trong tủy,
      hãy tự hỏi mình:
      “Đâu là tinh túy ?”

      V-64. Cho dù truy tìm
      ráo riết như vậy,
      vẫn không thể thấy
      tinh túy ở đâu.
      Vậy sao cứ vẫn
      bám giữ tham luyến
      ở nơi thân này ?

      V-65. Thân này ô uế,
      chẳng thể nào ăn.
      Ngay cả máu này
      cũng không thể uống.
      Ruột gan phèo phổi,
      chẳng thể chấm mút.
      Thân này thử hỏi
      cần để làm chi ?

      V-66. Thật ra có thể
      giữ thân làm mồi
      cho chim kên kên
      hay cho chó rừng.
      Giá trị thân này
      chỉ nằm ở chỗ
      ta mang thân ấy
      dùng vào việc chi.

      V-67. Cho dù chắt chiu
      gìn giữ như vậy,
      đến khi Thần Chết
      đánh cắp mất đi,
      vất cho chim, chó,
      khi ấy thử hỏi
      biết làm thế nào ?

      V-68. Tôi tớ lười biếng
      không chịu làm việc,
      thì ta chẳng màng
      cho áo cho cơm.
      vậy tấm thân này
      vì sao ta lại
      phí công cung phụng ?
      Dù nuôi cách nào
      cũng sẽ có ngày
      bỏ ta mà đi

      V-69. Đã trả thù lao
      thì phải bắt làm
      cho thật xứng đáng.
      Còn như đối với
      loại vô tích sự
      ta cũng chẳng nên
      lãng phí làm gì.

      V-70. Hãy xem thân này
      tựa như chiếc thuyền
      đưa ta tới lui:
      chuyển thành dụng cụ
      thực hiện nguyện ước
      cho khắp chúng sinh.

      V-71. Vậy hãy tự chế,
      mặt luôn tươi cười,
      không bao giờ còn
      chau mày nhăn nhó;
      và hãy trở thành
      người bạn chân thành
      của khắp chúng sinh.

      V-72. Khi khiêng bàn ghế,
      đừng vô ý tứ
      tạo nhiều tiếng ồn.
      Mở cửa nhẹ nhàng,
      đừng nên thô bạo.
      Hãy ưa thích hạnh
      tế nhị kín đáo.

      V-73. Cò, mèo, kẻ trộm,
      làm được tất cả
      những gì muốn làm
      nhờ luôn tới lui
      âm thầm kín đáo.
      Kẻ trí khi tu
      cũng thường như vậy.

      V-74. Bậc trí khéo biết
      giáo huấn chúng sinh,
      nói lời lợi ích
      không đợi ai cầu,
      vậy ta hãy nên
      cung kính tiếp nhận.
      Với khắp mọi người
      hãy luôn học hỏi.

      V-75. Có ai nói lời
      khéo tạo lợi ích,
      hãy nên khen ngợi
      rằng “thật khéo nói !”
      Có ai làm điều
      mang lại lợi ích,
      hãy nên khuyến khích
      và tâm mừng vui.
      76. Khi ở sau lưng,
      hãy nên khen ngợi
      thiện đức người khác.
      Và khi có ai
      khen ngợi người khác,
      hãy khen ngợi theo.
      Nếu như lời khen
      là dành cho mình,
      thì hãy nghĩ về
      những thiện đức này
      với lòng tùy hỉ.

      V-77. Hết thảy thiện hạnh
      đều là nhân tố
      tạo nên niềm vui
      vô cùng quí hiếm.
      Bao nhiêu tài sản
      cũng chẳng thể mua.
      vậy hãy tận hưởng
      tất cả niềm vui
      đến từ thiện hạnh
      của khắp mọi người.

      V-78. Làm được như vậy
      thì trong đời này
      chẳng mất mát gì,
      và mọi đời sau
      được niềm vui lớn.
      Còn bới lỗi người
      chỉ khiến cho mình
      thành kẻ khó ưa,
      tâm trí khổ sở,
      đến những đời sau
      khổ đau càng lớn.

      V-79. Khi nói, hãy nên
      khởi tự đáy lòng,
      thốt lời mạch lạc,
      ý nghĩa rõ ràng,
      âm điệu dễ nghe,
      dẹp mọi tham, sân,
      nhẹ nhàng, vừa đủ.

      V-80. Khi nhìn, hãy nên
      nhớ rằng chính nhờ
      dựa vào chúng sinh
      mà ta có thể
      đạt quả giác ngộ,
      vậy hãy nhìn bằng
      ánh mắt chân thành
      chan chứa từ tâm.

      V-81. Hãy luôn giữ lấy
      tâm nguyện cao nhất,
      nỗ lực áp dụng
      năng lực đối trị,
      thì sẽ nhận được
      công đức lớn lao
      đến từ kỉnh điền
      ân điền, bi điền.[1]

      V-82. Hãy khéo hành sự,
      tín tâm thâm sâu,
      tự làm thiện hạnh,
      không ỷ nơi người.

      V-83. Thực hành hạnh Thí
      cùng với tất cả
      Ba La Mật khác,
      làm cho tăng trưởng
      từng hạnh, tuần tự.
      Không vì hạnh nhỏ
      mà bỏ hạnh lớn,
      quan trọng nhất là
      lợi ích cho người.

      V-84. Hiểu rõ như vậy,
      luôn nỗ lực vì
      lợi ích chúng sinh.
      Đức Phật Từ Bi
      thấy xa, cho phép
      bồ tát xả bỏ
      cả những điều cấm.

      V-85. Chỉ ăn vừa đủ;
      hãy nên chia sẻ
      cho người giữ giới,
      cho người rơi đọa,
      cho người khốn cùng
      không nơi nương tựa,
      ngoài ba bộ y
      hãy nên cho hết.

      V-86. Thân này dùng để
      hành trì diệu pháp,
      không thể vì những
      việc làm tào tạp
      mà hại đến thân.
      Làm được như vậy,
      bao nhiêu ước nguyện
      của khắp chúng sinh
      sẽ mau toàn thành.

      V-87. Nếu tâm đại bi
      chưa được thanh tịnh,
      nhất định không nên
      thí xả thân thể.
      Nhưng nếu là vì
      mục tiêu cứu cánh,
      thì nên cho hết
      đời này, kiếp sau.

      V-88. Không nên nói pháp
      cho người không có
      thái độ cung kính,
      hay cho những người
      không bệnh mà vẫn
      quấn khăn trùm đầu,
      cho người che dù,
      cầm gậy, binh khí,
      hay cho những người
      trùm khăn che mặt.

      V-89. Cho người trí cạn,
      không thuyết quảng, thâm;
      cũng không nói pháp
      cho người khác phái
      khi chỉ một mình.
      Đối với giáo pháp
      dù cạn hay sâu,
      cũng đều nói bằng
      tấm lòng cung kính.

      V-90. Không nói pháp nhỏ
      cho người tâm lớn.
      Không khiến cho người
      xả bỏ giới hạnh,
      lạc lối lầm đường
      với pháp hiển tông
      hay là mật tông.

      V-91. Khi nhổ nước bọt,
      vất tăm xỉa răng,
      phải phủ đất lại.
      Phân và nước tiểu,
      không thải vào nơi
      đất sạch, nước trong
      dành cho mọi người.

      V-92. Khi ăn, hãy đừng
      nhai nuốt ngồm ngoàm,
      ồn ào, há miệng.
      Khi ngồi, hãy đừng
      duỗi thẳng chân ra,
      hay khoanh tay lại.

      V-93. Không đi chung xe,
      không ngồi chung giường,
      hay ở chung phòng
      với người khác phái.
      Quan sát tìm hiểu
      điều gì khiến người
      sinh lòng thị phi,
      hãy từ bỏ hết.

      V-94. Chỉ đường cho người
      đừng nên vô lễ
      trỏ bằng ngón tay.
      Hãy nên cung kính
      mở bàn tay phải.

      V-95. Không vẩy mạnh tay,
      hay hét lớn tiếng,
      hãy tỏ ý mình
      bằng lời nhỏ nhẹ,
      kín đáo búng tay,
      bằng không sẽ thành
      vô lễ quá độ.

      V-96. Khi nằm, hãy chọn
      quay về hướng tốt,
      giống như tư thế
      Phật nhập niết bàn;
      và ngay từ đầu
      phải giữ ý niệm
      quyết chẳng bao lâu
      sẽ lại đứng lên.

      V-97. Trong số vô vàn
      thiện hạnh bồ tát
      đã được nhắc đến,
      hãy nên thực hành
      tất cả những hạnh
      thanh tịnh hóa tâm.

      V-98. Đọc Kinh Tam Tụ
      ba thời ban ngày,
      ba thời ban đêm.
      Nương vào chư Phật
      cùng tâm bồ đề,
      thanh tịnh tất cả
      giới phạm còn lại.

      V-99. Trong mọi hoàn cảnh,
      trong mọi hành động,
      dù là cho mình
      hay là cho người,
      hãy nên tinh tấn
      áp dụng tất cả
      pháp hành thích hợp
      với hoàn cảnh ấy.

      V-100. Không có pháp nào
      mà người con Phật
      không cần phải tu.
      Khéo tu như vậy
      thì chẳng việc gì
      lại không tạo phước.

      V-101. Dù là trực tiếp,
      hay là gián tiếp,
      đừng làm những việc
      không vì chúng sinh.
      Có làm được gì
      cũng vì chúng sinh
      hồi hướng tất cả
      về vô thượng giác.

      V-102. Dù xả thân mạng,
      bồ tát cũng không
      lìa thiện tri thức,
      là bậc thông tuệ
      pháp tu đại thừa;
      và cũng không lìa
      giới hạnh bồ tát.

      V-103. Phải học cách thức
      tôn kính đạo sư
      như đã nói trong
      Truyện Cát Tường Sinh.
      Những lời khuyên này
      và giáo pháp khác
      đều có thể học
      từ trong kinh luận.

      V-104. Mọi pháp hành trì
      đều có trong kinh,
      phải nên tìm đọc.
      Trước hết nên đọc
      Kinh Hư Không Tạng.

      V-105. Những điều cần tu
      đều được giải thích
      rõ ràng sâu rộng
      trong Học Tập Luận,
      vì vậy phải nên
      siêng năng đọc tụng.

      V-106. Thỉnh thoảng có thể
      học Kinh Tập Luận,
      là bộ tóm lược
      kinh điển đại thừa,
      cũng nên tìm đọc
      bộ luận cùng tên
      của ngài Long thọ.

      V-107. Tất cả những gì
      kinh luận không cấm,
      hãy nên tu học.
      Tất cả những gì
      dạy trong kinh luận,
      hãy nên thực hành
      để mà giữ gìn
      tâm của chúng sinh.

      V-108. Muốn giữ chánh tri,
      nói cho ngắn gọn
      phải làm như sau:
      hãy thường quán xét
      xem thân và tâm
      đang như thế nào.

      V-109. Những điều nói đây
      cần phải thực hành,
      nói suông thì chẳng
      lợi ích gì đâu !
      Phỏng như người bệnh
      chỉ đọc toa thuốc
      bệnh làm sao dứt ?

      / HẾT CHƯƠNG 5  /

      Ghi chú chương 5:
      [1] kỉnh điền: Phật và Bồ Tát; ân điền: cha mẹ, bằng hữu; bi điền: chúng sinh

      || Đọc Tiếp Chương 6 >>>

      Chương Sáu: HẠNH NHẪN

      VI-1. Bao nhiêu việc lành
      bố thí, cúng Phật,
      công đức tích lũy
      hàng trăm vạn kiếp,
      chỉ cần loé lên
      mỗi một niệm sân,
      cũng đủ làm cho
      tiêu tan hết thảy.

      VI-2. Không ác nghiệp nào
      như là nghiệp sân.
      không hạnh tu nào
      sánh bằng hạnh nhẫn.
      Vậy hãy đưa tâm
      vào trong hạnh nhẫn,
      khéo léo, phong phú
      miên mật kiên trì.

      VI-3. Ai để sân hận
      dày vò tâm can,
      thời tâm không còn
      biết đến bình an,
      đối với niềm vui
      thành kẻ xa lạ,
      chẳng thể chợp mắt
      chẳng ngớt bất an.

      VI-4. Cho dù ta có
      rộng rãi cho ra
      tiền tài, địa vị,
      nhưng nếu tâm trí
      cuồng điên vì sân,
      thời kẻ hàm ân
      vẫn sẽ bức trí
      mà hại đến mình.

      VI-5. Gia đình bè bạn
      mệt mỏi chán ngán,
      kẻ chịu ân cũng
      chẳng kính, chẳng tin.
      Người nhiều sân hận
      có bao giờ sống
      trong cảnh an bình.

      VI-6. Bao khổ đau này
      đều do kẻ thù
      sân hận gây nên.
      Ai biết túm lấy
      đập tan sân hận,
      đời này kiếp sau
      sẽ sống an bình.

      VI-7. Muốn mà không được;
      không muốn phải chịu;
      gặp điều nghịch ý
      nên tâm không vui:
      đây là lương thực
      nuôi cho sân hận
      trưởng thành lớn mạnh,
      đánh tôi tơi bời.

      VI-8. Nên phải làm sao
      cắt đường tiếp tế
      của kẻ thù này.
      Nó có mục đích
      nào khác hơn là
      đánh gục tôi đâu !

      VI-9. Nên tôi mặc kệ,
      ra sao thì ra,
      quyết không thể để
      sinh tâm buồn chán.
      luôn giữ nội tâm
      vui tươi trong sáng.
      Vì tâm không vui
      sẽ không thể đạt
      những điều mình muốn,
      ngược lại thiện đức
      sứt mẻ tan hoang.

      VI-10. Sự việc nếu vẫn
      còn phương cứu chữa,
      chẳng lý do gì
      tâm lại không vui.
      còn nếu thật sự
      vô phương cứu chữa,
      thử hỏi không vui
      liệu có ích gì ?

      VI-11. Đớn đau, lăng nhục,
      dèm pha, quở mắng,
      đều là những điều
      không ai mong cầu,
      dù là cho mình
      hay cho người thân.
      Cho người mình ghét
      lại là trái ngược.

      VI-12. Những điều tạo vui
      vốn là rất hiếm,
      việc sinh đau khổ
      thì lại rất nhiều.
      Nhưng không khổ đau
      thời chẳng thể nào
      khởi tâm thoát khổ.
      vậy tâm tôi ơi,
      hãy nên kiên định !

      VI-13. Người thờ Dur-ga,
      dân kar-na-ta,
      chịu bao khổ hạnh,
      tự thiêu tự cắt,
      chẳng lợi ích chi.
      Nay vì giải thoát
      sao tôi đây lại
      yếu đuối ương hèn.

      VI-14. Không có việc gì
      không thể làm quen,
      quen rồi chắc chắn
      nhẹ nhàng hơn trước.
      Nay dùng khổ nhỏ
      để mà huân tập,
      mai sau khổ lớn
      gánh vác dễ dàng.

      VI-15. Chút khổ thế gian
      đã là như vậy:
      muỗi mòng rắn rít
      cắn đau ngứa ngáy,
      chịu đói chịu khát
      da dẻ tấy sưng.

      VI-16. Dù là nóng rét,
      gió mưa, tật bệnh,
      chịu cảnh tù đày,
      hay bị hành hung,
      tâm hãy an vui,
      quyết đừng phật ý.
      Để tâm không vui
      việc sẽ tệ hơn.

      VI-17. Có người nhìn thấy
      máu của chính mình,
      tâm lại càng thêm
      quật cường dũng mãnh.
      Lại có những kẻ
      thoáng thấy máu người,
      tâm thần choáng váng
      bất tỉnh hôn mê.

      VI-18. Hoàn toàn tùy ở
      dũng lực nơi tâm,
      chọn tâm dũng mãnh
      hay tâm hèn yếu.
      Vậy tôi nào có
      sợ gì thương tích,
      khổ đau trùng điệp,
      quyết chẳng nao lòng.

      VI-19. Đớn đau ập đến,
      kẻ trí chẳng sờn,
      tâm không chao động,
      điềm tĩnh an nhiên.
      Dặm trường xông pha
      chống quân phiền não,
      gian lao trận mạc
      nào có xá gì.

      VI-20. Tâm không quản ngại
      khổ của chính mình,
      quét sạch hết thảy
      giặc thù ác sân.
      Đây mới chính là
      anh hùng đại thắng;
      anh hùng thế gian
      chỉ chém thây ma.

      VI-21. Là vì khổ đau
      cũng nhiều giá trị:
      nhờ khổ đau mà
      đánh mất tự kiêu;
      Tâm càng xót thương
      Chúng sinh luân lạc;
      Thêm sợ việc ác,
      Thêm vui việc lành.

      VI-22. Cơ thể vướng bệnh
      ta có hận đâu,
      mặc dù mang đến
      muôn vàn đau đớn.
      Việc chi phải hận
      những kẻ hại mình,
      họ chỉ kém trí,
      bị duyên ràng buộc.

      VI-23. Cho dù không muốn,
      bệnh vẫn phát sinh.
      cho dù không cầu,
      phiền não cứ khởi.

      VI-24. Chẳng ai nghĩ rằng
      bây giờ nên giận,
      chỉ là bất ngờ
      nổi giận thế thôi.
      Cơn giận cũng chẳng
      nghĩ mình cần khởi,
      chỉ là tự nhiên
      nổi trận lôi đình.

      VI-25. Nhiễm tâm phiền não,
      bất kể loại nào,
      mọi điều bất thiện
      của khắp thế gian,
      hết thảy đều do
      nhân duyên mà có,
      chẳng phải tự phát,
      cũng chẳng tự sinh.

      VI-26. Nhân duyên hội tụ
      không có ý nghĩ
      rằng “ta đây phải
      tạo quả, tác sinh.”
      Cái được tạo tác
      cũng không từng nghĩ
      rằng: “bản thân ta
      mới được sinh ra.”

      VI-27.  Điều được gọi là
      “bản thể nguyên sơ,”
      hay còn được gọi
      là “Ngã,” là “Tôi,”
      chỉ là giả danh
      không có ý nghĩ
      “Ta phải sinh ra”
      rồi mới phát sinh.

      VI-28. Là bởi chưa sinh
      thì không hiện hữu,
      làm sao có thể
      khởi ý muốn sinh ?
      Nếu đã thường còn
      mà tiếp cận cảnh,
      thì chẳng làm sao
      dứt được cảnh này.

      VI-29. Rõ ràng là Ngã
      nếu thật thường còn
      thì phải ù lì
      tựa như hư không;
      cho dù hội tụ
      với nhiều duyên khác,
      cũng chẳng đối tác,
      vì không biến động.

      VI-30. Dù duyên tác động
      ngã vẫn y nguyên.
      Làm sao có thể
      ảnh hưởng đến Ngã ?
      Nếu nói duyên là
      tánh chất của ngã,
      thời biết lấy gì
      kết nối hai bên ?

      VI-31. Mọi sự đều là
      tùy thuộc nhân duyên,
      vì tùy nhân duyên
      nên không tự phát.
      Hiểu được vậy rồi
      còn chi để hận,
      muôn sự chỉ là
      ảo ảnh mà thôi.

      VI-32. Nếu nói “trừ hận
      là việc dư thừa,
      vì nào có gì
      để ai trừ diệt,”
      thế nhưng khổ đau
      triền miên bất tận,
      nhờ vào hạnh nhẫn
      có thể đoạn lìa,
      nên nói trừ hận
      chẳng có gì sai.

      VI-33. Vậy dù kẻ thù
      hay là bằng hữu
      làm điều sai quấy,
      tôi vẫn an nhiên.
      Tâm vẫn yên vui
      tự mình nhắc nhở
      rằng khắp vạn pháp
      đều là duyên sinh.

      VI-34. Nếu như mọi sự
      tùy nơi ý mình,
      thì khổ đau này
      đã chẳng phát sinh.
      Thế gian có ai
      là người muốn khổ !

      VI-35. Vậy mà vô tâm
      không hề ý thức,
      tự dẫn mình vào
      những chốn chông gai,
      điên cuồng đuổi theo
      nữ nhân, sự nghiệp,
      đến nỗi không ăn
      bỏ đói chính mình.

      VI-36. Có kẻ tự treo
      có kẻ nhảy vực,
      tự uống thuốc độc,
      ăn của thối tha,
      tự tạo ác nghiệp,
      gieo họa cho mình.

      VI-37. Khi nổi oán hận,
      ngay chính bản thân
      cưng quí biết bao
      họ còn tự sát,
      làm sao có thể
      không gây họa lớn
      cho người xung quanh ?

      VI-38. Vậy với những người
      phiền não thao túng,
      có thể cuồng điên
      sát hại chính mình,
      đã chẳng quan tâm
      thương xót thì thôi,
      cũng đâu có gì
      để tôi phải hận.

      VI-39. Phàm phu ấu trĩ
      nếu từ bản chất
      là luôn hại người,
      thì ta giận họ
      khác gì giận lửa
      vì sao lại cháy.

      VI-40. Còn nếu như họ
      bản chất hiền lành,
      chỉ là lầm lỗi
      nhất thời mà thôi,
      vậy nếu giận họ
      khác gì nổi giận
      với bầu trời xanh
      sao dâng đầy khói.

      VI-41. Mặc dù cây gậy
      mới làm tôi đau,
      nhưng tôi lại hận
      chính người cầm gậy.
      Nhưng người cầm gậy
      thật ra là do
      ác hận thao túng,
      lẽ ra tôi phải
      oán ác hận này.

      VI-42. Quá khứ chính tôi
      đã từng như vậy,
      đánh đập ngược đãi
      khắp chúng hữu tình.
      Nay tôi bị đánh
      cũng là đáng thôi !

      VI-43. Gậy kia, thân này,
      đều là thủ phạm
      khiến tôi đau đớn.
      Gậy là của người,
      thân là của mình,
      thật sự chẳng biết
      phải hận ai đây !

      VI-44. Thân là vết thương
      sưng tấy lở loét
      mang tướng dạng người,
      chạm nhẹ cũng đủ
      đau nhức không nguôi.
      Tôi vì mù quáng
      bám chặt vào nó,
      đến khi nhức nhối
      hận ai bây giờ ?

      VI-45. Thật là ấu trĩ !
      tôi sợ khổ đau
      nhưng lại bám theo
      toàn nhân tạo khổ !
      Tự gieo lầm lỗi,
      tự hại lấy thân,
      vậy sao tôi lại
      nổi sân với người !

      VI-46. Sự thật là vậy,
      phải hận ai đây ?
      Hết khổ đau này
      toàn do tôi tạo:
      ngục tốt Diêm vương
      trong cõi địa ngục,
      hay cả rừng đao
      toàn là ác báo.

      VI-47. Họ đến hại tôi
      là vì nghiệp tôi
      kêu mời họ đến.
      Nếu như vì vậy
      họ phải đọa rơi
      cùng tận địa ngục
      thì có phải là
      tôi hại họ không !

      VI-48. Vì họ mà tôi
      tu được hạnh nhẫn,
      tịnh được ác nghiệp.
      Còn nhờ vào tôi
      mà họ đọa rơi
      vào cõi địa ngục.

      VI-49. Vậy thật ra tôi
      là kẻ gây hại,
      còn họ thì lại
      là kẻ ban ơn.
      Thử hỏi tâm tôi
      ác hiểm thế nào
      để còn tráo trở
      sinh lòng hờn oán !

      VI-50. Tâm mà có nhẫn
      sẽ khỏi đọa rơi
      vào cảnh địa ngục.
      Cứu mình được rồi,
      nhưng còn kẻ thù
      cứu cách nào đây !

      VI-51. Vậy nếu như tôi
      ăn miếng trả miếng,
      chắc chắn sẽ khiến
      cho họ đọa rơi,
      còn mình hạnh tu
      nhất định suy thoái,
      giới tu nhất định
      tan hoang không còn.

      VI-52. Tâm đâu có thân,
      có ai diệt được,
      nhưng vì tâm cứ
      tham chấp nơi thân,
      mà thân thì lại
      đớn đau quẫn bách.

      VI-53. Cho dù người ta
      dùng lời mắng chửi,
      nói lời thô ác,
      nói lời khó nghe,
      lời nói có làm
      gì được tôi đâu !
      Vậy tâm tôi ơi
      cớ sao oán hận ?

      VI-54. Người ta ghét tôi.
      sự thù ghét này
      đâu có làm sao
      nhai nuốt được tôi.
      Đời này chẳng thể
      đời sau cũng không.
      vậy tại sao tôi
      không thích bị ghét ?

      VI-55. Hay là không thích
      vì nó cản tôi
      đạt điều mình muốn ?
      Nhưng tài sản rồi
      phải bỏ phía sau,
      ác nghiệp thì lại
      bền bỉ theo đuổi.

      VI-56. Vậy thà tôi đây
      chết ngày hôm nay,
      còn hơn là sống
      để gieo tội nghiệt !
      Kẻ giống như tôi,
      dù sống nhiều ít,
      đến khi chết đến
      khổ cũng như nhau.

      VI-57. Có người nằm mơ
      thấy mình sống vui
      hơn một trăm tuổi,
      để rồi tỉnh mộng.
      lại có người mơ
      thấy mình sống vui
      được trong khoảnh khắc
      rồi cũng tỉnh mộng.

      VI-58. Mộng đã tỉnh rồi
      thì dù trăm năm
      hay dù khoảnh khắc,
      niềm vui kia cũng
      không còn trở lại.
      Tương tự như vậy,
      khi giờ chết điểm,
      đời sống dài ngắn
      chẳng khác gì nhau.

      VI-59. Cho dù giàu sang
      sống trong thế gian,
      nhiều năm an vui
      hưởng đời phú quí,
      nhưng rồi tựa như
      bị cướp hết cả,
      hai bàn tay trắng
      thân trần mà đi.

      VI-60. Hay ta nghĩ rằng:
      “Nhờ vào tiền tài
      mà được sống lâu,
      tích thiện, trừ ác.”
      Thế nhưng vì tiền
      lại nổi cuồng điên,
      thiện căn mất hết
      ác nghiệp thêm dày.

      VI-61. Ý nghĩa cuộc sống
      đánh mất cả rồi,
      cho dù sống nữa
      cũng chỉ hoài công,
      chỉ là để gieo
      thêm nhiều ác nghiệp.

      VI-62. Khi bị phỉ báng
      ta liền nổi nóng,
      rằng không thể để
      họ tự hại mình.
      Nhưng sao ta lại
      chẳng hề nóng giận
      khi lời phỉ báng
      là dành cho người ?

      VI-63. Khi ấy ngược lại
      kiên nhẫn vô cùng,
      nói rằng cơ sự
      chỉ vì nhân duyên.
      Vậy sao không nhẫn
      khi bị phỉ báng ?
      Cơ sự chỉ vì
      phiền não phát sinh.

      VI-64. Ngay cả những người
      phỉ báng Phật pháp,
      hủy diệt tượng Phật,
      phá hoại bảo tháp,
      cũng không có gì
      đáng để oán hận,
      vì chư Phật vốn
      chẳng hề hấn gì.

      VI-65. Cho dù đạo sư,
      thân nhân, bằng hữu
      là người bị hại,
      cũng không nên hận,
      vì, như đã nói:
      mọi sự đều là
      tùy thuộc nhân duyên.

      VI-66. Chúng sinh bị hại
      vì vật vô tình
      cùng loài hữu tình,
      vậy sao ta lại
      chỉ oán hữu tình ?
      Gặp việc ác hại,
      tốt hơn nên nhẫn

      VI-67. Người ta làm ác
      chỉ vì vô minh.
      tôi hận việc ác
      cũng vì vô minh,
      vậy ai không lỗi ?
      ai người có lỗi ?

      VI-68. Trước kia vì sao
      tôi gieo nhân ác,
      để nay phải chịu
      quả ác thế này ?
      Mọi sự chỉ là
      thuận theo nhân quả,
      đã biết vậy rồi
      còn hận ai đây ?

      VI-69. Thấy rõ vậy rồi,
      tôi nay bất kể,
      dù có thế nào,
      vẫn sẽ khư khư
      giữ gìn thiện pháp.
      Vì chúng sinh mà
      gìn giữ tấm lòng
      thương yêu lẫn nhau.

      VI-70. Khi nhà bốc lửa
      sắp sửa lan xa,
      thời bao rơm, rạ,
      cùng mồi bắt lửa
      đều nên dẹp hết.

      VI-71. Tương tự như vậy,
      khi lửa sân hận
      bốc cháy dữ dội,
      thời phải tức thì
      dẹp tan tham ái,
      bảo vệ công đức
      khỏi bị cháy tan.

      VI-72. Cho kẻ tử tội,
      nếu được chặt tay
      để đổi mạng sống,
      chẳng mừng lắm sao ?
      Đổi cảnh địa ngục,
      chỉ cần chịu chút
      khổ đau cõi người,
      thật là phước lớn !

      VI-73. Chút khổ đau này
      đã không kham nổi,
      vậy sao không gắng
      vất hết niệm sân ?
      Đây sẽ là nhân
      đẩy vào địa ngục,
      chịu khổ cùng tận
      sâu thẳm muôn trùng.

      VI-74. Vì để tranh dành
      những điều mình muốn
      mà cả ngàn lần
      tôi đã rơi sâu,
      lửa hỏa ngục đốt
      cùng cực đớn đau,
      chẳng chút lợi ích
      cho mình, cho người.

      VI-75. Chút khổ hôm nay
      nào có đáng gì,
      nhưng lại mang đến
      lợi ích lớn lao.
      chịu khổ nhỏ này,
      quét khổ chúng sinh,
      thử hỏi sao tâm
      không vui cho được.

      VI-76. Có người hoan hỉ
      cất lời khen ngợi
      việc lành người khác,
      này tâm tôi ơi,
      sao chẳng thấy vui
      cùng người khen ngợi ?

      VI-77. Niềm vui này đây
      chẳng vướng nhiễm ô,
      hết thảy thánh giả
      đều luôn khuyến khích,
      phương tiện thù thắng
      thu phục lòng người.

      VI-78. Nếu rằng “chỉ có
      họ hưởng vui thôi !”
      thế thì cần gì
      trả lương tôi tớ ?
      Giữ tâm như vậy
      chỉ có mình tôi
      đời này kiếp sau
      phải chịu thiệt thòi.

      VI-79. Khi chính tôi đây
      là người được khen
      thì tôi lại mong
      mọi người tùy hỉ.
      Nhưng nếu lời khen
      dành cho người khác,
      tâm tôi chẳng muốn
      tùy hỉ chút nào.

      VI-80. Tôi đã phát tâm
      mang nguồn hạnh phúc
      về cho chúng sinh,
      nguyện vì chúng sinh
      tu thành Phật quả,
      nay chúng sinh được
      đôi chút niềm vui,
      sao tôi nổi giận ?

      VI-81. Tôi nguyện chúng sinh
      trọn thành Phật đạo,
      được khắp ba cõi
      cất tiếng tôn vinh.
      Nay chúng sinh được
      đôi chút ngợi khen,
      sao tôi lại thấy
      khổ tâm như vậy ?

      VI-82. Có người phải sống
      nương nhờ vào tôi,
      nhờ tôi dưỡng nuôi
      mà họ sống tốt.
      Nay có người khác
      chăm lo cho họ,
      sao tôi chẳng mừng
      lại còn nổi sân ?

      VI-83. Bấy nhiêu đã khiến
      trái ý phật lòng,
      làm sao gánh nổi
      chí nguyện độ sinh ?
      Thấy người được lợi,
      lòng tôi vất vả,
      hỏi tâm bồ đề
      tìm đâu cho ra ?

      VI-84. Phẩm vật kia dù
      tặng cho người nhận,
      hay dù thí chủ
      giữ lại chưa cho,
      cũng có bao giờ
      thành của tôi đâu,
      vậy cho hay không
      cần gì chú ý ?

      VI-85. Công đức của mình,
      tín tâm của người,
      cùng thiện đức này,
      sao tôi vất hết ?
      Không biết giữ điều
      mang về thiện quả,
      này tâm tôi ơi
      sao chẳng hận mình ?

      VI-86. Chẳng những việc ác
      chưa từng buồn lo,
      lại còn so đo
      khi người làm thiện
      được nhiều công đức.

      VI-87. Kẻ thù bị hại,
      cớ sao tôi lại
      cảm thấy toại lòng ?
      Sự việc nào phải
      vì do tôi muốn
      mà thành thế đâu ?

      VI-88. Cho dù thật sự
      vì ý tôi muốn
      mà kẻ thù tôi
      gặp việc không may,
      thì điều như vậy
      nào có gì vui ?
      Nếu lòng thấy vui,
      thật chẳng có gì
      tồi tệ cho bằng.

      VI-89. Tựa như con cá
      đớp phải lưỡi câu,
      bén nhọn đớn đau.
      Thợ câu chính là
      nhiễm tâm phiền não.
      Lưỡi câu ác ý
      móc tôi ném thẳng
      vào chảo đồng nung.
      Ngục tốt diêm vương
      tha hồ xâu nướng.

      VI-90. Tiếng tăm lừng lẫy,
      vinh dự, ngợi khen,
      chẳng thể làm tăng
      công đức, thọ mạng,
      không giúp thân thể
      khỏe mạnh cường tráng,
      cũng chẳng khiến thân
      thoải mái khinh an.

      VI-91. Nếu tôi biết nghĩ,
      sẽ tự hỏi mình
      những điều như vậy
      được lợi ích chi ?
      Nếu như là vì
      giúp tâm thoải mái,
      vậy sao chẳng kiếm
      cờ bạc, rượu chè !

      VI-92. Tôi vì chút danh
      mà bỏ tài sản,
      bỏ cả tánh mạng.
      Người đã chết rồi,
      chôn sâu đáy huyệt,
      chút lời ca tụng
      dành cho ai nghe ?

      VI-93. Lâu đài bằng cát
      bị biển cuốn tan,
      trẻ con tuyệt vọng
      lớn tiếng òa khóc.
      Tâm tôi cũng vậy,
      khi mà danh vọng
      bắt đầu rã tan.

      VI-94. Lời nói chóng tan,
      vốn chẳng có tâm,
      cho nên chẳng thể
      tự mình tác ý.
      Hay là nói rằng
      người ta khen bằng
      tấm lòng hoan hỉ
      nên tôi thấy vui.

      VI-95. Tâm người hoan hỉ
      việc gì đến tôi ?
      dù là khen người,
      hay là khen mình.
      Tâm người ta vui
      thì người ta hưởng,
      tâm tôi chẳng thể
      chia được phần nào.

      VI-96. Nếu như tôi vui
      vì người hoan hỉ,
      vậy cả thế gian
      đã khiến tôi vui.
      Thế nhưng khi người
      vui vì người khác,
      tôi luôn bực bội
      chẳng thấy vui cùng.

      VI-97. Có phải là tôi
      thấy vui như vậy,
      chỉ vì ý nghĩ
      chính mình được khen.
      Nghĩ lại mà xem,
      thật là vô nghĩa !
      Chỉ như đứa trẻ
      ấu trĩ mà thôi.

      VI-98. Danh vọng chỉ làm
      tâm thêm xao lãng,
      không còn biết chán
      cảnh khổ luân hồi.
      Cạnh tranh ganh tị
      với người làm thiện,
      khiến cho công đức
      thất tán hao mòn.

      VI-99. Vậy thì những ai
      ờ cạnh bên tôi,
      bôi nhọ tên tôi,
      mới thật là người
      bảo vệ cho tôi
      khỏi rơi ác đạo.

      VI-100. Tôi đã phát tâm
      mong cầu giải thoát,
      không muốn để mình
      vướng bả lợi danh.
      Họ lại cứu tôi
      thoát vòng ràng buộc,
      sao tôi có thể
      sinh tâm oán thù ?

      VI-101. Tôi đang chúi đầu
      rơi sâu ác đạo,
      may nhờ có họ
      cản lại dùm tôi.
      Tựa như ân đức
      của mười phương Phật,
      làm sao có thể
      sinh tâm oán thù ?

      VI-102. Đừng nên bực bội
      nghĩ vì họ cản
      mà điều công đức
      tôi chẳng thể làm.
      Có hạnh tu nào
      hơn là hạnh nhẫn,
      chẳng phải tôi cần
      trú ở hay sao ?

      VI-103. Nếu như không thể
      trú ở hạnh ,nhẫn
      đó cũng chỉ vì
      lầm lỗi nơi tôi.
      Việc công đức lớn
      đã vào tầm tay,
      chính tôi đây mới
      là người cản trở.

      VI-104. Việc này nếu không
      thì việc kia không,
      Việc này hễ có
      thì việc kia sinh.
      Vậy việc này là
      nhân sinh việc kia,
      làm sao có thể
      gọi là chướng ngại ?

      VI-105. Hành khất xuất hiện
      ngay đúng thời điểm,
      chẳng làm trở ngại
      cho hạnh bố thí.
      Chẳng thể nói rằng
      đạo sư truyền giới
      là gây chướng ngại
      cho người xuất gia.

      VI-106. Hành khất trên đời
      hằng hà sa số,
      nhưng người hại tôi
      lại chẳng bao nhiêu.
      Là vì nếu tôi
      không hại người khác
      thì cũng chẳng ai
      gây hại cho mình.

      VI-107. Như là kho báu
      nằm sẵn trong nhà,
      chẳng nhọc công tìm
      mà vẫn kiếm ra.
      Kẻ thù giúp tôi
      tu hạnh bồ tát,
      nên gặp kẻ thù
      lòng thật mừng vui.

      VI-108. Nhờ họ mà tôi
      tu thành hạnh nhẫn,
      cho nên công đức
      có được bao nhiêu,
      xin mang tặng hết,
      báo đền ơn nặng,
      vì họ là nhân
      mang đến quả này.

      VI-109. Nếu nói kẻ thù
      chẳng đáng đền ơn,
      vì họ nào muốn
      tôi tu hạnh nhẫn.
      Nếu vậy cần gì
      biết ơn Diệu Pháp,
      là nhân mang đến
      mọi thành tựu tu.

      VI-110. Lại rằng “họ vốn
      cố tình hại tôi”
      nên đối với tôi
      nào có ơn gì !”
      Vậy nếu như họ
      giống như y sĩ,
      thì tôi lấy gì
      tu hạnh nhẫn đây ?

      VI-111. Chính vì tâm họ
      chất đầy hiểm ác
      nên tâm tôi mới
      được hạnh nhẫn này.
      Ơn nặng khác gì
      ơn sâu Diệu Pháp,
      vì nhờ vào đó
      mà hạnh nhẫn sinh.

      VI-112. Đức Thế Tôn dạy
      Phật và chúng sinh
      đều là ruộng phước
      cần được hiến cúng.
      Nhờ làm đẹp dạ
      cả hai ruộng phước
      mà nhiều người đã
      đến bờ bên kia.

      VI-113. Quả vị bồ đề
      tùy thuộc cả hai,
      Phật cùng chúng sinh
      đều quan trọng cả.
      Thử hỏi tôi đây
      tu lối tu nào
      mà chỉ kính Phật
      xem thường chúng sinh ?

      VI-114. Chúng sinh và Phật
      thiện đức không đồng,
      nhưng mà tác dụng
      ngang bằng với nhau.
      do đó mà nói
      chúng sinh như Phật.

      VI-115. Hiến cúng chư vị
      trú tâm đại từ,
      là điểm thù thắng
      ở nơi chúng sinh.
      Công đức đến từ
      tín tâm nơi Phật,
      là điểm thù thắng
      nơi đấng Phật đà.

      VI-116. Muốn tu thành Phật
      cần có cả hai,
      vì vậy mà nói
      chúng sinh như Phật.
      Chứ chúng sinh nào
      có thể sánh với
      biển cả công đức
      của đấng Như lai.

      VI-117. Biển công đức này
      ai mà có được,
      dù chỉ mảy may,
      thì với người ấy,
      cho dù ba cõi
      đều mang hết ra,
      cũng vẫn không đủ
      để mà hiến cúng.

      VI-118. Chúng sinh vốn là
      mang đến cho ta
      quả vô thượng giác.
      chính vì như vậy
      mà ta cần phải
      hiến cúng chúng sinh.

      VI-119. Đức Phật chính là
      người bạn chân thành,
      ban cho chúng sinh
      vô lượng ân phước.
      Muốn đền ơn Phật,
      ngoài giúp chúng sinh,
      thử hỏi còn gì
      khiến Phật hoan hỉ ?

      VI-120. Phật xả thân mạng,
      vào ngục vô gián.
      để trả ơn này
      tôi nguyện độ sinh.
      Vậy dù họ có
      ngàn lần hại tôi,
      tôi vẫn một lòng
      giữ gìn gánh vác.

      VI-121. Cho những người mà
      đến cả chủ tôi
      cũng còn cưu mang
      không tiếc thân mạng,
      sao tôi có thể
      kiêu căng ngạo mạn,
      không chịu theo hầu,
      làm thân tôi tớ !

      VI-122. Chư Phật hoan hỉ
      khi chúng sinh vui;
      Chư Phật xót thương
      khi chúng sinh khổ;
      Giúp chúng sinh vui
      là khiến Phật vui;
      tác hại chúng sinh
      là tổn hại Phật.

      VI-123. Người bị lửa đốt
      thì mọi giác quan
      đâu còn lạc thú.
      Làm sao có thể
      khiến chư Phật vui,
      nếu chính tôi đây
      hại chúng sinh khổ.

      VI-124. Vậy ra tôi đã
      khiến Phật buồn lòng,
      gây bao việc ác,
      tác hại chúng sinh.
      Nay xin phát lộ,
      thành tâm sám hối,
      xin Phật tha thứ
      cho lỗi lầm này.

      VI-125. Từ nay sẽ làm
      đẹp lòng Như lai,
      luôn tự chế ngự
      luôn làm tôi tớ.
      dù người thế gian
      dẫm đạp đầu tôi,
      cướp mạng sống tôi,
      quyết không trả miếng.
      Xin đấng hộ trì
      tùy hỉ cho tôi.

      VI-126. Các đấng đại từ
      xem khắp chúng sinh
      ngang bằng với Phật.
      điều này đã rõ.
      Dù tướng chúng sinh,
      nhưng là tánh Phật,
      sao tôi chẳng thể
      thành tâm cung kính ?

      VI-127. Chỉ vậy là đủ
      đẹp lòng Như lai.
      Chỉ vậy là đã
      chu toàn tự lợi.
      Chỉ vậy là xóa
      khổ đau cõi thế.
      Nên tôi kiên trì
      chỉ vậy mà tu.

      VI-128. Khi mà quân binh
      gây điều nhiễu hại,
      ai người có trí
      hiểu rộng nhìn xa,
      cho dù đủ sức
      cũng không khinh xuất
      làm điều vọng động.

      VI-129. Là vì quân binh
      đâu chỉ một mình,
      phía sau lưng họ
      còn có lệnh vua.
      Cho nên tôi chẳng
      thể nào khinh xuất,
      khi kẻ hèn kém
      sinh sự hại tôi.

      VI-130. Sau lưng họ có
      ngục tốt diêm vương,
      lại có hết thảy
      mười phương Phật đà.
      Như là thần dân
      nể mặt bạo chúa,
      tôi đây hết dạ
      cung phụng chúng sinh.

      VI-131. Huống chi dù làm
      nhà vua nổi giận,
      thời cảnh địa ngục
      cũng chẳng rơi vào.
      Chẳng giống như là
      yác hại chúng sinh.

      VI-132. Hay dù có làm
      nhà vua vừa ý,
      quả vị bồ đề
      vua chẳng thể ban.
      Quả này chỉ có
      nhờ mang phúc lạc
      về cho chúng sinh.

      VI-133. Đến như quả vị
      bồ đề cứu cánh,
      cũng có được nhờ
      tâm muốn lợi sinh.
      Huống chi thiện báo,
      vinh quang, danh vọng,
      sở cầu như ý
      ngay trong đời này.

      VI-134. Trú tâm hạnh nhẫn,
      thì dù vướng kẹt
      trong cõi sinh tử,
      vẫn hưởng quả lành,
      tướng hảo, khang an,
      danh tiếng lừng vang,
      sống đời trường thọ
      hưởng đầy phước lộc,
      chuyển pháp luân vương.

      / HẾT CHƯƠNG 6 /

      || Đọc Tiếp Chương 7 >>>

      Chương Bảy: HẠNH TẤN

      VII-1. Với tâm an nhẫn,
      nỗ lực tinh tấn.
      Nhờ tinh tấn mà
      đạt quả giác ngộ.
      Gió kia không thổi
      thì vật không lay,
      công đức chẳng tăng
      nếu không tinh tấn.

      VII-2. Tinh tấn là gì ?
      Vui cùng thiện pháp.
      Ngược với tinh tấn
      gọi là biếng lười,
      thích điều có hại,
      chán nản, tự khinh.

      VII-3. Nếm vị ở không,
      ưa thích ngủ nghỉ,
      nên chẳng biết chán
      cảnh khổ luân hồi.

      VII-4. Đã lỡ rơi vào
      cạm bẫy phiền não,
      nên vướng kẹt giữa
      mạng lưới thọ sinh,
      đưa mình vào trong
      miệng của thần chết,
      làm sao có thể
      không biết cho được !

      VII-5. Đồng loại từng người
      lần lượt bị giết.
      Vậy mà có thể
      không thấy thật sao ?
      Vẫn ngủ no nê
      giống như loài trâu
      bên cạnh đồ tể.

      VII-6. Thần chết nay đã
      khép mọi nẻo đường
      mở mắt chờ ta.
      Lẽ nào ăn ngon !
      Lẽ nào ngủ yên !

      VII-7. Biết rồi sẽ chết
      thời phải mau mau
      tích lũy tư lương.
      Đợi chết mới chịu
      buông tâm lười biếng,
      nhỡ như chết sớm
      biết làm thế nào ?

      VII-8. Này việc mới khởi,
      này việc chưa làm,
      này việc dở dang,
      đột nhiên chết đến,
      khi ấy kinh hoàng:
      “Ôi, ta tiêu mạng !”

      VII-9. Mắt đỏ đớn đau,
      lệ tràn trên má.
      Người thân bên cạnh
      tuyệt vọng vô bờ.
      Riêng tôi nhìn thấy
      thần chết cạnh bên.

      VII-10. Ký ức tràn ngập
      việc ác đã làm.
      hoảng sợ điên cuồng
      thân trào phẩn uế
      vì bởi tai nghe
      tiếng kêu địa ngục,
      biết phải làm sao ?

      VII-11. Khổ nạn đời này
      đã khiến chơi vơi
      như cá mắc cạn,
      huống chi địa ngục
      do nghiệp gây nên !

      VII-11. Đã gieo đủ nghiệp
      khiến sẽ đọa rơi,
      nơi mà xương thịt
      sẽ bị đốt nung,
      nước sôi xối bỏng,
      làm sao có thể
      nhởn nhơ sống vui ?

      VII-13. Muốn được hưởng quả
      nhưng không gắng công.
      Kẻ yếu hèn này
      sẽ gặp họa lớn.
      Đến khi gần chết
      lại giống chư Thiên
      cất tiếng khóc than:
      “Ôi, sao quá khổ !”

      VII-14. Thân là thuyền bè
      đủ sức đưa ta
      vượt qua biển khổ.
      Nếu lỡ mất rồi
      làm sao tìm lại ?
      Hỡi kẻ ngu muội,
      ngay lúc này đây
      chớ nên mê ngủ !

      VII-15. Hạnh phúc thù thắng
      cùng với chánh pháp,
      đều là nhân duyên
      tạo quả an lạc.
      Sao không thiết tha
      lại đi ưa thích
      lơ đễnh, tán tâm ?
      đều là nhân duyên
      tạo nên quả khổ

      VII-16. Tâm không buồn nản:
      đấy là tinh quân.
      Với lòng chân thật
      hàng phục chính mình,
      bình đẳng ngã tha,
      hoán chuyển ngã tha.

      VII-17. Đừng nên nản chí
      nghĩ rằng “như ta
      làm sao có thể
      đạt quả giác ngộ !”
      Như lai là người
      nói đúng sự thật,
      đã dạy điều này:

      VII-18. Cho dù có thành
      ruồi muỗi ong bọ
      mà đủ tinh tấn,
      thời cũng có thể
      đạt được quả vị
      vô thượng bồ đề.

      VII-19. Còn như tôi đây
      được sinh làm người,
      biết điều thiện ác,
      nếu không nản chí
      từ bỏ đường tu
      thì chẳng lý nào
      không thể giác ngộ.

      VII-20. Nói rằng “tại vì
      phải thí thân mạng,
      cho cả chân tay,
      nên tôi thấy sợ.”
      Đó là không biết
      phân biệt trọng khinh.
      Vì vô minh nên
      phát sinh sợ hãi.

      VII-21. Vô lượng đời kiếp
      cũng đã nhiều phen
      bị đâm, đốt, xẻ
      thế nhưng chẳng thể
      đạt quả bồ đề.

      VII-22. Nay vì tu chứng
      phải chịu khổ đau.
      Khổ này có hạn,
      ví như giải phẫu
      để trị liệt thân.

      VII-23. Y sĩ gây đau,
      chữa lành bệnh dữ.
      Chịu được khổ nhỏ,
      khổ lớn tiêu trừ.

      VII-24. Huống chi thần y
      lại không như vậy,
      dùng cách dịu nhẹ
      chữa bệnh nan y.

      VII-25. Dạy ta lúc đầu
      tập cho rau củ,
      cho quen rồi mới
      bố thí thịt xương.

      VII-26. Khi tâm chứng được
      thân, rau chẳng khác,
      thời thí thân thể
      nào khó chi đâu.

      VII-27. Cũng chẳng đớn đau,
      vì nghiệp đã đoạn.
      cũng không nghịch ý,
      vì luôn thiện xảo.
      Cho nên, vọng kiến,
      cùng việc bất thiện
      là điều tác hại
      đến thân và tâm.

      VII-28. Nếu thân an lạc
      nhờ công đức tăng,
      tâm cũng an lạc
      nhờ luôn thiện xảo,
      Trú ở luân hồi
      là vì chúng sinh,
      làm sao có thể
      mỏi mệt cho được ?

      VII-29. Nghiệp cũ đã cạn
      nhờ tâm bồ đề.
      Công đức như biển,
      hơn hàng Thanh Văn.

      VII-30. Bồ tát cưỡi trên
      lưng ngựa bồ đề,
      biến tan mỏi mệt.
      Từ cảnh vui này
      vào cảnh vui khác,
      làm sao có thể
      thoái chí nản lòng ?

      VII-31. Tác thành chúng sinh
      có bốn lực lượng:
      nguyện, định, vui, nghỉ.
      Nguyện có được nhờ
      thiền quán khổ đau,
      và hiểu lợi ích.

      VII-32. Diệt mọi trở lực,
      tăng cường tinh tấn,
      được là nhờ nguyện,
      tự tín, vui, nghỉ,
      và nhờ năng lực
      chuyên tâm, tự chủ.

      VII-33. Cần diệt bỏ hết
      vô biên ác nghiệp
      của mình của người.
      Diệt một ác nghiệp
      đã phải gắng công
      hàng vô lượng kiếp,

      VII-34. vậy mà mảy may
      sám hối nghiệp chướng
      cũng vẫn chưa hề.
      Biến mình trở thành
      kho tàng ác nghiệp,
      sao tim lại chẳng
      từng mảnh nổ tung ?

      VII-35. Cần thành tựu đủ
      vô lượng thiện đức
      cho mình cho người.
      Tu một thiện đức
      đã phải gắng công
      hàng vô lượng kiếp,

      VII-36. vậy mà một thoáng
      huân tập thiện đức
      cũng vẫn chưa từng.
      Thật là kỳ lạ !
      Thân người này đây
      quí giá biết bao,
      lại biến nó thành
      hoàn toàn vô nghĩa !

      VII-37. Chưa từng hiến cúng
      mười phương Như lai;
      chưa từng mang đến
      niềm vui lễ đàn;
      chưa từng góp sức
      làm nên pháp hội;
      chưa từng chu toàn
      cho người gian nan;

      VII-38. chưa giúp kẻ nguy
      thoát cơn sợ hãi;
      chưa mang vui đến
      cho kẻ khốn cùng.
      Điều tôi đã làm
      đó là trong thai
      đã khiến mẹ tôi
      chịu bao khổ sở !

      VII-39. Vì trong quá khứ
      và trong hiện tại
      từ bỏ chí nguyện
      mong cầu Phật Pháp,
      nên nay mới phải
      khốn khổ thế này.
      Vậy ai còn muốn
      bỏ chí nguyện tu ?

      VII-40. Đức Mâu ni dạy:
      nguyện là cội rễ
      của mọi thiện đức.
      Nguyện này sinh ra
      từ sự liên tục
      quán về quả báo.

      VII-41. Thân đau, tâm khổ,
      đủ loại hiểm nguy,
      những điều mong muốn
      đều phải xa lìa,
      chẳng qua chỉ vì
      nghiệp dữ đã tạo.

      VII-42. Cố gắng dụng tâm
      làm nên việc lành,
      với công đức này,
      dù sinh ở đâu
      cũng đều hưởng đủ
      mọi điều thắng diệu.

      VII-43. Đã làm việc dữ,
      mặc dù muốn vui
      với ác nghiệp này,
      dù sinh ở đâu,
      đao kiếm khổ đau
      cũng đều bủa xuống.

      VII-44. Trú giữa lòng sen
      dịu mát ngát hương;
      thực phẩm diệu âm
      thuần dưỡng rạng ngời;
      hào quang Phật chiếu;
      nở từ lòng sen;
      thân tướng nhiệm mầu;
      diện kiến Như lai;
      làm bậc trưởng tử;
      tất cả đều nhờ
      công đức thiện nghiệp.

      VII-45. Thống khổ biết bao,
      bị quỉ diêm vương
      lột da lôi xuống,
      chảo đồng nung sôi
      đổ vào thân thể,
      đao kiếm cháy đỏ
      đâm xẻ thịt da,
      cắt nát vụn ra
      thành hàng trăm mảnh,
      rớt cả xuống nền
      sắt nung cháy rực,
      tất cả chỉ vì
      nghiệp dữ đã gieo.

      VII-46. Vì vậy cần phải
      tin nơi thiện đức
      với trọn kính ngưỡng,
      tu tập chuyên cần.
      Khởi bằng nghi thức
      Kinh Kim Cang Tàng,
      tu tâm tự tín.

      VII-47. Trước khi bắt đầu
      phải nên cân nhắc
      nên làm hay không.
      Không làm thì hơn,
      nhưng nếu đã làm
      chớ nên bỏ dở,

      VII-48. bằng không đời sau
      sẽ luôn quen thói,
      khổ nghiệp càng tăng,
      khả năng càng giảm,
      đến khi sắp đạt
      việc lại không thành.

      VII-49. Một là hành động;
      hai là nhiễm tâm;
      ba là khả năng:
      tu tập tự tín
      theo ba điểm này.
      Nói rằng: “tôi sẽ
      một mình gánh vác.”
      Đây chính là tâm
      tự tín hành động.

      VII-50. Người phàm phu bị
      nhiễm tâm ràng buộc,
      cả chính bản thân
      cũng không gánh nổi.
      Họ chẳng như tôi
      cho nên tôi phải
      tự mình cáng đáng.

      VII-51. Thấy người làm việc
      lao nhọc thấp hèn,
      sao lại ngồi yên ?
      Chẳng nên kiêu mạn.
      Đừng bao giờ để
      khởi lòng tự tôn.

      VII-52. Khi gặp rắn chết,
      quạ cũng thành ưng ;
      khi tâm nhu nhược,
      cả lỗi lầm nhỏ
      cũng gây hại lớn.

      VII-53. Kẻ sớm nản lòng,
      không biết kiên trì,
      làm sao thoát khổ ?
      Biết tu tự tín
      thì dù chuyện lớn
      cũng vẫn ung dung.

      VII-54. Vậy hãy kiên tâm
      diệt mọi lầm lỗi.
      Mới gặp lỗi nhỏ
      đã vội nản lòng,
      vậy thì chí nguyện
      hàng phục ba cõi
      chẳng phải chỉ là
      trò cười hay sao ?

      VII-55. Tôi sẽ là người
      chinh phục vạn pháp.
      Sẽ chẳng có gì
      xô ngã được tôi.
      Tôi là đứa con
      của sư tử chúa,
      luôn luôn an định,
      tự tín tột cùng.

      VII-56. Nếu vì tự tôn
      mà gặp tổn hại,
      thì đó chỉ là
      nhiễm tâm phiền não,
      chẳng phải tự tín.
      Ai có tự tín,
      trăm vạn kẻ thù
      không thể thao túng.
      Còn những kẻ khác
      thường bị tự tôn
      tác hại tơi bời.

      VII-57. Để cho tự tôn
      thổi phồng tâm trí,
      thời sẽ trôi lăn
      vào trong ác đạo,
      dù sinh làm người
      cũng chẳng an vui,
      làm tôi tớ ăn
      cơm thừa canh cặn.

      VII-58. Ngu si, xấu xí,
      thấp kém, yếu hèn,
      trở thành trò cười
      của khắp thiên hạ.
      Tự tôn tự đại
      mà gọi anh hùng,
      chẳng biết ai mới
      là người tội nghiệp.

      VII-59. Tự tín hàng phục
      kẻ thù tự tôn
      mới thật xứng đáng
      là đại anh hùng.
      Vĩnh viễn đoạn diệt
      kẻ thù tự tôn,
      viên thành Phật quả,
      thành đấng chiến thắng,
      như là chúng sinh
      vẫn hằng đợi mong.

      VII-60. Ở trong phiền não
      mà vẫn giữ tâm
      muôn phần kiên định,
      không để phiền não
      xâm phạm đến mình,
      như sư tử đứng
      giữa bầy lang sói.
      Gặp cảnh hiểm nguy
      thời che đôi mắt,
      tương tự như vậy,
      gặp cảnh hung hiểm
      cũng chẳng để cho
      phiền não tấn công.

      VII-62. Chẳng thà chết cháy,
      hay bị chém đầu,
      còn hơn qui hàng
      kẻ thù phiền não.
      Vậy trong mọi cảnh
      phải luôn giữ gìn
      hành động thích đáng.

      VII-63. Như trò chơi vui,
      Bồ tát làm gì
      cũng đều vui thích,
      tâm không thấy thỏa.

      VII-64. Khổ công làm lụng,
      mưu cầu hạnh phúc,
      thế nhưng hạnh phúc
      biết có được chăng !
      Gặp việc chắc chắn
      tạo quả hạnh phúc,
      làm sao có thể
      không ưa thích làm ?

      VII-65. Lạc thú giác quan
      tựa như mật ngọt
      trên đầu lưỡi dao,
      người đời nếm vào
      còn chưa biết đủ.
      Huống chi công đức
      tạo quả an lạc,
      làm sao có thể
      thấy đủ cho được.

      VII-66. Muốn làm xong việc,
      thời phải bắt đầu
      giống như là voi
      giữa trời trưa nắng
      gặp được ao trong
      vội vã dầm mình.

      VII-67. Bao giờ yếu mệt
      thời phải buông nghỉ,
      rồi lại bắt đầu.
      Hay khi làm xong
      phải biết buông nghỉ,
      vì đây là việc
      sẽ lại muốn làm.

      VII-68. Như tướng ra trận
      cùng địch so gươm,
      gạt mọi nhát đâm
      của kiếm phiền não,
      nhanh nhẹn tấn công,
      chiến thắng kẻ thù.

      VII-69. Đương khi lâm trận
      lỡ tay rơi kiếm,
      kinh hoàng sợ hãi
      vội vã nhặt lên.
      Tương tự như vậy,
      chánh niệm lỡ rơi,
      phải sợ ác đạo
      mà lượm ngay về.

      VII-70. Thuốc độc vào máu
      sẽ lan toàn thân;
      lỗi lầm có dịp
      sẽ ngập tràn tâm.

      VII-71. Như ôm trong tay
      hũ dầu đầy ắp
      đi trước lưỡi gươm,
      sẽ không dám rơi
      dù chỉ một giọt.
      Người tu phải nên
      thận trọng như vậy.

      VII-72. Như rắn chạm chân,
      lập tức hất ra.
      Tương tự như vậy,
      nếu tâm trì trệ,
      buồn ngủ, hôn trầm,
      phải mau chận đứng.

      VII-73. Mỗi khi phạm lỗi,
      phải tự trách mình,
      cương quyết lập tâm
      để không tái phạm.

      VII-74. Ở trong mọi lúc,
      trong mọi hoàn cảnh,
      sao cho chánh niệm
      thành thói quen đây ?
      Nghĩ rằng tôi sẽ
      cầu gặp đạo sư,
      làm theo tất cả
      việc làm thích đáng.

      VII-75. Để đủ sức mạnh
      trong mọi việc làm,
      hãy nhớ lời dạy
      về bất phóng dật,
      nhẹ nhàng khởi công.

      VII-76. Như sợi tơ bông
      nhẹ bồng trong gió,
      để mình phất phới
      nhẹ giữa niềm vui,
      thời có việc gì
      lại không làm được.

      / HẾT CHƯƠNG 7 /

      || Đọc Tiếp Chương 8 >>>

      Chương Tám: HẠNH ĐỊNH

      VIII-1. Tu tinh tấn rồi
      hãy chuyên tu định.
      Để tâm tán loạn
      thời nanh phiền não
      nhất định rơi vào.

      VIII-2. Nếu cả thân tâm
      đều giữ cách ly
      thì không thể nào
      sinh tâm tán loạn.
      Cần lìa xa mọi
      bận tâm thế tục,
      dứt bỏ tất cả
      loạn tưởng vọng tâm.

      VIII-3. Bận tâm thế tục
      rất khó xa lìa,
      vì luyến người thân
      và tham danh lợi,
      đây là điều nên
      từ bỏ trước hết,
      kẻ trí vẫn thường
      làm theo như vậy.

      VIII-4. “Quán đi với chỉ,
      phát hủy nhiễm tâm.”
      Hiểu điều này rồi,
      trước tiên tu chỉ,
      có được là nhờ
      vui vẻ lìa xa
      bận tâm thế tục.

      VIII-5. Chính bản thân mình
      vốn đã vô thường,
      lại còn mê luyến
      những kẻ vô thường.
      Mai sau dù có
      tái sinh ngàn lần,
      cũng chẳng cách nào
      gặp được người thân.

      VIII-6. Không gặp người thân
      thời tâm không vui,
      và không thể nào
      trú ở nơi định;
      cho dù có gặp
      tâm cũng chẳng nguôi,
      cũng vẫn khốn khổ,
      đòi hỏi, đợi chờ.

      VIII-7. Để tâm mòn mõi
      mê luyến người thân,
      thời không thể thấy
      đúng như sự thật;
      tâm chán sinh tử
      rồi sẽ đánh mất;
      rốt lại khổ lụy
      cùng cực đớn đau.

      VIII-8. Bao nhiêu tâm trí
      dồn cho người thân,
      thời gian thấm thoát
      trôi trong vô nghĩa.
      Vì chút tình thân
      ngắn ngủi không bền
      mà pháp trường tồn
      lại không giữ được.

      VIII-9. Đeo đuổi những việc
      phàm phu ấu trĩ,
      chắc chắn ác đạo
      sẽ phải rơi vào,
      sẽ khiến cho ta
      xa lìa thiện pháp,
      phàm phu ấu trĩ
      gần gũi làm chi ?

      VIII-10. Mới đang là bạn
      thoắt biến thành thù,
      vui vẫn chuốc oán,
      phàm phu ấu trĩ
      chẳng thể làm sao
      khiến họ vừa lòng.

      VIII-11. Khuyên điều lợi ích
      họ giận không nghe,
      ngược lại muốn tôi
      lìa xa điều thiện.
      Những lời họ bảo
      nếu chẳng làm theo,
      họ liền nổi sân
      đọa sinh ác đạo.

      VIII-12. Ai hơn thì ganh,
      bằng thì cạnh tranh,
      thua thì khinh mạn,
      khen thì tự đại,
      nghe chê thì lại
      đùng đùng nổi sân.
      Ấu trĩ như vậy,
      chơi thân làm gì ?

      VIII-13. Thân gần với kẻ
      phàm phu ấu trĩ,
      mọi điều bất thiện
      chắc chắn phát sinh:
      tự tôn, tự đại,
      kiêu mạn, khinh người,
      luận việc thế tục
      mê mải không thôi.

      VIII-14. Giao du như vậy
      liệu có ích gì ?
      Rốt lại chỉ toàn
      bất hạnh mà thôi.
      Họ chẳng mang điều
      lợi ích cho tôi,
      tôi cũng chẳng mang
      lợi ích cho họ.

      VIII-15. Vậy hãy lánh xa
      phàm phu ấu trĩ,
      mỗi khi gặp mặt
      vui vẻ cười chào,
      nhưng không trở nên
      quá đỗi thân mật,
      cung cách lịch sự
      như người bình thường.

      VIII-16. Chỉ nhận lấy điều
      lợi cho chánh pháp,
      như con ong mật
      mà hút nhụy hoa.
      Chẳng ai là người
      thân thiết với ta,
      ai cũng như người
      mới vừa gặp mặt.

      VIII-17. “Nhưng tôi là kẻ
      giàu sang danh vọng,
      có biết bao người
      rất mực quí tôi.”
      Nếu giữ cái tâm
      tự tôn như vậy,
      sau khi chết rồi
      xiết bao kinh hãi !

      VIII-18. Tâm vì mê muội
      tham chấp đủ điều.
      Cứ mỗi niệm tham
      phát sinh nỗi khổ
      ngàn lần lớn hơn.

      VIII-19. Vì vậy kẻ trí
      chẳng hề luyến tham.
      Bởi vì tham luyến
      mà sinh sợ hãi,
      tìm cầu bao nhiêu
      rồi cũng trôi tan,
      tâm nên vững vàng
      tư duy như vậy.

      VIII-20. Có biết bao người
      nhiều tiền lắm của,
      lại biết bao người
      danh vọng vẻ vang,
      rồi ôm danh lợi
      một mớ hành trang
      mà đi về đâu,
      nào ai có biết !

      VIII-21. Được khen đã sao ?
      đâu có gì vui ?
      Còn biết bao người
      chê bai chỉ trích.
      Bị chê đã sao ?
      đâu có gì buồn ?
      Còn biết bao người
      nghĩ tốt cho tôi.

      VIII-22. Mỗi người mỗi ý,
      cả đức Thế tôn
      cũng chẳng thể khiến
      thế gian vừa lòng,
      huống chi là kẻ
      tội nghiệp như tôi.
      Vậy hãy để tôi
      lìa xa thế tục.

      VIII-23. Nghèo thì khinh thị,
      giàu thì chê bai,
      làm sao có thể
      có chút gì vui
      khi gần những kẻ
      khó chơi như vậy.

      VIII-24. Như lai nói rằng:
      “Phàm phu ấu trĩ
      chẳng phải bạn lành.”
      Họ có bao giờ
      xử tốt với ai,
      nếu chẳng phải vì
      lợi riêng cho họ.

      VIII-25. Vào rừng sống cùng
      chim muông cây cỏ,
      không còn nghe nữa
      tiếng lời thị phi,
      đây mới thật là
      bạn hiền chân thật.
      Bao giờ tôi mới
      đi vào rừng sâu ?

      VIII-26. Bao giờ tôi mới
      đoạn lìa tất cả,
      sống trong hang đá,
      hay nơi miếu hoang.
      Hay là ngồi xuống
      ở dưới gốc cây,
      quyết không bao giờ
      quay đầu trở lại.

      VIII-27. Bao giờ tôi mới
      sống giữa thiên nhiên,
      một vùng mênh mông
      không ai làm chủ.
      Tự ý tới lui,
      tự do đi, ở,
      không gì câu thúc,
      không chút buộc ràng.

      VIII-28. Bao giờ tôi mới
      sống không âu lo,
      vỏn vẹn bình bát
      cùng vài vật dụng,
      khoát lớp áo rách
      không ai thèm mặc,
      và cũng chẳng cần
      nơi chốn che thân.

      VIII-29. Vào bãi tha ma,
      bao giờ tôi mới
      nhìn lại thân mình,
      so với xương trắng
      chất thành đống kia,
      bản chất hư hoại
      thật ra chẳng khác.

      VIII-30. Thân thể này đây
      rồi sẽ hư rửa,
      nồng nặc bốc mùi
      cực kỳ hôi thối,
      đến cả sói lang
      cũng chẳng dám gần.
      Thân này thật sự
      chỉ thế mà thôi.

      VIII-31. Cho dù sinh ra
      trông thật vẹn toàn,
      nào thịt, nào xương,
      kết thành đời sống,
      nhưng sẽ có ngày
      tất cả rã tan.
      Thân còn như vậy,
      huống chi bằng hữu.

      VIII-32. Làm thân con người
      một mình vào đời.
      Đến khi lìa đời
      cũng một mình thôi.
      Nào có ai người
      chia sẻ nỗi đau.
      Bằng hữu mà chi,
      chỉ càng thêm vướng.

      VIII-33. Tựa khách viễn du
      trên con đường dài,
      bước vào quán trọ
      làm chốn nghỉ chân.
      Khách trần viễn du
      luân hồi sinh tử,
      lấy kiếp tái sinh
      làm nơi ở trọ.

      VIII-34. Vậy thì trước khi
      có bốn kẻ đến
      khuân xác tôi đi
      giữa tiếng khóc than,
      hãy để cho tôi
      vào rừng trú ẩn.

      VIII-35. Hãy để tôi sống
      lặng lẽ một mình,
      không ai làm bạn,
      không ai oán thù.
      Tất cả xem tôi
      như người đã chết,
      đến khi lìa đời
      không kẻ tiếc thương.

      VIII-36. Không có một ai
      khóc than tràn lệ
      khiến tôi xao xuyến;
      cũng chẳng có ai
      khiến tâm tán loạn
      mất chánh niệm Phật
      cùng với pháp tu.

      VIII-37. Hãy để tôi sống
      đơn độc một mình.
      Rừng xanh tươi đẹp
      ít phiền, nhiều vui.
      Bao nhiêu tán tâm
      đều thanh tịnh cả,

      VIII-38. cho tôi buông hết
      bao mong cầu khác,
      chuyên tâm nhắm đến
      chỉ một nguyện thôi:
      cố gắng làm sao
      giữ tâm an tĩnh,
      tu tập thiền chỉ
      để mà thuần tâm.

      VIII-39. Đời này, kiếp sau
      ái dục sinh họa.
      Kiếp này sinh cảnh
      chém, giết, tù đày.
      Kiếp sau sinh cảnh
      địa ngục, đau thương.

      VIII-40. Ráo riết cậy nhờ
      ông tơ bà nguyệt,
      tới lui mai mối
      kết chỉ se duyên.
      Chỉ vì nữ sắc,
      việc ác không chừa,
      tiếng nhơ không sợ,

      VIII-41. mọi cảnh nguy hiểm
      đều chẳng từ nan,
      kể cả tài sản
      cũng đều không tiếc,
      chỉ để đổi lấy
      đôi chút ngất ngây,
      ấp ủ trong tay
      tấm thân ngà ngọc.

      VIII-42. Thật ra chỉ là
      cả một túi xương.
      Nào phải tự khởi,
      nào có tự tánh,
      sao đây lại là
      điều ngươi luyến ái ?
      hướng quả niết bàn
      chẳng tốt hơn sao ?

      VIII-43. Khó khăn biết bao
      mới được vén khăn,
      nâng lên khuôn trăng
      e ấp thẹn thùng.
      Dung mạo xưa nay
      dấu sau khăn phủ,
      bất kể thế gian
      có nhìn hay không.

      VIII-44. Mong đợi biết bao !
      Khao khát biết bao !
      Nay khuôn mặt này
      kên kên vạch khăn
      cho ngươi nhìn ngắm,
      sao ngươi hoảng chạy ?

      VIII-45. Xưa có ai nhìn
      là ngươi không vui,
      sùng sục nổi ghen,
      vội vàng che dấu.
      Nay sao chẳng hề
      ra tay bảo vệ
      người yêu thành mồi
      cho loài kên kên ?

      VIII-46. Một đống thịt này
      chim kên rỉa rói,
      thử hỏi khi trước
      vất vả mà chi,
      mang bao vòng hoa,
      trầm hương, châu ngọc,
      phí công trang điểm
      làm mồi cho chim !

      VIII-47. Thử hỏi mà xem,
      đống xương người chết
      dù chẳng cử động,
      ngươi vẫn hoảng sợ.
      Vậy sao không sợ
      tử thi biết đi ?

      VIII-48. Xương bọc thịt da
      thì ngươi yêu dấu,
      nay trần xương trắng
      ngươi lại không ham.
      Bây giờ lại nói
      thôi không cần nữa.
      Nhưng mớ xương bọc
      lại thích ái ân.

      VIII-49. Phân và nước miếng
      đến từ thức ăn,
      vậy sao nước miếng
      ngươi lại đê mê,
      còn phân thì lại
      chê là gớm ghiết ?

      VIII-50. Gối bông mềm mại,
      nhưng ngươi nào muốn
      cùng gối giao tình.
      Lại còn nói là
      thân người không hôi.
      Điên đảo vì tình,
      chẳng còn phân biệt
      đâu là thanh tịnh.

      VIII-51. Cảm xúc dịu êm,
      chiếc gối bông mềm,
      nhưng vì dục tình
      khiến cho mê muội,
      chẳng thể cùng gối
      mở cuộc giao hoan,
      đến nỗi cuồng điên
      hận cả chiếc gối.

      VIII-52. Không thích của dơ,
      lại ôm trong lòng
      cả một túi xương,
      cột bằng bắp thịt,
      bọc mớ thịt bùn.

      VIII-53. Chính thân ngươi đây
      đều là của bẩn,
      ngụp lặn chưa đủ,
      vốn đã sợ dơ
      lại còn đèo thêm
      một túi dơ khác.

      VIII-54. Ngươi bảo “nhưng mà
      tôi thích thịt da
      để mà vuốt ve,
      để mà nhìn ngắm.
      Nhưng sao ngươi lại
      chẳng hề ưa thích
      nếu thịt da kia
      vô tri không hồn ?

      VIII-55. Hay điều ngươi thích
      chính là cái tâm ?
      Thế nhưng cái tâm
      làm sao có thể
      vuốt ve, nhìn ngắm ?
      Có thể sờ, ngắm,
      thì nhất định là
      chẳng phải cái tâm.

      VIII-56. Thân của người khác
      dơ bẩn thế nào,
      không thấy thì thôi,
      cũng chưa mấy lạ,
      nhưng thân của mình
      toàn là của bẩn
      mà không tự thấy
      mới thật lạ kỳ !

      VIII-57. Tại sao tâm này
      chạy theo của bẩn ?
      Chẳng để mắt đến
      đóa sen tinh khôi
      giữa trời nắng mới,
      mà lại vui thú
      với túi phân người ?

      VIII-58. Chỗ nào trét phân
      ngươi nào muốn rờ,
      nhưng ngươi lại thích
      sờ mó tấm thân,
      từ đó sinh ra
      đủ thứ dơ bẩn.

      VIII-59. Chẳng thích của bẩn
      mà lại ôm ấp
      tấm thân chui ra
      từ chỗ dơ bẩn,
      kết tụ từ những
      hạt giống dơ bẩn.

      VIII-60. Dòi sinh từ phân
      ngươi nào ưa thích,
      vậy mà ưa thích
      thân xác người yêu,
      vốn cũng sinh ra
      từ nơi dơ bẩn,
      và vốn chứa đựng
      đầy tràn của dơ.

      VIII-61. Của dơ thân mình
      không gớm đã đành,
      lại còn khát khao
      một túi bẩn khác.

      VIII-62. Nếu cho vào miệng
      nhai xong lại nhổ,
      thì món thanh tịnh
      cơm trắng, rau xanh,
      cũng sẽ trở thành
      rác dơ mặt đất.

      VIII-63. Điều hiển nhiên này
      nếu vẫn chưa tin,
      hãy thử bước ra
      nghĩa trang mà nhìn
      xác chết hôi thối
      vất nằm nơi đó.

      VIII-64. Thử lột da ra,
      nhìn lại mà xem,
      có phải sẽ làm
      hồn kinh phách tán ?
      Những điều như vậy
      làm sao có thể
      tạo nguồn khoái cảm ?

      VIII-65. Mùi hương trên da
      chỉ là dầu xoa,
      nào có phải là
      hương thơm thân thể.
      Làm sao có thể
      nghe mùi hương này
      mà lại tơ tưởng
      đến tấm thân kia ?

      VIII-66. Đã thích mùi thơm
      cớ sao lại thích
      thân xác người tình
      bốc toàn mùi hôi.
      Người cõi thế gian
      thích điều vô lý.
      Vì sao lại thích
      tẩm hương thân thể ?

      VIII-67. Huống chi trầm hương
      đâu phải hương người.
      Sao mùi hương gỗ
      lại gợi dục tình
      với điều gì khác ?

      VIII-68. Nếu để tự nhiên,
      thân thể trần truồng,
      tóc móng lê thê,
      răng vàng hôi thối
      thật đáng kinh hãi.

      VIII-69. Nhưng tôi đây lại
      cố công trau chuốc,
      như mài vũ khí
      tự đâm chính mình.
      Toàn cõi thế gian
      rối loạn điên cuồng,
      chỉ vì nỗ lực
      của người u mê.

      VIII-70. Xương chất nghĩa trang,
      ngươi nhìn thấy sợ.
      Lại tìm khoái lạc
      nơi thành phố chết,
      giao du với toàn
      tử thi biết đi.

      VIII-71. Mớ túi phân kia
      nào phải miễn phí.
      Giá trả thật đắt:
      kiếp này kiệt quệ,
      kiếp sau địa ngục
      trầm luân khổ đau.

      VIII-72. Khi còn thơ ấu
      chẳng thể có tiền,
      đến tuổi thanh niên
      bận rộn đủ việc,
      bao nhiêu thời gian
      lo toan lập nghiệp,
      đến lúc về già
      ân ái còn đâu.

      VIII-73. Có kẻ mặc dù
      sung mãn ái dục,
      nhưng cả ngày trời
      vất vả mưu sinh,
      cuối ngày trở về
      kiệt quệ mệt mỏi,
      nặng nề giấc ngủ
      như một thây ma.

      VIII-74. Có người lại phải
      phương xa lập nghiệp,
      khổ đau cách biệt,
      khoắt khoải nhớ thương,
      cứ vậy nhiều năm,
      vợ con không gặp.

      VIII-75. Có kẻ cầu lợi
      mà chẳng biết cách,
      nên gửi bán thân,
      hạnh phúc mất hết,
      không còn tự chủ,
      trôi nổi dật dờ
      theo ngọn gió nghiệp.

      VIII-76. Có kẻ thân mình
      cũng mang ra bán,
      chịu cảnh nô lệ
      khốn khổ bần hàn.
      Vợ sanh con dưới
      gốc cây hoang vu
      đìu hiu gió lộng.

      VIII-77. Có kẻ ngu xuẩn,
      mặc dù sợ chết,
      vẫn lập sự nghiệp
      bằng cách đầu quân.
      Tưởng sẽ vinh quang,
      ngờ đâu rơi cảnh
      nô lệ buộc ràng.

      VIII-78. Có kẻ chỉ vì
      chạy theo ham muốn
      mà bị cắt, xẻ,
      đóng cọc, dao đâm,
      hay bị lửa đốt.

      VIII-79. Khổ vì gầy dựng,
      vì giữ, vì mất:
      tài sản vốn là
      khổ nạn triền miên.
      Để tâm tán loạn
      luyến tham tài sản,
      thời chẳng cơ hội
      thoát khổ luân hồi.

      VIII-80. Vì nhiều ham muốn
      nên nhiều vất vả,
      nhưng mà kết quả
      lại chẳng bao nhiêu.
      Giống như loài trâu
      khuân vác cực nhọc,
      cũng chỉ được cho
      vài ba nắm cỏ.

      VIII-81. Thật chẳng đáng gì,
      chẳng phải quí hiếm,
      cả loài thú vật
      cũng biết tìm ra.
      Vậy mà phải đổi
      bằng bao thiện nghiệp,
      phí uổng thân người
      tự tại, thuận duyên
      cực kỳ quí hiếm.

      VIII-82. Những điều ham muốn
      rồi cũng sẽ mất.
      Vậy mà vì tham,
      đọa rơi địa ngục,
      chịu bao khổ lớn,
      chỉ vì lợi nhỏ.

      VIII-83. Chỉ một phần triệu
      nỗ lực này thôi
      cũng đủ để tôi
      đạt quả vị Phật.
      Người ta vì tham
      chịu bao cực khổ,
      vất vả còn hơn
      cả bậc chân tu.
      Thế nhưng quả Phật
      lại không thể có.

      VIII-84. Thử nghĩ mà xem
      hết thảy khổ đau
      địa ngục, ác đạo,
      biết bao khổ nạn
      lửa, độc, bùa chú,
      hay là kẻ thù,
      cũng chẳng thể nào
      sánh với nạn tham.

      VIII-85. Tham dục tôi đã
      mõi mòn chán ngán,
      nay muốn quay về
      vui hạnh cách ly.
      Giữa rừng hoang vắng
      an vui thanh tịnh,
      lìa xa hết thảy
      phiền não thị phi.

      VIII-86. Bước cùng những tảng
      đá cao chất ngất,
      ánh trăng thanh mát
      ngào ngạt trầm hương.
      Gió rừng yên ả
      cùng tôi thả gót,
      thong dong quán chiếu
      về chuyện lợi sinh

      VIII-87. Rồi trong hang núi,
      hay dưới gốc cây,
      hay là nhà hoang,
      tha hồ trú ở.
      Khỏi cần vất vả
      đau đáu canh chừng,
      ung dung thanh thản
      thoát mọi âu lo.

      VIII-88. Chẳng chút luyến tham,
      không ai buộc ràng,
      an nhiên tự tại,
      ít muốn nhiều vui.
      Cảnh này Đế Thích
      dù có tìm cầu,
      cũng vẫn khó lòng
      tìm cho ra được.

      VIII-89. Cứ thế chiêm nghiệm
      về hạnh cách ly,
      quét tan hết thảy
      nhiễm tâm vọng tưởng,
      để rồi tu tập
      phát bồ đề tâm.

      VIII-90. Trước tiên quán pháp
      bình đẳng chúng sinh:
      ai chẳng như tôi
      trong cơn vui, khổ ?
      cho nên cần phải
      bảo vệ người khác
      như bảo vệ mình.

      VIII-91. Dù tay khác chân
      nhưng đều là thân,
      cần phải giữ gìn.
      Tương tự như vậy,
      chúng sinh tuy khác,
      thế nhưng vui buồn
      đều cũng như tôi,
      đều mong hạnh phúc.

      VIII-92. Khổ đau của tôi,
      đâu ai khác chịu,
      chỉ mình tôi gánh,
      đè nặng khó kham.
      Là vì vướng vào
      khái niệm chấp ngã,
      nên lấy khổ này
      gọi là của mình.

      VIII-93. Khổ đau của người
      tôi nào phải chịu,
      thế nhưng nếu cũng
      lấy làm của mình,
      tự nhiên sẽ thấy
      trĩu nặng khó kham.

      VIII-94. Cho nên khổ người
      tôi sẽ quét sạch
      như quét khổ mình.
      Và tôi cũng sẽ
      làm lợi khắp cả,
      đều là hữu tình
      cũng giống như tôi.

      VIII-95. Tôi và hữu tình
      đều cầu an lạc,
      bình đẳng như nhau,
      nào có gì khác ?
      Vậy sao tôi lại
      chỉ muốn tôi vui ?

      VIII-96. Tôi và hữu tình
      đều không muốn khổ,
      bình đẳng như nhau,
      nào có gì khác ?
      Vậy sao tôi lại
      chỉ cứu mình tôi ?

      VIII-97. Nói rằng khổ người
      chẳng hại đến tôi,
      nên tôi chẳng cần
      bận tâm che chở.
      Nói vậy cần gì
      lánh khổ tương lai,
      vốn chẳng phạm đến
      tôi trong hiện tại.

      VIII-98. Ý nghĩ “nhưng tôi
      là người chịu khổ !”
      thật ra chỉ là
      ý nghĩ sai lầm.
      Là vì khi chết
      là một người khác,
      mà khi tái sinh
      lại là người khác.

      VIII-99. Nếu như nói rằng
      “người nào chịu khổ,
      người nấy tự lo.”
      Vậy thì chân đau,
      cần gì tay giúp ?

      VIII-100. Lại rằng “đúng vậy
      thật là vô lý,
      chỉ do chấp ngã
      huân tập mà thôi.”
      Nếu nói như vậy
      những điều vô lý
      chấp ngã chấp tha
      đều phải bỏ hết.

      VIII-101. Cái được gọi là
      một chuỗi, một nhóm,
      như là tràng hạt,
      hay là đội binh,
      đều không thật có.
      Vốn chẳng có ai
      là người chịu đau,
      vậy ai là chủ
      của khổ đau này ?

      VIII-102. Khổ đau không chủ
      chẳng cần phân biệt.
      Hễ có khổ đau
      thì cần diệt khổ,
      đâu cần xác định
      [khổ này của ai]

      VIII-103. “Nói vậy, cần gì
      diệt khổ chúng sinh ?”
      Lời này vô cớ.
      Khổ mình muốn diệt
      thì khổ đau người
      cũng cần phải diệt.
      Không lo khổ người
      thì khổ đau mình
      cũng chẳng cần lo.

      VIII-104. Hỏi rằng “từ bi
      khiến cho khổ não.
      Vậy sao lại cố
      phát khởi làm gì ?”
      Thật ra nếu đã
      biết khổ luân hồi
      thì khổ phát tâm
      làm sao sánh nổi.

      VIII-105. Chịu một khổ này
      thay cho vạn khổ.
      Ai có tâm từ
      tự lợi, lợi tha,
      nhất định sẽ vui
      cam tâm gánh khổ.

      VIII-106. Đức Diệu Hoa Nguyệt
      biết vua sẽ giết,
      nhưng vẫn cam tâm
      chấp nhận khổ đau
      cho biết bao người
      diệt trừ khổ não.

      VIII-107. Tâm tu như vậy
      thì vạn khổ người
      đều luôn gánh vác,
      sâu thẳm địa ngục
      hoan hỉ đi vào,
      tựa như chim trời
      sà xuống đầm sen.

      VIII-108. Chúng sinh giải thoát
      thì có phải là
      được cả đại dương
      an vui hạnh phúc ?
      Chẳng đủ lắm sao ?
      Còn chưa thấy thỏa ?
      Nào đáng gì đâu
      giải thoát riêng tôi ?

      VIII-109. Vậy thì dù tôi
      gánh vác chúng sinh,
      cũng không thể nào
      sinh tâm kiêu ngạo.
      Lấy hạnh phúc người
      làm quà cho mình,
      chẳng hề chờ mong
      thiện báo nào khác.

      VIII-110. Chỉ chút thị phi,
      tôi đã hết lòng
      tự bảo vệ mình.
      Tương tự như vậy,
      bảo vệ hữu tình
      bằng trọn tấm lòng
      thương mến quan tâm.

      VIII-111. Vì tâm mê muội
      huân tập sâu dày,
      nên tinh huyết người,
      tôi lại xem là
      chính bản thân tôi,
      mặc dù tự nó
      vốn không tự tánh.

      VIII-112. Vậy thì tại sao
      với thân người khác
      lại chẳng thể thấy
      đây cũng là mình ?
      Và tại làm sao
      chẳng thể xem mình
      chính là người khác ?

      VIII-113. Nay đã thấy được
      rằng “ngã” là quấy,
      thấy biển thiện đức
      nằm ở nơi “tha,”
      vậy xin buông hết
      khuynh hướng ái ngã,
      để mà huân tập
      nơi lòng vị tha.

      VIII-114. Đã thấy tay chân
      đều là thân thể,
      vậy sao chẳng thể
      thấy khắp chúng sinh
      đều là hữu tình
      trong cùng cõi thế ?

      VIII-115. Vì lực huân tập
      mà nhìn thân này
      lại khởi khái niệm
      thấy đó là tôi.
      Vậy sao không thể
      khởi khái niệm tôi
      với thân thể khác ?

      VIII-116. Cho nên khi ta
      làm lợi cho người,
      cũng chẳng có gì
      để mà khoe khoang.
      Cũng giống như là
      tự đút mình ăn,
      chẳng hề khởi tâm
      mong cầu hồi báo.

      VIII-117. Khi gặp nghịch cảnh,
      tôi luôn ra sức
      gìn giữ cho mình.
      Tương tự như vậy,
      nay tôi tập quen
      khởi lòng từ bi
      gìn giữ chúng sinh.

      VIII-118. Đức Quan Thế Âm
      vì lòng từ bi,
      tự mang tên mình
      làm chốn hộ trì
      cho khắp chúng sinh
      thoát mọi sợ hãi
      giữa chốn đông người.

      VIII-119. Vậy đừng thoái chí,
      cứ tập cho quen.
      Có người ban đầu
      nghe nhắc đến tên
      tôi đã thấy sợ,
      nhưng quen thân rồi,
      tôi lại kém vui
      khi phải xa cách.

      VIII-120. Ai muốn chính mình
      thành nơi nương dựa
      của mình và người,
      thì nên thâm nhập
      diệu pháp kín mật
      hoán chuyển ngã tha.

      VIII-121. Vì tôi tham luyến
      chấp bám thân này
      mà việc cỏn con
      cũng gây kinh hãi.
      Thân này sinh ra
      biết bao sợ hãi,
      sao chẳng ghét nó
      như ghét kẻ thù ?

      VIII-122. Cũng vì phải giữ
      cho thân khỏi bệnh,
      cho miệng khỏi đói,
      cho cổ khỏi khô,
      mà tôi sát hại
      cá, chim, nai rừng,
      rình rập bên đường
      [Chờ dịp cướp bóc]

      VIII-123. Vì lợi vì danh
      có người thậm chí
      giết cả mẹ cha,
      cướp phẩm cúng dường,
      tự đẩy mình vào
      địa ngục vô gián.

      VIII-124. Ai người có trí
      lại muốn chiều lòng
      cung phụng tấm thân !
      Lại chẳng thấy đây
      chính là kẻ thù
      rất đáng khinh miệt !

      VIII-125. “Nếu cho ra rồi
      còn gì để hưởng ?”
      Đây chính là lời
      ái ngã của quỉ.
      “Nếu như giữ hết
      còn gì để cho ?”
      Đây chính là lời
      vị tha của trời.

      VIII-126. Vì thủ lợi mình
      mà hại đến người,
      sẽ phải đọa rơi
      khổ đau địa ngục.
      Vì lợi ích người
      mà hại đến mình,
      phước đức gặt hái
      rực rỡ bao la.

      VIII-127. Tranh lợi cho mình,
      rốt lại đọa rơi
      vào cõi ác đạo,
      thấp kém, ngu muội,
      vậy sao tôi chẳng
      đổi thành lợi người
      để sinh vào cõi
      tôn vinh hạnh phúc ?

      VIII-128. Ép người hầu mình
      sẽ phải chịu cảnh
      nô lệ tôi đòi.
      Hiến mình hầu người
      thì sẽ có được
      địa vị, quyền uy.

      VIII-129. Hết thảy hạnh phúc
      trong cõi thế gian
      đến từ nơi tâm
      cầu lợi cho người.
      Hết thảy khổ nạn
      trong cõi thế gian
      đến từ ham muốn
      thủ lợi riêng mình.

      VIII-130. Phàm phu ấu trĩ
      thủ lợi riêng mình,
      còn chư Phật đà
      luôn vì lợi tha.
      Khác biệt ra sao
      có cần phải nói ?

      VIII-131. Không đổi vui mình
      để lấy khổ người,
      thì vô thượng giác
      sẽ không thể đạt,
      trôi trong sinh tử
      không chút niềm vui.

      VIII-132. Đừng nói đời sau,
      ngay cả kiếp này
      cũng không trọn vẹn.
      Kẻ dưới thì luôn
      biếng lười trốn việc,
      chủ trên thì lại
      trốn trả tiền lương.

      VIII-133. Bao nhiêu niềm vui
      đời này kiếp sau,
      bao la rạng rỡ
      đều vất bỏ hết.
      Nào tôi có ngờ !
      vì bởi vô minh
      tổn hại hữu tình
      mà tự chuốc lấy
      khổ nạn triền miên.

      VIII-134. Bao nhiêu thương tổn
      trong cõi thế gian,
      bao niềm sợ hãi,
      bao nỗi đớn đau,
      đều đến từ tâm
      vô minh chấp ngã.
      Thứ quỉ dữ này
      giữ lại làm chi ?

      VIII-135. Không triệt bỏ đi
      thì bao khổ đau
      chẳng thể tận diệt.
      Lửa chẳng vất đi
      thì chẳng làm sao
      khỏi bị đốt cháy.

      VIII-136. Muốn mình thoát khổ
      và diệt khổ người,
      nên tôi mang thân
      dâng cho người khác,
      và trân quí người
      như quí bản thân.

      VIII-137. Này tâm tôi ơi
      hãy nên đoan chắc
      rằng nay tôi đã
      tùy thuộc nơi người.
      Ngoài tâm vị tha
      bây giờ không thể
      có tâm nào khác.

      VIII-138. Mắt này, tai này,
      cùng các giác quan,
      nay đã trở thành
      sở hữu người khác.
      Dùng riêng cho tôi
      không được nữa rồi.
      Huống chi là dùng
      chống lại chủ nhân.

      VIII-139. Hữu tình từ nay
      trở thành trọng yếu.
      Thân này có gì
      đều hãy cướp sạch
      đưa cho hữu tình
      hưởng dụng tùy nghi

      VIII-140. Lấy cảnh của người
      thấp, bằng, hay cao,
      đổi thành của tôi.
      Và đổi cảnh tôi
      thành của người khác.
      Dẹp hết tán tâm
      để mà quán chiếu:
      khởi tâm ganh tị,
      cạnh tranh, kiêu căng

      VIII-141. Hắn được tôn vinh,
      còn tôi cùng đinh,
      không giàu như hắn,
      không chút tài sản.
      Người ta kính hắn
      mà khinh miệt tôi.
      Hắn sống an vui,
      tôi khổ cay đắng.

      VIII-142. Tôi phải làm lụng,
      còn hắn ngồi không.
      Ai cũng biết hắn
      là bậc vĩ đại.
      Ai cũng biết tôi
      là kẻ bất tài.

      VIII-143. Khoan đã ! Sao lại
      là kẻ bất tài ?
      Thật ra tôi cũng
      được chút điều hay.
      So với người này
      thì tôi thấp kém,
      nhưng với người kia
      tôi vẫn trội hơn.

      VIII-144. Giới, kiến sa đọa,
      nhưng phải đâu là
      lỗi ở nơi tôi.
      Tôi chỉ là bị
      nhiễm tâm quấy phá.
      Hắn giỏi sao không
      cứu nạn dùm tôi.
      Hắn mà cứu tôi,
      khổ đau cỡ nào
      tôi cũng cam chịu.

      VIII-145. Nhưng hắn có hề
      muốn cứu tôi đâu.
      Sao lại nhìn tôi
      xem thường khinh miệt ?
      Thiện đức mà hắn
      kiêu ngạo biết bao,
      đối với tôi đây
      phỏng có ích gì ?

      VIII-146. Không chút đoái thương
      cho kẻ trôi lăn,
      lạc chốn hung hiểm
      cùng tận ác đạo.
      Vậy mà ra vẻ
      ung dung đạo đức,
      còn muốn sánh vai
      với bậc thánh nhân !

      VIII-147. Hắn với tôi đây
      cùng chung địa vị.
      để thắng được hắn,
      tôi không từ nan,
      chiếm đoạt tài sản,
      tiếng tăm, danh vọng.

      VIII-148. Bằng đủ mọi cách
      tôi sẽ làm cho
      khắp cả thế gian
      biết tôi tài giỏi
      và sẽ khiến cho
      tài năng của hắn
      vĩnh viễn vùi chôn.

      VIII-149. Lỗi tôi, tôi dấu.
      Tôi, chẳng phải hắn,
      được người cung phụng.
      Tôi, chẳng phải hắn,
      được hưởng lợi danh.
      Tôi, chẳng phải hắn,
      được đời ca tụng.

      VIII-150. Tôi sẽ thích thú
      khi hắn đọa rơi ;
      sẽ biến hắn thành
      trò cười thiên hạ,
      để cho thế gian
      dèm pha chế diễu.

      VIII-151. Người ta nói rằng
      kẻ vô minh này
      ganh đua với tôi.
      Học rộng, thông minh,
      tướng mạo, tài sản,
      làm sao có thể
      sánh bằng tôi đây.

      VIII-152. Mỗi khi thiên hạ
      cất lời khen tôi,
      tiếng thơm lừng vang
      ở khắp mọi nơi,
      lòng tôi rúng động,
      niềm vui tê dại,
      rợn cả lông tóc,
      thỏa mãn đầy tràn.

      VIII-153. Cho dù hắn có
      được chút tài sản,
      nhưng hắn là người
      giúp việc cho tôi,
      tôi để cho hắn
      vừa đủ nuôi thân,
      dư được chút nào,
      tôi dùng quyền uy
      mà tước đoạt cả.

      VIII-154. Hạnh phúc của hắn,
      tôi sẽ phá tan.
      Làm cho tan hoang,
      luôn gây tổn hại.
      Đó là vì hắn
      ở trong sinh tử
      đã từng trăm lần
      gây hại cho tôi.

      VIII-155. Tâm của tôi ơi,
      từ vô lượng kiếp
      vì muốn thủ lợi
      đã quá mỏi mòn,
      chỉ để chuốc lấy
      toàn là bất hạnh.

      VIII-156. Vậy thì giờ đây
      hãy nên cương quyết
      dốc tâm dồn sức
      hướng về lợi tha.
      Phật luôn là người
      nói đúng sự thật.
      Tôi nên ghi nhớ
      lợi ích pháp này.

      VIII-157. Nếu trong quá khứ
      từng tu như vậy,
      chắc chắn hôm nay
      quả Phật đại lạc
      không thể chưa thành.

      VIII-158. Vì vậy, cũng như
      tôi đã từng lấy
      tinh huyết của người
      mà thấy là mình,
      bây giờ cứ hãy
      lấy khắp hữu tình
      làm chính bản thân.

      VIII-159. Hãy vì người khác
      mà canh chừng mình.
      Thân có được gì
      hãy cướp sạch cho
      chúng sinh hưởng dụng.

      VIII-160. Tôi được an vui,
      người khác thống khổ.
      Tôi cảnh cao sang,
      người khác thấp hèn.
      Tôi được nâng đỡ,
      còn người đơn chiết.
      Vậy sao tôi chẳng
      hờn ghen chính mình ?

      VIII-161. Hạnh phúc tôi nay
      mang ra cho hết,
      khổ đau người khác
      tôi sẽ ôm về.
      Chất vấn lỗi mình,
      canh chừng nghiêm ngặt
      xem đang làm gì !

      VIII-162. Khi người phạm lỗi
      tôi sẽ nhận về
      chịu lời quở mắng ;
      còn tôi làm sai
      dù chỉ mảy may
      cũng sẽ phát lộ
      cho khắp mọi người.

      VIII-163. Danh tiếng của người
      tôi sẽ thăng hoa
      để cho cao trội
      vượt quá danh tôi.
      Như kẻ thấp hèn
      làm thân ở đợ,
      tôi đây phục dịch
      cho khắp chúng sinh.

      VIII-164. Cái ngã này đây
      vốn đầy lầm lỗi,
      ngẫu nhiên có được
      đôi chút điều hay
      thì chớ ngợi khen,
      hãy chôn dấu kỹ
      đừng cho ai biết.

      VIII-165. Hết thảy khổ nạn
      mà vì lợi riêng
      tôi hại hữu tình,
      nay xin hết thảy
      đổ về nơi tôi.
      Xin vì hữu tình
      một mình tôi chịu.

      VIII-166. Đừng để lộng quyền,
      khinh thường, kiêu mạn,
      mà hãy giống như
      cô dâu mới cưới,
      rụt rè, kín đáo,
      e thẹn, ngại ngần.

      VIII-167. Làm như thế này,
      giữ như thế kia,
      việc ấy liệu hồn
      chớ nên xâm phạm.
      Tự quản thúc mình
      gắt gao như thế,
      nếu lỡ vi phạm
      phải quất phạt ngay.

      VIII-168. Đã bảo như vậy
      nếu chẳng chịu nghe,
      này tâm ta ơi,
      chính từ nơi ngươi
      sinh bao việc ác,
      nên phải nghiêm khắc
      trừng phạt nặng tay.

      VIII-169. Khi xưa ngươi cứ
      tha hồ hại ta.
      Thuở đó đã xa,
      không còn thế nữa.
      Nay ta đã thấy !
      Ngươi liệu trốn đâu ?
      Ta đạp cho ngươi
      Chừa thói kiêu mạn

      VIII-170. Hễ vừa khởi tâm
      thủ lợi cho mình,
      phải ngay tức thì
      dẹp bỏ hết đi.
      Ngươi đã mang thân
      bán cho người ta,
      chớ khá than van,
      lo mà làm việc.

      VIII-171. Là vì nếu ta
      lỡ tâm sẩy ý,
      không mang ngươi ra
      cống hiến cho người,
      thì nhất định là
      ngươi sẽ bắt ta
      giao cho ngục tốt,
      trầm luân địa ngục.

      VIII-172. Đã biết bao lần
      ngươi phản bội ta,
      đã biết bao đời
      ta triền miên khổ,
      nay ký ức ta
      tràn đầy oán hận,
      nhất định hủy diệt
      quân ngã ái này.

      VIII-173. Bao giờ muốn vui
      thì đừng khi nào
      vui cho riêng mình.
      Tương tự như vậy,
      bao giờ bảo vệ
      thì phải luôn là
      bảo vệ người khác.

      VIII-174. Thân thể này đây
      hễ càng nuông chiều
      nó càng đổ đốn,
      ương hèn, cáu kỉnh.

      VIII-175. Để rơi cảnh này,
      dù được mọi sự
      trên toàn mặt đất
      cũng chưa toại lòng.
      Nỗi ái dục này
      lấy gì thỏa mãn ?

      VIII-176. Vì không thỏa mản
      tâm loạn, không vui.
      Còn với những ai
      tâm không mong cầu
      thời nguồn phước đức
      vô biên không cạn.

      VIII-177. Vậy đừng bao giờ
      cho phép thân thể
      tăng nỗi khát khao.
      Những món tầm thường
      không ai thèm muốn,
      đó mới thật là
      món đồ hữu dụng.

      VIII-178. Thân thể này đây
      chỉ là tro bụi,
      không thể cử động,
      chờ người khuân đi,
      xấu xí, thối tha,
      sao tôi lại xem
      đây là chính mình ?

      VIII-179. Sống hay là chết
      có khác gì đâu.
      Bộ máy này đây
      liệu có ích gì ?
      So với cục đất
      thật ra không khác.
      Tôi ơi, sao chẳng
      vất lòng kiêu hãnh ?

      VIII-180. Vì cung phụng nó
      mà tôi phải chịu
      khổ đau vô lý.
      Bao nhiêu mong cầu,
      bao nhiêu chán ghét,
      chẳng qua chỉ vì
      một khúc gỗ khô.

      VIII-181. Dù là nuông chiều,
      hay để chim gặm,
      thân chẳng hề vui,
      cũng không hề ghét.
      Cần gì tôi phải
      vất vả nâng niu ?

      VIII-182. Bị chê chẳng giận,
      được khen chẳng vui,
      dù khen hay chê,
      thân nào hay biết.
      Cần gì tôi phải
      nhọc công giữ gìn.

      VIII-183. Nếu như nói rằng
      nâng niu là để
      cho bạn tôi vui.
      Thế nhưng bạn tôi
      với thân của họ
      đều cảm thấy thích,
      vậy sao tôi lại
      chẳng thấy vui cùng ?

      VIII-184. Hãy cởi luyến tham
      để mang thân ra
      làm lợi cho người.
      Dù nhiều khuyến điểm
      vẫn phải giữ gìn
      để làm dụng cụ.

      VIII-185. Ấu trĩ bấy nhiêu
      đã đủ lắm rồi.
      Nay nguyện noi theo
      gót chân bậc giác,
      nhớ kỹ lời dạy
      về bất phóng dật,
      quyết tâm quét hết
      trì trệ hôn trầm.

      VIII-186. Như chư trưởng tử
      của đấng Phật đà
      vô vàn từ bi,
      nay tôi nguyện xin
      gánh vác tất cả,
      làm việc cần làm.
      Nếu không cố gắng
      nỗ lực ngày đêm,
      biết đến bao giờ
      khổ đau mới dứt ?

      VIII-187. Vậy để phá tan
      hết mọi che chướng,
      tôi phải đưa tâm
      thoát lối mê lầm.
      luôn luôn giữ tâm
      ở nơi đề mục,
      nhập định tối hảo,
      liên tục không ngưng.

      / HẾT CHƯƠNG 8 /

      || Đọc Tiếp Chương 9 >>>

      Chương Chín: HẠNH TUỆ

      Ghi chú người dịch: Xin lưu ý chữ “không thật có” ở đây có nghĩa là “không hiện hữu có tự tánh dị biệt.” Trung Quán không hề phủ nhận sự vật thật có qua duyên sinh và giả danh.

      IX-1. Đức Mâu Ni thuyết:
      mọi hạnh tu này,
      mục đích là để
      hướng về hạnh tuệ.
      Vậy muốn diệt khổ
      thì phải phát tuệ.

      IX-2. Tướng là tục đế.
      Tánh là chân đế.
      Hai chân lý này
      gọi là nhị đế.
      Chân đế không là
      đối tượng của tâm,
      vì tâm ứng với
      cảnh hiện tục đế.

      IX-3. Cho nên thế gian
      có hai loại người:
      một là hành giả,
      hai là phàm phu.
      Tri kiến hành giả
      phá bỏ hết thảy
      tri kiến phàm phu.

      IX-4. Tri kiến hành giả
      cũng có thấp cao,
      bậc trên phá bỏ
      tri kiến bậc dưới.
      Dựa vào tỉ dụ
      hai bên đều nhận.
      Muốn đạt kết quả
      thì không quán chiếu.

      IX-5. Đối với sự vật,
      phàm phu tiếp cảnh
      luôn thấy thật có,
      chẳng phải hư vọng.
      Điểm này hành giả
      khác với phàm phu.

      IX-6. Mặc dù thấy sắc,
      nhưng đây chỉ là
      cái thấy qui ước,
      chẳng phải chân thật.
      Cũng là hư vọng
      như [thân] bất tịnh
      mà người thế gian
      đều thấy là tịnh.

      IX-7. Để giúp người đời
      dễ dàng hội nhập,
      nên Phật nói rằng
      sự vật thật có.
      Thật ra chân đế
      vốn không phải là
      sát na sinh diệt.
      Hỏi: “vậy chẳng lẽ
      sát na sinh diệt
      lại là tục đế ?”

      IX-8. Điều này không sai:
      sát na sinh diệt
      là cảnh tục đế
      của bậc hành giả ;
      đối với thế gian
      lại là chân đế.
      Bằng không hành giả
      thấy thân bất tịnh,
      sẽ bị tri kiến
      thế gian phá bỏ.

      IX-9. Công đức đến từ
      đức Phật hư huyễn,
      so với công đức
      từ Phật thật có,
      đều là như nhau.
      Hỏi: “nếu chúng sinh
      chỉ là hư huyễn,
      vậy khi chết rồi
      làm sao tái sinh ?”

      IX-10. Duyên còn hội tụ
      thì cảnh huyễn còn,
      cho dù kéo dài
      bao lâu chăng nữa,
      cũng đâu vì vậy
      mà thành thật có.

      IX-11. Giết kẻ hư huyễn
      sinh từ huyền thuật
      thì không tạo nghiệp,
      vì nào có tâm.
      Thế nhưng chúng sinh
      vốn mang tâm huyễn,
      cho nên phước nghiệp
      vẫn sẽ phát sinh.

      IX-12. Bùa chú không thể
      tạo ra tâm huyễn.
      Từ vạn nhân duyên
      sinh vạn cảnh huyễn.

      IX-13. Chưa từng có chuyện
      chỉ từ một nhân
      mà sinh nhiều cảnh.
      Hỏi: “nếu chúng sinh,
      nhìn từ chân đế,
      vẫn trú niết bàn,
      nhưng trong tục đế
      lại trú sinh tử,

      IX-14. nói vậy vô lẽ
      Phật cũng luân hồi ?
      Vậy hạnh bồ tát
      tu để làm chi !”
      Thật ra nhân duyên
      nếu chưa đoạn lìa
      thì chẳng thể nào
      đoạn lìa huyễn ảo.

      IX-15. Còn nếu nhân duyên
      hết thảy đoạn lìa
      thì cho dù là
      cảnh huyễn tục đế
      cũng chẳng phát sinh.
      Hỏi: “nếu tâm huyễn
      vốn không thật có,
      vậy biết lấy gì
      để tiếp cảnh đây ?”

      IX-16. Chính các anh nói
      cảnh là hư huyễn,
      vậy bảo tiếp cảnh
      là tiếp cảnh gì ?
      Nếu như nói rằng:
      “cảnh thì lại khác,
      là vì cảnh hiện
      cũng chỉ là tâm.”

      IX-17. Nói vậy vô lẽ
      tâm cũng là cảnh ?
      Vậy dùng cái gì
      để thấy gì đây ?
      Chính đức Thế tôn
      đã dạy điều này:
      tâm chẳng tự thấy[1].

      IX-18. Cũng như lưỡi dao,
      chẳng thể tự cắt,
      tâm cũng tương tự,
      chẳng thể tự thấy.
      Hay lại nói rằng:
      “tâm như ngọn lửa
      tự soi sáng mình.”

      IX-19. Nhưng mà ngọn lửa
      có bao giờ tối
      để mà sáng soi ?
      Hay lại nói rằng:
      “vật gì vốn xanh,
      tự nó đã xanh
      chẳng cần gì khác,
      chẳng phải giống như
      là khối pha lê.

      IX-20. Nhận thức cũng vậy
      có thứ tùy thuộc,
      có thứ lại không.”
      Nhưng nếu vốn xanh,
      vô lẽ một mình
      tự trở thành xanh.

      IX-21. Khi anh nói rằng
      “lửa tự soi sáng,”
      lửa này do tâm
      thấy biết nói ra.
      Nhưng khi nói rằng
      “tâm tự soi sáng,”
      thì biết lấy gì
      thấy biết như vậy ?

      IX-22. Đã không có gì
      có thể thấy biết,
      lại còn tranh cãi
      xem tâm có tự
      soi sáng hay không,
      thật là vô nghĩa,
      như xem dung mạo
      đứa con của người
      phụ nữ không con.

      IX-23. Hỏi: “nếu tâm này
      không thể tự biết,
      làm sao có thể
      nhớ tâm đã qua ?”
      Thì cũng giống như
      nọc độc chuột nước,
      nhờ mối tương quan
      với việc đã qua
      mà nay nhớ lại.

      IX-24. Hay anh nói rằng:
      “tâm này có khi
      có thể thấy được
      [tâm của người khác]
      lẽ nào không thể
      tự thấy chính mình ?”
      Mắt bôi thuốc thần,
      tuy thấy bình báu
      nhưng lại chẳng thể
      thấy được thuốc bôi.

      IX-25. Tâm vẫn thấy, nghe,
      điều này đã hẳn,
      không ai chối cãi.
      Ở đây nói đến
      vọng niệm chấp vào
      tự tánh của tâm,
      là gốc rễ của
      vạn nỗi khổ đau,
      đây mới là điều
      cần phải phá bỏ.

      IX-26. Các anh cho rằng:
      “cảnh huyễn là tâm
      và cũng chẳng thể
      nói là không khác.”
      Tâm nếu thật có
      sao có thể khác ?
      Nếu nói không khác,
      thì không thật có.

      IX-27. Cảnh hiện dù huyễn
      vẫn có thể thấy.
      Tâm cũng như vậy.
      Các anh cho rằng:
      “luân hồi phải dựa
      trên điều thật có,
      bằng không rỗng rang
      như là hư không.”

      IX-28. Đã không thật có,
      làm sao có thể
      dựa vào điều có
      để thành thật có ?
      Nói như các anh
      thì tâm trở thành
      hoàn toàn đơn độc,
      chẳng có đối cảnh.

      IX-29. Nếu như tâm này
      đã không đối cảnh,
      vậy thì ai ai
      cũng đã là Phật,
      cần gì phải nói
      đến thuyết duy tâm !

      IX-30. Hỏi: “cho dù biết
      sự vật hư huyễn,
      làm sao có thể
      dứt bỏ nhiễm tâm ?
      Thuật sĩ tạo ra
      mỹ nhân tuyệt sắc,
      biết là không thật
      mà vẫn luyến thương.”

      IX-31. Đó chỉ là vì
      thuật sĩ chưa đoạn
      tập khí phiền não
      đối với sắc trần.
      Thấy mỹ nhân ảo
      mà lực huân tập
      đối với tánh không
      hãy còn quá yếu.

      IX-32. Tuy vậy, chỉ cần
      quen với tánh không,
      từ từ dứt bỏ
      thói quen chấp sắc.
      Rồi khi quen với
      “nhất thiết pháp không”
      thì cả điều này
      cũng sẽ từ bỏ.

      IX-33. Nói “không” là vì
      quán chiếu truy lùng,
      thấy chẳng có gì
      hiện ra trong tâm.
      Chứ tánh “không” này
      đâu thể tự mình
      hiện ở trong tâm
      như là thật có.

      IX-34. Cả sắc và không
      đều vắng trong tâm,
      cũng chẳng hề có
      trường hợp nào khác,
      cho nên yên lắng
      vào trong tịch tịnh.

      IX-35. Như ngọc như ý,
      như cây như nguyện,
      toại tâm ý người
      dù chẳng tác ý.
      Phật trong quá khứ
      nhờ phát đại nguyện,
      nay hiện sắc thân
      trước chúng đệ tử.

      IX-36. Như kẻ dựng nên
      đền kim sí điểu,
      Người chết đã lâu
      thế nhưng đền thần
      vẫn đủ khả năng
      chữa lành tà độc.

      IX-37. Bồ tát cũng vậy,
      nương hạnh bồ tát
      dựng nên thân Phật,
      rồi nhập niết bàn.
      Nhập diệt đã lâu,
      thế nhưng cũng vẫn
      toàn thành nguyện ước
      cho khắp chúng sinh.

      IX-38. Hỏi: “nếu như Phật
      vốn không tác ý,
      làm sao cúng Phật
      lại được công đức ?”
      Là vì Phật dạy
      cúng xá lợi Phật,
      so với cúng Phật,
      công đức bằng nhau.

      IX-39. Kinh Phật nói rõ,
      cho dù huyễn, thật,
      kết quả như nhau,
      cũng như công đức
      cúng Phật thật có.

      IX-40. Hỏi: “chứng diệu đế
      là đủ giải thoát,
      Cần gì phải chứng
      tri kiến tánh không ?”
      Vì kinh Phật nói
      không có lối này
      thì chẳng thể nào
      đạt chánh đẳng giác.

      IX-41. “Nhưng kinh đại thừa
      chưa được minh xác.”
      Thế kinh các anh,
      minh xác cách nào ?
      “Vì cả hai bên
      đều nhận là đúng.”
      Vậy thì đâu phải
      minh xác từ đầu.

      IX-42. Các anh nhờ đâu
      khởi tín tiểu thừa,
      tôi cũng y vậy
      khởi tín đại thừa.
      Nếu như chỉ cần
      hai bên chấp nhận,
      nói vậy vô lẽ
      cả kinh Vệ đà
      cũng được minh xác ?

      IX-43. Hay là nói rằng:
      “kinh điển đại thừa
      không thể chấp nhận
      vì gây nghi vấn.”
      Nhưng mà ngoại đạo
      nghi vấn kinh Phật,
      ngay chính các anh
      cùng nhiều người khác
      cũng còn nghi vấn,
      chẳng lẽ vất đi ?

      IX-44. Tỷ kheo chân chính
      là gốc chánh pháp,
      nhưng muốn chân chính
      thật khó muôn vàn.
      Tâm còn đối cảnh
      thì chẳng thể nào
      đến bờ bên kia.

      IX-45. Các anh cho rằng
      “hễ phiền não đoạn
      tức thì giải thoát.”
      Thế nhưng cho dù
      đoạn dứt phiền não,
      nghiệp báo vẫn còn.

      IX-46. Nói: “chỉ tạm thôi.
      vì ái đã đoạn
      nên chẳng thọ sinh.”
      Ái dục phiền não
      đúng thật đã đoạn,
      thế nhưng ái dục
      loại không phiền não
      vẫn chưa thể đoạn
      vì còn vô minh.

      IX-47. Ái sinh từ thọ,
      mà thọ vẫn còn.
      Niệm vẫn sinh khởi.
      Tâm vẫn chấp niệm.

      IX-48. Tâm chưa chứng không
      thì dù có đoạn
      cũng chỉ tạm thời,
      vẫn sẽ tái khởi,
      tương tự như người
      nhập định phi tưởng.
      Vì vậy nhất định
      phải quán tánh không.

      IX-49. Kinh điển kiết tập
      đều được nhìn nhận
      chính là lời Phật,
      vậy sao không nhận
      giáo lý Đại thừa,
      so với kinh điển
      không hề mâu thuẫn.

      IX-50. Vì một không thuận
      mà bỏ tất cả,
      đã vậy, sao chẳng
      vì một thuận mà
      nhận hết tất cả
      đều là lời Phật ?

      IX-51. Diệu pháp này đây
      cả đức Ca Diếp
      cũng chưa thể lường
      mức độ thâm sâu.
      Đâu thể chỉ vì
      chính mình không hiểu
      mà từ bỏ hết.

      IX-52. Hết thảy ái, sân,
      đều đã tự tại,
      nhưng vẫn nán lại
      trú ở luân hồi,
      vì thương hữu tình
      khổ trong vô minh:
      đây chính là quả
      tánh không mang đến.

      IX-53. Sai lầm biết bao
      nếu thấy tánh không
      có gì không đúng.
      Vậy hãy quét sạch
      hết thảy hoài nghi
      để mà quán không.

      IX-54. Bóng tối trùng điệp
      của phiền não chướng
      cùng với trí chướng,
      đều nhờ tánh không
      mà quét sạch cả.
      Ai người mong cầu
      chóng thành chánh quả,
      làm sao có thể
      bỏ mất tánh không !

      IX-55. Điều tạo khổ đau
      mới là đáng sợ,
      trong khi tánh không
      là điều diệt khổ,
      sao lại khiến ta
      hoảng hốt âu lo ?

      IX-56. Nếu “ngã” thật có,
      thì sợ cũng đúng.
      Thế nhưng “ngã” này
      vốn chẳng hề có,
      vậy nào có gì
      để ai âu lo ?

      IX-57. Răng, tóc hay móng
      chẳng phải là ngã.
      Ngã có phải đâu
      là xương hay máu,
      hay là đờm, giãi,
      huyết trắng, mủ xanh.

      IX-58. Ngã chẳng phải là
      mỡ hay mồ hôi,
      chẳng phải phổi, gan,
      chẳng là nội tạng,
      cũng chẳng phải là
      phân hay nước tiểu.

      IX-59. Thịt hay là da,
      đâu phải là ngã.
      Thân nhiệt, hơi thở,
      cũng đâu phải ngã.
      Lỗ trong thân thể
      cũng không là ngã.
      Sáu thức cũng vậy,
      có phải ngã đâu.

      IX-60. Nếu như nhĩ thức
      vốn dĩ thường còn,
      lẽ ra lúc nào
      cũng tiếp âm thanh.
      Đối cảnh không có,
      nhận biết gì đây ?
      Làm sao có thể
      gọi đó là thức ?

      IX-61. Nếu không cần tâm
      cũng vẫn nhận biết,
      vô lẽ khúc gỗ
      cũng biết hay sao ?
      Đối cảnh không có
      thì thức cũng không.

      IX-62. Các anh nói rằng
      “thức này thấy sắc,”
      vậy sao lúc ấy
      chẳng còn nghe thanh ?
      Hay là nói rằng:
      “đã hết âm thanh ?”
      Không có âm thanh
      làm gì có thức.

      IX-63. Vốn là nhĩ thức,
      làm sao có thể
      biến thành nhãn thức ?
      Cho dù nói rằng:
      “một người có thể
      vừa cha, vừa con.”
      Nhưng nói như vậy
      chỉ là lập danh,
      không phải tự tánh.

      IX-64. Tương tự như vậy,
      “khổ,” “trung tánh,” “lạc”
      vốn không là cha,
      cũng không là con.
      Chưa hề tìm ra
      có nhãn thức nào
      lại thấy âm thanh.

      IX-65. Các anh nói rằng:
      “giống như diễn viên
      sắm nhiều vai tuồng.”
      Nếu vậy đâu thể
      gọi là thường còn.
      Trước sau bất nhất
      mà gọi đồng nhất,
      việc này đúng thật
      chưa từng thấy qua !

      IX-66. Các anh nói rằng:
      “chỉ là tướng huyễn.”
      Vậy xin giải thích
      tánh thì ra sao ?
      “Chỉ thuần là biết.”
      Nói vậy vô lẽ
      hết thảy chúng sinh
      đều chỉ là một ?

      IX-67. Sự vật có tâm
      hay không có tâm,
      lẽ nào giống nhau
      vì đều hiện hữu.
      Nếu tướng của tâm
      hết thảy không thật,
      thử hỏi còn gì
      làm nền tảng chung ?

      IX-68. Đã là vô tri
      thì không phải ngã,
      chỉ là món vật
      giống như chiếc bình.
      Nếu như cho rằng:
      “phối hợp với thức
      thì sẽ nhận biết,”
      vậy thì đâu còn
      là vật vô tri.

      IX-69. Hơn nữa, nếu như
      ngã vốn bất động,
      vậy biết lấy gì
      phối hợp với thức ?
      Ngã mà như vậy,
      thì cả hư không
      ù lì vô tri
      cũng gọi là ngã.

      IX-70.  Các anh cho rằng:
      “ngã nếu không có,
      thì chẳng có gì
      nối nghiệp với quả.
      Nếu không có ai
      là người gieo nghiệp,
      vậy biết lấy ai
      làm người chịu quả ?”

      IX-71. Cả anh và tôi
      đều chấp nhận rằng
      chủ thể của việc
      gieo nghiệp, chịu quả
      vốn không đồng nhất,
      và cũng chấp nhận
      ngã không tạo tác,
      vậy còn tranh biện
      ở chỗ nào đây ?

      IX-72. “Nhân đồng với quả”
      là điều không có
      phải là cùng chung
      một dòng tâm thức
      mới có thể nói
      đến việc gieo nhân
      thì phải gặt quả.

      IX-73. Tâm của quá khứ,
      hay của tương lai,
      đều không phải ngã,
      vì đã không còn,
      hay là chưa đến.
      Nếu cho rằng ngã
      là tâm hiện tại,
      vậy khi tâm này
      tan vào quá khứ,
      ngã cũng tan theo.

      IX-74. Cũng như thân chuối,
      xẻ hết thân ra
      chẳng tìm thấy lõi.
      Tương tự như vậy,
      quán chiếu tận cùng
      vẫn không làm sao
      tìm thấy được ngã.

      IX-75. Hỏi: “nếu chúng sinh
      đều chỉ là không,
      vậy tâm từ bi
      còn phát với ai ?”
      Là vì chúng sinh
      vô minh chấp ngã,
      nên cần phát nguyện
      cứu vớt khắp cả.

      IX-76. Hỏi: “nếu chúng sinh
      đều chỉ là không,
      vậy ai là người
      thành tựu Phật quả ?”
      Đúng là như vậy.
      Việc này chỉ do
      vô minh thấy có !
      Nhưng để diệt khổ,
      thì Phật quả mà
      vô minh thấy có,
      chẳng thể quét đi.

      IX-77. Khổ đau đến từ
      tự tín chấp ngã,
      lại được tăng bồi
      bởi niệm vô minh.
      Cho dù nghĩ rằng
      chẳng thể nào khác,
      nhưng quán vô ngã
      vẫn là cao hơn.

      IX-78. Điều gọi là “thân,”
      chẳng phải chân, cẳng,
      chẳng phải đùi, hông,
      chẳng phải lưng, bụng,
      cũng chẳng phải là
      lồng ngực, cánh tay.

      IX-79. Thân chẳng phải là
      xương sườn, bàn tay,
      chẳng phải là nách,
      chẳng phải là vai,
      chẳng là nội tạng,
      ruột gan, đầu, cổ,
      vậy thật ra thân
      trú ở nơi nào ?

      IX-80. Nếu thân trú ở
      khắp mọi bộ phận,
      mỗi bộ phận ứng
      với một phần thân,
      còn chính thân kia
      trú ở chỗ nào ?

      IX-81. Nếu nói rằng: “thân
      đơn nhất, trọn vẹn,
      nằm ở bàn tay,
      ở từng bộ phận,”
      vậy thì vô lẽ
      bao nhiêu bộ phận
      là bấy nhiêu thân ?

      IX-82. Không ở bên trong,
      chẳng ở bên ngoài,
      làm sao đồng nhất
      với từng bộ phận ?
      cũng chẳng thể khác
      với các bộ phận,
      hỏi thân như vậy
      làm sao thật có ?

      IX-83. Thân chẳng hề có.
      Chỉ vì vọng tâm
      nhìn vào bàn tay
      cùng các bộ phận
      mà lại khởi niệm
      thấy rằng có thân.
      Cũng như nhìn đá
      khéo chất thành đống
      giả làm bù nhìn,
      tưởng có người ta.

      IX-84. Hội đủ nhân duyên
      thì gã bù nhìn
      thấy thành người ta.
      Hội đủ bộ phận
      thì từ nơi đó
      hiện ra thân người.

      IX-85. Tương tự như vậy,
      bàn tay chỉ là
      tổ hợp các ngón
      chứ nào tự có;
      ngón tay cũng vậy,
      do đốt hợp thành;
      cả đốt tay cũng
      gồm nhiều bộ phận.

      IX-86. Mỗi bộ phận này
      gồm nhiều phân tử.
      Phân tử bao gồm
      thành phần phương hướng.
      Mỗi thành phần này
      chẳng đâu tìm thấy
      mẩu bất khả phân,
      giống như không gian,
      cho nên phân tử
      cũng không tự tánh.

      IX-87. Sắc thể, vì thế,
      đều như huyễn mộng.
      Đã thấy vậy rồi
      luyến ái ai đây ?
      Thân đã không có
      thì còn nói gì
      đến là thân nữ
      hay là thân nam ?

      IX-88. Khổ, nếu thật có,
      tại sao lại chẳng
      choáng hết niềm vui ?
      Vui, nếu thật có,
      tại sao món ngon
      lại chẳng mang vui
      cho người thoi thóp ?

      IX-89. Nếu như nói rằng:
      “cảm thọ tuy có
      nhưng bị che khuất
      bởi điều mạnh hơn.”
      Đã không cảm được,
      làm sao có thể
      gọi là cảm thọ ?

      IX-90. Hay là nói rằng:
      “vi tế vẫn còn,
      nhưng khổ thô lậu
      đã bị lấn át:
      tuy thấy là vui
      nhưng trong vi tế
      vẫn đang là khổ.”

      IX-91. Đã nói: “vì có
      yếu tố đối nghịch
      mà khổ không hiện,”
      đó chẳng phải là
      nói rằng cảm thọ
      vốn chỉ do tâm
      lập danh mà có ?

      IX-92. Vì lý lẽ này
      mà gọi thiền quán
      là pháp đối trị.
      Định sinh từ quán,
      đây là thức ăn
      nuôi dưỡng hành giả.

      IX-93. Giữa căn với trần,
      nếu có khoảng cách,
      làm sao tiếp xúc ?
      Nếu không khoảng cách
      thì đã là một,
      biết lấy cái gì
      tiếp xúc gì đây ?

      IX-94. Phân tử không gian
      vì không khối lượng
      nên chẳng thể nào
      nhập vào trong nhau.
      Đã không thể nhập
      thì không thể hòa.
      Đã không thể hòa,
      chẳng thể tiếp xúc.

      IX-95. Có ai lại nói
      vật vô thành phần
      mà lại có thể
      tiếp xúc với nhau.
      Ở đâu thấy được
      sự tiếp xúc này,
      xin hãy vui lòng
      chỉ cho tôi thấy !

      IX-96. Chẳng thể nói rằng
      tâm phi vật thể
      mà lại có thể
      chạm vào cái tâm.
      Ngay cả tổ hợp
      cũng không thể có
      như là trước đây
      đã từng nói rõ.

      IX-97. Xúc này từ đầu
      vốn đã không có,
      vậy thì thọ này
      từ đâu sinh ra ?
      Thử hỏi có gì
      để dày vò ai ?
      Việc gì ta phải
      lao đao như vậy !

      IX-98. Vốn chẳng có ai
      là người cảm thọ.
      Chính cảm thọ này
      cũng không tự có.
      Đã thấy vậy rồi
      thì ái và thủ,
      cách gì lại chẳng
      quay đầu rút lui.

      IX-99. Điều thấy trước mắt,
      nắm ở trong tay,
      hết thảy đều như
      là cơn mộng huyễn.
      Nếu thọ và tâm
      đến cùng một lúc,
      thì tâm đã chẳng
      tiếp được thọ này.

      IX-100. Nếu cái này trước,
      cái kia đến sau,
      vậy chỉ còn là
      kinh nghiệm nhớ lại.
      Thọ cũng chẳng thể
      tự tiếp chính mình;
      cũng chẳng gì khác
      có thể tiếp thọ.

      IX-101. Chủ thể cảm thọ
      vốn không thật có,
      nên thọ này cũng
      không có tự tánh.
      Vậy thì cảm thọ
      làm sao có thể
      gây tổn hại cho
      khối vô ngã này ?

      IX-102. Tâm không trú ở
      bên trong các căn;
      cũng không trú ở
      sắc trần bên ngoài;
      tâm cũng không hề
      trú ở chính giữa:
      không trong, không ngoài,
      không nơi nào khác.

      IX-103. Không ở nơi thân,
      cũng không tách lìa.
      Không là đồng nhất,
      cũng không dị biệt.
      Tâm dù mảy may
      cũng không thật có:
      chúng sinh vốn dĩ
      nằm ngoài cảnh khổ.

      IX-104. Nếu như tâm thức
      đi trước sắc trần,
      vậy thì lấy gì
      để sinh ra thức ?
      Nếu thức và trần
      đồng loạt với nhau,
      vậy thì lấy gì
      để sinh ra thức ?

      IX-105. Nếu thức sau trần,
      thì cũng vậy thôi,
      chẳng biết lấy gì
      để sinh ra thức.
      Cho nên vạn pháp
      từ đâu sinh ra,
      là điều vượt ngoài
      khả năng nhận biết.

      IX-106. Hỏi: “nói vậy thì
      còn gì tục đế ?
      Tục đế đã không,
      nhị đế làm sao ?
      Hơn nữa tục đế
      nếu đến từ tâm,
      làm sao có thể
      đạt được niết bàn !”

      IX-107. Thật ra chỉ là
      vọng cảnh nơi người
      nào có phải là
      tục đế tâm ta ?
      niệm còn nối niệm,
      tục đế còn hiện,
      bằng không tục đế
      đương nhiên không còn.

      IX-108. Chủ thể, đối tượng
      tùy thuộc lẫn nhau
      nên vẫn có thể
      dựa lẽ qui ước
      để nói đến sự
      quán chiếu, tầm tư.

      IX-109. Hỏi: “vậy phải lấy
      sự tầm tư này
      để mà quán chiếu,
      rồi lại quán chiếu
      sự quán chiếu này,
      cứ làm như vậy
      có bao giờ xong.”

      IX-110. Nếu biết đúng cách
      quán chiếu sự vật,
      thì có còn gì
      để mà quán chiếu.
      Đối tượng đã vắng,
      nên chủ thể tan,
      đó mới chính là
      niết bàn chân thật.

      IX-111. Ai người nói rằng
      hai bên đều thật,
      sẽ khó bảo vệ
      cho luận kiến này.
      Nếu dùng tâm thức
      xác định sự vật,
      vậy biết lấy gì
      xác định tâm thức ?

      IX-112. Nếu dùng đối cảnh
      xác định tâm thức,
      vậy biết lấy gì
      xác định đối cảnh ?
      Nếu nói hai bên
      tùy thuộc lẫn nhau,
      thì sao còn gọi
      là có tự tánh ?

      IX-113. Nếu không có con
      đâu thể có cha,
      vậy đứa con này
      từ đâu mà có ?
      Làm gì có cha,
      nếu không có con,
      nên cả hai bên
      không thể thật có.

      IX-114. Hay là nói rằng:
      “cây đến từ hạt,
      chỉ cần nhìn cây
      là biết có hạt.
      Thức đến từ cảnh,
      sao lại không thể
      nhìn vào nơi thức
      biết cảnh thật có ?”

      IX-115. Việc này không thể.
      Nếu muốn nhìn cây
      để biết có hạt,
      phải do tâm thức,
      khác với cây này,
      suy ra như vậy.
      Nay biết lấy gì
      nhìn thức tiếp cảnh
      để suy ra rằng
      thức này thật có ?

      IX-116. Lẽ thường cho thấy
      sự việc trong đời
      đều là có nhân.
      Hoa sen nhiều cánh
      đều sinh ra từ
      nhiều nhân phối hợp.

      IX-117. Hỏi: “vậy nhân này
      từ đâu mà có ?”
      Từ nhân đi trước.
      Lại hỏi: “nhân này
      sao sinh quả kia ?”
      Là vì tùy thuộc
      vào nhân đi trước.

      IX-118. Tin rằng Thượng đế
      sinh ra hữu tình,
      vậy xin nói rõ
      Thượng đế là gì ?
      Nếu nói chỉ là
      thành phần thiên nhiên,
      thì thôi, cần gì
      phí công tranh cãi !

      IX-119. Tuy nhiên, đất cùng
      các thành phần khác
      vốn không đơn nhất,
      sinh diệt, ù lì,
      chẳng phải thần thánh,
      vật dẫm dưới chân,
      dơ bẩn bất tịnh,
      sao lại có thể
      cho là Thượng đế ?

      IX-120. Không gian vô năng
      chẳng phải Thượng đế.
      Ngã cũng không phải,
      điều này đã rõ.
      Nói rằng: “Thượng đế
      ngoài tầm thấy, biết ?”
      Vậy bảo rằng “có”
      là dựa vào đâu ?

      IX-121. Thượng đế thật ra
      muốn tạo những gì ?
      Hay là Thượng đế
      tạo sinh ra ngã
      và các thành phần ?
      Các anh chẳng nói
      ngã và các đại
      cũng là thường còn
      giống như Thượng đế ?
      Tâm thức là từ
      đối cảnh sinh ra.

      IX-122. Kể từ vô thủy
      sướng khổ đều do
      nơi nghiệp mà có.
      Thử hỏi Thượng đế
      sinh được những gì ?
      Nhân không khởi thủy,
      thì quả chẳng thể
      có điểm bắt đầu.

      IX-123. Thượng đế nếu không
      tùy thuộc gì cả,
      tại sao vạn vật
      chẳng đồng loạt sinh ?
      Không một thứ gì
      Thượng đế không tạo,
      vậy còn gì để
      Thượng đế tùy vào ?

      IX-124. Nếu nói Thượng Đế
      tùy thuộc thứ khác,
      vậy thì vạn vật
      sinh từ nhân duyên,
      đâu phải Thượng đế.
      Hội đủ nhân duyên
      thì Thượng đế tạo,
      không đủ thì thôi,
      không thể tạo sinh.

      IX-125. Nếu nói: “Thượng đế
      không khởi ý muốn
      nhưng vẫn tạo sinh,”
      vậy là tùy thuộc
      vào quyền năng khác.
      Còn nếu nói rằng:
      “do muốn mà tạo,”
      vậy chịu chi phối
      của lòng ham muốn,
      thử hỏi Thượng đế
      vạn năng chỗ nào ?

      IX-126. Riêng về tri kiến
      phân tử thường còn  [Mimamsaka theory]
      đã được phá bỏ
      ở phần trước đây.
      Số Luận thì nói  [Samkyas]
      vạn vật sinh từ
      vật thể nguyên thủy

      IX-127. Cái được gọi là
      “vui,” “khổ,” “trung tánh”[2]
      ở thế quân bình,
      thì được gọi là
      vật thể nguyên thủy;
      khi mất quân bình,
      thì sinh vạn vật.

      IX-128. Đã là đơn nhất
      mà lại có ba,
      là điều không có.
      Cho nên ba tánh
      không thể hiện hữu,
      mỗi tánh lại phải
      bao gồm cả ba.

      IX-129. Ba tánh đã không,
      vậy thì âm thanh
      hãy còn rất xa !
      Những vật vô tri
      như là mảnh vải,
      chẳng thể là nơi
      chứa được niềm “vui.”

      IX-130. Nếu như nói rằng:
      “những vật như vải
      mang tánh của nhân.”
      Trước đây đã chẳng
      quán “vật” rồi sao ?
      Các anh cho rằng:
      “sự vật là do
      “vui” và đại loại
      làm nhân mà có.”
      Vải có bao giờ
      từ vui sinh ra !

      IX-131. Đúng ra phải nói:
      “vui” đến từ “vải.”
      Vải đã không có,
      thì “vui” cũng không.
      “Vui” và đại loại
      mà gọi thường còn,
      đây thật là điều
      chưa từng thấy qua !

      IX-132. Nếu “vui” thường còn,
      tại sao lại chẳng
      liên tục thấy “vui” ?
      Hay là nói rằng
      ““vui” có khi về
      dưới dạng vi tế.”
      Làm sao có thể
      vừa tế, vừa thô ?

      IX-133. Hay là nói rằng:
      “hết thô lại tế.”
      Vậy thô và tế,
      không phải thường còn,
      đã vậy sao chẳng
      nói thẳng mọi sự
      đều là vô thường ?

      IX-134. Các anh còn nói:
      ““thô” chính là “vui.””
      Rõ ràng khẳng định
      “vui” cũng vô thường.
      Nếu như nói rằng:
      “đã không hiện hữu,
      thì không khởi hiện,
      vì chưa từng có.”

      IX-135. Dù đã phủ định
      “việc chưa từng có
      chẳng thể phát sinh,”
      nay các anh lại
      khẳng định điều này.
      Nói quả và nhân
      đồng loạt hiện hành,
      không lẽ ăn cơm
      cũng là ăn phân ?

      IX-136. Đã vậy cần gì
      phí tiền mua vải,
      mua nắm hạt gòn
      chẳng tốt hơn sao ?
      Nói: “vì kẻ phàm
      u mê chẳng thấy,
      phải do bậc trí
      dạy lại điều này.”

      IX-137. Nhưng mà trí này
      kẻ phàm cũng có,
      sao họ không thấy ?
      Nếu như nói rằng:
      “cái thấy kẻ phàm
      không thể tin nhận.”
      Nói vậy, đối cảnh
      mà kẻ phàm thấy
      cũng là hư vọng.

      IX-138. Hỏi: “nếu nhận thức
      đã không giá trị,
      vậy thì đối cảnh
      chẳng phải đều là
      hư vọng hết sao ?
      Vậy quán tánh không
      thật là vô lý !”

      IX-139. Nhưng mà thật ra
      nếu như đã thấy
      đối cảnh là không,
      thì biết tánh không
      của đối cảnh kia
      chẳng thể chấp vào.
      Đối cảnh hư vọng,
      bất kể loại nào,
      tánh không của nó
      cũng là hư vọng.

      IX-140. Như trong giấc mộng
      thấy con mình chết,
      ý tưởng “đã chết”
      thay thế vào cho
      ý tưởng “còn sống,”
      mặc dù cả hai
      đều là hư vọng.

      IX-141. Vì vậy sau khi
      quán chiếu tận tường,
      biết chẳng có gì
      là không có nhân, [vô nhân sinh]
      cũng không có gì
      cùng ở trong nhân,
      dù là riêng lẽ [tự sinh]
      hay là tổ hợp, [cộng sinh]

      IX-142. cũng không có gì
      sinh từ nơi khác. [tha sinh]
      Không từng ở lại
      cũng chẳng từng đi,
      vọng tâm nhìn vào
      cho rằng thật có.
      sự vật như vậy
      xét cho rốt ráo
      khác gì ảo ảnh ?

      IX-143. Cảnh tượng hư ảo
      thuật sĩ tạo ra
      Hay là cảnh ảo
      do nhân duyên tạo
      biết sinh từ đâu ?
      biết diệt về đâu ?
      đây là điều nên
      quán chiếu tận tường.

      IX-144. Đủ duyên thì sinh,
      bằng không chẳng có.
      Không chút tự tánh,
      như ảnh trong gương.
      Làm sao có thể
      thật có cho được.

      IX-145. Nếu đã thật có,
      đâu cần đến nhân ?
      Nhưng cần gì nhân
      nếu không thật có ?

      IX-146. Cho dù hội tụ
      cả vạn ức nhân,
      cũng không biến đổi
      được vật không có.
      Đã không hiện hữu
      thì biết lấy gì
      trở thành hiện hữu ?
      Trở thành gì đây ?

      IX-147. Nếu đã là “không,”
      lấy gì thành “có” ?
      Thành “có” như vậy
      là từ bao giờ ?
      Nếu “có” không đến
      thì “không” chẳng đi.

      IX-148. “không” này không đi
      “có” làm sao đến ?
      Vật “có hiện hữu”
      thì chẳng thể nào
      thành “không hiện hữu,”
      bằng không hai tánh
      chẳng lẽ hiện hành.

      IX-149. Vì vậy mà nói
      vạn pháp vô sinh,
      và cũng nói là
      vạn pháp vô diệt.
      Hết thảy hữu tình
      không hề sinh ra,
      cũng không mất đi.

      IX-150. Chúng sinh hữu tình
      tựa như giấc mơ,
      quán chiếu truy tìm
      chỉ như thân chuối.
      Nói cho rốt ráo,
      luân hồi, niết bàn,
      chẳng thể phân biệt.

      IX-151. Sự vật như vậy
      vốn đã là không,
      thì đâu có gì
      để mà được, mất ?
      Có ai ở đó
      hưởng vinh, chịu nhục,
      cũng nào có ai
      khen ngợi, chê bai.

      IX-152. Sướng khổ này đây,
      từ đâu mà đến ?
      Có gì để phải
      mừng rỡ, đớn đau ?
      Xét cho rốt ráo
      thì nào có ai
      là người tham luyến ?
      tham luyến gì đây ?

      IX-153. Quán chiếu đời sống
      của chúng hữu tình,
      thấy đâu có ai
      là người đã mất ?
      cũng chẳng có gì
      sẽ đến, đã qua,
      nào có ai là
      thân nhân, bằng hữu ?

      IX-154. Mong người như tôi
      có thể hiểu rằng
      hết thảy mọi sự
      như là hư không.
      Nhưng người thế gian
      lại thích tìm cầu
      hạnh phúc an lạc
      bằng sự níu, đẩy.

      IX-155. Khi thì hoảng loạn
      lúc lại mừng vui,
      khốn khổ bức bách,
      đấu đá, cạnh tranh,
      đâm chém lẫn nhau,
      chửi rủa, thóa mạ,
      sống trong tội ác
      ngụp lặn đắm chìm.

      IX-156. Thỉnh thoảng có khi
      trồi lên cõi thiện,
      buông thả mình trong
      khoái lạc an vui,
      để rồi chết đi,
      đọa rơi cõi dữ,
      chịu khổ cùng cực
      đăng đẳng triền miên.

      IX-157. Cõi thế gian này
      biết bao vực thẳm !
      Nơi này chẳng thể
      tìm thấy tánh như.
      Luôn là mâu thuẫn,
      luôn là từ khước,
      tánh như vạn pháp
      có thế bao giờ.

      IX-158. Ở đây biển khổ
      rộng không bến bờ,
      không có lời nào
      nói cho hết được.
      Ở đây sức yếu,
      mạng sống phù du,

      IX-159. đổ dồn tâm sức
      băn khoăn gìn giữ
      mạng sống, sức khỏe,
      cho khỏi đói, mệt.
      Phí hết thời gian,
      để mà ngủ nghỉ,
      để mà phiền muộn,
      để mà giao du
      với kẻ ấu trĩ.

      IX-160. Đời sống vô nghĩa
      thấm thoát trôi qua.
      Trí tuệ phải đâu
      dễ dàng có được !
      Thử hỏi cách gì
      tìm ra phương cách
      để đoạn tán tâm ?

      IX-161. Đã vậy còn thêm
      biết bao tà ma
      sẵn sàng đẩy ta
      sa vào địa ngục ;
      còn bao đường đi
      dối láo hư ngụy ;
      còn tâm hoài nghi
      rất khó dẹp bỏ.

      IX-162. Thân người tự tại
      khó lòng tìm lại ;
      bổn sư xuất thế
      lại càng khó hơn ;
      càng hiếm biết bao
      đoạn dòng phiền não.
      Than ôi, cứ thế
      chịu khổ đau hoài.

      IX-163. Đớn đau cùng cực,
      ngụp lặn dòng đời,
      biển khổ mù khơi,
      trầm luân đuối ngạt.
      Vậy mà khổ mình
      lại không tự thấy.
      Ôi chúng hữu tình,
      thật đáng thương thay !

      IX-164. Cũng như có người
      tắm rồi lại tắm,
      để rồi liên tục
      lửa nóng xông vào,
      cứ vậy mà chịu
      đớn đau khốn khổ,
      nhưng lại tưởng là
      khoái lạc an vui.

      IX-165. Có người lại sống
      như thể sẽ không
      bao giờ già, chết,
      để rồi, trước tiên,
      mất đi mạng sống,
      tiếp theo rơi đọa
      ác đạo hãi hùng.

      IX-166. Bao giờ tôi mới
      có thể dập tắt
      ngọn lửa khổ đau
      thiêu bỏng chốn này
      bằng trận mưa to
      của niềm hỉ lạc,
      dào dạt xuống từ
      biển mây công đức ?

      IX-167. Kho tàng công đức
      tôi đã tích lũy
      với trọn lòng thành,
      tâm không niệm khởi,
      bao giờ tôi mới
      vén được tánh không
      cho khắp những ai
      vì chấp niệm khởi
      mà khổ trầm luân
      trong biển luân hồi.

      / HẾT CHƯƠNG 9 /

      Ghi chú chương 9:
      [1] Trích Luận giải của ngài Kunzang Pelden:  “Điểm then chốt ở đây là nếu đã cho rằng tâm có tự tánh dị biệt và đơn nhất, vậy tâm này vốn không thể phân hai để có thể vừa là đối tượng vừa là chủ thể nhìn thấy đối tượng ấy.” Điều nói ở đây không ứng với cái tâm duyên sinh giả danh.
      [2] sattva, rajas, tamas. Là ba tánh theo thuyết Số Luận.

      || Đọc Tiếp Chương 10 >>>

      Chương Mười: HỒI HƯỚNG

      X-1. Soạn tác luận này,
      Nhập Bồ Đề Hạnh,
      được bao công đức,
      nguyện xin hồi hướng
      cho khắp chúng sinh
      dấn thân bước vào
      pháp hành bồ tát.

      X-2. Nương công đức này,
      nguyện cho chúng sinh
      ở khắp mọi nơi,
      đang chịu khổ đau
      tinh thần thể xác,
      tìm được đầy tràn
      hạnh phúc an vui.

      X-3. Còn trong luân hồi,
      nguyện cõi thế gian
      được nguồn hạnh phúc
      không bao giờ tàn,
      không hề gián đoạn,
      hưởng nguồn an lạc
      như là sóng cả
      của chư bồ tát.

      X-4. Nguyện cho chúng sinh
      khổ đau trong cõi
      địa ngục trùng điệp
      trên toàn cõi thế
      hưởng được niềm vui
      Tây phương cực lạc.

      X-5. Nguyện cho kẻ lạnh
      tìm được hơi ấm,
      nguyện cho kẻ nóng
      dịu mát cơn đau
      nhờ mây bồ tát
      mưa xuống biển mưa
      bao la vô tận.

      X-6. Nguyện rừng lá chém
      thành rừng đẹp vui;
      nguyện cây giáo gươm
      thành cây như ý;

      X-7. địa ngục trở thành
      cảnh giới an lạc;
      hồ sen bao la
      ngọt ngào thơm ngát,
      thanh thoát tiếng chim
      hạc, ngỗng, thiên nga…

      X-8. Nguyện núi than hồng
      trở thành núi ngọc;
      nguyện đất nung đỏ
      thành nền pha lê;
      nguyện dãy núi đè
      thành cung điện ngọc
      đầy ắp Như lai.

      X-9. Nguyện mưa núi lửa
      thành trận mưa hoa;
      nguyện cõi đẳng hoạt
      hung tàn vũ khí,
      thành chốn nô đùa
      tung hoa làm vui.

      X-10. Nguyện người trầm luân
      nơi dòng sông lửa,
      thịt da tan chảy,
      xương trắng trần phơi,
      nương công đức này
      có được thân trời,
      cùng bao thiên nữ
      bên dòng sông thiên
      êm đềm dịu chảy
      thanh thản nằm phơi.

      X-11. Tự hỏi “vì đâu
      ngục tốt diêm vương
      đầu quạ đầu ó
      bỗng nhiên hốt hoảng ?
      Do diệu lực nào
      quét tan bóng tối,
      mang lại an vui
      cho cõi địa ngục ?”
      Ngẩng đầu lên nhìn
      thấy giữa trời rộng
      sáng ngời hình bóng
      đức Kim Cang Thủ.
      Tâm khởi mừng vui
      nên hắc nghiệp tan,
      theo cùng bồ tát
      rời xa chốn này.

      X-12. Bao giờ thạch nham
      bỗng nhiên tan biến
      nhờ trận mưa hoa
      tẩm đầy nước hương.
      Tự hỏi nhờ đâu ?
      mà tràn niềm vui ?
      Nguyện cho chúng sinh
      trong cõi địa ngục
      thấy được trước mắt
      đấng Cầm Hoa Sen[1].

      X-13. Bạn hiền tôi ơi
      hãy mau đến đây,
      không cần hoảng chạy.
      Ai ở trên kia ?
      Chính đức Diệu Âm[2]
      là bậc bồ tát
      hộ trì chúng sinh
      ban sự vô úy.
      Nhờ lực của ngài
      khổ đau tan sạch,
      suối an lạc chảy
      và bồ đề sinh.

      X-14. Xin hãy nhìn xem:
      ở trong điện ngọc
      trăm vạn chư thiên
      đảnh lễ gót sen;
      trăm vạn thiên nữ
      rền lời xưng tán.
      Đôi mắt của ngài
      từ hòa ướt đẫm.
      Từ đỉnh đầu ngài
      rơi trận mưa hoa.
      Chúng sinh địa ngục
      thấy được cảnh này
      cất tiếng reo vui.

      X-15. Tương tự như vậy,
      nương thiện căn này,
      trùng điệp biển mây
      chư đại bồ tát,
      như đức Phổ Hiền
      cùng chư vị khác,
      mưa xuống biển mưa
      an vui thơm mát,
      cho cõi địa ngục
      đầy ắp niềm vui.

      X-16. Nguyện cõi súc sinh
      thoát cảnh hãi hùng
      nhai nuốt lẫn nhau.
      Nguyện cõi ngạ quĩ
      được nguồn an lạc
      Bắc Câu Lư Châu,

      X-17. no đủ, tắm mát,
      nhờ dòng sữa ngọt
      rót từ ngón tay
      đức Quan Thế Âm.

      X-18. Nguyện cho người mù
      thấy được hình sắc;
      nguyện cho người điếc
      nghe được âm thanh;
      nguyện cho sản phụ
      được giống như là
      Hoàng Hậu Ma Da,
      không gặp đớn đau
      trong lúc lâm bồn.

      X-19. Nguyện người thân trần
      tìm được y áo.
      Nguyện người đang đói
      kiếm được miếng ăn.
      Nguyện người đang khát
      tìm ra thức uống,
      cùng nguồn giải khát
      thơm ngon tuyệt diệu.

      X-20. Nguyện cho người nghèo
      tìm được tài sản.
      Nguyện người yếu khổ
      thấy được niềm vui.
      Nguyện kẻ tuyệt vọng
      gặp nguồn hy vọng,
      vĩnh viễn sống trong
      bình an hạnh phúc.

      X-21. Nguyện người tật bệnh
      thoát mọi bệnh khổ.
      Nguyện nạn thiên tai
      vĩnh viễn không còn.

      X-22. Nguyện kẻ khiếp sợ
      dứt cơn sợ hãi.
      Nguyện kẻ tù đày
      thoát cảnh cùm gông.
      Nguyện kẻ yếu hèn
      tìm ra sức mạnh.
      Nguyện cho chúng sinh
      sống trong cõi thế
      đều biết quay về
      nâng đỡ lẫn nhau.

      X-23. Nguyện cho lữ hành
      trên mọi bước đường
      đều gặp hạnh phúc,
      không nhọc công vẫn
      làm được tất cả
      những gì muốn làm.

      X-24. Nguyện người đi biển
      tìm được hết thảy
      mọi điều mong muốn,
      trở về đất liền
      bình an vô sự,
      sum vầy đoàn tụ
      cùng với thân nhân.

      X-25. Nguyện khách lữ hành
      lạc bước lỡ chân,
      sớm gặp đồng hành,
      không sợ cướp bóc,
      hùm, beo, thú dữ,
      đường đi thong dong
      không chút mỏi mệt.

      X-26. Nguyện kẻ lạc loài
      ở nơi hoang dã
      không bóng người qua,
      hãi hùng hoang vắng,
      kẻ say, kẻ điên
      trẻ thơ, người già,
      không nơi nương dựa,
      đều được chư Thiên
      che chở hộ trì.

      X-27. Nguyện cho chúng sinh
      thoát cảnh ràng buộc,
      có được chánh tín,
      trí tuệ, từ bi,
      lương thực đầy tràn,
      cung cách uy nghi,
      luôn nhớ đời trước.

      X-28. Nguyện cho mọi người
      tài sản bất tận,
      như hư không tạng,
      không hề mang lại
      tranh chấp, tổn hại,
      hưởng dụng tùy ý.

      X-29. Nguyện kẻ xấu xí
      được tướng trang nghiêm.
      Nguyện người dị dạng
      được thân toàn hảo.

      X-30. Nguyện kẻ mạng thấp
      trong cõi thế gian
      sanh vào mạng cao.
      Nguyện kẻ thấp kém
      có được địa vị.
      Nguyện kẻ kiêu căng
      trở thành khiêm tốn.

      X-31. Nương công đức này,
      nguyện khắp chúng sinh
      từ bỏ ác hạnh,
      vĩnh viễn làm theo
      những việc tốt lành,

      X-32. và không bao giờ
      lìa bồ đề tâm,
      luôn đi sâu trong
      pháp hành bồ tát,
      luôn được chư Phật
      hộ niệm giữ gìn,
      tận diệt hết thảy
      ác hạnh ma vương.

      X-33. Nguyện  khắp chúng sinh
      sống đời trường thọ,
      an vui hạnh phúc,
      đến cả chữ “chết”
      cũng chưa hề nghe.

      X-34. Nguyện khắp mọi nơi,
      có biết bao nhiêu
      vườn cây như ý,
      pháp âm ngân vang
      lời giảng của Phật
      cùng chư trưởng tử.

      X-35. Nguyện cho mặt đất
      ở khắp mọi nơi
      không đá gập ghềnh,
      như ngọc lưu ly,
      như lòng bàn tay
      muốt trơn phẳng mịn.

      X-36. Trong hàng đệ tử,
      nguyện chúng bồ tát
      nhiều đến vô lượng,
      ngồi kín mọi nơi,
      uy nghi trang điểm
      khắp mặt đất này.

      X-37. Nguyện cho chúng sinh
      lắng nghe không ngừng
      âm thanh diệu pháp
      đến từ chim muông,
      đến từ cây rừng,
      đến từ ánh sáng,
      hay từ không gian.

      X-38. Nguyện luôn thấy Phật
      cùng chư trưởng tử.
      trùng điệp trời mây,
      cúng phẩm vô tận,
      mang hết kính dâng
      bậc Thầy cõi thế.

      X-39. Nguyện xin chư Thiên
      cho mưa đúng thời,
      cho khắp mùa màng
      xanh tốt sum xuê.
      Nguyện cho quốc vương
      thuận theo chánh pháp.
      Nguyện cho con dân
      thịnh vượng cát tường.

      X-40. Nguyện thuốc chữa lành
      mọi cơn bệnh dữ.
      Nguyện cho mật chú
      luôn được thành công.
      Nguyện đà kì ni,
      quỉ ăn thịt người
      khởi được từ tâm.

      X-41. Nguyện khắp chúng sinh
      không có một ai
      phải chịu nạn khổ,
      tạo tác ác nghiệp,
      gặp cảnh tật bệnh,
      khổ vì sợ hãi,
      hay vì bị người
      sỉ nhục khinh khi.
      Cũng không bao giờ
      khổ vì trầm cảm.

      X-42. Nguyện cảnh chùa chiền
      luôn được thanh tịnh,
      trường tồn hưng thịnh
      tu học, tụng kinh.
      Nguyện cho tăng đoàn
      sống trong lục hòa,
      chí nguyện xuất gia
      toàn thành viên mãn.

      X-43. Nguyện người xuất gia
      có chí nguyện tu,
      được chốn lan nhã,
      xả bỏ tán tâm,
      an trú trong định
      thuần tâm nhu nhuyễn.

      X-44. Nguyện cho chư ni
      được đủ vật chất,
      thoát hết tất cả
      tranh chấp tổn hại.
      Tương tự như vậy,
      nguyện người xuất gia
      trang nghiêm giới hạnh.

      X-45. Nguyện người phá giới
      sám hối tội này,
      tiêu trừ nghiệp lực
      sinh cõi bình an,
      uy nghi giới hạnh,
      không còn suy thoái.

      X-46. Nguyện cho kẻ trí
      luôn được tôn vinh,
      được người giữ gìn,
      hiến cúng rộng rãi,
      tâm luôn thanh tịnh,
      danh lừng mười phương.

      X-47. Nguyện không còn ai
      chịu khổ ác đạo,
      cũng không bao giờ
      nhọc nhằn vất vả,
      mau chóng viên thành
      thắng thân của Phật,
      thù thắng hơn cả
      thân của chư thiên.

      X-48. Nguyện khắp chúng sinh
      cúng dường chư Phật
      nhiều vô số kể,
      luôn hưởng được nguồn
      an vui thắng diệu
      của chư Như Lai.

      X-49. Hết thảy bồ tát
      vì khắp chúng sinh
      có tâm nguyện gì,
      nguyện đều thành tựu.
      Và xin nguyện cho
      khắp cả chúng sinh
      hưởng được tất cả
      tâm ý của Phật
      cùng chư bồ tát
      hướng về chúng sinh.

      X-50. Tương tự như vậy
      nguyện Bích Chi Phật
      cùng chư Thanh Văn
      được nguồn an vui.

      X-51. Và cho đến khi
      đạt hoan hỉ địa,
      nguyện nương lòng từ
      của đức Diệu Âm
      mà tôi luôn được
      nhớ lại đời trước,
      vui hạnh xuất gia.

      X-52. Nguyện tôi luôn sống
      với chút lương thực
      đơn giản thông thường.
      Nguyện mọi đời kiếp
      tìm được nơi trú
      thanh tịnh toàn hảo.

      X-53. Mỗi khi trong tôi
      khởi tâm muốn thấy
      hay là muốn hỏi,
      nguyện được diện kiến
      bồ tát Diệu Âm,
      không chút ngăn ngại.

      X-54. Như đức Văn Thù
      toàn thành mục tiêu
      cho khắp chúng sinh
      cùng tận không gian,
      nay tôi cũng nguyện
      làm theo như vậy.

      X-55. Không gian vẫn còn,
      chúng sinh vẫn còn,
      thì tôi còn vẫn
      ở lại chốn này,
      quét tan khổ nạn
      của khắp chúng sinh.

      X-56. Nguyện cho khổ nạn
      của khắp chúng sinh
      trổ quả nơi tôi.
      Nương vào năng lực
      chúng Tăng bồ tát,
      nguyện khắp chúng sinh
      hưởng được đầy nguồn
      an vui thắng diệu.

      X-57. Nguyện cho chánh pháp
      là thuốc duy nhất
      chữa lành bệnh khổ,
      là gốc rễ của
      mọi nguồn an vui,
      luôn được muôn loài
      hỗ trợ tôn kính,
      tồn tại dài lâu.

      X-58. Tôi xin kính lạy
      bồ tát Diệu Âm:
      nhờ ơn của ngài
      mà tâm thiện khởi.
      Kính lạy đạo sư
      cùng chư đạo hữu:
      nhờ ơn chư vị
      tâm thiện phát huy.

      / HẾT CHƯƠNG MƯỜI /

      Ghi chú chương 10:
      [1] Bồ tát Quan Thế Âm.
      [2] Manjughosha: một tên khác của đức Manjushri, là đức Văn Thù Sư Lợi.

      <<< Trở Lại Trang Đầu  ||

      CUỐI SÁCH:
      Đến đây chấm dứt bài pháp Bodhicharyavatara, Nhập Bồ Đề Hạnh Luận, do đại sư Shantideva soạn tác.
      Sách này do học giả xứ Ấn Sarvajnadeva và tỷ kheo kiêm dịch giả Kawa Peltsek chuyển Tạng ngữ và hiệu đính thành định bản dựa trên bản chép tay đến từ Kashmir. Về sau bản dịch này lại được học giả xứ Ấn Dharmashibhadra và hai vị tỷ kheo kiêm dịch giả xứ Tây Tạng, Rinchen Zangpo và Shakya Lodro hiệu đính dựa theo nguyên bản đến từ  Magadha đi kèm với luận giải. Về sau, thêm một lần nữa bản dịch này lại được học giả xứ Ấn Sumatikirti và vị tỷ kheo kiêm dịch giả Ngok Loden Sherab hiệu đính.


      Hồng Như chuyển Việt ngữ – Bản hiệu đính, 21/03/2014

      Mọi sai sót là của người dịch
      Mọi công đức xin hồi hướng pháp giới chúng sinh.

      Ghi chú của dịch giả:
      Sách này có thể đọc chung với bài pháp Chói Rạng Ánh Mặt Trời của ngài Patrul Rinpoche, là cẩm nang hành trì của Nhập Bồ Đề Hạnh Luận.