Category Archives: Sách Tụng Niệm

Kính Thỉnh Đức Quan Thế Âm

Đệ tử kính lễ / đức Quan Thế Âm, / Bậc nhìn chúng sinh, / bằng mắt đại bi. / Xin hãy cứu con / và khắp chúng sinh / chìm trong sáu cõi / biển khổ luân hồi.

Xin hãy từ bi / hộ niệm gia trì / cho con thành tựu / chánh pháp vi diệu, / nhất là thành tựu / phát tâm bồ đề. / Nguyện suối cam lồ / đại bi rót xuống / thanh tịnh tất cả /
nhiễm tâm ác nghiệp / đã tích tụ từ / vô lượng đời kiếp.

Xin hãy từ bi / dẫn dắt chúng con / về cõi Tịnh Độ / Phật A Di Đà / Đệ tử kính thỉnh / Phật Vô Lượng Quang / (Phật A Di Đà), / đức Quan Thế Âm / trong mọi đời kiếp / hãy luôn ở lại / làm bậc đạo sư / dẫn dắt chúng con / mau chóng thành tựu / vô thượng bồ đề.


Dịch từ bản tiếng Anh

O Avalokitesvara, who gazes upon all sentient beings with eyes of boundless compassion, to you I prostrate. I pray that you will rescue me and all sentient beings drowning in the six realms, the ocean of samsaric suffering.

I request your blessing to realise the profound Dharma, especially the unsurpassable Bodhicitta. I pray that all our delusions and non virtues accumulated since beginningless time may be purified by the pure nectar of your great compassion.

I  beseech you to lead me and all sentient beings to the Pure Land of Amitabha Buddha. I request you, Buddha of Immeasurable Light (Amitabha) and Avalokitesvara, to be our Spiritual Masters in all our lifetimes and guide us to the state of Buddhahood quickly.

Xưng Tán Đức Phật Thích Ca

སྟོན་པ་བཅོམ་ལྡན་འདས་དེ་བཞིན་གཤེགས་པ་
TÖN PA CHOM DÄN DÄ DE ZHIN SHEG PA 
To the founder, the endowed transcendent destroyer, the one gone beyond,
Đối trước đức Phật giáo chủ, Thế tôn, Như lai,
དགྲ་བཅོམ་པ་ཡང་དག་པར་རྫོགས་པའི་སངས་རྒྱས།
DRA CHOM PA YANG DAG PAR DZOG PÄI SANG GYÄ
the foe destroyer, the completely perfected, fully awakened being,
Ứng cúng, Chánh biến tri,
རིག་པ་དང་ཞབས་སུ་ལྡན་པ།བདེ་བར་གཤེགས་པ།། འཇིག་རྟེན་མཁྱེན་པ།
RIG PA DANG ZHAB SU DÄN PA DE WAR SHEG PA JIG TEN KHYEN PA
perfect in knowledge and in good conduct, Sugata, knower of the world,
Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải,
སྐྱེ་བུ་འདུལ་བའི་ཁ་ལོ་བསྒྱུར་བ།། བླ་ན་མེད་པ།།
KYE BU DÜL WÄI KHA LO GYUR WA / lA NA ME PA
supreme guide of human beings to be tamed,
Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu,
ལྷ་དང་མི་རྣམས་ཀྱི་སྟོན་པ་སངས་རྒྱས་བཅོམ་ལྡན་འདས་
LHA DANG MI NAM KYI TÖN PA SANG GYÄ CHOM DÄN DÄ
teacher of gods and human beings; to you, the completely and fully awakened one, the endowed transcendent destroyer,
Thiên nhân sư; đối trước đức Phật, Thế tôn,
དཔལ་རྒྱལ་བ་ཤཱཀྱ་ཐུབ་པ་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ།། མཆོད་དོ།སྐྱབས་སུ་མཆིའོ།།
PÄL GYÄL WA SHA KYA THUB PA LA CHHAG TSHÄL LO CHHÖ DO KYAB SU CHHI WO (3X)
the glorious conqueror, the subduer from the Shakya clan, I prostrate, make offerings, and go for refuge. (3x)
bậc chiến thắng đến từ dòng họ Thích Ca, đệ tử đảnh lễ, cúng dường, qui thuận. (3x)

གང་ཚེ་རྐང་གཉིས་གཙོ་བོ་ཁྱོད་བལྟམས་ཚེ།།
GANG TSHE KANG NYI TSO WO KHYÖ TAM TSHÄ
When, O supreme amongst humans, you were born on this earth,
Kính lạy Thế tôn / bậc tôn quí nhất / trong cõi con người.
ས་ཆེན་འདི་ལ་གོམ་པ་བདུན་བོར་ནས།།
SA CHHEN DI LA GOM PA DÜN POR NÄ
You paced out seven strides,
Khi vào cõi thế / ngài bước bảy bước
ང་ནི་འཇིག་རྟེན་འདི་ན་མཆོག་ཅེས་གསུངས།།
NGA NI JIG TEN DI NA CHHOG CHE SUNG
Then said, “I am supreme in this world.”
Rồi thốt lên rằng, / “toàn cõi thế gian / có ta hơn hết.”
དེ་ཚེ་མཁས་པ་ཁྱོད་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ།།
DE TSHE KHÄ PA KHYÖ LA CHHAG TSHÄL LO
To you, who were wise then, I prostrate.
Đối trước đức Phật / trí tuệ như vậy / con xin đảnh lễ.

རྣམ་དག་སྐུ་མངའ་མཆོག་ཏུ་གཟུགས་བཟང་པ།།
NAM DAG KU NGA CHHOG TU ZUG ZANG WA
With pure bodies, form supremely pure;
Thân Phật trong sáng, / sắc Phật thanh tịnh;
ཡེ་ཤེས་རྒྱ་མཚོ་གསེར་གྱི་ལྷུན་པོ་འདྲ།།
YE SHE GYA TSHO SER GYI LHÜN PO DRA
Wisdom ocean, like a golden mountain;
Trí Phật như biển / như núi sáng vàng;
གྲགས་པ་འཇིག་རྟེན་གསུམ་ན་ལྷམ་མེ་བ།།
DRAG PA JIG TEN SUM NA LHAM ME WA
Fame that blazes in the three worlds,
Hồng danh rạng khắp / ba cõi luân hồi,
མགོན་པོ་མཆོག་བརྙེས་ཁྱོད་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ།།
GÖN PO CHHOG NYE KHYÖ LA CHHAG TSHÄL LO
Winner of the best – Lord, to you I prostrate.
Là bậc thành tựu / giác ngộ cao nhất—con xin đảnh lễ / trước đấng Thế tôn.

མཚན་མཆོག་ལྡན་པ་དྲི་མེད་ཟླ་བའི་ཞལ།།
TSHÄN CHHOG DÄN PA DRI ME DA WÄI ZHÄL
With the supreme signs, face like spotless moon,
Sắc tướng tuyệt hảo / gương mặt như trăng / vằng vặc trong sáng,
གསེར་མདོག་འདྲ་བ་ཁྱོད་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ།།
SER DOG DRA WA KHYÖ LA CHHAG TSHÄL LO
Color like gold – to you, I prostrate.
Tỏa ánh đạo vàng / con xin đảnh lễ.
རྡུལ་བྲལ་ཁྱོད་འདྲ་སྲིད་པ་གསུམ་མ་མཆིས།།
DÜL DRÄL KHYÖ DRA SI PA SUM MA CHHI
Dust-free like you, the three worlds are not.
Ba cõi không đâu / vô cấu như ngài / bụi trần không bám.
མཉམ་མེད་མཁྱེན་ཅན་ཁྱོད་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ།།
NYAM ME KHYEN CHEN KHYÖ LA CHHAG TSHÄL LO
Incomparably wise one – to you, I prostrate.
Bậc đại trí tuệ / không ai sánh bằng / con xin đảnh lễ.

མགོན་པོ་ཐུགས་རྗེ་ཆེ་ལྡན་པ།།
GÖN PO THUG JE CHHE DÄN PA
The savior having great compassion,
Đấng cứu độ đại bi,
ཐམས་ཅད་མཁྱེན་པའི་སྟོན་པ་པོ།།
THAM CHÄ KHYEN PÄ TÖN PA PO
The founder having all understanding,
Đấng hóa chủ toàn giác
བསོད་ནམས་ཡོན་ཏན་རྒྱ་མཚོའི་ཞིང་།།
SÖ NAM YÖN TÄN GYA TSHÖI ZHING
The field of merit with qualities like a vast ocean –
Ruộng công đức như biển
དེ་བཞིན་གཤེགས་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ།།
DE ZHIN SHEG LA CHHAG TSHÄL LO
To you, the one gone to thusness, I prostrate.
Kính lễ đấng Như lai.

དག་པའི་འདོད་ཆགས་བྲལ་བར་གྱུར།།
DAG PÄ DÖ CHHAG DRÄL WAR GYUR
The purity that frees one from attachment,
Vô cấu lìa tham chấp
དགེ་བས་ངན་སོང་ལས་གྲོལ་ཅིང་།།
GE WÄ NGÄN SONG LÄ DRÖL CHING
The virtue that frees one from the lower realms,
Thiện đức thoát tam đồ
གཅིག་ཏུ་དོན་དམ་མཆོག་གྱུར་པ།།
CHIG TU DÖN DAM CHHOG GYUR PA
The one path, the sublime pure reality –
Nhất đạo, chân cảnh giới
ཞི་གྱུར་ཆོས་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ།།
ZHI GYUR CHHÖ LA CHHAG TSHÄL LO
To the Dharma that pacifies, I prostrate.
Kính lễ Pháp tịnh an.

གྲོལ་ནས་གྲོལ་བའི་ལམ་ཡང་བསྟན།།
DRÖL NÄ DRÖL WÄI LAM YANG TÖN
Those who are liberated and who also show the path to liberation,
Đã thoát, và dẫn đường
བསླབ་པ་དག་ལ་རབ་ཏུ་གནས།།
LAB PA DAG LA RAB TU NÄ
The holy field qualified with realizations,
Giữ giới hạnh uy nghi
ཞིང་གི་དམ་པ་ཡོན་ཏན་ལྡན།།
ZHING GI DAM PA YÖN TÄN DÄN
Who are devoted to the moral precepts –
Ruộng thiện đức chứng ngộ
ཚོགས་མཆོག་དགེ་འདུན་ལ་ཕྱག་འཚལ།།
GE DÜN LA YANG CHHAG TSHÄL LO
To you, the sublime community intending virtue, I prostrate.
Kính lễ khắp Tăng đoàn.

སྡིག་པ་ཅི་ཡང་མི་བྱ་ཞིང་།    ། དགེ་བ་ཕུན་སུམ་ཚོགས་པར་སྤྱད།།
DIG PA CHI YANG MI JA ZHING,  GE WA PHÜN SUM TSHOG PAR GYUR
Do not commit any non-virtuous actions, Perform only perfect virtuous actions,
Lánh mọi điều ác, làm mọi điều lành,
རང་གི་སེམས་ནི་ཡོངས་སུ་འདུལ།   ། འདི་ནི་སངས་རྒྱས་བསྟན་པ་ཡིན།།
RANG GI SEM NI YONG SU TE, DE NYI SANG GYÄ TÄN PA YIN
Subdue your mind thoroughly – This is the teaching of the Buddha
Thanh tịnh hóa tâm – Là lời Phật dạy.

སྐར་མ་རབ་རིབ་མར་མེ་དང་།  །
KAR MA RAB RIB MAR ME DANG,
A star, a visual aberration, a flame of a lamp,
Các pháp hữu vi / tựa như tinh tú,
སྒྱུ་མ་ཟིལ་བ་ཆུ་བུར་དང་།།
GYU MA ZIL PA CHHU BUR DANG
An illusion, a drop of dew, or a bubble,
Ảo ảnh, ngọn đèn / ảo thuật, sương mai,
རྨི་ལམ་ཀློག་དང་སྤྲིན་ལྟ་བུར།  །
MI LAM LOG DANG TRIN TA BUR,
A dream, a flash of lightning, a cloud –
Bóng nước, chiêm bao, / điện chớp, đám mây…
འདུས་བྱས་ཆོས་རྣམས་དེ་ལྟར་ལྟ།།
DÜ JÄ CHHÖ NAM DI TAR TA
See conditioned things as such!
Rất cần phải có / cái nhìn như vậy.

བསོད་ནམས་འདི་ཡིས་ཐམས་ཅད་གཟིགས་པ་ཡི།།
SÖ NAM DI YI THAM CHÄ ZIG PA YI
Through these merits may sentient beings
Nương công đức này / nguyện khắp chúng sinh
གོ་འཕང་ཐོབ་ནས་སྐྱེན་གྱི་དགྲ་བཏུལ་ཏེ།།
GO PHANG THOB NÄ KYÖN GYI DRA TÜL TE
Attain the rank of all seeing, subdue the foe of faults,
Bước vào kiến đạo / chiến thắng nghiệp chướng,
རྒ་དང་ན་དང་འཆི་བའི་རླབས་འཁྲགས་པའི།།
GA DANG NA DANG CHHI WÄI LAB TRUG PÄI
And be delivered from samsara’s ocean,
Vượt mọi cơn lốc / già, bệnh và chết,
སྲིད་པའི་མཚོ་ལས་འགྲོ་བ་སྒྲོལ་བར་ཤོག།
SI PÄI TSHO LÄ DRO WA DRÖL WAR SHOG
Perturbed by the waves of aging, sickness, and death.
Thoát khỏi biển rộng  / sinh tử luân hồi. .//


Xưng Tán Tổ Tông Khách Ba

[Migtsema]

དམིགས་མེད་བརྩེ་བའི་གཏེར་ཆེན་སྤྱན་རས་གཟིགས ། །
MIG ME TSE WÄI TER CHEN CHÄN RÄ ZIG
Avalokiteshvara, great treasure of unconceiving compassion,
Thầy là Quan Thế Âm / kho tàng đại bi tâm
དྲི་མེད་མཁྱེན་པའི་དབང་པོ་འཇམ་དཔལ་དབྱངས ། །
DRI ME KHYEN PÄI WANG PO JAM PÄL YANG
Mañjushrī, lord of stainless knowledge
Thầy là đức Văn Thù / trí tuệ vương vô cấu
བདུད་དཔུང་མ་ལུས་འཇོམས་མཛད་གསང་བའི་བདག །
[DÜ PUNG MA LÜ JOM DZÄ SANG WÄI DAG]
 [Vajrapāni, conqueror of all demon hordes without exception,]
[Thầy là Kim Cang Thủ / dũng lực diệt ma quân]
གངས་ཅན་མཁས་པའི་གཙུག་རྒྱན་ཙོང་ཁ་པ ། །
GANG CHÄN KHÄ PÄI TZUG GYÄN TSONG KHA PA
Tsong Khapa, crown jewel of the sages of the land of snows,
Lama Tông Khách Ba / là ngọc quí trên đỉnh / bậc thánh hiền xứ tuyết
བློ་བཟང་གྲགས་པའི་ཞབས་ལ་གསོལ་བ་འདེབས ། །
LO ZANG DRAG PÄI ZHAB LA SOL WA DEB
Losang Dragpa, at your feet I make requests. [x3]
Đức Losang Drakpa / con đê đầu thỉnh nguyện / dưới chân sen của Thầy [3 lần]

TRỰC QUÁN LAMRIM –

Tác giả: LOSANG JINPA

TRÌNH TỰ ĐƯỜNG TU GIÁC NGỘ BAO GỒM MỌI NGHĨA TRỌNG YẾU

[A Direct Meditation on the Graduated Path Containing All the Important Meanings]

Điều kiện hành trì: Mọi người đều có thể đọc tụng.

Lợi ích: Bài tụng Lam-rim ngắn gọn này bao gồm tinh túy của trọn vẹn đường tu giác ngộ, chuyên tâm đọc tụng sẽ gieo được thiện duyên thành tựu mọi chứng ngộ trên trọn đường tu, định hướng cho đời mình với chí nguyện vì chúng sinh cầu mau chóng đạt quả chánh đẳng giác bằng cách tu theo trình tự đường tu dành cho ba loại căn cơ, đặc biệt là Mật tông tối thượng du già.

 Là tinh túy của  / khắp mười phương Phật;  / là cội của khắp  / giáo truyền giáo chứng;  / là bậc trọng yếu  / trong hàng Thánh Tăng: / Ân sư nhiệm mầu  / con xin đảnh lễ.

Kính xin Ân sư  / từ bi gia hộ, / giúp cho tâm con  / chuyển thành chánh pháp, / giúp cho chánh pháp  / chuyển thành đường tu,  / giúp cho đường tu[1]   / lìa xa chướng ngại.

Chờ cho đến ngày  / con thành chánh quả,  / xin Thầy gia hộ  / cho con được như  / hai vị bồ tát  / đức Tài Đồng Tử / và đức Thường Đề[2] / tâm hạnh đều sáng : / theo gót Ân sư;  / thấy việc Thầy làm  / đều luôn thanh tịnh;  / thực hiện trọn vẹn  / lời dạy của Thầy. [Đây là cách nương thiện tri thức, gốc rễ của vô thượng bồ đề].

Xin Thầy gia hộ  / cho con thấy ra  / thân người này đây  / tự tại thuận tiện,  / thật là khó tìm,  / mà lại dễ mất;  / thấy nghiệp và quả  / thật quá thâm sâu;  / thấy khổ ác đạo  / thật không kham nổi;  / Xin Thầy gia hộ,  / cho đáy lòng con  / về nương Tam bảo / lánh mọi điều ác  / làm mọi điều lành / thuận theo chánh pháp. [Đó là trình tự đường tu sơ căn]

Cho dù nhờ vậy  / lên cõi trời, người,  / cũng vẫn triền miên  / chịu khổ sinh tử  / là vì chưa dứt  / phiền não vô minh.  / Xin Thầy gia hộ  / cho con khéo hiểu  / cảnh luân hồi này  / luân chuyển ra sao, / ngày đêm chuyên tâm  / tu Giới Định Tuệ, / là thiện phương tiện  / giải thoát luân hồi. [Đó là trình tự đường tu trung căn]

Cho dù nhờ vậy  / đạt quả giải thoát,  / thử hỏi sáu cõi  / ai không từng là  / cha mẹ của con?  / Xin Thầy gia hộ  / cho con có thể  / khởi tâm độ sinh  / không cầu vui nhỏ  / niết bàn riêng biệt,  / rồi nhờ bình-đẳng-hoán-chuyển-ngã-tha / mà phát được tâm  / bồ đề trân quí;  / Tu hạnh bồ tát  / sáu ba la mật… [Đó là trình tự đường tu thượng căn]

Theo đường tu hiển  / luyện tâm như vậy  / nên khổ luân hồi  / dù chịu bao lâu  / cũng không quản ngại. / Nhưng con xin Thầy  / gia hộ cho con  / nhìn chúng sinh mà  / xót không chịu nổi  / để dấn thân vào  / đường tu chóng vánh  / cỗ xe Kim cang.  / Khi ấy, xin Thầy  / gia hộ cho con  / giữ gìn giới hạnh  / cùng với mật thệ  / quí hơn mạng sống  / mau chóng thành tựu / địa vị hợp nhất  / Phật Kim Cang Trì, / ngay kiếp hiện tiền  / giữa thời mạt pháp. [Đó là trình tự đường tu mật thừa tối thượng căn]

[hết]

Ghi chú:

Tác giả bài pháp này là đức Dorje Chang Losang Jinpa Pal Zangpo, bậc Thánh giả cát tường. Lama Zopa Rinpoche chuyển Anh ngữ tại Tu Viện Kopan, Nepal, Jan 12-16, 2013. Merry Colony chép lại. Ven. Sarah Thresher, Merry Colony and Tom Truty cập nhật với lời giảng của Lama Zopa Rinpoche, 2014. Phần nói lợi ích là tóm tắt lời giảng của Lama Zopa Rinpoche tháng 10, 2010 tại Shedrup Ling, Mongolia. 

Hồng Như chuyển Việt ngữ 2006, dịch lại 2018.


[1] Bao gồm 84,000 pháp môn Phật dạy, trong đó có pháp tiểu thừa, đại thừa ba la mật thừa và đại thừa mật tông. Tất cả các giáo pháp này đúc kết thành pháp lam-rim, trình tự đường tu giác ngộ, chia thành trình tự đường tu sơ căn, trung căn và thượng căn. Ba đường tu này là trọn vẹn pháp lam-rim, và nằm trong Ba điểm tinh yếu của đường tu giác ngộ.

[2] Nd: Songnu Norsan và Taktungu, Alway Crying One.

Lama Tsongkhapa: NGUYỆN ĐẦU, GIỮA, CUỐI THUẦN THIỆN

NGUYỆN ĐẦU, GIỮA, CUỐI THUẦN THIỆN
– Tựa đề tiếng Tạng:  ཐོག་མ་དང་བར་དང་ཐ་མར་དགེ་བའི་སྨོན་ལམ།། 
– Tựa đề tiếng Anh (English Title): A Prayer For The Beginning, Middle, And End Of Practice
– Tác Giả (Author):
Lama Tông Khách Ba (sơ tổ dòng Gelug)
– Việt ngữ: Hồng Như – bản dịch 2020, nhuận văn 2021.
Continue reading

GỌI THẦY TỪ CHỐN XA – BÀI NGẮN (Để Tụng)

Tác giả: Đại Sư Rongphu Sanggye (Ngawang Tenzin Norbu, 1867–1940/42) (Lama Zopa Rinpoche nghĩ có lẽ đây là tác giả của bài này, cũng là bổn sư của đức Kyabje Trulshik Rinpoche)
Hồng Như chuyển Việt ngữ, 2006, dịch lại 2020. Bản tiếng Việt này đặc biệt dùng để tụng chung với tiếng Tạng, xin mở video dưới đây.


Sư cô Dechen tụng (tiếng Tạng) với Lama Zopa Rinpoche:


LA MA KHYEN
Thầy ơi, nhớ nghĩ đến con,
LA MA KHYEN
Thầy ơi, nhớ nghĩ đến con,
LA MA KHYEN
Thầy ơi, nhớ nghĩ đến con,

IMG_2312_tayThay

MA RIG MÜN SEL PÄL DÄN LA MA / THAR PÄI LAM TÖN PÄL DÄN LA MA
Đạo sư uy đức, xua bóng mê muội; / Đạo sư uy đức, giải thoát khai đường;
KHOR WÄI CHU DRÖL PÄL DÄN LA MA / DUG NGÄI NÄ SEL PÄL DÄN LA MA
Đạo sư uy đức, cứu thoát luân hồi; / Đạo sư uy đức, tan khổ năm độc;
YI ZHIN NOR BU PÄL DÄN LA MA / KYE LA SÖL DEB JIN GYI LOB SHIG
Đạo sư uy đức, như ý châu ngọc / Lòng con khẩn thiết xin hãy gia trì.
MI TAG CHI WA NYING NÄ DREN PA / PÄL DÄN LA MÄ JIN GYI LOB SHIG
Để tim này nhớ chết nhớ vô thường, / Đạo sư uy nghi, xin hãy gia trì.
GÖ ME LO NA GYU LA KYE PA / PÄL DÄN LA MÄ JIN GYI LOB SHIG
Để tâm này biết tri túc thiểu dục / Đạo sư uy nghi, xin hãy gia trì.
EN PAR TSE CHIG DRUB LA NÄ PA / PÄL DÄN LA MÄ JIN GYI LOB SHIG
Để tâm này trú nơi chốn thanh tịnh / Đạo sư uy nghi, xin hãy gia trì.
DRUB LA BAR CHHÄ GANG YANG ME PA / PÄL DÄN LA MÄ JIN GYI LOB SHIG
Để xa mọi chướng trong pháp tu hành / Đạo sư uy nghi, xin hãy gia trì.
THRÜL ME NÄ LUG TA WA TOG PA / PÄL DÄN LA MÄ JIN GYI LOB SHIG
Để con kiến tánh thoát hết mê lầm / Đạo sư uy nghi, xin hãy gia trì.
KYEN NGÄN THAM CHÄ DROG SU CHHAR WA / PÄL DÄN LA MÄ JIN GYI LOB SHIG
Nghịch duyên nghịch chướng thành chốn nương dựa / Đạo sư uy nghi, xin hãy gia trì
DAG ZHÄN DÖN NYI LHÜN GYI DRUB PA / PÄL DÄN LA MÄ JIN GYI LOB SHIG
Ngã tha lợi ích tự nhiên viên thành / Đạo sư uy nghi, xin hãy gia trì.
DA TA NYUR DU JIN GYI LOB SHIG / NYUR WA NYUR DU JIN GYI LOB SHIG
Liền ngay lập tức xin hãy gia trì. / Liền nhanh thật nhanh, xin hãy gia trì.
DÄN THOG DIR RU JIN GYI LOB SHIG / THÜN THOG DIR RU JIN GYI LOB SHIG
Liền ngay tại chỗ, xin hãy gia trì / Liền khóa thiền đây, xin hãy gia trì.


Sau khi tụng xong bài Gọi Thầy Từ Chốn Xa (dài hoặc ngắn) thích bài thỉnh Ân sư nào thì tụng bài đó, ví dụ như:

PÄL DÄN LA MÄI NAM PAR THAR PA LA
May I not give rise to heresy even for a second
Nguyện con không hoài nghi, / dù chỉ trong phút giây,

KÄ CHIG TSAM YANG LOG TA MI KYE SHING
In regard to the actions of the glorious Guru.
Việc làm thật bao la / của Ân sư uy đức

CHI DZÄ LEG PAR THONG WÄI MÖ GÜ KYI
May I see whatever actions are done as pure.
Thấy mọi việc Thầy làm / đều nhiệm mầu thanh tịnh

LA MÄI JIN LAB SEM LA JUG PAR SHOG
With this devotion, may I receive the Guru’s blessings in my heart.
Nhờ đó lực gia trì / của Thầy luôn chan chứa / trong tận đáy tim con.


Then recite the following verse and meditate on the Guru entering your heart.
Đọc tiếp phần sau đây, quán tưởng Thầy về tim

དཔལ་ལྡན་རྩ་བའི་བླ་མ་རིན་པོ་ཆེ ། །
PÄL DÄN TSA WÄI LA MA RIN PO CHHE
Magnificent and precious root Guru,
Thỉnh Bổn sư uy đức
བདག་གི་སྙིང་ཁར་པདྨའི་སྟེང་བཞུགས་ལ ། །
DAG GI NYING KHAR PÄ MÄI TENG ZHUG LA
Please sit on the lotus and moon at my heart
về trụ tòa sen nguyệt / ngay giữa trái tim con
བཀའ་དྲིན་ཆེན་པོའི་སྒོ་ནས་རྗེས་བཟུང་སྟེ ། །
KA DRIN CHHEN PÖI GO NÄ JE ZUNG TE
Guide me with your great kindness,
Xin dẫn dắt con đi bằng tình thương rộng lớn,
སྐུ་གསུང་ཐུགས་ཀྱི་དངོས་གྲུབ་སྩལ་དུ་གསོལ ། །
KU SUNG THUG KYI NGÖ DRUB TSÄL DU SÖL
And grant me the realizations of your holy body, speech, and mind.
Cho con mọi thành tựu thân khẩu ý của Thầy.


Xuất xứ:

GỌI THẦY TỪ CHỐN XA (BẢN NGẮN) Calling the Guru from Afar (abbreviated version) (Bla ma rgyang ‘bod):  Nguyên văn Tạng ngữ: Xuất xứ không ghi rõ. Lama Zopa Rinpoche nghĩ rằng tác giả có lẽ là bổn sư của đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Đại Sư Rongphu Sanggye (Ngawang Tenzin Norbu, 1867–1940/42). Bản tiếng Anh do Lama Zopa Rinpoche chuyển ngữ, 1985. Ven. Thubten Dondrub đánh máy và chỉnh sửa. Hai bài kệ đi sau chánh văn bài tụng cũng do Lama Zopa Rinpoche chuyển ngữ. Chỉnh sửa nhẹ bởi Ven. Constance Miller. Soát lại tháng 01 năm 2003 bởi Kendall Magnussen, Ban Giáo Dục FPMT. Soát lại nhanh với bản Tạng ngữ bởi Ven. Joan Nicell, Ban Dịch Thuật FPMT, 2015. Lời ghi xuất xứ bản tiếng Anh này được cập nhập vào tháng 6 năm 2016. Bản tiếng Việt Hồng Như Thupten Munsel chuyển Việt ngữ từ Anh ngữ FPMT Prayer Book Vol.1 2006, dịch lại 2020 cho tuyển tập FPMT Tụng Niệm Nhập Thất, ấn bản tiếng Việt năm 2020.

3,232 views

Thánh Nữ Khandroma: CHUYỂN NGHỊCH CẢNH ĐẠI DỊCH THÀNH ĐƯỜNG TU

Tác giả: Thánh Nữ Khadro Namsel Dorje Rinpoche
Hồng Như Thupten Munsel chuyển Việt ngữ

Ogyen Rinpoche – đức Liên Hoa Sanh- xin giúp chúng con!

Vì bởi tướng nghiệp / của khắp chúng sinh / trong thời tối ám, / thế gian ngập tràn / đại dịch truyền nhiễm. / Chúng con nay phải / rơi vào ngục sâu, / không nơi nương náu, / không nguồn hy vọng / lặng lẽ cô đơn, / không chốn chở che / không quân bảo vệ, / tuyệt vọng bật khóc.

Đại dịch đã khiến / đảo lộn đất trời, / con thiết tha gọi / xin Phật ba thời / lắng nghe cho lời / con nói ở đây.

Chúng sinh chấp ngã, / nhưng ngã vốn không, / cho nên bên ngoài / tứ đại xáo trộn: / con xin phát lộ / sám hối tội này.

Vọng tâm chấp vào / hiện hữu thật có, / nhưng làm gì có / hiện hữu thật có, / nên chúng sinh bị / tam độc chiếm ngự: / con xin phát lộ / sám hối tội này.

Bị con rắn đen / khái niệm chấp ngã / điều khiển thao túng, / nên con cứ phải / tranh dành phần thắng, / khiến người phải thua: / con xin phát lộ / sám hối tội này.

Tâm hư vọng kia / chấp ngã, chấp có, / nhìn cảnh toàn hảo / trong cõi luân hồi / lại tưởng là nơi / nương dựa thanh tịnh. / Thình lình dịch đến / thành bãi tha ma / của nghiệp trổ quả, / lạc thú thế gian / thành như đất đá / không chút niềm vui. / Đã đến thời điểm / của tâm đại bi / cùng tâm đại từ. / Nghiệp báo nhân quả / nhất định phải chịu, / duyên khởi là điều / nhất định không sai.

Đối trước ngoại cảnh / khách quan hiển hiện, / chúng sinh tin vào / lạc thú giác quan / sinh tâm luyến chấp./ Nhưng chỉ giống như / là giấc huyễn mộng. / Xin hộ trì cho / con chứng duyên khởi / cùng với tánh không. / Xin hộ trì cho / con chứng tánh không / cùng với duyên khởi.

Sau khi chứng biết / duyên khởi kia vốn / không có tự tánh, / xin hãy hộ trì / cho con thấy được / chân tánh của tâm.

Vọng tâm chấp ngã, / dù ngã không có, / lại để vọng tâm / thao túng chính mình / nên vướng trọng bệnh / ích kỷ kinh niên: / bảo vệ người thân, / hủy diệt kẻ thù, / khiến cho khổ đau / triền miên dậy sóng / làm tiêu tan hết / đời này kiếp sau. / Không nhìn ra được / chúng sinh là mẹ / ơn lớn nhường nào, / nên con biến thành / một kẻ vong ơn: / con xin phát lộ / sám hối tội này.

Sau khi bước vào / chánh pháp thanh tịnh / cỗ xe kim cang, / con làm hư vỡ / mật thệ kim cang / thọ từ quán đảnh: / con xin phát lộ / sám hối tội này.

Đức Kim Cang Trì / từ cõi Pháp thân / vắng niệm phân biệt, / Ngài là kho báu / chu toàn tất cả / nguyện ước, nhu cầu. / Đức Kim Cang Trì, / là đóa sen trắng / tánh không – từ bi, / là đấng phổ chủ / của mọi bộ Phật, / quét sạch ba thời, / là chốn chở che / duy nhất của con / làm cho tan hết / vô minh tăm tối. / Ngài vốn là Phật / nhưng con lại thấy / Ngài là người phàm: / con xin phát lộ / sám hối tội này.

[Ghi chú, tác giả giải thích đoạn này nói về đức Đalai Lama]

Dù được dạy rằng / nhân quả không sai, / con vẫn giống như / là kẻ đóng tuồng, / đeo lớp mặt nạ / tu theo chánh pháp, / nhưng lại sống bằng / phương tiện bất lương: / con xin phát lộ / sám hối tội này.

Ngoài Tam bảo ra / không hề có chốn / quy y nào khác, / vậy mà con vẫn / dựa theo giáo pháp / không phải Phật dạy: / con xin phát lộ / sám hối tội này.

Mặc dù chánh pháp / có nhiều cỗ xe, / vậy mà con vẫn / để mình chạy theo / tri kiến sai lầm / của tâm lý học: / con xin phát lộ / sám hối tội này.

Ung dung sung mãn / là điều khó gặp, / tràn đầy ý nghĩa, / vậy mà vẫn tăng / những việc vô ích.

Vốn có trí tuệ / của tâm bản lai, / nhưng lại không thấy / rằng tâm mình đây / chính là Pháp thân: / con xin phát lộ / sám hối tội này.

Từ nơi bản thể / hình thành tướng hiện, / vì không hiểu được / nên con lầm tưởng / Pháp thân, Báo thân / mới được khởi sinh: / con xin phát lộ / sám hối tội này.

Tóm lại, nương nhờ / Ân sư từ bi / con thấy ra rằng / tướng hiện chúng sinh / trong cõi sinh tử / vốn không hề có / hiện hữu chắc thật, / luôn là tự do, / tự giải thoát và / trực tiếp tự do.

Đức Kim Cang Trì / hiện thân tam căn, / là nơi quy y, / là nguồn hy vọng, / ban cho mọi điều / chúng con ước mong. / Thị hiện tam thân / huyễn ảo nhiệm mầu, / bi-trí quý giá, / con khẩn xin Ngài / xóa tan tật dịch, / nạn đói, chiến tranh.

[Ghi chú, tác giả giải thích đoạn này nói về đức Đalai Lama]

Bao nhiêu ác nghiệp / con cùng chúng sinh / vì bởi vô minh / động thân miệng ý / mà phát sinh ra, / nay xin phát lộ / không chút che dấu / tội lỗi đã làm. / Sự sám hối này, / và người sám hối, / đối tượng sám hối / đều không thật có, / nên con sám hối / bằng sự huyễn ảo / ở trong cảnh giới / của không tự tánh.

Này người bạn đạo / thân gần với tôi, / này người quen biết, / xin hãy tận lực / quán chiếu thân người / ung dung sung mãn / là điều khó đạt; / xin hãy tận lực / quán chiếu vô thường; / xin hãy tận lực / quán chiếu nhân quả / không hề sai chạy; / xin hãy tận lực / quán chiếu luân hồi / thật đáng chán ngán; / xin hãy tận lực / quán chiếu giải thoát / thật đáng mong cầu; / xin hãy tận lực / quán chiếu trách nhiệm / của bản thân mình / đối với thế gian. / Từ bi, vị tha / và tâm bồ đề, / là tài sản quý, / sẽ không bao giờ / khiến ta thất vọng.

Và đặc biệt là / xin hãy tận lực / tu pháp mật chú / cỗ xe kim cang, / gặp là giải thoát. / Xin hãy tận lực / tu pháp tinh túy / tánh không – đại bi / vốn là chân tánh / bản lai, viên mãn.

Xin hãy tự tin / rằng chánh pháp này / chỉ để hàng phục / tâm của chính mình / và làm lợi ích / cho khắp chúng sinh. / Hãy ngừng lo lắng! / Nương vào những bậc / bổn tôn quyền năng thì mọi khổ đau / sẽ thành trợ duyên / cho nguồn hạnh phúc. / Quy y Tam Bảo / chốn không hư ngụy, / dù xả thân mạng / cũng đừng phân lìa.

Tín tâm, từ bi / chính là nền tảng / đạt mọi mong cầu, / đừng nên hoảng sợ. / Cứ hãy khẩn cầu / từ tận đáy lòng, / liên tục cầu xin / Ân sư, bổn tôn / ban lực gia trì.

Quả báo nếu vẫn / còn phương cứu chữa / chẳng lý do gì / phải tiếc phải lo. / Còn nếu thật sự / vô phương cứu chữa / thì lo hay tiếc / cũng chẳng ích gì.

Tụng chú Mani, Benza, Tarê [xem ghi chú phía dưới], / chân thành cầu khẩn / nhất định sẽ thoát / được mọi chướng ngại.

Nguyện mọi sự cát tường / nhờ Ân sư, Tam Bảo;
Nguyện mọi sự cát tường / nhờ cảnh giới chân thật / siêu việt mọi có không;
Nguyện mọi sự cát tường, / cho chúng sinh mẹ hiền / được an vui hạnh phúc;
Nguyện mọi sự cát tường, / cho con được diện kiến / đấng Chân Sư từ hòa;
Nguyện mọi sự cát tường / cho tứ hạnh giác ngộ / được viên thành tự nhiên;
Nguyện mọi sự cát tường / cho thắng đạo giải thoát / con được thấy và nghe ;
Nguyện mọi sự cát tường / cho tự nhiên đắc quả / tam thân Phật nhiệm mầu / viên thành không dụng công;
Nguyện mọi sự cát tường / cho toàn là thịnh vượng.

Chú Mani (Quan Thế Âm): OM MANI PADME HUM
Chú Benza (Liên Hoa Sanh): OM AH HUM BENZA GURU PEMA SIDDHI HUM
Chú Tare (Tara): OM TARE TUTTARE TURE SOHA

Lời Cuối Sách:

Ngay lúc này đây, vì nạn đại dịch khuẩn covid-19 lan tràn toàn thế giới, loài người phải chịu nỗi sợ hãi mất mạng, khổ đau cảnh mất mát, ví dụ như mất mát vật chất, tiền tài. Vì vậy, như người trong cùng một nhà, tất cả mọi người trên thế giới đều đang phải cùng nhau trải qua khổ nạn lớn. Có người hỏi tôi [lời đức Khadro Namsel Dorje] nên làm gì để mau chóng chấm dứt đại dịch này. Tôi khuyên hãy nên hành trì pháp Đạo Sư Du Già của đấng Đại Thánh Giả Tay Cầm Hoa Sen (đức Quan Thế Âm – Chenrezig) bất nhị với đấng hiện thân của Đại Bi của tất cả chư Thế tôn, hóa thân của tánh không và đại bi hợp nhất bất nhị, đấng quét khổ ba thời (đức Đalai Lama).

Mọi người hãy nên đọc tụng Lục Tự Chú (chú Mani) và minh chú hồng danh của Đại Đạo Sư (đức Liên Hoa Sanh) [xem ghi chú]

Đặc biệt để mau chóng quét nạn dịch, tôi nghĩ nếu Tây tạng và y học allopathic phối hợp lại với nhau để tìm thuốc chữa hay thuốc ngừa, sẽ lợi ích rất lớn. Bản thân tôi là Phật tử, tôi luôn hướng tâm về thiết tha cầu thỉnh Tam Bảo, là chốn không hư ngụy, đồng thời tận lực hành trì tứ hạnh phối hợp với nguyện cầu.

Sau khi nhận lời cầu thỉnh chân thành của nhiều bằng hữu trên toàn thế giới, tôi viết bài viết này vào ngày 30 tháng 3 năm 2020.

Khadro Namsel Dorje

PHÁT TÂM BỒ ĐỀ Cùng Đức Đalai Lama XIV

PHÁT TÂM BỒ ĐỀ – CÙNG THÁNH ĐỨC ĐALAI LAMA XIV

English: https://youtu.be/b7u05-Qjq50
Tiếng Việt: https://youtu.be/xhEVpLNGMjU
Đánh máy, nhuận văn, dịch các bài tụng niệm trích dẫn: Hồng Như Thupten Munsel
 
Hạ Tải PDF: <PDF tiếng Việt>

Điều kiện hành trì: Đức Đalai Lama XIV dạy tất cả mọi người, bất kể thuộc tôn giáo nào, đều có thể hành trì theo nghi thức ở đây. 

THÁNH ĐỨC ĐALAI LAMA XIV

Ghi chú của hongnhu-archives: Ngày 5 tháng 6 năm 2020, Đức Đalai Lama XIV vô vàn từ hòa đã cùng mọi người phát tâm bồ đề, và nói rằng nếu mọi người thiết tha với pháp này thì trong 15-20 năm tới, Ngài vẫn sẽ còn đây để cùng mọi người phát tâm vào dịp Phật đản. Vì duyên lành lớn lao như vậy, xin chép lại nghi thức và bài giảng của ngày hôm ấy để tạo điều kiện cho bản thân và mọi người thường xuyên đọc tụng, làm mới lại tâm nguyện của mình, mong hàng năm có đủ thuận duyên để cùng Ngài phát tâm.

LỜI GIẢNG CỦA ĐỨC ĐALAI LAMA: Ý NGHĨA CỦA SỰ PHÁT TÂM

Hôm nay là Phật đản, kỷ niệm ngày đức Phật thành đạo cũng là ngày Phật nhập niết bàn, nhằm ngày 15 tháng 4 Tạng lịch. Vào dịp cát tường này, là Phật tử, chúng ta hãy nên nỗ lực noi theo công hạnh thân, khẩu và ý của Phật, đặc biệt là ý.

Đức Phật vì lòng từ bi đã tìm xem có cách nào giúp chúng sinh loại trừ phiền não, trí tuệ tạp nhiễm. Đức Long Thọ kết thúc Căn Bản Trung Quán Luận bằng bài kệ tán dương đức Phật Thích Ca như sau:

Vì thôi thúc bởi / tấm lòng từ bi
Phật đã thuyết cho / diệu pháp này đây
Để giúp đoạn trừ / hết thảy tri kiến,
Trước đức Cồ Đàm / con xin đảnh lễ.

Bài kệ này dạy rằng chúng ta cần phải đoạn diệt vô minh hiểu sai về thực tại bằng cách khai mở trí tuệ chứng biết chân thực tại đúng như sự thật. Ngài Nguyệt Xứng mở đầu Nhập Trung Quán Luận với câu kệ như sau:

Thanh văn, duyên giác / từ Phật mà có,
Phật thì lại từ / bồ tát sanh ra,
Tâm đại bi và / trí bất nhị và
Tâm bồ đề, là / nhân sanh bồ tát.

Vì thế đối với / vụ mùa tuyệt hảo / của quả vị Phật
Tâm Từ Bi vừa / là hạt giống, vừa / là nước ươm lớn
Vừa là trái ngọt / hưởng thụ lâu dài
Nên tôi trước hết / xưng tán đại bi.

Muốn đền trả ơn Phật, quan trọng nhất là phải quán niệm về tâm bồ đề, là tâm đại bi phối hợp với trí tuệ chứng tánh không. Hướng Phật quả bằng trí tuệ, hướng chúng sinh bằng đại bi, thường xuyên tư duy suy nghĩ về điều này. Được như vậy quý vị sẽ là đệ tử xứng đáng nhất của Phật, và sẽ có thể đáp đền ơn sâu của Phật.

Nhân ngày Phật đản này, quý vị ở nhiều nơi có thể là đang chuẩn bị nhiều pháp lễ khác nhau để cúng dường tôn kính Phật, nhưng theo tôi nghĩ, không có cách nào đền trả ơn Phật thù thắng hơn là cùng ngồi lại với nhau để phát tâm bồ đề. Vậy quý vị bất kể ở đâu, thuộc truyền thống tôn giáo nào, nghe được giọng nói của tôi thì, nhất là cho những người đang tu theo giáo pháp của Phật, nhân ngày cát tường này, chúng ta hãy cùng nhau khéo nhớ nghĩ đến tâm bồ đề.

Để làm việc này, hãy tưởng tượng trước mặt là đức Phật Thích ca,  thật sự đang có mặt. Chúng ta hãy cùng nhau đối trước đức Phật để phát tâm bồ đề. Không phải là tôi làm lễ cho quý vị phát tâm, đọc trước cho quý vị lặp lại, không phải như vậy. Chúng ta sẽ cùng nhau phát tâm. Tôi là một tỷ kheo, ngoài điểm này ra, tôi với quý vị đều giống như nhau. Chúng ta hãy cùng nhau phát tâm bồ đề trong tinh thần như vậy.

Trước tiên là Bảy hạnh Phổ hiền. Hãy tưởng tượng đức Phật Thích Ca Mâu Ni thật sự hiện diện chứng minh, xung quanh có đức Long Thọ cùng 17 vị Hiền Thánh Na-lan-đà đều đang có mặt đầy đủ.  Nói về 17 vị Hiền thánh Na-lan-đà, tác phẩm của chư vị vẫn còn lưu truyền cho đến ngày nay, chúng ta vẫn có thể học, tư duy nghĩa lý, rồi chứng ngộ được giáo pháp chư vị dạy. Vì thế, phẩm cúng dường xứng đáng nhất có thể dâng hiến đó là siêng năng học và tư duy phân tích cho đến khi giáo pháp ấy thấm nhuần vào trong dòng tâm thức của mình.

 Quý vị hãy tưởng tượng trước mặt mình có đức Phật Thích Ca, xung quanh là đức Long Thọ cùng chư trưởng tử như đức Nguyệt xứng vân vân. Rồi có đức Quán Thế Âm, hiện thân của lòng từ bi của khắp chư Phật; đức Văn Thù, hiện thân của trí tuệ của khắp chư Phật; đức Tara, hiện thân của thiện hạnh giác ngộ của khắp chư Phật; rồi đức Di lạc, đức Địa Tạng vân vân. Hãy quán tưởng chư Phật đà bồ-tát đang hiện diện chứng minh ở phía trước mặt.

Như Lama Tsongkhapa nói trong Xưng Tán Duyên Khởi:

  1. Theo gót đấng bổn sư / tôi xuất gia thanh tịnh,
    Tu học lời Phật dạy / không để cho kém cỏi.
    Tỷ kheo này cố gắng / tu tập hạnh du già
    Để tỏ lòng tôn kính / bậc Đại Chân Thật giả.

Vậy hãy nhớ nghĩ đến chánh pháp Phật dạy, sao cho tâm ngập tràn cảm xúc, nước mắt tuôn trào, lông tóc dựng đứng, rồi với cảm xúc mãnh liệt như vậy, đọc tụng Bảy Hạnh Phổ Hiền.

BÀI TỤNG 1: BẢY HẠNH PHỔ HIỀN

Trích Phổ Hiền Hạnh Nguyện Vương, câu kệ từ 1 đến 12

Đệ tử kính lễ Bồ Tát Văn Thù Đồng Tử.

 (1) Hết thảy chư Phật / trong ba thời gian /
là bậc sư tử / trong cõi con người
tại các thế giới / khắp cả mười phương
tôi vận dụng đủ / ba nghiệp trong sạch
kính lạy khắp cả / không có thiếu sót.

(2) Năng lực uy thần / của hạnh phổ hiền
làm tôi hiện khắp / trước chư Như lai,
Một thân tôi hiện / thân như cực vi
lạy khắp chư Phật / cũng như cực vi.

(3) Trong một cực vi / có chư Phật đà / nhiều bằng cực vi,
và đều ở trong / chúng hội Bồ tát;
cực vi tất cả / pháp giới vô tận / cũng là như vậy,
tâm tôi tin Phật / thật sâu và đầy.

(4) Nên biển âm thanh / tôi vận dụng cả,
xuất ra vô tận / lời chữ nhiệm mầu,
cùng tận thời kỳ / của thì vị lai
tán dương biển cả / công đức của Phật.

5) Tôi đem vòng hoa / tốt đẹp hơn hết,
âm nhạc, hương xoa, / tàn lọng, bảo cái,
đèn, hương, phẩm vật / hơn hết như vậy,
tôi đem hiến cúng / chư vị Như lai.

(6) Y phục hơn hết, / hương liệu hơn hết,
hương bột, hương đốt, / cùng với đèn đuốc,
tất cả đều như / diệu cao núi lớn (núi tu di),
tôi đem hiến cúng / chư vị Như lai.

(7) Tôi đem cái biết / cao rộng hơn hết
tin tưởng sâu xa / tam thế chư Phật,
vận dụng sức mạnh / hạnh nguyện phổ hiền
mà khắp hiến cúng / chư vị Như lai.

(8) Bao nhiêu nghiệp dữ / xưa kia tôi làm,
đều bởi vô thỉ / những tham sân si,
động thân ngữ ý / mà phát sinh ra,
ngày nay tôi nguyện / sám hối tất cả.

(9) Mười phương hết thảy / các loại chúng sinh,
cùng với các vị / Thanh văn, Duyên giác, / tu học tiếp tục,
tu học hoàn tất, / tất cả Như lai, / cùng với Bồ tát,
công đức có gì / tôi tùy hỷ cả.

(10) Mười phương đâu có / ngọn đèn thế giới
khi mới thành tựu / tuệ giác vô thượng,
tôi xin thỉnh cầu / tất cả các Ngài
chuyển đẩy bánh xe / diệu pháp vô thượng.

(11) Chư vị Như lai / muốn hiện niết bàn,
thì tôi chí thành / thỉnh cầu các Ngài
sống với đời kiếp / nhiều như cực vi,
để làm lợi lạc / hết thảy chúng sinh.

(12) Lạy Phật, khen Phật, / và hiến cúng Phật,
xin Phật ở đời / và chuyển Pháp luân,
tùy hỷ sám hối / bao thiện căn ấy
tôi đem hồi hướng / nguyện thành trí Phật.

LỜI GIẢNG CỦA ĐỨC ĐALAI LAMA: CẦN PHỐI HỢP VỚI TÁNH KHÔNG  (tiếp theo)

Như lúc nãy đã nói, Đức Phật trước tiên phát tâm bồ đề, khởi tâm nguyện vì chúng sinh nên cầu vô thượng giác. Do đại bi thúc đẩy, Phật khai mở trí tuệ chứng tánh không duyên khởi, rồi trải qua ba lần vô lượng kiếp tích lũy tư lương phước trí. Trong kiếp này đức Phật xuất gia, tu sáu năm khổ hạnh rừng già, rồi cuối cùng thị hiện thành đạo ở Bồ đề đạo tràng, vào một buổi sớm mai.

Nếu đã tích lũy đầy đủ mọi công đức qua ba lần vô lượng kiếp, vậy tại sao Phật còn phải tu sáu năm khổ hạnh rừng già? Đó là vì Phật muốn thị hiện cho chúng ta thấy rằng muốn tiêu trừ phiền não chướng và trí chướng [tập khí của phiền não] thì phải lấy trí tuệ chứng tánh không làm thuốc đối trị. Trí tuệ chứng tánh không này được gọi là “trí tuệ chứng tánh không đầy đủ mọi đặc tính,” có nghĩa là phải được phối hợp cùng với tâm bồ đề.

Muốn được như Phật thì phải bước theo con đường Phật đi: hiểu lý duyên sinh, khai tuệ giác tánh không phối hợp với tâm bồ đề. Vậy mỗi năm cứ vào mùa Phật đản, nếu chúng ta có thể tiếp tục cùng nhau phát tâm bồ đề như ngày hôm nay thì thật là một điều lành. Ở các tu viện lớn như Drepung, Sera, nếu quý vị có thể tổ chức lễ phát tâm bồ đề hàng năm làm truyền thống, thì đương nhiên là tôi trong vòng 15 năm, 20 năm tới, hay nhiều hơn, sẽ vẫn còn ở đây đồng hành cùng quý vị. Vậy nếu quý vị duy trì pháp lễ này đều đặn mỗi năm, tôi nghĩ sẽ là điều rất tốt.

Bây giờ ta hãy cùng nhau đọc câu Quy Y Tam Bảo.

BÀI TỤNG 2: QUY Y

Nơi Phật, nơi Pháp, cùng Tăng tôn quý
Cho đến bồ đề / xin về quy y
Nhờ công đức tu / sáu hạnh toàn hảo
Nguyện vì chúng sinh / viên thành Phật đạo (3 lần)

LỜI GIẢNG CỦA ĐỨC ĐALAI LAMA: CẦN PHỤNG SỰ CHÚNG SINH

Tiếp theo là câu kệ Phát Tâm Bồ Đề. Phát tâm với mục đích làm lợi cho khắp chúng sinh, nên uy lực rất lớn. Như câu kệ có nói, muốn lợi ích cho bản thân thì phải phát tâm bồ đề; muốn lợi ích cho người khác cũng phải phát tâm bồ đề; muốn được hạnh phúc khỏe mạnh, cũng phát tâm bồ đề; muốn bước vào các chứng địa chứng đạo, cũng phải phát tâm bồ đề. Đức Phật thành Phật được  là nhờ tu tâm bồ đề. Vậy khi nghĩ đến tâm bồ đề là nhớ đến Phật, sao cho nước mắt tuôn trào, lông tóc dựng đứng. Đức Phật gia lực và truyền cảm hứng cho chúng ta, vì Phật đã phát tâm bồ đề.

Hết thảy mọi thành tựu nhất thời hay vĩnh cữu có thể có được đều đến từ tâm bồ đề. Thành ra tôi hay nói rằng nếu muốn sống ích kỷ thì hãy nên ích kỷ một cách thông minh. Tâm bồ đề là phương pháp sống ích kỷ thông minh bậc nhất, là vì nhờ vào đó, bản thân và mọi người xung quanh đều sẽ được an vui hạnh phúc. Đối xử tốt với người khác, tự nhiên sẽ có nhiều bạn hơn. Còn nếu giữ tâm lý thiển cận chỉ biết lo cho chính mình thì bản thân mình cũng sẽ không vui, lúc nào cũng phải nhìn xuôi nhìn ngược, không tin được ai, nên cũng chẳng ai tin nơi mình. Có tiền có địa vị thì họa may được nhiều người bu lại tâng bốc, nhưng chỉ là ngoài mặt, họ không thật sự quý trọng mình. Còn nếu có được tâm lợi tha, cho dù có Phật pháp hay không, đến cả thú vật cũng yêu mến. Có tâm vị tha kèm với trí tuệ chứng chân thực tại, quý vị sẽ có khả năng thành tựu được tất cả mọi mục tiêu trước mắt và lâu dài về sau.

Tâm bồ đề này không phải chỉ là cái tâm lương thiện, mà là thái độ muốn độ chính mình và tất cả chúng sinh không chừa sót một ai. Như trong bài kệ phát tâm có nói, “vì tự lợi, lợi tha, nguyện phát tâm bồ đề.” Rồi lại nói “phát tâm bồ đề rồi, nguyện mời hết chúng sinh về đây làm khách quý.” Quý vị thật sự mời hết chúng sinh về dự tiệc. Lấy ví dụ quý vị mời khách đến nhà dự tiệc nhưng đến khách đến thì lại chỉ cho uống trà suông, làm vậy không được hay cho lắm. Để tiếp đãi cho khách vui lòng, thực tiễn nhất là vận dụng thiện hạnh giác ngộ tối thượng để phụng sự chúng sinh. Chúng sinh cùng tận không gian ai cũng muốn an vui, không ai muốn khổ, vậy chúng ta hãy phát nguyện cùng tận không gian sẽ luôn phụng sự chúng sinh. Như tôn giả Tịch Thiên từng nói:

X.55
Không gian chưa cùng
Chúng sinh chưa tận
Nguyện tôi còn vẫn, ở lại chốn này
Quét khổ thế gian.

Mỗi ngày tôi đều niệm câu này.

Như đã nói, để có thể ích kỷ một cách thông minh, quý vị cần tu phát tâm bồ đề. Tôn giả Tịch Thiên nói rằng:

VIII.129.
Hết thảy hạnh phúc / trong cõi thế gian
Đến từ nơi tâm / cầu lợi cho người.
Hết thảy khổ nạn / trong cõi thế gian
Đến từ ham muốn / thủ lợi riêng mình.

Và ngài nói tiếp như sau

VIII.130.   Phàm phu ấu trĩ / thủ lợi riêng mình, / Còn chư Phật đà / luôn vì lợi tha. / Khác biệt ra sao / Có cần phải nói?

VII.30.      Bồ tát cưỡi trên / lưng ngựa bồ đề, / biến tan mỏi mệt.
Từ cảnh vui này / vào cảnh vui khác, / làm sao có thể / thoái chí nản lòng?

VIII.131.
Không đổi vui mình / để lấy khổ người, / thì vô thượng giác / sẽ không thể đạt,
trôi trong sinh tử / không chút niềm vui.

Lời dạy rất cô đọng.

Ngày hôm nay, chúng ta đã gặp được giáo pháp của đức Phật, đặc biệt là lời hướng dẫn cách tu phát tâm bồ đề, nhờ đó chúng ta sẽ có cơ hội phụng sự chúng sinh một cách chân chính. Vì không có gì vĩ đại hơn là sống vì người khác bằng cách tu phát tâm bồ đề.

BÀI TỤNG 3: NGUYỆN PHÁT TÂM BỒ ĐỀ

Nguyện quy y Tam bảo;
Nguyện sám hối nghiệp chướng;
Nguyện tùy hỉ công đức / của khắp cả chúng sinh ;
Nguyện gìn giữ trong tâm / bồ đề của chư Phật.

Con xin về quy y / nơi Phật, Pháp và Tăng
Cho đến khi giác ngộ.
Vì tự lợi, lợi tha
Nguyện phát tâm bồ đề

Phát tâm bồ đề rồi
Nguyện mời hết chúng sinh / về đây làm khách quý.
Hạnh bồ tát siêu việt / nguyện sẽ luôn hành trì.
Vì hết thảy chúng sinh / nguyện viên thành Phật đạo. (3 lần)

LỜI GIẢNG CỦA ĐỨC ĐALAI LAMA: LÀM SAO PHÁT TÂM ?

Như Nhập Bồ Đề Hạnh Luận có nói:

III.30.        Đây là thuốc thần / chữa mọi ác bệnh,
Của khắp chúng sinh / trôi lăn sinh tử;
Là gốc đại thụ / cho chúng hữu tình
Trên đường trôi lạc / ghé đến nghỉ chân;

Nếu quý vị có được chí nguyện muốn gánh vác chúng sinh, thì dù thân vẫn còn bị ràng buộc trong sinh tử, nhưng tâm hướng bồ đề nên cảm nhận được sự an vui cõi niết bàn. Vì vậy mà nói tâm bồ đề này là cây đại thụ tỏa bóng mát cho khách trần trên bước đường sinh tử. Thân tuy vẫn bị nghiệp và phiền não ràng buộc, nhưng tâm hưởng được bóng mát của tâm bồ đề.

III.31.        là chiếc cầu chung / đưa khắp chúng sinh / vượt thoát khổ nạn / ác đạo luân hồi; / là trăng ngời sáng / giữa nền trời tâm, / xoa dịu cơn đau / rát bỏng phiền não;

III.32.        và cũng chính là / mặt trời chiếu sáng, / quét sạch màn sương / mê muội vô minh; / là bơ kết tinh / trên sữa diệu Pháp.

III.33.        Khách trần lang thang / trên đường sinh tử, / mong sao nếm thử / chút vị an vui, / thì đây là nguồn / an vui thắng diệu, / khách trần chắc chắn / sẽ rất hài lòng.

III.34.        Hôm nay đối trước / mọi nẻo qui y, / tôi mời chúng sinh / về làm khách quí, / hưởng an vui đến / vô thượng bồ đề. / Chư thiên, thiện thần, / cùng khắp mọi loài, / kính xin chư vị / tùy hỉ cho tôi.

Ngài còn nói

I.9              Chúng sinh khốn khổ / trôi lăn luân hồi / mà phát được tâm, / thì ngay lúc ấy / sẽ được gọi là / Như lai trưởng tử, / thành nơi xứng cho / trời, người hiến cúng.

Khi phát tâm bồ đề thì hết thảy các loài trời và người đều sẽ giúp cho, đều sẽ hoan hỉ. Vậy bây giờ ta hãy thử nhìn lại xem bồ đề ấy, làm cách nào đạt được?

Bản tâm của chúng ta vốn trong sáng. Phật đạt đại bồ đề thành Phật được là nhờ thích ứng với tâm chân như, với tánh sáng và tánh biết của tâm. Chúng ta tuy ở trong sinh tử luân hồi nhưng đều có Phật tánh, đều có tâm chân như sáng trong. Tâm chân như này vốn đã sẵn có, không cần phải đi tìm ở nơi nào khác.

Tâm chân như của chúng ta so với tâm chân như của Phật không khác, chỉ là chúng ta thì bị nhiễm tâm che chướng, nhưng nhiễm tâm này không phải là bản chất của chân như, chỉ là hiện tượng sinh diệt do duyên hợp giả tạm của tà kiến mà có. Do vô minh biết sai về thực tại nên phiền não phát sinh, phiền não này không có khả năng làm nhiễm ô tâm thức. Vì lý do đó, nếu áp dụng thuốc đối trị thì mọi nhiễm tâm phiền não, cùng với tập khí của phiền não trong tâm thức đều có thể tận diệt không còn sót lại chút gì. Chúng ta có khả năng chứng đắc những phẩm tính như đức Phật, là vì mọi uy lực và uy năng của Phật đều sẵn có trong tâm của chúng ta.

Vì vậy những gì nói trong Đại Thừa Tối Thượng Tục Luận rất quan trọng. Hiện Quán Trang Nghiêm Luận cũng có dạy con đường dẫn đến giác ngộ, giảng về nhị đế, là bản chất của đường tu. Rồi để giải thích về nhị đế nên giảng về tứ đế, về Tam bảo. Cũng như đức Long thọ đã nói, giáo pháp của đức Phật là chân đế và tục đế.

Vậy giáo pháp này của Phật nếu chỉ cầu nguyện thôi là không đủ. Làm thiện bằng thân và khẩu là điều mọi truyền thống tôn giáo đều có, nhưng giáo pháp của đức Phật chủ yếu là làm thiện bằng cái tâm. Mật thừa nói tâm thức có nhiều mức độ vi tế khác nhau, có tâm thô, tâm vi tế, và tâm tối vi tế, cần vận dụng để bước trên các chứng địa và chứng đạo, đây là những điểm rất đặc thù. Nên chúng ta tri ân Phật pháp các bậc đạo sư, các bậc thánh hiền, bất phân bộ phái, đã hoằng dương Phật pháp đến Tây tạng, với các bộ phái Sakya, Nyingma, Kagyu, Gelug v.v… nhờ vậy ngày hôm nay chúng ta mới có được đầy đủ trọn vẹn giáo pháp Phật dạy, tiểu thừa, đại thừa hiển tông, đại thừa mật tông. Cơ duyên hiếm hoi đầy đủ như vậy, nếu bây giờ không lo thực hành thì đợi đến lúc nào mới thực hành. Bây giờ mà không thực hành, sẽ khó lòng có cơ hội gặp lại Phật pháp. Như chư đạo sư Kadampa và các bậc đạo sư Tây tạng khác đã nói,

Nhờ phước báu đời trước
Nay có được kiếp người
Nguyện không tự đẩy mình
Vào vực thẳm ác đạo.

Chúng ta có được thân nguời quý giá, có cơ hội văn tư tu giáo pháp Phật dạy, quý vị tỷ kheo nếu không thận trọng thì sẽ rơi vào vực thẳm của ác đạo. Nên tất cả chúng ta hãy hết sức thận trọng, nỗ lực thực hành. Như đức Tsongkhapa có nói:

Nhờ đó tâm xác quyết
Tin tưởng đấng đạo sư.
Nguyện trì pháp Mâu ni
Sáng soi lý duyên khởi,
Mọi đời kiếp về sau
Xả bỏ cả thân mạng,
Không bao giờ xao lãng
Dù chỉ thoáng chốc thôi.
[Xưng Tán Duyên Khởi, câu kệ 55d., 56abcd.]

Nhân dịp Phật đản, tôi làm lễ phát tâm bồ đề là để khuyến khích thúc dục quý vị hành trì Phật pháp. Nếu quý vị có thể tu theo như vậy, trong vòng 20 năm tới tôi vẫn sẽ còn đây, cứ mỗi dịp rằm tháng 4, chúng ta lại cùng nhau phát tâm bồ đề. Nhớ nghĩ đến tánh không trước, rồi phát tâm bồ đề.

BÀI TỤNG 4: CHO BỒ ĐỀ TÂM TĂNG TRƯỞNG

Xin bồ đề tâm / vô vàn trân quý
Nơi nào chưa có / nguyện cho phát sinh
Nơi nào đã sinh / nguyện không thoái chuyển
Vĩnh viễn tăng trưởng / không bao giờ ngừng.

Tri kiến tánh không / vô vàn trân quý
Nơi nào chưa có / nguyện cho phát sinh
Nơi nào đã sinh / nguyện không thoái chuyển
Vĩnh viễn tăng trưởng / không bao giờ ngừng.

BÀI TỤNG 6: NGUYỆN GIÁO PHÁP HƯNG THỊNH - Từ Lời của Phật

Phật Tỳ Bà Thi ; Thi Khí ; Tỳ Xá Phù ;
Câu Lưu Tôn ; Câu Na Hàm Mâu Ni ; Ca Diếp ;
Và đức Phật Thích Ca Mâu Ni—Cồ Đàm, trên cả loài trời,
Trước bảy đức Phật đại hùng: con xin kính lễ.

Nhờ xưa kia con vì lợi chúng sinh
Bao nhiêu khổ đau con đều gánh trọn,
Hạnh phúc của mình con từ bỏ hết,
Nguyện cho chánh pháp chói rạng dài lâu.

Nhờ xưa kia con cứu giúp kẻ bệnh,
Thân mạng của mình con thí xả hết ,
Che chở những ai bần cùng, nguy khốn,
Nguyện cho chánh pháp chói rạng dài lâu.

Nhờ con thí xả con trai, con gái,
Vợ, tài sản, cùng xe ngựa và voi
Là để tìm cầu bồ đề trân quý,
Nguyện cho chánh pháp chói rạng dài lâu.

Nhờ con cúng dường hết thảy chư Phật,
Độc giác, thanh văn, cùng với mẹ cha,
Cúng dường các bậc đại-chân-thật-giả
Nguyện cho chánh pháp chói rạng dài lâu.

Trải qua biết bao muôn ngàn đại kiếp,
Gánh chịu đủ loại khổ não lớn lao,
Chỉ để mong nghe được pháp giác ngộ,
Nguyện cho chánh pháp chói rạng dài lâu.

Nhờ con thọ trì nghiêm tu giới luật,
Hạnh đầu đà con thường vẫn tuân theo,
Nhờ con cúng dường khắp mười phương Phật,
Nguyện cho chánh pháp chói rạng dài lâu.

Nhờ khi xưa con vẫn thường tinh tấn,
Luôn vững vàng thắng quấy nhiễu bên ngoài
Để khắp chúng sinh con đều độ thoát
Nguyện cho chánh pháp chói rạng dài lâu.

Nhờ con không ngừng thực hành hạnh nhẫn,
Thường luôn kiên nhẫn với người làm ác,
Họ bị ô trược phiền não quấy động,
Nguyện cho chánh pháp chói rạng dài lâu.

Nhờ có hằng sa chánh định, giải thoát,
Định vô sắc và đại định tam muội,
Nương vào sức mạnh định lực của con
Nguyện cho chánh pháp chói rạng dài lâu.

Nhờ con khi xưa vì cầu trí tuệ,
Vào tận rừng sâu tu hạnh đầu đà,
Thuyết giảng cho người vô số giáo pháp,
Nguyện cho chánh pháp chói rạng dài lâu.

Nhờ có lòng từ, cho cả máu thịt,
Đến cả tánh mạng con cũng cho ra,
Hay là chân tay, bộ phận thân thể,
Nguyện cho chánh pháp chói rạng dài lâu.

Nhờ con khi xưa, chúng sinh xấu ác
Con dùng tâm từ khiến họ thuần thục
Rồi dẫn họ vào với ba cỗ xe
Nguyện cho pháp thí lan xa hưng thịnh.

Nhờ xưa con dùng phương tiện trí tuệ
Để cứu chúng sinh thoát mọi ác kiến
Rồi dẫn dắt họ vào với chánh kiến,
Nguyện cho chánh pháp tăng trưởng toàn diện.

Nhờ con vận dụng cả bốn nhiếp pháp
Để độ chúng sinh thoát lửa phiền não,
Chận cho tiêu tan đà tăng ác hạnh
Nguyện người quanh con an trú lâu dài.

Nhờ độ ngoại đạo, cùng mọi người khác
Vượt thoát ra khỏi dòng nước tri kiến
Đưa họ vào với tri kiến thanh tịnh,
Nguyện người quanh con giữ lòng thâm tín
Nguyện cho chánh pháp chói rạng dài lâu.

Và đọc thêm câu này:

Chánh pháp đấng Pháp Vương / Lama Tông Khách Ba
Nguyện luôn luôn hưng thịnh ;
Mọi tướng hiện ma chướng / nguyện đều được tịnh yên ;
Nguyện thuận cảnh thuận duyên / đều luôn luôn đầy đủ.

Xin nương khắp ba thời / tư lương phước và tuệ
Của con cùng chúng sinh
Nguyện cho giáo pháp của / đức Losang Dragpa,
Chói sáng thật lâu dài.

BÀI TỤNG 7:LAM - RIM THI NGUYỆN HỒI HƯỚNG CUỐI

Bấy lâu gắng tu / được nhị lương này
Rộng như trời rộng, / xin gom hết thảy,
Vì để dắt dìu / những ai mắt tuệ / khuất vì vô minh
Nên con nguyện xin / thành Phật dẫn đường.

Khi chưa được vậy / nguyện mọi kiếp sau
được đức Mạn thù / thương yêu gìn giữ,
trọn vẹn thắng pháp / trình tự đạo giác,
nguyện gặp và tu / khiến Phật đẹp lòng

Chứng đúng như thật, cốt lõi đường tu
lấy lực đại từ / làm thiện phương tiện
quét sạch bóng tối / trong tâm hữu tình
giữ cho Pháp Phật / tồn tại dài lâu.

Thắng Pháp quý giá / phương nào chưa thịnh,
hoặc là đã thịnh / nhưng rồi đã suy
Nguyện lấy đại bi / rung động lòng người
khai mở rạng ngời / kho tàng phúc lạc

Nương hạnh nhiệm mầu / của Phật, Bồ tát
cùng với trình tự / đường tu giác ngộ
nguyện làm rực rỡ / tâm người cầu thoát,
huân dưỡng lâu dài / thiện hạnh Thế tôn.

Nguyện làm thuận duyên / cho pháp lành này
nghịch duyên quét hết, / loài nhân,  phi nhân
mọi đời kiếp sau / không bao giờ lìa
đường tu trong sáng / mà Phật tán dương.

Nguyện cho bao giờ / ở nơi thắng thừa
thuận theo thập thiện / hành trì tinh tấn,
sẽ luôn được chư / Đại lực nâng đỡ,
biển rộng cát tường / tràn khắp mọi nơi.

BÀI TỤNG 8: CHÂN NGỮ TỤNG

༄༅། །བདེན་གསོལ་སྨོན་ཚིག །The Prayer Of The Words Of Truth,  by HH the Dalai Lama XIV

Nam mô Tam Bảo

Chư vị ngự trị / biển cả tánh đức  / vô lượng rạng ngời,
Chăm sóc chúng sinh / như chăm con một,
Nguyện chư Thiện Thệ, / bồ tát, đệ tử / ở khắp ba thời
Lắng nghe cho lời / ta thán chân thật / của chúng con đây.

Chánh pháp Phật dạy / vốn đủ khả năng /
xóa mọi khổ nạn / luân hồi niết bàn,
Nguyện giáo pháp này / lan xa hưng thịnh, /
khắp cõi Diêm Phù, / mang nguồn lợi lạc / đến cho khắp cả,
Nguyện bậc trí giả, / bậc thành tựu giả / chấp trì chánh pháp
Cho mười pháp hạnh / được luôn tăng trưởng.

Vì chìm ngập trong / nghiệp dữ bất tận
Chúng sinh triền miên / chịu khổ không ngớt
Nguyện cho tật dịch / chiến tranh, nạn đói / sợ hãi khó kham
Đều được tịnh yên, / lắng dịu nhờ vào / biển rộng hỉ lạc.

Đặc biệt cho người / tín tâm xứ Tuyết
Bị quân man rợ / tàn nhẫn bức bách
Máu và nước mắt / đổ xuống thành dòng
Nguyện dòng sông này / sớm ngày ngưng chảy /
nhờ vào sức mạnh / của lòng từ bi.

Là vì họ bị / tà ma phiền não / làm cho nổi điên
Nên gây họa lớn / cho mình và người. /
Với người như vậy / phải mở lòng thương,
Nguyện cầu cho họ / có được chánh kiến /
biết điều cần lấy / và điều cần bỏ,
Trở thành bạn hiền / của lòng từ ái.

Đã bao lâu rồi / lòng tôi vẫn mong
Cho xứ Tây tạng / hưởng được tự do / với nền tự trị
Nguyện mau thành tựu, / việc đạo, việc đời [tôn giáo, chính trị] /
hài hòa phối hợp
Cho tôi sớm được / cùng với mọi người / mở tiệc mừng vui.

Nguyện bậc tu chứng, / vì giữ chánh pháp, /
văn hóa, truyền thống,
Mà phải hy sinh / thân mạng, tài sản,
Gánh chịu muôn vàn / khổ nhục đớn đau,
Nguyện cho chư vị / được đấng Pháp Vương /
điện Phổ Đà La / thương yêu bảo vệ.

Tóm lại, nguyện cho / đức Quan Thế Âm
Đối trước chư Phật / cùng chư bồ tát
Vì xứ Tây tạng / đã nguyện những gì
Nguyện cho quả lành / quảng đại nguyện ấy /
bây giờ ở đây / tức thì thành tựu.

Nương vào năng lực / của lý duyên khởi /
thâm sâu pháp tánh /  tướng hiện, tánh không ;
Nương vào năng lực / Tam bảo từ bi, /
Nương vào năng lực / tiếng lời chân thật,
Nương vào sức mạnh  / nhân quả không sai,
Nguyện chân ngữ này / sớm ngày thành tựu /
không chút chướng ngại.

Tibetan & English : https://www.lotsawahouse.org/tibetan-masters/fourteenth-dalai-lama/words-truth

HỒI HƯỚNG, NGHI THỨC TỰ CHỌN

[Theo nghi thức hồi hướng chùa Thầy Dawa ở Sydney]

དགེ་བ་འདི་ཡིས་མྱུར་དུ་བདག ། བླ་མ་སངས་རྒྱས་འགྲུབ་གྱུར་ནས ། །
Ge wa di yi n yur du dag / La ma sang gyä drub gyur nä
Nương công đức này / nguyện con mau chóng  / Thành tựu địa vị / đức Phật – Đạo Sư
འགྲོ་བ་ཅིག་ཀྱང་མ་ལུས་པ ། ། དེ་ཡི་ས་ལ་འགོད་པར་ཤོག །
Dro wa chig kyang ma lü pa / De yi sa la gö par shog
Để rồi phổ độ / cùng khắp chúng sinh / không sót một ai / vào quả vị này.
བྱང་ཆུབ་སེམས་མཆོག་རིན་པོ་ཆེ ། ། མ་སྐྱེད་པ་རྣམས་སྐྱེད་གྱུར་ཅིག །
Jang chub sem chog rin po che / Ma kye pa nam kye gyur chig
Nguyện bồ đề tâm / vô vàn trân quí / nơi nào chưa có / nguyện sẽ nảy sinh
སྐྱེད་པ་ཉམས་པར་མེད་པ་ཡང་། ། གོང་ནས་གོང་དུ་འཕེལ་བར་ཤོག །
Kye pa nyam pa me pa yang / Gong nä gong du phel war shog
nơi nào đã sinh / nguyện không thoái chuyển / luôn luôn tăng trưởng / không bao giờ ngừng.

Nguyện Đức Đalai Lama Trường Thọ

གངས་རིའི་ར་བའི་བསྐོར་བའི་ཞིང་ཁམས་འདིར ། །
Gang ri ra wä kor wäi zhing kham dir
Nơi miền núi tuyết vây quanh
ཕན་དང་བདེ་བ་མ་ལུས་འབྱུང་བའི་གནས ། །
Phän dang de wa ma lü jung wäi nä
Có suối nguồn của an lạc phúc lành
སྤྱན་རས་གཟིགས་དབང་བསྟན་འཛིན་རྒྱ་མཚོ་ཡི ། །
Chän rä zig wang tän dzin gya tsho yi
Là bậc tối thắng Quan Thế Âm Tenzin Gyatso
ཞབས་པད་སྲིད་མཐའི་བར་དུ་བརྟན་གྱུར་ཅིག །
Zhab pä si thäi bar du tän gyur chig
Kính xin Thầy ở lại cõi thế / cho đến khi tận diệt luân hồi.

Nguyện Lab Kyabgon Rinpoche Trường Thọ

Thub ten zen la men pey thu drug pa
Khi tsum yon ten pal yon tam pey zay
Gon mae dro nang chang dro lang po chay
Tri kee jet sun la ma shab ten shug
Uy nghi, an định, / đầy đủ tánh hạnh / thanh tịnh tuyệt hảo. / Thầy đã từng phát / đại nguyện chấp trì / chánh pháp chư Phật, / Hỡi đấng Pháp Vương / của mọi đạo sư, / bậc Thầy thông tuệ / của những đứa con / không chốn chở che / trên con đường tu / giải thoát, niết bàn, / xin Thầy trường thọ.

Kính Thỉnh Đức A Chi-Ma
– Achima Prayer

Jo rang shin-nae ne lha mo thu tsul chen
Gyal wae ten sung A-chi cho kyi drol
Jig rung khor khyi kor wai wang du ma
Ma lu cho pai nae dir sheg su sol
Jo! Đấng bổn tôn uy dũng / từ trú xứ tự nhiên / Bậc gìn giữ chánh pháp / A Ki Chô Ki Drô ma / Là đấng đầy thần uy / với kín ngợp tùy tùng / Xin giá lâm đạo tràng / trang nghiêm đầy cúng phẩm

Gyal wa kun khyi khyen tse tin-lay nam
Rab kar yi ong lha mo kur ten ne
Du sum gyal way tin lay gye dze ma
A chi cho kyi drol ma la chag tsal
Đấng bổn tôn sắc trắng / tướng hảo đẹp rạng ngời / Hiện thân hạnh, bi, trí,  / của chư Phật Thế Tôn / Hoằng dương hạnh giác ngộ / của mười phương Phật đà. / A Ki Chô Ki Drô Ma: / con chí thành đảnh lễ

Sha chen nga dang ye she du tsi nga
J’ang tok bar sum che pa le jung wai
Tam ze tor ma ri tar pung pa tang
Me rak du tsi kun sang chu pa’i tin
Năm chất thịt cùng với / năm trí giác cam lồ / Hiện ra từ thanh tịnh / thành tựu và rạng cháy / Torma chất như núi / biển mây phẩm Phổ Hiền / cam lồ cùng dược thảo / Nguyện kính dâng lên đấng / A Chi Chô Ki Drô Ma.

A chi cho kyi drol ma kyo la bul
gey shin je ne nal jyor dag chag gi
Lek tsok yar ngo da tar phel wa tang
Gal chen kun sol tun kyen ma lu dub
Xin hoan hỉ tiếp nhận / cho hết thảy thuận cảnh / Của hành giả chúng con / tăng như trăng độ rằm / Quét sạch mọi nghịch cảnh / tích lũy mọi thuận duyên.

Lhak sam dag  pe tsul dir tson pa na
Tsang dang wong po jig ten kyong wa ta
Cho kyi drol ma la sog sung mai tsog
Yel wa me par tag tu drog je shog./.
Với nỗ lực chân thành / với tấm lòng trong sáng / Cũng như là hai vị / Thiên Vương và Đế Thích / gìn giữ cõi thế này / Nguyện xin chư hộ pháp / đức Chô Ky  Drô Ma … / Đừng bao giờ dời đổi / luôn gìn giữ chúng con.

Thỉnh Lama Tông Khách Ba
– Lama Tsong Khapa Prayer [Migsema]

དམིགས་མེད་བརྩེ་བའི་གཏེར་ཆེན་སྤྱན་རས་གཟིགས ། །
Mig me tse wäi ter chen chän rä zig
Thầy là Quan Thế Âm / kho tàng đại bi tâm
དྲི་མེད་མཁྱེན་པའི་དབང་པོ་འཇམ་དཔལ་དབྱངས ། །
Dri me khyen päi wang po jam päL yang
Thầy là đức Văn Thù / trí tuệ vương vô cấu
བདུད་དཔུང་མ་ལུས་འཇོམས་མཛད་གསང་བའི་བདག །
[Dü pung ma lü jom dzä sang wäi dag] [Thầy là Kim Cang Thủ / dũng lực diệt ma quân] གངས་ཅན་མཁས་པའི་གཙུག་རྒྱན་ཙོང་ཁ་པ ། །
Gang chän khä päi tzug gyän tsong kha pa
Lama Tông Khách Ba / là ngọc quí trên đỉnh / bậc thánh hiền xứ tuyết
བློ་བཟང་གྲགས་པའི་ཞབས་ལ་གསོལ་བ་འདེབས ། །
Lo zang drag päi zhab la sol wa deb
Đức Losang Drakpa / con đê đầu thỉnh nguyện / dưới chân sen của Thầy [3 lần]

༈ སྨོན་ལམ་ལོག་པས་རྒྱལ་བའི་བསྟན་པ་ལ། །
Hết những kẻ tà ác / hữu hình hay vô hình,
འཁུ་བའི་ནག་ཕྱོགས་གཟུགས་ཅན་གཟུགས་མེད་སྡེ། །
Xưa vì nuôi ác nguyện / nên nay hại Phật pháp,
བསམ་སྦྱོར་ངན་པའི་འཇུག་པ་མ་ལུས་པ། །
Nguyện việc ác họ làm / qua ý nghĩ, hành động,
མཆོག་གསུམ་བདེན་པས་རྩད་ནས་གཅོད་གྱུར་ཅིག།
Nhờ chân lý Tam bảo / mà tiệt rễ hết thảy.

/ hết /

 

Lama Zopa Rinpoche: Gia Trì Lời Nói

GIA TRÌ LỜI NÓI – Blessing The Speech

QUY Y – PHÁT TÂM BỒ ĐỀ – Taking Refuge and Generating Bodhichitta

དཀོན་མཆོག་གསུམ་ལ་སྐྱབས་སུ་མཆི། ། KÖN CHHOG SUM LA KYAB SU CHHIi Đệ tử quy y Tam Bảo quí hiếm. འགྲོ་ལ་ཕན་ཕྱིར་ཕྱག་འཚལ་ལོ་ DRO LA PHÄN CHHIR SANG GYÄ SHOG (3x) Nguyện vì chúng sinh trọn thành Phật đạo. (3x)

QUÁN TƯỞNG – Visualization

Trước hết, thanh tịnh cái tôi thật có vào trong tánh không, vì cái tôi ấy thực chất vốn không. Khi ấy, tuệ-chứng-tánh-không có được nguồn hỉ lạc vô tận. Cũng có thể nghĩ rằng tuệ-chứng-hỉ-lạc là bất nhị với tánh không.

Đệ tử khởi hiện tướng bổn tôn Pháp chủ. Trên lưỡi, linh tự AAH ཨཱཿ biến thành đài mặt trăng. Trên đó hiện ra linh tự OM ༀ màu trắng, bao quanh là chuỗi minh chú ALI (nguyên âm) màu trắng đứng theo chiều kim đồng hồ, chuỗi minh chú KALI (phụ âm) màu đỏ đứng ngược chiều kim đồng hồ, và chuỗi tâm chú duyên khởi màu xanh dương đứng theo chiều kim đồng hồ.

Từ các linh tự OM và các chuỗi minh chú phóng ra ánh sáng lớn, thu tóm lực gia trì và năng lực của lời nói của các bậc xuất thế và các bậc thuộc cõi thế gian, dưới dạng ba minh chú, bảy biểu tượng vương, tám biểu tượng cát tường.

Bao gồm năng lực lời nói của các bậc xuất thế là chư Phật đàm chư Bồ tát thánh giả trên ba địa thanh tịnh, và chư La Hán, cùng với năng lực lời nói của các bậc thuộc cõi thế gian là chư hành giả nhập đạo và chư hiền giả thành tựu chân ngữ, lời nói mang năng lực lớn lao. Nhờ tịnh khẩu, giữ giới không phạm khẩu nghiệp mà ngôn từ của chư hiền giả này đạt năng lực lớn đến nỗi cầu nguyện điều gì, lời nguyện ấy đều thành sự thật.

Hãy nghĩ rằng toàn bộ lực gia trì và năng lực lời nói—của chư vị thuộc cõi thế gian và chư vị thuộc cõi xuất thế—đều được câu về dưới dạng ba minh chú, bảy biểu tượng vương, tám biểu tượng cát tường, đầy kín khắp không gian, tan vào các chuỗi minh chú trên đài mặt trăng trên lưỡi mình.

CHÚ GIA TRÌ LỜI NÓI – Mantras for Blessing the Speech

Tụng chú từ trong ra ngoài.

CHUỖI NGUYÊN ÂM PHẠN NGỮ (ali)

Khi tụng chú Nguyên Âm, dòng cam lồ màu trắng từ chuỗi minh chú rót xuống đầy ắp thân thể. Thân nghiệp tích lũy từ vô lượng sinh tử toàn bộ đều được thanh tịnh

ཨོཾ་ཨ་ཨཱ་ཨི་ཨཱི་ཨུ་ཨཱུ་རྀ་རྀ་ལྀ་ལཱ་ཨེ་ཨཻ་ཨོ་ཨཽ་ཨཾ་ཨ་སྭཱཧཱ། OM A AA I II U UU RI RII LI LII E EE O OO ANG AH SWAAHAA (3x)

CHUỖI PHỤ ÂM PHẠN NGỮ (kali)

Khi tụng chuỗi minh chú Phụ Âm, dòng cam lồ màu đỏ từ chuỗi minh chú rót xuống đầy ắp thân thể. Khẩu nghiệp tích lũy từ vô lượng sinh tử toàn bộ đều được thanh tịnh.

ཨོ་ཀ་ཁ་ག་གྷ་ང་། ཙ་ཚ་ཛ་ཛྷ་ཉ། ཊ་ཋ་ཌ་ཌྷ་ཎ། ཏ་ཐ་ད་དྷ་ན། པ་ཕ་བ་བྷ་མ། ཡ་ར་ལ་ཝ། ཤ་ཥ་ས་ཧ་ཀྵ་སྭཱཧཱ། OM KA KHA GA GHA NGA / TSA TSHA DZA GYA NYA / TrA THrA DrA DHrA NrA / TA THA DA DHA NA* / PA PHA BA BHA MA / YA RA LA WA / SHA KA SA HA KYA SWAAHAA (3x)

[*Khi đọc TRA THRA DRA DHRA NRA chót lưỡi phải cong lên chạm hàm phía trên. Khi đọc TA THA DA DHA NA chót lưỡi phải chạm vào chân răng]

DUYÊN KHỞI TÂM CHÚ – Dependent Arising Mantra

Khi tụng Tâm Chú Duyên Khởi, dòng cam lồ màu xanh dương từ chuỗi minh chú rót xuống đầy ắp thân thể. Ý nghiệp tích lũy từ vô lượng sinh tử toàn bộ đều được thanh tịnh

ཨོཾ་ཡེ་དྷརྨཱ་ཧེ་ཏུ་པྲ་བྷ་ཝ་ཧེ་ཏུནྟེ་ཥནྟ་ཐཱ་ག་ཏོ་ཧྱ་ཝ་དཏ། ཏེ་ཥཱཉྩ་ཡོ་ནི་རོ་དྷ་ཨེ་ཝཾ་བཱ་དཱི་མཧཱ་ཤྲ་མ་ཎ་ཡེ་སྭཱཧཱ། ། OM YE DHARMAA HETU PRABHAWA HETUN TEKÄN TATHAAGATO HYAVADÄ TEKÄN TSA YO NIRODHA EWAM VAADII MAHAA SHRAMANA YE SWAAHAA (3x)

[Nhất định phải ngắt sau chữ “YO,” trước khi đọc chữ “NI.”]

Duyên Khởi Tâm Chú tan vào chuỗi phụ âm, chuỗi phụ âm tan vào chuỗi nguyên âm, chuỗi nguyên âm tan vào linh tự OM ༀ, OM tan vào đài mặt trăng. Đài mặt trăng biến thành linh tự AAH ཨཱཿ, AAH tan thành cam lồ màu hồng, rồi tan vào lưỡi, biến thành tính chất kim cang.

Lưỡi trở nên nặng và mạnh như đá, như thể khó nhúc nhích, bất hoại như kim cang. Khởi tâm tin tưởng mãnh liệt rằng toàn bộ lực gia trì và năng lực lời nói của tất cả chư Phật, Bồ tát, A La Hán, hành giả và hiền giả đều đi vào lời nói của mình, khiến lời nói trở nên toàn hảo. Nghĩ rằng: “lời nói tôi giờ trở nên toàn hảo.” Chúng sinh nào nghe được giọng nói này, liền tức khắc được tịnh hết mọi phiền não nhiễm tâm, mà mọi lời nói ra đều được thực hiện, mọi người đều làm theo.

Nghĩ như vậy, năng lực lời nói của quí vị sẽ trở nên mầu nhiệm, tụng niệm gì năng lực cũng tăng bồi ngàn vạn lần. Năng lực lời nói của quí vị sẽ không vì ăn nhầm thức ăn mà chiết giảm.

Nói cho rõ hơn, năng lực lời nói có bốn lợi ích (1) lời nói trở nên toàn hảo; (2) tụng gì cũng được tăng bồi ngàn vạn lần; (3) mọi lời nói ra, dù là chuyện nhảm, cũng trở thành trì chú; (4) năng lực lời nói không bị hủy vì ăn nhầm thực phẩm. Dựa theo các hệ mật tông dưới, ăn tỏi khiến lời nói mất năng lực trong bảy ngày, ăn hành mất năm ngày, ăn củ cải mất chín ngày, ăn cỏ gai (nettle) mất 1 năm và ăn lưỡi cừu mất một đời.

HỒI HƯỚNG – Dedication

Nguyện lưỡi đệ tử / mang trọn năng lực / của đấng Như Lai, / Nguyện nhờ năng lực / tiếng lời diệu thắng, / Mà trọn chúng sinh / đều về qui thuận, / [Mà mọi khổ đau / tức thì tịnh an] / Nguyện lời thốt ra / liền trong chốc lát / đều thành sự thật.


Lama Zopa Rinpoche: CÁCH CHUYỂN KHỔ THÀNH VUI (ĐẾN TẬN QUẢ GIÁC NGỘ)

Xuất xứ: trích FPMT TUYỂN TẬP TỤNG NIỆM NHẬP THẤT
Hồng Như Thupten Munsel chuyển Việt ngữ

CÁCH CHUYỂN KHỔ THÀNH VUI (Đến Tận Quả Giác Ngộ)
The Method To Transform A Suffering Life Into Happiness
(Including Enlightenment)

Buổi sáng mở mắt thức dậy cho đến khi thành tựu đại giác ngộ, cho đến khi chết, và nhất là cho ngày hôm nay, phải làm sao cho mọi hoạt động của thân khẩu và ý—nghe, nghĩ và thiền, cũng như đi, đứng, nằm, ngồi, và làm việc v.v. —đừng trở thành nguyên nhân tạo khổ mà trở thành nguyên nhân tạo hạnh phúc, đặc biệt là nguyên nhân thành tựu Phật quả, (nói cách khác, biến chúng thành phương pháp thực hiện phúc lợi cho tất cả chúng sinh), vận dụng cách này để đưa tâm vào chánh Pháp, đặc biệt là vào với tâm bồ đề.

PHÁP TRỰC QUÁN TRÌNH TỰ ĐƯỜNG TU GIÁC NGỘ BAO GỒM MỌI Ý NGHĨA TRỌNG YẾU– A Direct Meditation on the Graduated Path Containing All the Important Meanings]  – Tác luận: Dorje Chang Losang Jinpa

Là tinh túy của / khắp mười phương Phật;  / Là cội của khắp / giáo truyền giáo chứng;  / Là bậc trọng yếu / trong hàng Thánh Tăng: / Ân sư nhiệm mầu / con xin đảnh lễ.

Kính xin Ân sư / từ bi gia hộ, / giúp cho tâm con / chuyển thành chánh pháp, / giúp cho chánh pháp / chuyển thành đường tu, / giúp cho đường tu / lìa xa chướng ngại[1]

Chờ cho đến ngày / con thành chánh quả,  / Xin Thầy gia hộ / cho con được như / hai vị bồ tát / Thiện Tài Đồng Tử / và đức Thường Đề[2] / Tâm hạnh đều sáng : / theo gót Ân sư;  / Thấy việc Thầy làm / đều luôn thanh tịnh;  / Thực hiện trọn vẹn / lời dạy của Thầy.

[Đó là cách nương thiện tri thức, gốc rễ của vô thượng bồ đề]

Xin Thầy gia hộ / cho con thấy ra / thân người này đây tự tại thuận tiện, / thật là khó tìm, / mà lại dễ mất; / Thấy nghiệp và quả / thật quá thâm sâu; / Thấy khổ ác đạo / thật không kham nổi; / Xin Thầy gia hộ, / cho đáy lòng con / về nương Tam bảo[3] / lánh mọi điều ác / làm mọi điều lành / thuận theo chánh pháp.

[Đó là trình tự đường tu sơ căn]

Cho dù nhờ vậy / lên cõi trời, người, / Cũng vẫn triền miên / chịu khổ sinh tử / Là vì chưa dứt / phiền não vô minh. / Xin Thầy gia hộ / cho con khéo hiểu / cảnh luân hồi này / luân chuyển ra sao, / Ngày đêm chuyên tâm / tu Giới Định Tuệ, / Là thiện phương tiện / giải thoát luân hồi.

[Đó là trình tự đường tu trung căn]

Cho dù nhờ vậy / đạt quả giải thoát, / Thử hỏi sáu cõi / ai không từng là / cha mẹ của con? / Xin Thầy gia hộ / cho con có thể / khởi tâm độ sinh / Không cầu vui nhỏ / niết bàn riêng biệt,  / Rồi nhờ bình-đẳng-hoán-chuyển-ngã-tha / mà phát được tâm / bồ đề trân quí; / Tu hạnh bồ tát / sáu ba la mật…

[Đó là trình tự đường tu thượng căn]

Theo đường phổ thông / luyện tâm như vậy / Nên khổ luân hồi / dù chịu bao lâu / cũng không quản ngại. / Nhưng con xin Thầy / gia hộ cho con / nhìn chúng sinh mà / xót không chịu nổi / Để dấn thân vào / đường tu chóng vánh / cỗ xe Kim cang. / Khi ấy, xin Thầy / gia hộ cho con / giữ gìn giới hạnh / cùng với mật thệ / quí hơn mạng sống / Mau chóng thành tựu / địa vị hợp nhất / Phật Kim Cang Trì, / Ngay kiếp hiện tiền / giữa thời mạt pháp.

[Đó là trình tự đường tu mật thừa tối thượng căn]
[Rồi đọc bài kệ dưới đây, quán Đạo sư vào tim]

PÄL DÄN LA MÄI NAM PAR THAR PA LA
Nguyện con không hoài nghi / dù chỉ trong phút giây
KÄ CHIG TSAM YANG LOG TA MI KYE SHING
Việc làm thật bao la / của Đạo Sư uy đức
CHI DZÄ LEG PAR THONG WÄI MÖ GÜ KYI
Thấy mọi việc Thầy làm / đều nhiệm mầu thanh tịnh
LA MÄI JIN LAB SEM LA JUG PAR SHOG
Nhờ đó lực gia trì / của Thầy luôn chan chứa / trong tận đáy tim con.

PÄL DÄN TSA WÄI LA MA RIN PO CHHE 
Thỉnh Bổn sư uy đức
DAG GI NYING KHAR PÄ MÖI TENG ZHUG LA
Về trụ tòa sen nguyệt / ngay giữa trái tim con
KA DRIN CHHEN PÖI GO NÄ JE ZUNG TE
Xin dẫn dắt con đi / bằng tình thương rộng lớn
KU SUNG THUG KYI NGÖ DRUB TSÄL DU SÖL 
Cho con mọi thành tựu thân khẩu ý của Thầy.

[Rồi đọc các bài kệ dưới đây chỉ cách sống vì chúng sinh]

TRÍCH TÁM THI KỆ LUYỆN TÂM Eight Verses of Thought Transformation
đến từ Ngài Kadampa Geshe Langri Thangpa

Với quyết tâm thành tựu / lợi lạc lớn lao nhất / nhờ tất cả chúng sinh, / tôi nguyện luôn giữ gìn / chúng sinh trong đáy tim, / vì chúng sinh quí hơn / cả bảo châu như ý.

TRÍCH THẤT THẬP TỤNG[4] – Seventy Stanzas – đến từ đức Aryasura

Nguyện làm ngọc như ý / Toàn thành mọi ước mong / Nguyện làm cây như ý, / Toàn thành mọi hy vọng / cho khắp cả chúng sinh.

TRÍCH NHẬP BỒ ĐỀ HẠNH LUẬN– From the Conquerors’ Son Shantideva’s A Guide to the Bodhisattva’s Way of Life – đến từ Trưởng Tử của Phật, Tịch Thiên Shantideva

[Bản dịch kệ 11-12 Chương 3, và kệ 55 Chương 10 của bài pháp của đức Tịch Thiên, Lama Zopa Rinpoche có thêm vài ít chữ cho rõ nghĩa, viết chữ nghiên, thêm lời giải thích ghi lại giữa các câu kệ.]

III.11. Vì hai mục tiêu / của khắp chúng sinh / Tài sản áo cơm / thân mạng cùng với  / Công đức ba thời / tôi mang cho hết / Không hề cảm thấy / mất mát bận tâm.

[“Nhờ ngưng chấp bám và cho ra hết mà siêu thoát khổ đau. Vì chúng sinh là ruộng phước tối thượng của hạnh thí, tôi tặng hết cho chúng sinh.”]

III.12. Muốn đạt niết bàn / phải [ngưng chấp bám / và] cho ra hết / Rồi tâm sẽ đạt tựu / vô trú niết bàn / [là trí toàn giác] / Dù sao rồi cũng / phải bỏ mà đi / Chi bằng bây giờ / mang ra bố thí / [vì quả vị Phật / đạt được nhờ vậy]

Thân mạng này đây [hợp thể ô nhiễm] / tôi đã hiến cúng / Cho khắp chúng sinh[6] / tùy ý hưởng dụng. / Dù giết, dù chê / dù là đánh đập, / Tôi cũng cam tâm.

[“Tôi sẽ để cho họ thích sao làm vậy, sẽ thôi không bám dính vào thân thể này, và sẽ không nổi giận với người khác.]

III.14. [Từ nay về sau] / cứ hãy mang tôi / ra làm trò vui, / tha hồ bỡn cợt, / chê bai, chế nhạo [hay làm thương tổn] / Tấm thân này đây / tôi đã hiến cúng / cho khắp chúng sinh, / Thì còn có gì / đáng để quan tâm [bảo vệ giữ gìn v.v…]

III.15a. Tôi lấy thân tôi / bắt làm việc thiện / Không hại một ai / làm lợi khắp cả.

[Nguyện cho việc thiện trở thành nhân không bị phí uổng, kể cả nguyện bản thân trở thành nhân chỉ mang lợi ích đến cho người khác (v.15b), nguyện cho thái độ của người khác trở thành nhân không bị phí uổng (v.16), và nguyện cho việc làm của người khác trở thành nhân không bị phí uổng.]

III.15b. Bất kể là ai / khi chạm mặt tôi / Nguyện không uổng công / luôn được lợi ích.

III.16. Nếu nhìn thấy tôi / mà tâm không vui / Sùng sục nổi sân / nổi cơn ác hận / Nguyện ác hận này / luôn trở thành nhân / Giúp cho họ đạt / hết thảy mục tiêu / nhất thời, cứu cánh.

III.17. Ai dùng lời nói / chê bai chỉ trích; / Ai động chân tay / gây hại cho tôi / Hay ở sau lưng / dèm pha, chế diễu, / Nguyện cho họ đạt / thiện duyên bồ đề.

III.18. Ai thiếu chỗ nương, / tôi làm chỗ nương; / Ai khách lữ hành, / tôi xin dẫn lối; / Ai người đang cần / vượt biển vượt sông, / Tôi đây xin nguyện / làm ghe, thuyền, cầu.

III.19. Ai ngóng đất liền, / tôi làm hòn đảo; / Ai tìm ánh sáng, / tôi sẽ là đèn;
Ai cần ngơi nghỉ, / tôi là giường chiếu;  / Ai cần giúp việc, / tôi đây tôi đòi.

III.20. Làm ngọc như ý, / làm bình bảo quí, / [muốn gì được nấy] / Làm câu chân ngôn [tiêu tai tăng ích v.v…] / Thuốc quí [chữa lành mọi bệnh] / cây thần [cung ứng mọi nhu cầu] / Làm trâu như nguyện, / cho khắp chúng sinh.

III.21. Như là đại địa, / như là không gian, / Cùng các thành phần / nước lửa và gió, / Nguyện thân tôi đây / biến hiện phong phú, / Làm nền tảng sống / cho khắp chúng sinh.

III.22. Nguyện làm phương tiện / giữ gìn sự sống [mọi lúc, mọi cách] / Cho khắp chúng sinh / trên toàn cõi thế / Nhiều sánh không gian / bao la vô tận, / Chờ khắp chúng sinh / giải thoát niết bàn.

[Thánh Đức Đalai Lama thường đọc những dòng này của Ngài Tịch Thiên Shantideva, trưởng tử của Phật, sau khi thọ Bồ tát giới.]

X.55. Không gian chưa cùng / Chúng sinh chưa tận / Nguyện tôi còn vẫn / ở lại chốn này / Quét khổ thế gian.

[Đức Gampopa, đại đệ tử tâm truyền của đức Milarepa, nói rằng: “Sau khi thức dậy, trước khi xuống giường, hãy nghĩ rằng: ‘ngày hôm nay tôi sẽ dùng thân khẩu và ý để làm việc thiện [cho chúng sinh].’ Tâm nguyện bồ đề này, thiện tâm tối thượng này, là điều cần phát khởi biết bao. Làm vậy thì bất kể ngày hôm ấy có làm gì cũng đều là làm với tâm bồ đề, do đó mọi việc làm đều trở thành việc thiện, và trở thành nhân tố đạt quả giác ngộ. Nếu tâm nguyện sai trái thì mọi việc làm đều trở thành ác nghiệp và biến thành nhân tố khiến đọa sinh ác đạo.
[“Rồi đến tối đi ngủ, hãy hồi hướng mọi hoạt động thân khẩu và ý cho khắp chúng sinh. Đây là điều vô cùng quan trọng.
[“Thường nói rằng đây là con đường dẫn đến Pháp thân. Không khó.”]


Tán Dương Mười Hai Công Hạnh Phật

༄༅།  མཛད་པ་བཅུ་གཉིས་ལ་བསྟོད།
TÁN DƯƠNG MƯỜI HAI CÔNG HẠNH PHẬT
PRAISE TO THE TWELVE DEEDS

Prerequisites: Everyone can read
Điều kiện hành trì:
Mọi người đều có thể đọc

ཐབས་མཁས་ཐུགས་རྗེས་ཤཱཀྱའི་རིགས་སུ་འཁྲུངས། །
TAP KHE THUK JE SHA KYAY RIK SU TRUNG
Skilled in means, from compassion you took birth as a Sakyas;
Dụng thiện phương tiện / từ bi thọ sinh / vào dòng họ Thích
གཞན་གྱིས་མི་ཐུབ་བདུད་ཀྱི་དཔུང་འཇོམས་པ། །
SHEN GYI MI ThUP DU KYI PUNG JOM PA
You vanquished Mara’s forces while others could not.
phá lực ma vương / là điều người khác / đều không thể làm
གསེར་གྱི་ལྷུན་པོ་ལྟ་བུར་བརྗིད་པའི་སྐུ།  །
SER GYI LHUN PO TA BUR JI PEI KU
Like a golden Mount Meru is your splendid body,
Thân vàng rực rỡ / như núi tu di
ཤཱཀྱའི་རྒྱལ་པོ་ཁྱོད་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། །
SHA KYEI GYAL PO KHYO LA CHAK TSAL LO
O King of the Shakyas, I prostrate to you.
vua dòng họ Thích, / đệ tử qui y.

གང་གི་དང་པོར་བྱང་ཆུབ་ཐུགས་བསྐྱེད་ནས།  །
GANG GI DANG POR JANG CHUP ThUK KYE NE
It’s you who at first roused the mind of enlightenment,
Trước tiên ngài đã / phát tâm bồ đề, / tiếp theo tích tụ
བསོད་ནམས་ཡེ་ཤེས་ཚོགས་གཉིས་རྫོགས་མཛད་ཅིང་། །
SO NAM YE SHE TSOK NYI DZOK DZE CHING
Then perfected the accumulation of merit
tư lương phước tuệ, / thiện hạnh bao la / trong cõi thế này.
དུས་འདིར་མཛད་པ་རྒྱ་ཆེན་འགྲོ་བ་ཡི།  །
DU DIR DZE PA GYA CHEN DRO WA YI
And wisdom. So vast are your deeds in this age!.
Trước bậc hộ trì / chúng sinh biển khổ
མགོན་གྱུར་ཁྱོད་ལ་བདག་གིས་བསྟོད་པར་བགྱི།
GON GYUR KHYO LA DAK GI TO PAR GYI
I praise you who are the protector of wanderers.
đệ tử thành tâm / tán dương công hạnh

ལྷ་རྣམས་དོན་མཛད་འདུལ་བའི་དུས་མཁྱེན་ནས། །
LHA NAM DON DZE DUL WAY DU KHYEN NE
You benefited gods, then knowing it was time
Hoằng hóa cõi Thiên, / đến khi đủ duyên
ལྷ་ལས་བབས་ནས་གླང་ཆེན་ལྟར་གཤེགས་ཤིང་། །
LHA LE BAP NE LANG CHEN TAR SHEK SHING
To tame humans, you came down from heaven as an elephan.
xuất thế cõi người, / như voi uy dũng
རིགས་ལ་གཟིགས་ནས་ལྷ་མོ་སྒྱུ་འཕྲུལ་མའི།
RIK LA SIK NE LHA MO GYI TRUL MAY
You looked at her caste and then entered the womb
Chọn dòng đế vương / nhập vào thai mẹ / hoàng hậu Ma Ya:
ལྷུམས་སུ་ཞུགས་པར་མཛད་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། །
LHUM SU SHIK PAR DZE LA CHAK TSAL LO
Of the goddess Mahamaya: I prostrate to this deed.
Trước công hạnh này / con xin đảnh lễ.

ཟླ་བ་བཅུ་རྫོགས་ཤཱཀྱའི་སྲས་པོ་ནི།  །
DA WA CHU DZOK SHA KYAY SE PO NI
When the ten months has finished, you, son of the Shakyas,
Khi tròn mười tháng / đứa con họ Thích
བཀྲ་ཤིས་ལུམྦིའི་ཚལ་དུ་བལྟམས་པི་ཚེ། །
TA SHI LUM BIY TSAL DU TAM PAY TSE
Were born in the auspicious grove of Lumbini.
đản sinh cát tường / vườn Lâm Tì Ni.
ཚངས་དང་བརྒྱ་བྱིན་གྱིས་བཏུད་མཚན་མཆོག་ནི།  །
TSANG DANG GYA JIN GYI TO TSEN CHOK NI
Both Bhahma and Indra praised you with your great marks
Phạm Thiên Đế Thích / tán dương tướng hảo / dòng dõi bồ đề:
བྱང་ཆུབ་རིགས་སུ་ངེས་མཛད་ཕྱག་འཚལ་ལོ།།
JANG CHUP RIK SU NGE DZE CHAK TSAL LO
Of the family of enlightenment: I prostrate to this deed.
trước công hạnh này / con xin đảnh lễ.

གཞོན་ནུ་སྟོབས་ལྡན་མི་ཡི་སེང་གེ་དེས།  །
SHON NU TOP DEN MI YI SENG GE DE
A youth with great strength, a lion among men,
Tuổi trẻ dũng mãnh / tựa như sư tử / ở trong loài người.
ཨཾ་ག་མ་ག་དྷར་ནི་སྒྱུ་རྩལ་བསྟན། །
ANG GA MA GA DHAR NI GYI TSAL TEN
You showed your great prowess at Angamagadha
Thi triển tài nghệ / khuất phục hết thảy 
སྐྱེ་བོ་དྲེགས་པ་ཅན་རྣམས་ཚར་བཅད་ནས། 
KYI WO DREK PA CHEN NAM TSAR CHE NE
You vanquished all people inflated with arrogance.
những kẻ kiêu mạn / tại xứ A ga Ma Kiệt Đà, 
འགྲན་ཟླ་མེད་པར་མཛད་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། །
DREN DA ME PAR DZE LA CHAK TSAL LO
You are without rival: I prostrate to this deed.
tài nghệ vô song: / trước công hạnh này / con xin đảnh lễ.

འཇིག་རྟེན་ཆོས་དང་མཐུན་པར་བྱ་བ་དང་།  །
JIK TEN CHO DANG TUN PAR JA WA DANG
In order to ack in accord with the ways
Thuận lẽ thế gian
ཁ་ན་མ་ཐོ་སྤང་ཕྱིར་བཙུན་མོ་ཡི། །
KHA NA MA TO PANG CHIR TSUN MO YI
Of the world and avert any censure, you took
không chút úy kỵ, / thâu nạp phi tần,
འཁོར་དང་ལྡན་མཛད་ཐབས་ལ་མཁས་པ་ཡིས།  །
KHOR DANG DEN DZE TAP LA KHE PA YI
A retinue of queens. Thus through means that were skillful,
dụng thiện phương tiện / khéo léo trị nước:
རྒྱལ་སྲིད་སྐྱོང་བར་མཛད་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ།
GYAL SI KYONG WAR DZE LA CHAK TSAL LO
You governed your kingdom: I prostrate to this deed.
trước công hạnh này / con xin đảnh lễ.

འཁོར་བའི་བྱ་བ་སྙིང་པོ་མེད་གཟིགས་ནས།  །
KHOR WAY JA WA NYING PO ME ZIK NE
You saw the affairs of samsara are pointless
Thấy rõ chuyện đời / thật là vô nghĩa 
ཁྱིམ་ནས་བྱུང་སྟེ་མཁའ་ལ་གཤེགས་ནས་ཀྱང་། །
KHYIM NE JUNG TE KHA LA SHEK NE KYANG
And left your household, going off in the sky
ngài rời gia đình / lên tận trời cao 
མཆོད་རྟེན་རྣམ་དག་དྲུང་དུ་ཉིད་ལ་ཉིད།  །
CHO TEN NAM DAK DRUNG DU NYI LA NYI
Near the stupa of Great Purity, you by yourself
gần tháp Đại Tịnh / một mình xuất gia / buông xả luân hồi:
རབ་ཏུ་བྱུང་བར་མཛད་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། །
RAP TU JUNG WAR DZE LA CHAK TSAL LO
Became fully renounced: I prostrate to this deed.
trước công hạnh này / con xin đảnh lễ.

བརྩོན་པས་བྱང་ཆུབ་བསྒྲུབ་པར་དགོངས་ནས་ནི།  །
TSON PE JANG CHUP DRUP PAR GONG NE NI
With the thought to accomplish enlightenment through effort,
Tìm quả giác ngộ / qua đường tinh tấn,
ནཻ་ར་ཉྫ་ནའི་འགྲམ་དུ་ལོ་དྲུག་ཏུ། །
NE RANG DZA NAY DRAM DU LO DRUK TU
For six years you practiced austerities on the banks
sáu năm khổ hạnh / bên bờ Ni liên,
དཀའ་བ་སྤྱད་མཛད་བརྩོན་འགྲུས་མཐར་ཕྱིན་པས།  །
KA WA CHE DZE TSON DRU TAR CHIN PAY
Of the Nairanjana and, perfecting your diligence,
vẹn toàn tinh tấn / đạt được đại định:
བསམ་གཏན་མཆོག་བརྙེས་མཛད་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ།
SAM TEN CHOK NYE DZE LA CHAK TSAL LO
You gained the supreme dhyana: I prostrate to this deed.
trước công hạnh này / con xin đảnh lễ.

ཐོགས་མ་མེད་ནས་འབད་པ་དོན་ཡོད་ཕྱིར། 
TOK MA ME NE BE PA DON YON CHIR
As your efforts from beginningless time had a purpose,
Kể từ vô thủy / nỗ lực như vậy / là có mục tiêu,
མ་ག་དྷ་ཡི་བྱང་ཆུབ་ཤིང་དྲུང་དུ། །
MA GA DHA GA DHA YI JANG CHUP SHING DRUNG DU
In Magadha under the Three of Enlightenment
ở Ma Kiệt Đà / dưới cội bồ đề / ngài ngồi kiết già
སྐྱིལ་ཀྲུང་མི་གཡོ་མངོན་པར་སངས་རྒྱས་ནས།  །
KYIL TRUNG MI YO NGON PAR SANG GYE NE
Unmoving you sat and manifestly awakened
thị hiện chứng đạo / đắc chánh đẳng giác:
བྱང་ཆུབ་རྫོགས་པར་མཛད་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། །
JANG CHUP DZOK PAR DZE LA CHAK TSAL LO
To perfect enlightenment: I prostrate to this deed.
trước công hạnh này / con xin đảnh lễ.

ཐུགས་རྗེས་འགྲོ་ལ་མྱུར་དུ་གཟིགས་ནས་ནི།  །
THUK JE DRO LA NYUR DU SIK NE NI
You soon with compassion regarded all wanderers
Rồi vì đại bi / tức khắc nhìn về / khắp cả chúng sinh.
ཝཱ་རཱ་ཎ་སཱི་ལ་སོགས་གནས་མཆོག་ཏུ། །
WA RA NA SI LA SOK NE CHOK TU
And in Varanasi and other great places
Tại các thánh địa / như Ba La Nại
ཆོས་ཀྱི་འཁོར་ལོ་བསྐོར་ནས་གདུལ་བྱ་རྣམས། 
CHO KYI KHOR LO KOR NE DUL JA NAM
You turned the Wheel of Dharma, thus bringing your disciples
chuyển đẩy pháp luân / đưa chúng đệ tử / vào với tam thừa:
ཐེག་པ་གསུམ་ལ་འགོད་མཛད་ཕྱག་འཚལ་ལོ།
TEK PA SUM LA GO DZE CHAK TSAL LO
Into the three vehicles: I prostrate to this deed.
trước công hạnh này / con xin đảnh lễ.

གཞན་གྱི་རྒོལ་བ་ངན་པ་ཚར་གཅད་ཕྱིར།  །
SHEN GYI GOL WA NGHEN PA TSAR CHE CHIR
To vanquish the evil objections of others
Diệt tan tà lực / tại Ba La Nại / hàng phục quần ma
མུ་སྟེགས་སྟོན་པ་དྲུག་དང་ལྷས་བྱིན་སོགས། །
MU TEK TON PA DRUK DANG LHA JIN SOK
In the land of Varanasi, you subdued the demons –
sáu sư ngoại đạo / Đề Bà Đạt Đa,  
འཁོར་མོ་འཇིག་གི་ཡུལ་དུ་བདུད་རྣམས་བཏུལ།  །
KHOR MO JIK GI YUL DU DU NAM TUL
The six tirthika teachers, Devadatta, and others
cùng nhiều vị khác, / đạo sư tối thắng :
ཐུབ་པ་གཡུལ་ལས་རྒྱལ་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། །
TUP PA YUL LE GYAL LA CHAK TSAL LO
The Sage triumphed in battle: I prostrate to this deed.
trước công hạnh này / con xin đảnh lễ.

སྲིད་པ་གསུམ་ན་དཔེ་མེད་ཡོན་ཏན་གྱིས།  །
SI PA SUM NA PE ME YON TEN GYI
Your qualities unparalleled in the three realms,
Thiện đức của ngài / ba cõi không đâu / có thể sánh bằng,
མཉན་དུ་ཡོད་པར་ཆོ་འཕྲུལ་ཆེན་པོ་བསྟན། །
NYEN DU YO PAR CHO TRUL CHEN PO TEN
In Shravasti, you displayed wondrous miracles
tại thành Xá Vệ / thị hiện thần thông
ལྷ་མི་འགྲོ་བ་ཀུན་གྱིས་རབ་མཆོད་པ།  །
LHA MI DRO WA KUN GYI RAP CHO PA
All devas and humans make you great offerings
chư Thiên, nhân loại / qui thuận cúng dường;
བསྟན་པ་རྒྱས་པར་མཛད་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ།
TEN PA GYE PAR DZE LA CHAK TSAL LO
You spread the teachings: I prostrate to this deed.
xiển dương chánh pháp: / trước công hạnh này / con xin đảnh lễ.

ལེ་ལོ་ཅན་རྣམས་མྱུར་དུ་བསྐུལ་བྱའི་ཕྱིར།  །
LE LO CHEN NAM NYUR DU KUL JAY CHIR
In order to encourage all those who are lazy
Để giúp kẻ lười / phát tâm dũng mãnh / siêng tu Phật Pháp,
རྩྭ་མཆོག་གྲོང་གི་ས་གཞི་གཙང་མ་རུ། །
TSA CHOK DRONG GI SA SHI TSANG MA RU
To the Dharma, on Kushinagar’s good, clean ground
Phật ở nơi thành / Ku-shi-na-gar / trên đất thanh tịnh 
འཆི་མེད་རྡོ་རྗེ་ལྟ་བུའི་སྐུ་གཤེགས་ནས།  །
CHI ME DOR JE TA BUY KU SHEK NE
You departed the deathless, vajralike body
xả bỏ xác thân / kim cang bất tử, / nhập bát niết bàn:
མྱ་ངན་འདའ་བར་མཛད་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། །
NYA NGE DA WAR DZE LA CHAK TSAL LO
And passed to nirvana: I prostrate to this deed
trước công hạnh này / con xin đảnh lễ.

ཡང་དག་ཉིད་དུ་འཇིག་པ་མེད་ཕྱིར་དང་།  །
YANG DAK NYI DU JIK PA ME CHIR DANG
Because in reality there is no destruction
Vì thật không hề / có sự hủy hoại,
མ་འོངས་སེམས་ཅན་བསོད་ནམས་འཐོབ་བྱའི་ཕྱིར། །
MA ONG SEM CHEN SO NAM TOP JAY CHIR
And so that the beings of the future gain merit
để cho chúng sinh / các thời tương lai / tích tụ công đức
དེ་ཉིད་དུ་ནི་རིང་བསྲེལ་མང་སྤྲུལ་ནས།  །
DE NYI DU NI RING SEL MANG TRUL NE
In that very place you left many relics – 
ngay tại chốn này / ngài lưu xá lợi – / tám phần linh cốt:
སྐུ་གདུང་ཆ་བརྒྱད་མཛད་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ།
KU DUNG CHA GYE DZE LA CHAK TSAL LO.
The eight parts of your remains: I prostrate to this deed.
trước công hạnh này / con xin đảnh lễ.

བདེ་བར་གཤེགས་པ་ཁྱེད་སྐུ་ཅི་འདྲ་བ།  །
DE BAR SHEK PA KHYE KU CHI DRA DANG
Sakyamuni, may we attain a body like yours,
Đức Phật Thích Ca / hiện sắc thân nào
འཁོར་དང་སྐུ་ཚེའི་ཚད་དངཞིང་ཁམས་དང་། །
KHOR DANG KU TSE’I TSE DANG SHING KHAM DANG
a retinue like yours, long life like yours,
cùng thánh chúng nào / thọ mạng ra sao
ཁྱེད་ཀྱི་མཚན་མཆོག་བཟང་པོ་ཅི་འདྲ་བ།  །
KHYE KYI TSEN CHOG ZANG PO CHI DRA WA
a realm like yours, and excellent supreme
trú tịnh độ nào / danh hiệu ra sao
དེ་འདྲ་ཁོ་ནར་བདག་སོགས་གྱུར་བར་ཤོག །
DE DRA KHO NAR DAK SOK GYUR WAR SHOK
characteristics just like yours.
nguyện cho chúng con / được y như vậy.

Buddha mantra – Minh chú PHẬT THÍCH CA

TE YA THA: OM MU NI MU NI MA HA MU NI YE SO HA
Tê ya tha, Ôm mu ni mu ni ma ha mu ni yê sô ha

DEDICATION – HỒI HƯỚNG

ཁྱོད་ལ་བསྟོད་ཅིག་གསོལ་བ་བཏབ་པའི་མཐུས།  །
KHYO LA TO CHIK SOL WA TAB PAI TU
I pray that by virtue of having praised and supplicated you,
Nguyện nhờ công đức / tán dương, thỉnh Phật,
བདག་སོགས་གང་དུ་གནས་པའི་ས་ཕྱོགས་སུ། །
DAK SOK GANG DU NAY PAI SA CHOG SU
you will pacify all sickness, dons, poverty, strife and warfaire
con cùng chúng sinh / ở khắp mọi miền / đều thoát tật, dịch
ནད་གདོན་དབུལ་ཕོངས་འཐབ་རྩོད་ཞི་བ་དང་།  །
NAY DON UL PONG TAB TSO SHI WA DANG
in whatever regions we may abide,
xung đột, chiến tranh / nguyện cho Phật pháp
ཆོས་དང་བཀྲ་ཤིས་འཕེལ་བར་མཛད་དུ་གསོལ།
CHO DANG TRA SHI PEL WAR DZE DU SOL.
and cause Dharma and auspiciousness to florish.
cùng mọi điềm lành / tràn khắp mọi nơi.

Hồng Như Thubten Munsel chuyển Việt ngữ
2016

Mọi sai sót là của người dịch
Moi công đức xin hồi hướng vô thượng bồ đề.

Kinh Phật: TÂM KINH PHÁ CHƯỚNG [Heart Sutra to Avert Obstacles]

Hạ tải văn bản:
– [PDF – khổ giấy Letter] Tạng văn-Tạng Âm-Việt- Anh-Pháp 
– [PDF – khổ giấy A4] Tạng văn-Tạng Âm-Việt- Anh

Lab Kyabgon Rinpoche tụng Tạng ngữ,
từ đầu đến hết Tâm Kinh (không có phần phá chướng ngại)

|Tạng Văn – Tạng Âm – Việt – Anh – Pháp| Việt | Tạng Văn

A. Tán Dương Bát Nhã Ba La Mật Đa
– In Praise of Prajñāpāramitā
– Louange à la Mère Prajnaparamita

སྨྲ་བསམ་བརྗོད་མེད་ཤེས་རབ་ཕ་རོལ་ཕྱིན། །
ma sam jö mé she-rab pa-rol chin
 
Bát nhã ba la mật / vượt ngoài tầm nghĩ bàn
   
Beyond words, beyond thought, beyond description, Prajñāpāramitā
      Prajñāpāramitā, ineffable, inpensable et inexprimable
མ་སྐྱེས་མི་འགག་ནམ་མཁའི་ངོ་བོ་ཉིད། །
ma-kyé min-gak nam-khé ngo-wo nyi
 
không sinh, cũng không diệt / tự tánh của hư không
   
Unborn, unceasing, the very essence of space
      sans naissance, ni cessation, l’essence même de l’espace
སོ་སོ་རང་རིག་ཡེ་ཤེས་སྤྱོད་ཡུལ་བ། །
so-so rang-rig ye-she chö-yul-wa
 
và cũng là hành xứ / của trí giác bản nhiên
   
Yet it can be experienced as the wisdom of our own rigpa:
      Elle est pourtant le domaine d’activité de la sagesse intrinsèque
དུས་གསུམ་རྒྱལ་བའི་ཡུམ་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། །
dü sum gyal-wé yum la chak-tsal lo
 
Mẹ của Phật ba thời / đệ tử xin kính lễ
   
Homage to the mother of the buddhas of past, present and future!
      Hommage à la mère des Bouddhas des trois temps


B. Chánh Văn Bát Nhã Tâm Kinh
– The Sūtra of the Heart of Transcendent Wisdom
– Le Soutra du Coeur de la Perfection de la Sagesse

༈ རྒྱ་གར་སྐད་དུ། བྷ་ག་བ་ཏི་པྲཛྙཱ་པཱ་ར་མི་ཏཱ་ཧྲི་ད་ཡ།
gya-gar ké du Bhagavatī prajñāpāramitā hṛdaya
 
Tựa đề tiếng Phạn: Bhagavatī prajñāpāramitā hṛdaya
   
In the language of India: Bhagavatī prajñāpāramitā hṛdaya
      En Sanskrit: Bhagavatī prajñāpāramitā hṛdaya
བོད་སྐད་དུ། བཅོམ་ལྡན་འདས་མ་ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པའི་སྙིང་པོ། །
bö-ké du chom den de ma she-rab kyi pa-rol tu chin-pé nying po
 
Tựa đề tiếng Tạng: chom den de ma she-rab kyi pa-rol tu chin-pé nying po
   
In the language of Tibet: chom den de ma she-rab kyi pa-rol tu chin-pé nying po
      En Tibetain: chom den de ma she-rab kyi pa-rol tu chin-pé nying po
བམ་པོ་གཅིག་གོ
bam-po chik go
 
Dài một phẩm.
   
In a single segment.
      En un seul segment

༈ འདི་སྐད་བདག་གིས་ཐོས་པའི་དུས་གཅིག་ན་
di kä dag gi thö päi dü chig na
 
Tôi nghe như vầy: Một thời
   
Thus did I hear at one time.
      Voici ce qu’une fois j’ai entendu.
བཅོམ་ལྡན་འདས་རྒྱལ་པོའི་ཁབ་བྱ་རྒོད་ཕུང་པོའི་རི་ལ། དགེ་སློང་གི་
chom dän dä gyäl pöi khab ja gö phung pöi ri la ge long gi
 
đức Thế tôn ở thành Vương xá, đỉnh Linh thứu,
   
The Bhagavan was dwelling on Mass of Vultures Mountain in Rajagriha
      Le Bhagavan se trouvait à Rajagriha, sur le Pic des Vautours, entouré d’une
དགེ་འདུན་ཆེན་པོ་དང༌བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའི་དགེ་འདུན་ཆེན་པོ་དང་
ge dün chhen po dang jang chhub sem päi ge dün chhen po dang
 
cùng với đại tăng đoàn đại tỷ kheo và đại tăng đoàn đại Bồ tát.
   
together with a great community of monks and a great community of bodhisattvas.
      grande congrégation de moines et d’une grande assemblée de bodhisattvas.
ཐབས་ཅིག་ཏུ་བཞུགས་ཏེ། དེའི་ཚེ་བཅོམ་ལྡན་འདས་ཟབ་མོ་སྣང་བ་ཞེས་བྱ་བའི་
thab chig tu zhug te dei tshe chom dän dä zab mo nang wa zhe ja wäi
 
Lúc bấy giờ đức Thế tôn
   
At that time, the Bhagavan was absorbed in the concentration
      A ce moment-là, le Bhagavan était absorbé en la concentration
ཆོས་ཀྱི་རྣམ་གྲངས་ཀྱི་ཏིང་ངེ་འཛིན་ལ་སྙོམས་པར་ཞུགས་སོ།
chhö kyi nam drang kyi ting nge dzin la nyom par zhug so
 
nhập chánh định Minh Hiện Thậm Thâm.
   
on the categories of phenomena called “Profound Perception.”
      sur les catégories de phénomènes, appelée « Perception Profonde ».
ཡང་དེའི་ཚེ་བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའ་སེམས་དཔའ་ཆེན་པོ་འཕགས་པ་སྤྱན་རས་གཟིགས་
Yang dei tshe jang chhub sem pa sem pa chhen po phag pa chän rä zig
 
Cũng vào lúc bấy giờ, Đại bồ tát Ma ha tát Quan Tự Tại
   
Also, at that time, the bodhisattva Mahasattva Arya Avalokiteshvara
      Au même moment, le bodhisattva mahasattva arya Avalokiteshvara
དབང་ཕྱུག་ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པ་ཟབ་མོའི་སྤྱོད་པ་ཉིད་ལ་རྣམ་པར་
wang chhug she rab kyi pha röl tu chhin pa zab möi chö pa nyi la nam par
 
quán chiếu hạnh Bát nhã ba la mật đa sâu xa,
   
looked upon the very practice of the profound perfection of wisdom and
      contempla la pratique même de la profonde perfection de la sagesse
བལྟ་ཞིང་ཕུང་པོ་ལྔ་པོ་དེ་དག་ལ་ཡང་རང་བཞིན་གྱིས་སྟོང་པར་རྣམ་པར་བལྟའོ།
ta zhing phung po nga po de dag la yang rang zhin gyi tong par nam par ta o
 
soi thấy cả năm uẩn cũng đều không tự tánh.
   
beheld those five aggregates also as empty of inherent nature.
      et il vit que les cinq agrégats également étaient vides de nature propre.
དེ་ནས་སངས་རྒྱས་ཀྱི་མཐུས་ཚེ་དང་ལྡན་པ་ཤཱ་རིའི་བུས་བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའ་
de nä sang gyä kyi thü tshe dang dän pa sha ri bü, jang chhub sem pa
 
Lúc ấy, nương vào Phật lực, tôn giả Xá Lợi Tử thưa rằng,
   
Then, through the power of Buddha, the venerable Shariputra
      Puis, par le pouvoir du Bouddha, le vénérable Sharipoutra
སེམས་དཔའ་ཆེན་པོ་འཕགས་པ་སྤྱན་རས་གཟིགས་དབང་ཕྱུག་ལ་འདི་སྐད་ཅེས་སྨྲས་སོ།
sem pa chhen po phag pa chän rä zig wang chhug la di kä che mä so,
 
Kính thưa Đại bồ tát Ma ha tát Quan Tự Tại,
   
said this to the bodhisattva Mahasattva Arya Avalokiteshvara:
      s’adressa en ces termes au bodhisattva mahasattva arya Avalokiteshvara :
རིགས་ཀྱི་བུ་གང་ལ་ལ་ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པ་ཟབ་མོའི་
rig kyi bu, gang la la, she rab kyi pha rol tu chhin pa zab möi
 
thiện nam nào muốn thực hành hạnh Bát nhã ba la mật sâu xa,
   
“How should any son of the lineage train who wishes to
      « Les fils de la lignée désireux de pratiquer la profonde perfection de la sagesse,
སྤྱད་པ་སྤྱོད་པར་འདོད་པ་དེས་ཇི་ལྟར་བསླབ་པར་བྱ། དེ་སྐད་ཅེས་སྨྲས་པ་དང༌།
chä pa chö par dö pa de ji tar lab par ja, de kä che mä pa dang,
 
phải nên tu như thế nào?
   
practice the activity of the profound perfection of wisdom?”
      comment doivent-ils s’y prendre ? »
བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའ་སེམས་དཔའ་ཆེན་པོ་འཕགས་པ་སྤྱན་རས་གཟིགས་
jang chhub sem pa sem pa chhen po phag pa chän rä zig
 
Nghe hỏi như vậy, Đại bồ tát Ma ha tát Quan Tự Tại
   
He said that, and the bodhisattva Mahasattva Arya Avalokiteshvara
      Le bodhisattva mahasattva arya Avalokiteshvara
དབང་ཕྱུག་གིས་ཚེ་དང་ལྡན་པ་ཤཱ་ར་དྭ་ཏིའི་བུ་ལ་འདི་སྐད་ཅེས་སྨྲས་སོ། །
wang chhug gi tshe dang dän pa sha ra dva ti bu la di kä che mä so
 
đáp lời tôn giả Xá lợi Tử như sau:
   
said this to the venerable Sharadvatiputra.
      répondit alors au vénérable Sharadvatipoutra :
ཤཱ་རིའི་བུ། རིགས་ཀྱི་བུ་འམ་རིགས་ཀྱི་བུ་མོ་གང་ལ་ལ་
sha ri bu rig kyi bu am rig kyi bu mo gang la la
 
Xá Lợi Tử, thiện nam thiện nữ nào
   
“Shariputra, any son of the lineage or daughter of the lineage
      « Sharipoutra, les fils ou les filles de la lignée qui désirent pratiquer la profonde
ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པ་ཟབ་མོའི་སྤྱད་པ་སྤྱོད་པར་འདོད་པ་དེས་
she rab kyi pha röl tu chin pa zab möi chä pa chö par dö pa de
 
muốn thực hành hạnh Bát nhã ba ma mật đa sâu xa,
   
who wishes to practice the activity of the profound perfection of wisdom
      perfection de la sagesse doivent la considérer de la manière suivante ;
འདི་ལྟར་རྣམ་པར་བལྟ་བར་བྱ་སྟེ་ཕུང་པོ་ལྔ་པོ་དེ་དག་ཀྱང་
di tar nam par ta war ja te phung po nga po de dag kyang,
 
phải thấy như thế này, thật sự thấy rằng đến cả năm uẩn ấy
   
should look upon it like this, correctly and repeatedly
      ils doivent contempler, correctement et à maintes reprises,
རང་བཞིན་གྱིས་སྟོང་པར་རྣམ་པར་ཡང་དག་པར་རྗེས་སུ་བལྟའོ །
rang zhin gyi tong par nam par yang dag par je su ta o
 
cũng đều không tự tánh.
   
beholding those five aggregates also as empty of inherent nature.
      le fait que les cinq agrégats, eux aussi,sont vides de nature propre.
གཟུགས་སྟོང་པའོ། སྟོང་པ་ཉིད་གཟུགས་སོ།
Zug tong pa o, tong pa nyi zug so,
 
Sắc tức là không, không tức là sắc;
   
Form is empty. Emptiness is form.
      La forme est vide. La vacuité est la forme.
གཟུགས་ལས་སྟོང་པ་ཉིད་གཞན་མ་ཡིན།
zug lä tong pa nyi zhän ma yin
 
không chẳng khác sắc,
   
Emptiness is not other than form;
      La vacuité n’est pas autre que la forme et
སྟོང་པ་ཉིད་ལས་ཀྱང་གཟུགས་གཞན་མ་ཡིན་ནོ། །
tong pa nyi lä kyang zug zhän ma yin no
 
sắc cũng chẳng khác không;
   
form is also not other than emptiness.
      la forme n’est pas autre que la vacuité.
དེ་བཞིན་དུ་ཚོར་བ་དང༌། འདུ་ཤེས་དང༌། འདུ་བྱེད་དང༌།
de zhin du tshor wa dang, du she dang, du je dang
 
tương tự như vậy, thọ, tưởng, hành,
   
In the same way, feeling, discrimination, compositional factors,
      De même, la sensation, l’identification, les facteurs composés et
རྣམ་པར་ཤེས་པ་རྣམས་སྟོང་པའོ། །
nam par she pa nam tong pa’o
 
thức [1] hết thảy đều không.
   
and consciousness are empty.
      la conscience sont-ils vides.
ཤཱ་རིའི་བུ། དེ་ལྟར་ཆོས་ཐམས་ཅད་སྟོང་པ་ཉིད་དེ། མཚན་ཉིད་མེད་པ།
Sha ri bu, de tar chhö tham chä tong pa nyi de, tshän nyi me pa,
 
Xá Lợi Tử, vậy các pháp đều là không, không có tướng:
   
“Shariputra, likewise, all phenomena are emptiness; without characteristic;
      Sharipoutra, ainsi tous les phénomènes sont-ils vacuité ; ils sont sans
མ་སྐྱེས་པ། མ་འགག་པ། དྲི་མ་མེད་པ། དྲི་མ་དང་བྲལ་བ།
ma kye pa, ma gag pa, dri ma me pa, dri ma dang dräl wa,
 
không sanh, không diệt; không dơ, không sạch;
   
unproduced, unceased; stainless, not without stain;
      caractéristique ; ils ne naissent ni ne cessent ; ne sont ni souillés ni non souillés ;
བྲི་བ་མེད་པ། གང་བ་མེད་པའོ། །
dri wa me pa, gang wa me pa’o
 
không giảm, không tăng.
   
not deficient, not fulfilled.
      ni déficients, ni parfaits.
ཤཱ་རིའི་བུ། དེ་ལྟ་བས་ན་སྟོང་པ་ཉིད་ལ་
Sha ri bu, de ta wä na, tong pa nyi la
 
Xá Lợi Tử, thế nên trong không,
   
“Shariputra, therefore, in emptiness there is
      En conséquence, Sharipoutra, dans la vacuité il n’y a
གཟུགས་མེད། ཚོར་བ་མེད། འདུ་ཤེས་མེད། འདུ་བྱེད་རྣམས་མེད། རྣམ་པར་ཤེས་པ་མེད།
zug me, tshor wa me, du she me, du je nam me, nam par she pa me,
 
không sắc, thọ, tưởng, hành, thức;
   
no form, no feeling, no discrimination, no compositional factors, no consciousness;
      ni forme, ni sensation, ni identification, ni facteurs composés, ni conscience ;
མིག་མེད། རྣ་བ་མེད། སྣ་མེད། ལྕེ་མེད། ལུས་མེད། ཡིད་མེད།
mig me, na wa me, na me, che me, lü me, yi me,
 
không nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý [2];
   
no eye, no ear, no nose, no tongue, no body, no mind;
      ni œil, ni oreille, ni nez, ni langue, ni corps, ni mental ;
གཟུགས་མེད། སྒྲ་མེད། དྲི་མེད། རོ་མེད། རེག་བྱ་མེད། ཆོས་མེད་དོ། །
zug me, dra me, dri me, ro me, reg ja me, chhö me do,
 
không sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp [3];
   
no visual form, no sound, no odor, no taste, no object of touch, and no phenomenon.
      ni forme, ni son, ni odeur, ni saveur, ni objet du toucher, ni phénomène mental.
མིག་གི་ཁམས་མེད་པ་ནས་ཡིད་ཀྱི་ཁམས་མེད།
mig gi kham me pa nä yi kyi kham me,
 
không nhãn giới, đến không ý giới,
   
There is no eye element and so on up to and including no mind element and
      De l’élément de l’œil et ainsi de suite, jusqu’à l’élément du mental et
ཡིད་ཀྱི་རྣམ་པར་ཤེས་པའི་ཁམས་ཀྱི་བར་དུ་ཡང་མེད་དོ།།
yi kyi nam par she päi kham kyi bar du yang me do,
 
đến tận ý thức giới [4] cũng đều không.
   
no mental consciousness element.
      l’élément de la conscience du mental, il n’y a pas d’élément.
མ་རིག་པ་མེད། མ་རིག་པ་ཟད་པ་མེད་པ་ནས།
ma rig pa me, ma rig pa zä pa me pa nä,
 
Không vô minh và sự diệt tận của vô minh,
   
There is no ignorance, no extinction of ignorance, and so on, up to and including
      Il n’y a ni ignorance ni élimination de l’ignorance et ainsi de suite, jusqu’à :
རྒ་ཤི་མེད། རྒ་ཤི་ཟད་པའི་བར་དུ་ཡང་མེད་དོ། །
ga shi me, ga shi zä päi bar du yang me do,
 
cho đến không lão tử, không cả sự diệt tận của lão tử.[5]
   
no aging and death and no extinction of aging and death.
      il n’y a ni vieillissement et mort, ni élimination du vieillissement et de la mort.
དེ་བཞིན་དུ་སྡུག་བསྔལ་བ་དང༌། ཀུན་འབྱུང་བ་དང༌། འགོག་པ་དང༌། ལམ་མེད།
de zhin du dug ngäl wa dang, kün jung wa dang, gog pa dang, lam me,
 
Tương tự như vậy, không khổ, tập, diệt, đạo [6];
   
Similarly, there is no suffering, origination, cessation, and path;
      Et à l’avenant, il n’y a ni souffrance, ni origine de la souffrance, ni cessation, ni voie ;
ཡེ་ཤེས་མེད། ཐོབ་པ་མེད། མ་ཐོབ་པ་ཡང་མེད་དོ། །
ye she me, thob pa me, ma thob pa yang me do
 
không trí giác, không thủ đắc, không cả sự không thủ đắc.
   
there is no exalted wisdom, no attainment, and also no nonattainment.
      il n’y a ni sagesse transcendante, ni obtention, ni non-obtention.
ཤཱ་རིའི་བུ། དེ་ལྟ་བས་ན་བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའ་རྣམས་ཐོབ་པ་མེད་པའི་ཕྱིར་
Sha ri bu, de ta wä na, jang chhub sem pa nam thob pa me päi chhir,
 
Xá Lợi Tử, bồ tát vì không thủ đắc
   
“Shariputra, therefore, because there is no attainment,
      Sharipoutra, ainsi, puisqu’il n’y a pas d’obtention, les bodhisattvas
ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པ་ལ་བརྟེན་ཅིང་གནས་ཏེ།
she rab kyi pha röl tu chhin pa la ten ching nä te,
 
nên nương trụ Bát nhã ba la mật đa,
   
bodhisattvas rely on and dwell in the perfection of wisdom,
      se fondent-ils sur la perfection de la sagesse et ils demeurent en elle,
སེམས་ལ་སྒྲིབ་པ་མེད་པས་སྐྲག་པ་མེད་དེ།
sem la drib pa me pä trag pa me de,
 
tâm không chướng ngại nên không khiếp sợ,
   
the mind without obscuration and without fear.
      l’esprit sans voile et sans peur. Et comme ils sont passés bien au-delà de toute
ཕྱིན་ཅི་ལོག་ལས་ཤིན་ཏུ་འདས་ནས་མྱ་ངན་ལས་འདས་པའི་མཐར་ཕྱིན་ཏོ། །
chhin chi log lä shin tu dä nä, nya ngän lä dä päi thar chhin to,
 
vượt mọi thát loạn, cứu cánh niết bàn.
   
Having completely passed beyond error, they reach the endpoint of nirvana.
      erreur, ils parviennent au stade final du nirvana.
དུས་གསུམ་དུ་རྣམ་པར་བཞུགས་པའི་སངས་རྒྱས་ཐམས་ཅད་ཀྱང་
dü sum du nam par zhug päi sang gyä tham chä kyang
 
Hết thảy Phật đà trú ở ba thời
   
All the Buddhas who dwell in the three times also
      C’est en s’appuyant sur la perfection de la sagesse
ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པ་ལ་བརྟེན་ནས་བླ་ན་མེད་པ་
she rab kyi pha röl tu chhin pa la ten nä, la na me pa
 
nhờ y theo Bát nhã ba la mật đa sâu xa
   
manifestly, completely unsurpassable, perfect,
      que tous les bouddhas des trois temps eux aussi font naître pleinement
ཡང་དག་པར་རྫོགས་པའི་བྱང་ཆུབ་ཏུ་མངོན་པར་རྫོགས་པར་སངས་རྒྱས་སོ། །
yang dag par dzog päi jang chhub tu ngön par dzög par sang gyä so
 
mà thành tựu chánh giác vô thượng tam miệu tam bồ đề.
   
complete enlightenment in reliance on the perfection of wisdom.
      l’insurpassable éveil parfaitement accompli. Aussi,
དེ་ལྟ་བས་ན་ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕིན་པའི་སྔགས། རིག་པ་ཆེན་པོའི་སྔགས།
De ta wä na, she rab kyi pha röl tu chhin päi ngag, rig pa chhen pöi ngag,
 
Do đó mà nói Bát nhã ba la mật đa là bài chú đại trí tuệ;
   
Therefore, the mantra of the perfection of wisdom, the mantra of great knowledge,
      le mantra de la perfection de la sagesse, le mantra de la grande connaissance,
བླ་ན་མེད་པའི་སྔགས། མི་མཉམ་པ་དང་མཉམ་པའི་སྔགས།
la na me päi ngag, mi nyam pa dang nyam päi ngag,
 
bài chú tối thượng; bài chú tuyệt bậc và đồng bậc;
   
the unsurpassed mantra, the mantra equal to the unequaled,
      le mantra auquel rien n’est supérieur, le mantra égal à l’inégalable,
སྡུག་བསྔལ་ཐམས་ཅད་རབ་ཏུ་ཞི་བར་བྱེད་པའི་སྔགས།
dug ngäl tham chä rab tu zhi war je päi ngag,
 
bài chú diệt trừ mọi khổ não;
   
the mantra that thoroughly pacifies all suffering,
      le mantra qui apaise à jamais toute souffrance,
མི་རྫུན་པས་ན་བདེན་པར་ཤེས་པར་བྱ་སྟེ།
mi dzün pä na, den par she par ja te,
 
phải biết chú này là chắc thật vì không hư ngụy.
   
should be known as truth since it is not false.
      doit être reconnu comme véridique car il ne trompe pas.
ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པའི་སྔགས་སྨྲས་པ།
she rab kyi pha röl tu chhin päi ngag mä pa
 
Thế nên tuyên thuyết chú Bát nhã ba la mật đa:
   
The mantra of the perfection of wisdom is declared:
      Et voici le mantra de la perfection de la sagesse :
     
ཏདྱཐཱ། ག་ཏེ་ག་ཏེ། པཱ་ར་ག་ཏེ། པཱ་ར་སཾ་ག་ཏེ། བོ་དྷི་སྭཱ་ཧཱ།
TADYATHA GATE GATE PARAGATE PARASAMGATE BODHI SVAHA
Tê-ya-tha ga-tê, ga-tê, pa-ra-ga-tê, pa-ra-xăm-ga-tê, bô-đi, sô ha
[Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề, tát bà ha]
     

ཤཱ་རིའི་བུ། བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའ་སེམས་དཔའ་ཆེན་པོས་
Sha ri bu, jang chhub sem pa sem pa chhen pö,
 
Xá Lợi Tử, các đại Bồ tát phải nên hành trì
   
“Shariputra, the bodhisattva Mahasattva should train in
      Sharipoutra, c’est ainsi qu’un bodhisattva mahasattva doit s’exercer
དེ་ལྟར་ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པ་ཟབ་མོ་ལ་བསླབ་པར་བྱའོ། །
de tar she rab kyi pha röl tu chhin pa zab mo la lab par ja o
 
Bát nhã ba la mật đa sâu xa theo đúng như vậy.
   
the profound perfection of wisdom like that.”
      à la profonde perfection de la sagesse. »
དེ་ནས་བཅོམ་ལྡན་འདས་ཏིང་ངེ་འཛིན་དེ་ལས་བཞེངས་ཏེ་
de nä chom dän dä ting nge dzin de lä zheng te,
 
Bấy giờ, đức Thế tôn từ chánh định trở ra,
   
Then the Bhagavan arose from that concentration
      Puis le Baghavan sortit de sa concentration
བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའ་སེམས་དཔའ་ཆེན་པོ་འཕགས་པ་སྤྱན་རས་གཟིགས་དབང་ཕྱུག་ལ་
jang chhub sem pa sem pa chhen po phag pa chän rä zig wang chhug la
 
tán dương Đại bồ tát Ma ha tát Quan Tự Tại, nói rằng:
   
and commended the bodhisattva Mahasattva Arya Avalokiteshvara saying:
      et loua le bodhisattva mahasattva arya Avalokiteshvara en disant :
ལེགས་སོ་ཞེས་བྱ་བ་བྱིན་ནས། ལེགས་སོ་ལེགས་སོ། ། རིགས་ཀྱི་བུ།
leg so zhe ja wa jin nä, leg so leg so rig kyi bu
 
Lành thay, lành thay, thiện nam tử,
   
“Well said, well said, son of the lineage,
      « Bien ! Bien ! Ô fils de la lignée,
དེ་དེ་བཞིན་ནོ། ། རིགས་ཀྱི་བུ། དེ་དེ་བཞིན་ཏེ།
de de zhin no, rig kyi bu, de de zhin te,
 
đúng là như vậy. Thiện nam tử, đúng là như vậy,
   
it is like that. It is like that;
      il en est ainsi, il en est bien ainsi.
ཇི་ལྟར་ཁྱོད་ཀྱིས་བསྟན་པ་དེ་བཞིན་དུ་ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པ་ཟབ་མོ་ལ་
ji tar khyö kyi tän pa de zhin du, sherab kyi pha röl tu chhin pa zab mo la
 
phải nên hành trì Bát nhã ba la mật đa đúng như ông nói,
   
one should practice the profound perfection of wisdom just as you have indicated;
      C’est exactement comme tu viens de l’exposer qu’il convient de pratiquer
སྤྱད་པར་བྱ་སྟེ། དེ་བཞིན་གཤེགས་པ་རྣམས་ཀྱང་རྗེས་སུ་ཡི་རང་ངོ། །
chä par ja te, de zhin sheg pa nam kyang je su yi rang ngo
 
làm được như vậy chư Như lai sẽ đều hoan hỷ.
   
even the Tathagatas rejoice.”
      la profonde perfection de la sagesse et les tathagatas eux-mêmes se réjouissent. »
བཅོམ་ལྡན་འདས་ཀྱིས་དེ་སྐད་ཅེས་བཀའ་སྩལ་ནས།
Chom dän dä kyi de kä che ka tsäl nä,
 
Đức Thế tôn nói lời ấy xong,
   
The Bhagavan having thus spoken,
      Lorsque le Baghavan eut dit cela,
ཚེ་དང་ལྡན་པ་ཤཱ་ར་དྭ་ཏིའི་བུ་དང༌།
tshe dang dän pa sha ra dva ti bu dang,
 
tôn giả Xá Lợi Phất,
   
the venerable Sharadvatiputra,
      le vénérable Sharadvatipoutra,
བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའ་སེམས་དཔའ་ཆེན་པོ་འཕགས་པ་སྤྱན་རས་གཟིགས་དབང་ཕྱུག་དང༌
jang chhub sem pa sem pa chhen po chän rä zig wang chhug dang
 
Đại bồ tát Ma ha tát Quan Tự Tại,
   
the bodhisattva Mahasattva Arya Avalokiteshvara,
      le bodhisattva mahasattva arya Avalokiteshvara,
ཐམས་ཅད་དང་ལྡན་པའི་འཁོར་དེ་དག་དང༌།
tham chä dang dän päi khor de dag dang,
 
cùng hết thảy tùy tùng,
   
and those surrounding in their entirety
      l’entourage au complet,
ལྷ་དང༌། མི་དང༌། ལྷ་མ་ཡིན་དང༌། དྲི་ཟར་བཅས་པའི་འཇིག་རྟེན་
lha dang, mi dang, lha ma yin dang, dri zar chä päi jig ten
 
và chư thiên, nhân loại, a tu la và càn thát bà,
   
along with the world of gods, humans, asuras, and gandharvas
      ainsi que le monde des dieux, des hommes, des asouras et des gandharvas,
ཡི་རངས་སྟེ། བཅོམ་ལྡན་འདས་ཀྱིས་གསུངས་པ་ལ་མངོན་པར་བསྟོད་དོ། །
yi rang te, chom dän dä kyi sung pa la ngön par tö do
 
tất cả đều hoan hỷ tán dương pháp Phật vừa thuyết.
   
were overjoyed and highly praised that spoken by the Bhagavan.
      furent remplis de joie et louèrent les paroles du Baghavan.
འཕགས་པ་ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པའི་སྙིང་པོ་རྫོགས་སོ།
  (Đến đây chấm dứt Ärya-bhagavatï-prajñäpäramitä-höidaya-sütra.)
   
(This completes the Ärya-bhagavatï-prajñäpäramitä-höidaya-sütra.)
      (Ainsi s’achève l’Ärya-bhagavatï-prajñäpäramitä-höidaya-sütra.)

ཏདྱཐཱ། ག་ཏེ་ག་ཏེ། པཱ་ར་ག་ཏེ། པཱ་ར་སཾ་ག་ཏེ། བོ་དྷི་སྭཱ་ཧཱ། (108x)
TADYATHA GATE GATE PARAGATE PARASAMGATE BODHI SVAHA (108x)
Tê-ya-tha ga-tê, ga-tê, pa-ra-ga-tê, pa-ra-xăm-ga-tê, bô-đi, sô ha (108x)
[Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề, tát bà ha] (108x)


C. Tâm Kinh Phá Chướng Ngại
Averting Obstacles
Dissiper les Obstacles par le Soutra du Coeur

༈ ན་མོ་བླ་མ་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། ། སངས་རྒྱས་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། །
na-mo, la-ma la chak-tsal lo, sang-gye la chak-tsal lo
 
Đệ tử quy y; kính lạy Thượng Sư; kính lạy Phật;
   
Namo! Homage to the Guru! Homage to the Buddha!
      Namo! Hommage au Lama! Hommage au Bouddha
ཆོས་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། ། དགེ་འདུན་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། །
chö la chak-tsal lo, gen-dün la chak-tsal lo
 
kính lạy Pháp; kính lạy Tăng;
   
Homage to the Dharma! Homage to the Saṅgha!
      Hommage au Dharma, Hommage au Sangha
ཡུམ་ཆེན་མོ་ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པ་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ། །
yum chen-mo she-rab kyi pa-rol tu chin-pa la chak-tsal lo
 
Kính lạy Đại Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật.
   
Homage to the Great Mother, Prajñāpāramitā!
      Hommage à la Grande Mère, Prajñāpāramitā
ཁྱེད་རྣམས་ལ་ཕྱག་འཚལ་བའི་མཐུ་དང་ནུས་པ་ལ་བརྟེན་ནས།
khyé nam la chak-tsal-wé tu dang nü-pa la ten né
 
Nguyện nương năng, lực, / lễ lạy chư vị
   
Through the power and strength of paying homage to you,
      Par le pouvoir et la force de vous rendre hommage
བདག་ཅག་གི་ཚིག་འདི་འགྲུབ་པར་གྱུར་ཅིག །
dak-chak gi tsik di drub-par gyur chik
 
lời nguyện chúng con, / đều thành tựu cả
   
May these words of ours come true!
      Puissent ces paroles de vérité soient accomplies
ཇི་ལྟར་སྔོན་ལྷའི་དབང་པོ་བརྒྱ་བྱིན་གྱིས་
ji-tar ngön lhé wang-po gya-jin gyi
 
Như trong quá khứ, / thiên vương Đế Thích,
   
Just as, long ago, the king of the gods Indra,
      De la même manière que le puissant souverain Indra d’antan,
ཡུམ་ཆེན་མོ་ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པའི་དོན་ཟབ་མོ་
yum chen-mo she-rab kyi pa-rol tu chin-pé dön zab mo
  nhờ vào năng, lực, / tư duy tụng niệm,
   
by the power and strength of contemplating the profound meaning
      par le pouvoir et la force de contempler le sens profond
ཡིད་ལ་བསམ་ཞིང་ཚིག་ཁ་ཏོན་དུ་བྱས་པའི་མཐུ་དང་ནུས་པ་ལ་བརྟེན་ནས། །
yi la sam shying tsik kha-tön du je-pé tu dang nü-pa la ten né
 
ý nghĩa thâm sâu, / Đại Mẫu Bát Nhã, / Ba La Mật Đa
   
of the perfection of wisdom, the Great Mother, and reciting its words,
      de la Prajñāpāramitā et de réciter ces paroles,
བདུད་སྡིག་ཅན་ལ་སོགས་པ་ཕྱིར་བཟློག་པ་དེ་བཞིན་དུ་
dü dik-chen la-sok-pa chir dok-pa de-shyin-du
 
mà đuổi được hết, / ma vương ma quân.,
   
Was able to avert the demonic forces of negativity,so in the very same way,
      put détourner les forces démoniaques,
བདག་ཅག་གིས་ཀྱང་ཡུམ་ཆེན་མོ་ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པའི་
dak-chak gi kyang yum chen-mo she-rab kyi pa-rol tu chin-pé
 
chúng con cũng nguyện, / nhờ vào năng, lực,
   
may we too, through the power and strength of contemplating
      Puissions-nous aussi, par le pouvoir et la force de contempler le sens profond
དོན་ཟབ་མོ་ཡིད་ལ་བསམ་ཞིང་ཚིག་ཁ་ཏོན་དུ་བྱས་པའི་
dön zab-mo yi la sam shying tsik kha-tön du je-pé
 
tư duy tụng niệm, / ý nghĩa thâm sâu,
   
the profound meaning of the Perfection of Wisdom,
      de la Prajñāpāramitā et the Great Mother, récitant quotidiennement
མཐུ་དང་ནུས་པ་ལ་བརྟེན་ནས། ། བདག་ཅག་འཁོར་དང་བཅས་པའི་
tu dang nü-pa la ten né dak-chak khor dang che-pé
 
Đại Mẫu Bát Nhã, / Ba la mật đa, / làm cho nghịch cảnh,
   
and reciting its words, avert all the negative influences
      ces paroles, que toutes les circonstances disharmonieuses
དམ་པ་ཆོས་སྒྲུབ་པའི་སྤང་བྱ་མི་མཐུན་པའི་ཕྱོགས་
dam-pa chö drub-pé pang-ja mi-tün-pé chok
 
cản trở chúng con, / thành tựu diệu pháp,
   
which prevent us and those around us from
      empechant notre accomplissement du Noble Dharma
ཐམས་ཅད་ཕྱིར་བཟློག་པར་གྱུར་ཅིག །  
tam-ché chir dok-par gyur chik
 
quay lui tất cả
   
accomplishing the Noble Dharma! (clap)
      Soient détournées
མེད་པར་གྱུར་ཅིག །  
me par gyur chik
 
Nguyện cho tan biến
   
May they be annihilated!  (clap)
      Qu’elles soient devenir inexistantes
ཞི་བར་གྱུར་ཅིག །  
shyi-war gyur chik
 
Nguyện cho tịnh yên
   
May they be rendered harmless! (clap)
      Qu’elles soient pacifiées
རབ་ཏུ་ཞི་བར་གྱུར་ཅིག །
rab-tu shyi-war gyur chik
 
Tịnh yên triệt để
   
May they be completely pacified!
      Qu’elles soient totallement pacifiées
བགེགས་རིགས་སྟོང་ཕྲག་བརྒྱད་ཅུ་ཞི་བ་དང་།།
Geg-rig tong-thrag-gyä-chu zhi-wa dang
 
Ma tám vạn loại, / hết thảy tịnh yên,
   
The 80,000 types of obstructors pacified,
      Que les quatre-vight mille types d’obstacles soient pacifiés
མི་མཐུན་གནོད་པའི་རྐྱེན་དང་བྲལ་བ་དང་།།
mi-thün nö-päi kyen dang-dräl-wa dang
 
Nghịch cảnh ác duyên, / đều lìa xa cả
   
Freed from adverse, harmful conditions,
      Puissions-nous être séparés de conditions nuisibles et disharmonieuses
མཐུན་པར་གྲུབ་ཅིང་ཕུན་སུམ་ཚོགས་གྱུར་པའི།།
thün-par drub ching phün-sum tshog gyur-päi
 
nguyện cảnh phồn vinh, / đều thuận chánh pháp;
   
may all enjoyments be in accord with the Dharma;
      Puissions-nous obtenir tout ce qui est conductif, et par le bon augure
བཀྲ་ཤིས་དེས་ཀྱང་དེང་འདིར་བདེ་ལེགས་ཤོག  །
Tra-shi de kyang deng dir de-leg shog
 
Bây giờ, nơi đây, / nguyện cho mọi sự / an lạc cát tường.
   
And may there be auspiciousness and perfect happiness here right now.
      de tout ce qui est bien, puisse-t-il y avoir un bonheur excellent ici et maintenant


XUẤT XỨ – Sources – Références -: 
A. In Praise of Prajñāpāramitā – Louange à la Mère Prajnaparamita – Tán Dương Bát Nhã Ba La Mật Đa: Tibetan, English: https://www.lotsawahouse.org/words-of-the-buddha/heart-sutra-with-extras; Phonetics, French, Vietnamese: Hong Nhu Thupten Munsel (Anh Ho). B. The Heart Sutra – Le Soutras du Coeur – Tâm Kinh: Tibetan, Phonetics, English, French: FPMT Essential Prayer Book Vol.1, 2006; Vietnamese: Hong Nhu Thupten Munsel (Anh Ho). C. Averting Obstacles – Dissiper les Obstacles – Tâm Kinh Phá Chướng Ngại: Tibetan, Phonetics, English, French: references unavailable; Vietnamese: Hong Nhu Thupten Munsel (Anh Ho). D. Mūlamadhyamakakārikā’s extract – extrait de Mūlamadhyamakakārikā –Tán Dương Kệ (Trung Quán Luận):  French: Padmakara Group; Tibetan, English: https://www.lotsawahouse.org/words-of-the-buddha/heart-sutra-with-extras; Vietnamese: Hong Nhu Thupten Munsel (Anh Ho)

|Tạng Văn – Tạng Âm – Việt – Anh – Pháp| Việt | Tạng Văn |

Lama Tsongkhapa: XƯNG TÁN DUYÊN KHỞI

Tựa Đề Tạng Ngữ (Tibetan Title): རྟེན་འབྲེལ་བསྟོད་པ་བཞུགས་སོ། ། 
-Tác giả (author): Lama Tsongkhapa
-Việt ngữ: Hồng Như, bản thảo 12 tháng 5 năm 2019

Việt (Vietnamese) | Tạng (Tibetan) | Tạng-Việt-Anh (Tibetan-Vietnamese-English)

Xưng Tán Duyên Khởi

Lama Tông Khách Ba

Nam mô Guru Manjughoshaya (Kính lạy đức Văn Thù Diệu Âm)

1. Người nào thuyết pháp / từ sự chứng biết,
trí ấy, giáo ấy / không một ai hơn.
Con xin kính lễ / đức Phật tối thắng,
Bậc chứng rồi giảng / giáo pháp duyên sinh.

2. Cõi thế gian này / có bao suy thoái,
hết thảy đều từ / gốc rễ vô minh.
Đức Phật dạy rằng / bất kể là ai,
chứng được duyên sinh / là dẹp được cả.

3. Nên người có trí
đâu thể không hiểu
rằng pháp duyên sinh
chính là cốt tủy / giáo pháp Phật dạy.

4. Vậy xưng tán Phật
đâu có lối nào
mầu nhiệm hơn là
xưng tán bậc thuyết / giáo pháp duyên sinh.

5. “Việc gì đã tùy / nhân duyên sinh ra
thì việc ấy vốn / không có tự tánh.”
Có lời dạy nào / tuyệt diệu hơn là
lời dạy này đây.

6. Vì bám vào đó / mà kẻ ấu trĩ
ràng buộc biên kiến / càng thêm kiên cố;
cũng chính nơi đó / lại là cửa ngỏ
cho người có trí / xẻ lưới niệm khởi.

7. Pháp này nơi khác / chưa từng nghe qua
nên gọi Phật là / đạo sư duy nhất.
Nếu gọi ngoại đạo / [là bậc đạo sư] /
thì khác gì gọi / cáo là sư tử,
chỉ giống như lời / tâng bốc mà thôi.

8. Tuyệt thay đạo sư! Tuyệt thay chỗ nương!
Tuyệt thay luận sư! Tuyệt thay cứu độ!
Đối trước bậc Thầy / khéo thuyết duyên khởi,
con xin đảnh lễ.

9. Để giúp chữa bệnh / nên đấng Lợi Sinh
dạy cho hữu tình
lý luận vô song
xác định tánh không, / trái tim chánh pháp.

10. Lối duyên khởi này
nếu thấy mâu thuẫn / không thể xác minh
thì pháp của Phật
làm sao có thể / thông đạt cho được?

11. Với Phật, bao giờ
chứng được tánh không / qua nghĩa duyên khởi
sẽ thấy tuy rằng / không có tự tánh
vẫn tạo tác dụng, / không hề mâu thuẫn.

12. Phật dạy nếu như / thấy điều ngược lại,
ở trong tánh không / không có tác dụng
có tác dụng lại / không có tánh không,
sẽ phải rơi vào / vực sâu hung hiểm.

13. Vì lý do này / giáo pháp Phật dạy
hết mực đề cao / chứng ngộ duyên khởi;
không phải hoàn toàn / là không hiện hữu,
mà cũng không phải / là có tự tánh.

14. Sự tự-có như / hoa đốm giữa trời,
vì vậy không gì / là không tùy thuộc.
Nếu sự vật nhờ / chính mình mà có
thì không thể nào / tùy thuộc nhân duyên.

15. Nên Phật dạy rằng “vì không có gì
không từ duyên khởi
nên trừ phi là / không có tự tánh
bằng không chẳng có / pháp nào tồn tại.”

16. Phật dạy: “Tự tánh / không hề biến chuyển,
nên nếu các pháp / có chút tự tánh
thì quả niết bàn / không thể nào có,
niệm khởi cũng không / cách nào tịch diệt.”

17. Vì vậy nhiều lần / trước hàng trí giả
đức Phật nói bằng / tiếng sư tử hống,
rằng “sự vật vốn / tách lìa tự tánh”
Lời này đố ai / đủ sức phản biện.

18. Tự tánh mảy may / cũng không hề có,
mọi sự đều là / “tùy vào cái này
mà cái kia sinh.” / Có cần phải nói
rằng hai điều này / không hề mâu thuẫn?

19. “Vì hiện khởi nên
không vướng biên kiến.”
Chính vì đức Phật / khéo thuyết như vậy
nên gọi Ngài là / luận sư vô song.

20. “Hết thảy mọi sự / chân tánh vốn không”;
“từ điều này mà / quả kia sinh ra”:
hai khẳng định này hỗ trợ lẫn nhau
không hề mâu thuẫn.

21. Nhiệm mầu nào hơn?
kỳ diệu nào hơn?
Tán dương như vậy / mới là tán dương,
bằng không chẳng xứng.

22. Những ai vì bởi / mê muội khống chế
bất thuận với Phật / thì trước âm thanh
của không-tự-tánh / chẳng thể nào kham,
việc này không lạ.

23. Nhưng nếu tin nhận / kho tàng trân quí
của lời Phật dạy / về thuyết duyên khởi,
mà không kham nổi / tiếng gầm tánh không
mới thật lạ kỳ.

24. Lý duyên khởi là / cánh cửa vô thượng,
lối ngỏ dẫn vào / sự không-tự-tánh.
Nếu kẻ phàm phu / dựa danh duyên khởi
mà chấp tự tánh / thì phàm phu ấy

25. lạc mất lối ngỏ
mà chư thánh giả / đã từng khéo qua.
Đâu là phương tiện / đưa họ về lại
với con đường lành / khiến cho Phật vui?

26. “Tự tánh, không giả, / và không tùy thuộc”
cùng với “duyên sinh, / tùy thuộc, giả hợp”,
Làm sao có thể / qui về một chỗ
mà không mâu thuẫn?

27. Vì thế điều gì / từ duyên sinh ra,
mặc dù bản lai / vốn lìa tự tánh,
nhưng mà tướng hiện / lại giống như có,
nên Phật nói rằng / mọi sự hư huyễn.

28. Vì lý do này / nên con hiểu được
dù ai chống đối / với lời Phật dạy
vẫn không làm sao / xét đúng luận lý
mà tìm ra được / chút sơ hở nào.

29. Tại sao như vậy? / Vì lời giảng này
khiến cho sự vật—dù là thấy được /
hay không thể thấy— khả năng khẳng định /
hay là phủ định đều lìa rất xa.

30. Chính nhờ con đường / duyên khởi này đây,
thấy được lời Phật / thật không đâu sánh.
Vì lẽ này mà / khởi niềm xác quyết
Pháp nào của Phật / cũng đều đúng cả.

31. Phật chứng như nghĩa / rồi khéo nói ra,
những ai dụng công / theo gót chân Ngài,
bao nhiêu suy thoái / hết thảy đều xa,
bao gốc lỗi lầm / đều hồi đầu cả.

32. Còn người quay lưng / với lời Phật dạy
thì dù lao lực / trong thời gian dài
lỗi vẫn tăng thêm—như thể gọi mời—
là vì nương vào / tri kiến chấp ngã.

33. Tuyệt vời lắm thay! / Khi người có trí
hiểu sự khác biệt / giữa hai điều này
khi ấy đáy lòng / không thể nào không
sâu xa kính Phật.

34. Hãy khoan nói đến / vô lượng giáo pháp,
chỉ cần ý nghĩa / một nhánh nhỏ thôi,
dù chỉ đại khái / có được lòng tin,
cũng vẫn đạt được / niềm vui thù thắng.

35. Than ôi! con vì / tâm trí mê muội,
khối thiện đức ấy / qui y đã lâu,
thế nhưng cho dù / chỉ một mẩu nhỏ
cũng chưa hề có.

36. Tuy vậy, trước khi / sinh mạng một dòng
chảy cạn hết vào / miệng của Thần chết,
tín tâm nơi Phật / con được chút ít,
thiết nghĩ đó cũng / là điều đại hạnh.

37. Bậc thuyết duyên khởi / trong khắp giảng sư;
Trí chứng duyên khởi / trong khắp các trí;
Chỉ có Phật như / đế vương tôn thắng / trong cõi thế gian
mới khéo biết được, / người khác chẳng thể.

38. Bất kể là Phật / dạy cho pháp gì,
đều phát xuất từ / giáo lý duyên sinh
và đều hướng đến / mục tiêu niết bàn
Phật không hạnh nào / không khiến tịnh an.

39. Ôi! Giáo pháp Phật
rơi vào tai ai
đều khiến bình an,
hỏi ai lại chẳng / thiết tha giữ gìn.

40. Pháp này tận diệt / hết thảy đối địch;
làm tan biến hết / mâu thuẫn trước sau;
giúp cho toàn thành / cả hai lợi ích;
nhờ diệu pháp này / hoan hỉ càng tăng.

41. Chính vì vậy mà
Phật vô số kiếp / cho rồi lại cho:
khi thì cho thân / lúc lại cho mạng,
cho cả thân nhân, / thọ dụng tài sản.

42. Thấy được thiện đức / của giáo pháp này,/
con thật như là / con cá mắc câu,
từ nơi tim Phật / bị cuốn phăng vào.
Chẳng thể chính tai / nghe lời Phật dạy / thật là bất hạnh.

43. Nỗi thương tâm này / ray rức mãnh liệt,
níu mãi không buông / tâm trí của con.
Cũng tựa như là / trái tim người mẹ
giữ mãi không rời / đứa con thân yêu.

44. Mỗi khi con nhớ / đến lời Phật dạy,
là ý nghĩ này / lại hiện trong con:
“Bổn sư đứng giữa / vùng hào quang sáng,
tướng hảo chánh phụ / rực rỡ rạng ngời,

45. đã dùng Phạm Âm / mà thuyết như vậy.”
Ảnh Phật khi ấy / hiện ra trong con,
xoa dịu trái tim / rát bỏng mòn mỏi,
như trăng thanh mát / dịu cõi nóng khô.

46. Đối với giáo pháp / kỳ diệu này đây
phàm phu kém trí
thấy rối mịt mờ
như là cỏ bện.

47. Nhìn thấy cảnh này / con đã lắm lần
theo bậc trí giả
cố gắng nỗ lực
tìm rồi lại tìm / ý thật của Phật.

48. Khi ấy con học
rất nhiều kinh luận / tông môn trong ngoài,
tâm triền miên khổ
vì lưới hoài nghi.

49-51. Cỗ xe vô thượng / mà Phật để lại,
hai đầu có-không / đều lìa bỏ hết,
được đức Long-thọ—người Phật thọ ký—
giảng đúng như thật.
Vườn hoa kun-da / của luận Long thọ
ngời ánh nguyệt quang / của luận Nguyệt Xứng
trắng sáng rạng soi / tỏ tường khắp cả,
trí tuệ vô cấu / một khối tròn đầy,
du hành vô ngại / giữa trời giáo thuyết,
xóa tan tăm tối / trái tim chấp thủ,
ngàn sao tà thuyết / đều phải lu mờ.
Nhờ ơn đạo sư / thấy được điều này,
tâm con khi ấy / mới thật bình yên.

52. Trong mọi thiện hạnh / mà Phật đã làm, /
thuyết pháp là nhất. Pháp thuyết cũng vậy, /
là pháp này đây.  Vì vậy kẻ trí /
nên từ chỗ này mà nhớ đến Phật.

53. Theo gót đấng bổn sư / tôi xuất gia thanh tịnh
tu học lời Phật dạy / không để cho kém cỏi
Tỷ kheo này cố gắng / tu tập hạnh du già
để tỏ lòng tôn kính / với bậc Đại Chân Thật.

54. Gặp được giáo pháp này / của bậc Thầy vô thượng
hết thảy đều nhờ vào / lòng từ của Ân sư
Vậy công đức nơi đây / tôi nguyện xin hồi hướng
cho chúng sinh luôn được / bậc chân sư giữ gìn.

55. Pháp của đấng Lợi Sinh / nguyện cùng tận sinh tử
không bao giờ khuynh động / bởi ngọn gió tà niệm;
nguyện luôn đầy ắp người / chứng cảnh giới lời Phật
nhờ đó tâm xác quyết / tin tưởng đấng đạo sư.

56. Nguyện trì pháp Mâu ni,
sáng soi lý duyên khởi,
mọi đời kiếp về sau / xả bỏ cả thân mạng
không bao giờ xao lãng / dù chỉ thoáng chốc thôi.
 
57. “Bậc dẫn đường tối thượng / bỏ công khó vô lượng
mới đạt được pháp này
nay dùng cách nào đây / để hoằng dương chánh pháp?”/)
nguyện tôi ngày lẫn đêm / luôn quán xét điều này.

58. Khi nỗ lực như vậy / với đại nguyện trong sáng
Nguyện Phạm Thiên, Đế Thích, / cùng chư vị hộ thế
và hộ pháp như là / đức Mahakala
luôn nâng đỡ cho tôi / không bao giờ lơi nghỉ

Bài pháp tên “Tinh Túy Trí Khéo Thuyết” này do bậc Tỷ kheo Đa văn Losang Dragpa trước tác.
Hồng Như Thupten Munsel chuyển Việt ngữ từ Tạng ngữ (Kopan Monastery Prayer Book), tham khảo với các bản dịch Anh ngữ của Thupten Jinpa Kilty Galvin,  12 tháng 5 năm 2019

Việt (Vietnamese) | Tạng (Tibetan) | Tạng-Việt-Anh (Tibetan-Vietnamese-English

Thogme Zangpo: 37 PHÁP HÀNH BỒ TÁT

-Tựa đề tiếng Tạng (Tibetan Title): ༄༅། །རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་སོ་བདུན་མ་བཞུགས་སོ། །
-Tác Giả (author): Gyalse Thogme Zangpo
-Việt dịch (Vietnamese translation): Cư sĩ Hồng Như Thupten Munsel – 02/2019, hiệu đính 08/2019

1.  CÔNG ĐỨC PHẦN THƯỢNG—KHAI KỆ

1a. Nói tựa đề

Dưới đây là Ba Mươi Bảy Pháp Hành Bồ Tát

1b. Tán Dương

1b1. Nói ngắn gọn

Nam mô Đức Quan Tự Tại Lokesvaraye

1b2. Nói chi tiết

Dù thấy vạn pháp / không đi không đến,
Cũng vẫn dốc sức / chỉ vì lợi sinh:
Thượng sư tôn quí, đức Quan Thế Âm, bậc đại hộ trì,
Đệ tử hằng mang / ba cửa kính lễ.

1c. Lý do tác luận

Chư Chánh Đẳng Giác, / cội nguồn phúc lạc,
Thành Phật là nhờ / chứng đắc diệu Pháp,
Chứng đắc là nhờ / biết được pháp hành:
Vì vậy cho nên / cần phải giảng về / pháp hành bồ tát.

2. CÔNG ĐỨC PHẦN TRUNG—CHÁNH VĂN

2a. Pháp tu sơ khởi (kệ 1-7)

2a1. Thân người ung dung sung mãn khó gặp (kệ 1)

1. Ung dung, sung mãn, / thuyền lớn khó tìm / nay đã có được.
Để độ ngã tha / thoát bể sinh tử
Nên ngày lẫn đêm / đều không xao lãng
Văn tư và tu — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2a2. Từ bỏ quê cha (kệ 2)

2. Thân thì luyến chấp / như là nước cuốn;
Thù thì sân hận / như lửa cháy bừng;
U mê quên hết / điều cần lấy, bỏ:
Quê cha đoạn lìa — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2a3. Trú nơi viễn li (kệ 3)

3. Nhờ lánh chỗ ác / nên phiền não cạn;
Tâm không tán loạn: / thiện hạnh tự  tăng;
Trí giữ sáng trong / tự tin nơi pháp:
Trú nơi viễn li — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2a4. Nhớ vô thường (kệ 4)

4. Người thân lâu năm, / lần lượt giã biệt;
Tiền kiếm vất vả, / bỏ lại phía sau;
Thân là nhà trọ, / tâm thức là khách / sẽ phải rời đi:
Đời này xả li — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2a5. Rời bạn xấu (kệ 5)

Có kẻ nếu gần / tam độc sẽ tăng,
Văn tư và tu / hết thảy đều giảm,
Tâm từ tâm bi / rồi sẽ mất sạch:
Rời xa ác hữu — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2a6. Nương thiện tri thức (kệ 6)

6. Lại có những người / nếu nương dựa vào / lầm lỗi sẽ dứt,
Thiện đức sẽ tăng / như trăng độ rằm:
Thiện tri thức ấy / hãy nên trân quí
Hơn cả thân mình — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2a7. Quy Y  (kệ 7)

7. Tự mình còn vướng / tù ngục luân hồi,
Chư thiên thế tục / độ được cho ai?
Nếu đã qui y, / hãy tìm về nương / chốn không hư ngụy:
Qui y Tam bảo — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b. Giải thích về đường tu ba loại căn cơ

2b1. Đường tu sơ căn phải tu như thế nào  (kệ 8)

8. Phật dạy khổ nạn / ác đạo khó kham
Đều là quả báo / của nghiệp bất thiện.
Vì thế cho nên / chẳng thà mất mạng
Việc ác không làm — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b2. Đường tu trung căn phải tu như thế nào (kệ 9)

9. Lạc thú ba cõi / như sương đầu cỏ,
Chỉ phút giây thôi / rồi tan biến hết.
Quả vị giải thoát / thắng diệu bất biến
Thường luôn tìm cầu — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3. Đường tu thượng căn phải tu như thế nào (kệ 10-24)

2b3a. Phát tâm bồ đề (kệ 10)

10. Đa sinh hiền mẫu / kể từ vô thủy / luôn rất yêu tôi.
Mẹ đều khổ cả, / con vui sao đành!
Vì để phổ độ / chúng sinh vô biên
Phát tâm bồ đề — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b. Huân tập và phát huy tâm bồ đề

2b3b1. Tâm bồ đề tục nghĩa (kệ 11-21)
2b3b1a. Nhập định quán hoán chuyển ngã tha (kệ 11)

11. Chịu khổ là vì / tôi muốn tôi vui;
Thành Phật là nhờ / tâm muốn lợi người.
Vậy thì vui tôi / đổi lấy khổ người,
Trọn vẹn hoán chuyển — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b1b. Xuất định quán chuyển nghịch cảnh thành đường tu (kệ 12-22)
2b3b1b1. Chuyển khổ nạn thành đường tu  (kệ 12-15)
2b3b1b1a. Tổn thất (kệ 12)

12. Dù ai vì tham / mà tài sản tôi
Họ tự tay cướp, / hoặc bảo người cướp,
Đối với người ấy / vẫn mang thân, của, / công đức ba thời,
Hồi hướng cho họ — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b1b1b. Khổ (kệ 13)

13. Tôi một chút lỗi / cũng không hề có,
Nhưng lại có người / chặt mất đầu tôi.
Ác nghiệp người ấy, / với tâm từ bi
Tôi sẽ gánh về — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b1b1c. Khẩu thiệt (kệ 14)

14. Dù có bị ai / mắng chửi  đủ điều,
Bêu rếu cùng khắp / tam thiên thế giới,
Đối với người ấy / lại càng từ hòa
Ngợi ca việc thiện — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b1b1d. Chỉ trích (kệ 15)

15. Dù có bị ai / ngay giữa đám đông
Bươi móc lỗi kín / thóa mạ nặng lời
Vẫn xem người ấy / là thiện tri thức
Thành tâm kính lễ — đó là pháp hành / của bậc bồ tát

2b3b1b2. Chuyển cảnh khó thành đường tu (kệ 16-17)
2b3b1b2a. Vô ơn (kệ 16)

16. Người tôi dưỡng nuôi / thương như con ruột
Lại đối với tôi / như với kẻ thù.
Tôi vẫn như mẹ / khi con lâm bệnh
Lại càng thương yêu — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b1b2b. Nhục mạ (kệ 17)

17. Dù người bằng tôi, / hay thấp hơn tôi,
Ngã mạn lăng nhục / làm khó đủ điều,
Vẫn kính người ấy / như kính Tôn sư
Đội ở trên đầu — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b1b3. Chuyển cảnh khốn cùng hay phú quí vào đường tu (kệ 18-19)
2b3b1b3a. Khốn cùng (kệ 18)

18. Dù nghèo xơ xác / bị đời khinh miệt,;
Dù vướng trọng bệnh, / ám chướng, tà ma,
Ác, khổ chúng sinh / vẫn xin nhận hết
Không chút nao lòng — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b1b3b. Phú quí (kệ 19)

19. Danh tiếng lừng vang, / đại chúng đê đầu,
Tài sản sánh tày / Đa Văn Thiên Vương,
Vẫn thấy sá gì / tiền tài thế lực,
Lòng không kiêu ngạo — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b1b4. Chuyển cảnh khiến sân và tham vào đường tu (kệs 20-21)
2b3b1b4a. Cảnh khiến nổi sân (kệ 20)

20. Sân hận của mình, / giặc này không dẹp
Thì giặc bên ngoài / càng quét càng tăng.
Vậy lấy từ bi / dùng làm chiến đội
Tự quét tâm mình — đó là pháp hành / của bậc bồ tát

2b3b1b4b. Cảnh khiến nổi tham (kệ 21)

21. Lạc thú giác quan / tựa như nước muối,
Càng uống bao nhiêu / càng khát bấy nhiêu.
Cứ hễ vật gì / khiến nổi tham chấp
Lập tức buông ra — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b2. Tâm Bồ Đề Chân Nghĩa (kệ 22-24)
2b3b2a. Cách Nhập Định Quán Tánh Không Như Không Gian (kệ 22)

22. Cảnh hiện hết thảy / đều là tâm ta.
Tâm này bản lai / siêu việt khái niệm.
Biết vậy nên khi / tiếp tướng đối đãi
Vẫn không tác ý — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b2b. Khi xuất thiền, làm sao ngừng thấy tham và sân là thật (kệ 23-24)
2b3b2b1. Ngừng thấy cảnh khiến nổi tham là có thật (kệ 23)

23. Khi gặp chốn nào / đẹp đẽ đáng yêu,
Thấy đó chỉ như / cầu vồng mùa hạ,
Rực rỡ hiện ra / nhưng không thật có:
Luyến chấp buông bỏ — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b2b2. Ngừng thấy cảnh khiến nổi sân là có thật (kệ 24)

24. Hết thảy khổ đau / đều giống trong mơ / thấy con mình chết,
Lấy vọng làm thật  / nên luôn đuối mệt,
Vì thế cho nên / khi gặp nghịch cảnh
Thấy đều là vọng — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3. CÔNG ĐỨC PHẦN HẠ — KẾT

3a. Dấn thân vào pháp hành bồ tát (kệ 25-37)

3a1. Sáu Ba La Mật (kệ 25-30)

3a1a. Hạnh Thí (kệ 25)

25. Muốn đạt bồ đề / đến thân còn cho
Huống chi ngoại vật. / Vì thế cho nên
Không mong hồi báo / không cầu thiện quả
Mà làm bố thí — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a1b. Hạnh Giới (kệ 26)

26. Giới đã không thì / tự lợi cũng không,
Lại muốn lợi tha / thật quá nực cười!
Vậy nên vắng mọi / ham muốn thế tục
Để mà giữ giới — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a1c. Hạnh Nhẫn (kệ 27)

27. Đối với bồ tát / hướng về thiện đức
thì kẻ nhiễu hại / chính là kho báu,
Nên với mọi người / lòng không thù hận,
Tu theo hạnh nhẫn — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a1d. Hạnh Tấn (kệ 28)

28.Thanh văn Duyên giác / cầu tự lợi thôi
Đã tinh tấn như / lửa cháy ngang mày
Vậy vì chúng sinh / khởi tâm chuyên cần / nơi gốc thiện đức,
Tu hạnh tinh tấn — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a1e. Hạnh Định (kệ 29)

29. Chỉ, nếu phối hợp / triệt để với Quán
Thì phiền não diệt. / Nhờ biết như vậy,
Siêu việt hết thảy / tứ vô sắc giới,
Tu chánh định này — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a1f. Hạnh Tuệ (kệ 30)

30. Tuệ mà không có / thì năm hạnh kia
Không đủ khả năng / thành tựu chánh giác.
Dùng Phương tiện và / tam vô phân biệt,
Để tu hạnh Tuệ — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a2. Bốn Điều Khế Kinh Dạy (kệ 31-34)

3a2a. Tự Xét Lỗi Mình Để Bỏ Đi  (kệ 31)

31. Mê vọng của mình / nếu không tự xét,
Sẽ nhìn giống tu / nhưng làm trái Pháp,
Vậy thì mê vọng / phải luôn tự mình
Xét để mà buông — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a2b. Ngưng Chỉ Trích Bồ Tát  (kệ 32)

32. Vì phiền não nên / bêu lỗi bồ tát
Thì bản thân mình / sẽ bị tổn hao.
Vậy thì những ai / đã vào đại thừa,
Mình đừng nói lỗi — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a2c. Chặt Tham Chấp nơi việc nhà của thí chủ (kệ 33)

33. Vì lợi vì danh / mà sanh tranh chấp,
Làm cho hao tổn / cả văn tư tu.
Nên việc người thân, / bằng hữu, thí chủ,
Buông mọi chấp bám — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a2d. Tự Chế Ngự Lời Thô Ác  (kệ 34)

34. Lời thô ác khiến / tâm người não loạn
Và làm hao tổn / tánh hạnh bồ tát
Vậy với người khác / đừng gây khó chịu,
Buông ác ngữ đi — đó là pháp hành / của bậc bồ tát

3a3. Cách Dẹp Phiền Não  (kệ 35)

35. Phiền não quen lâu / sẽ khó đối trị,
Vũ khí giao cho / chánh niệm chánh trị,
Phiền não như là / tham sân các thứ,
Chớm nhú chặt ngay — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a4. Luyện Chánh Niệm Tỉnh Giác  (kệ 36)

36. Tóm lại, bất cứ / ở đâu, làm gì,
Cũng phải tự hỏi / tâm mình ra sao.
Luôn đi cùng với / chánh niệm tỉnh giác
Để mà độ sinh — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a5. Hồi Hướng Cồng Đức về cho Bồ Đề Viên Mãn (kệ 37)

37. Nỗ lực như vậy / được bao công đức,
Xin vì quét khổ / cho khắp chúng sinh
Mà dùng trí tuệ / siêu việt tam chấp,
Hồi hướng bồ đề  — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3b. Kết

Từ nơi ý nghĩa / của Kinh, Mật, Luận
Dựa theo viên âm / của chư Giác giả,
Nay xin viết lại / thành ba mươi bảy / pháp hành bồ tát
Cho những ai muốn / tu bồ tát đạo.

Tôi vì trí thấp / hiểu biết không nhiều,
Thi kệ không làm / đẹp lòng bậc trí,
Thế nhưng nhờ nương / lời bậc Giác giả / cùng với khế kinh,
Pháp hành bồ tát / thiết nghĩ không lầm.

Tuy vậy, sóng cả / thiện hạnh bồ tát
Thâm sâu khó lường / cho kẻ trí mọn / như là tôi đây.
Lỡ đâu mâu thuẫn / hay thiếu mạch lạc / vướng lỗi đại loại,
Xin chư  Giác giả / nhẫn nại dùm cho.

Nhờ công đức này, / nguyện khắp chúng sinh
Với tâm bồ đề / chân nghĩa, tục nghĩa,
Không vướng hai đầu / sinh tử, niết bàn,
Trở thành y như / đức Quan Thế Âm.

Bài pháp này do tỷ kheo Thogme, giáo luận sư, viết tại động đá ở  Ngulchu Rinchen, vì lợi ích của mình và của người.

Ghi chú bản tiếng Việt: Cư sĩ Hồng Như Thubten Munsel chuyển Việt ngữ tháng 2 năm 2019, hiệu đính tháng 8 năm 2019.
Chánh văn dịch từ nguyên bản tiếng Tạng, tham khảo với nhiều bản tiếng Anh trong đó có bản dịch của Alex Berzin, Adam Pearcey, Michele Martin, Ruth Sonam ; đại cương dịch từ tiếng Anh theo văn bản của Kurukulla Centre trích từ Transforming Adversity into Joy and Courage, by Geshe Jampa Tegchok.

Tạng Ngữ

ན་མོ་ལོ་ཀེ་ཤྭ་ར་ཡེ།  ། གང་གིས་ཆོས་ཀུན་འགྲོ་འོང་མེད་གཟིགས་ཀྱང་།  ། འགྲོ་བའི་དོན་ལ་གཅིག་ཏུ་བརྩོན་མཛད་པའི།  ། བླ་མ་མཆོག་དང་སྤྱན་རས་གཟིགས་མགོན་ལ།  ། རྟག་ཏུ་སྒོ་གསུམ་གུས་པས་ཕྱག་འཚལ་ལོ།  ། ཕན་བདེའི་འབྱུང་གནས་རྫོགས་པའི་སངས་རྒྱས་རྣམས།  ། དམ་ཆོས་བསྒྲུབས་ལས་བྱུང་སྟེ་དེ་ཡང་ནི།  ། དེ་ཡི་ལག་ལེན་ཤེས་ལ་རག་ལས་པས།  ། རྒྱལ་སྲས་རྣམས་ཀྱི་ལག་ལེན་བཤད་པར་བྱ།  ། དལ་འབྱོར་གྲུ་ཆེན་རྙེད་དཀའ་ཐོབ་དུས་འདིར།  ། བདག་གཞན་འཁོར་བའི་མཚོ་ལས་བསྒྲལ་བྱའི་ཕྱིར།  ། ཉིན་དང་མཚན་དུ་གཡེལ་བ་མེད་པར་ནི།  ། ཉན་སེམས་སྒོམ་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། གཉེན་གྱི་ཕྱོགས་ལ་འདོད་ཆགས་ཆུ་ལྟར་གཡོ།  ། དགྲ་ཡི་ཕྱོགས་ལ་ཞེ་སྡང་མེ་ལྟར་འབར།  ། བླང་དོར་བརྗེད་པའི་གཏི་མུག་མུན་ནག་ཅན།  ། ཕ་ཡུལ་སྤོང་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཡུལ་ངན་སྤངས་པས་ཉོན་མོངས་རིམ་གྱིས་འགྲིབ།  ། རྣམ་གཡེང་མེད་པས་དགེ་སྦྱོར་ངང་གིས་འཕེལ།  ། རིག་པ་དྭངས་པས་ཆོས་ལ་ངེས་ཤེས་སྐྱེ།  ། དབེན་པ་བསྟེན་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཡུན་རིང་འགྲོགས་པའི་མཛའ་བཤེས་སོ་སོར་འབྲལ། འབད་པས་བསྒྲུབས་པའི་ནོར་རྫས་ཤུལ་དུ་ལུས།  ། ལུས་ཀྱི་མགྲོན་ཁང་རྣམ་ཤེས་མགྲོན་པོས་འབོར།  ། ཚེ་འདི་བློས་བཏང་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། གང་དང་འགྲོགས་ན་དུག་གསུམ་འཕེལ་འགྱུར་ཞིང་།  ། ཐོས་བསམ་སྒོམ་པའི་བྱ་བ་ཉམས་འགྱུར་ལ།  ། བྱམས་དང་སྙིང་རྗེ་མེད་པར་སྒྱུར་བྱེད་པའི།  ། གྲོགས་ངན་སྤོང་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། གང་ཞིག་བསྟེན་ན་ཉེས་པ་ཟད་འགྱུར་ཞིང་།  ། ཡོན་ཏན་ཡར་ངོའི་ཟླ་ལྟར་འཕེལ་འགྱུར་བའི།  ། བཤེས་གཉེན་དམ་པ་རང་གི་ལུས་བས་ཀྱང་།  ། གཅེས་པར་འཛིན་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། རང་ཡང་འཁོར་བའི་བཙོན་རར་བཅིངས་པ་ཡི།  ། འཇིག་རྟེན་ལྷ་ཡིས་སུ་ཞིག་བསྐྱབ་པར་ནུས།  ། དེ་ཕྱིར་གང་ལ་སྐྱབས་ན་མི་བསླུ་བའི།  ། དཀོན་མཆོག་སྐྱབས་འགྲོ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཤིན་ཏུ་བཟོད་དཀའི་ངན་སོང་སྡུག་བསྔལ་རྣམས།  ། སྡིག་པའི་ལས་ཀྱི་འབྲས་བུར་ཐུབ་པས་གསུངས། དེ་ཕྱིར་སྲོག་ལ་བབས་ཀྱང་སྡིག་པའི་ལས།  ། ནམ་ཡང་མི་བྱེད་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  །  །སྲིད་གསུམ་བདེ་བ་རྩྭ་རྩེའི་ཟིལ་པ་བཞིན།  ། ཡུད་ཙམ་ཞིག་གིས་འཇིག་པའི་ཆོས་ཅན་ཡིན།  ། ནམ་ཡང་མི་འགྱུར་ཐར་པའི་གོ་འཕང་མཆོག །དོན་དུ་གཉེར་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཐོག་མེད་དུས་ནས་བདག་ལ་བརྩེ་བ་ཡི།  ། མ་རྣམས་སྡུག་ན་རང་བདེས་ཅི་ཞིག་བྱ།  ། དེ་ཕྱིར་མཐའ་ཡས་སེམས་ཅན་བསྒྲལ་བྱའི་ཕྱིར།  ། བྱང་ཆུབ་སེམས་བསྐྱེད་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། སྡུག་བསྔལ་མ་ལུས་བདག་བདེ་འདོད་ལས་བྱུང་།  ། རྫོགས་པའི་བྱང་ཆུབ་གཞན་ཕན་སེམས་ལས་འཁྲུངས།  ། དེ་ཕྱིར་བདག་བདེ་གཞན་གྱི་སྡུག་བསྔལ་དག །ཡང་དག་བརྗེ་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། སུ་དག་འདོད་ཆེན་དབང་གིས་བདག་གི་ནོར།  ། ཐམས་ཅད་འཕྲོག་གམ་འཕྲོག་ཏུ་འཇུག་ན་ཡང་།  ། ལུས་དང་ལོངས་སྤྱོད་དུས་གསུམ་དགེ་བ་རྣམས།  ། དེ་ལ་བསྔོ་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། བདག་ལ་ཉེས་པ་ཅུང་ཟད་མེད་བཞིན་དུ། གང་དག་བདག་གི་མགོ་བོ་གཅོད་བྱེད་ནའང་། སྙིང་རྗེའི་དབང་གིས་དེ་ཡི་སྡིག་པ་རྣམས།  ། བདག་ལ་ལེན་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། འགའ་ཞིག་བདག་ལ་མི་སྙན་སྣ་ཚོགས་པ།  ། སྟོང་གསུམ་ཁྱབ་པར་སྒྲོགས་པར་བྱེད་ན་ཡང་།  ། བྱམས་པའི་སེམས་ཀྱིས་སླར་ཡང་དེ་ཉིད་ཀྱི།  ། ཡོན་ཏན་བརྗོད་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། འགྲོ་མང་འདུས་པའི་དབུས་སུ་འགའ་ཞིག་གིས།  ། མཚང་ནས་བྲུས་ཤིང་ཚིག་ངན་སྨྲ་ན་ཡང་།  ། དེ་ལ་དགེ་བའི་བཤེས་ཀྱི་འདུ་ཤེས་ཀྱིས།  ། ཡོན་ཏན་བརྗོད་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། བདག་གིས་བུ་བཞིན་གཅེས་པར་བསྐྱངས་པའི་མིས།  ། བདག་ལ་དགྲ་བཞིན་ལྟ་བར་བྱེད་ན་ཡང་།  ། ནད་ཀྱི་བཏབ་པའི་བུ་ལ་མ་བཞིན་དུ།  ། ལྷག་པར་བརྩེ་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། རང་དང་མཉམ་པའམ་དམན་པའི་སྐྱེ་བོ་ཡིས།  ། ང་རྒྱལ་དབང་གིས་བརྙས་ཐབས་བྱས་ན་ཡང་།  ། བླ་མ་བཞིན་དུ་གུས་པས་བདག་ཉིད་ཀྱི།  ། སྤྱི་བོར་ལེན་པ་རྒྱལ་སྲས་ཡིན།  ། འཚོ་བས་ཕོངས་ཤིང་རྟག་ཏུ་མི་ཡིས་བརྙས།  ། ཚབས་ཆེན་ནད་དང་གདོན་གྱིས་བཏབ་ཀྱང་སླར་།  ། འགྲོ་ཀུན་སྡིག་སྡུག་བདག་ལ་ལེན་བྱེད་ཅིང་།  ། ཞུམ་པ་མེད་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། སྙན་པར་གྲགས་ཤིང་འགྲོ་མང་སྤྱི་བོས་བཏུད།  ། རྣམ་ཐོས་བུ་ཡི་ནོར་འདྲ་ཐོབ་གྱུར་ཀྱང་།  ། སྲིད་པའི་དཔལ་འབྱོར་སྙིང་པོ་མེད་གཟིགས་ནས།  ། ཁེངས་པ་མེད་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། རང་གི་ཞེ་སྡང་དགྲ་བོ་མ་ཐུལ་ན།  ། ཕྱི་རོལ་དགྲ་བོ་བཏུལ་ཞིང་འཕེལ་བར་འགྱུར་།  ། དེ་ཕྱིར་བྱམས་དང་སྙིང་རྗེའི་དམག་དཔུང་གིས།  ། རང་རྒྱུད་འདུལ་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། འདོད་པའི་ཡོན་ཏན་ལན་ཚྭའི་ཆུ་དང་འདྲ།  ། ཇི་ཙམ་སྤྱད་ཅིང་སྲེད་པ་འཕེལ་བར་འགྱུར།  ། གང་ལ་ཞེན་ཆགས་སྐྱེ་བའི་དངོས་པོ་རྣམས།  ། འཕྲལ་ལ་སྤོང་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཇི་ལྟར་སྣང་བ་འདི་དག་རང་གི་སེམས།  ། སེམས་ཉིད་གདོད་ནས་སྤྲོས་པའི་མཐའ་དང་བྲལ།  ། དེ་ཉིད་ཤེས་ནས་གཟུང་འཛིན་མཚན་མ་རྣམས།  ། ཡིད་ལ་མི་བྱེད་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཡིད་དུ་འོང་བའི་ཡུལ་དང་འཕྲད་པ་ན།  ། དབྱར་གྱི་དུས་ཀྱི་འཇའ་ཚོན་ཇི་བཞིན་དུ།  ། མཛེས་པར་སྣང་ཡང་བདེན་པར་མེད་ལྟ་ཞིང་།  ། ཞེན་ཆགས་སྤོང་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། སྡུག་བསྔལ་སྣ་ཚོགས་རྨི་ལམ་བུ་ཤི་ལྟར།  ། འཁྲུལ་སྣང་བདེན་པར་བཟུང་བས་ཨ་ཐང་ཆད།  ། དེ་ཕྱིར་མི་མཐུན་རྐྱེན་དང་འཕྲད་པའི་ཚེ།  ། འཁྲུལ་བར་ལྟ་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། བྱང་ཆུབ་འདོད་པས་ལུས་ཀྱང་གཏོང་དགོས་ན།  ། ཕྱི་རོལ་དངོས་པོ་རྣམས་ལ་སྨོས་ཅི་དགོས།  ། དེ་ཕྱིར་ལན་དང་རྣམ་སྨིན་མི་རེ་བའི།  ། སྦྱིན་པ་གཏོང་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཚུལ་ཁྲིམས་མེད་ན་རང་དོན་མི་འགྲུབ་ན།  ། གཞན་དོན་སྒྲུབ་པར་འདོད་པ་གད་མོའི་གནས།  ། དེ་ཕྱིར་སྲིད་པའི་འདུན་པ་མེད་པ་ཡི།  ། ཚུལ་ཁྲིམས་བསྲུང་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། དགེ་བའི་ལོངས་སྤྱོད་འདོད་པའི་རྒྱལ་སྲས་ལ།  ། གནོད་བྱེད་ཐམས་ཅད་རིན་ཆེན་གཏེར་དང་མཚུངས།  ། དེ་ཕྱིར་ཀུན་ལ་ཞེ་འགྲས་མེད་པ་ཡི།  ། བཟོད་པ་སྒོམ་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། རང་དོན་འབའ་ཞིག་སྒྲུབ་པའི་ཉན་རང་ཡང་།  ། མགོ་ལ་མེ་ཤོར་བཟློག་ལྟར་བརྩོན་མཐོང་ན།  ། འགྲོ་ཀུན་དོན་དུ་ཡོན་ཏན་འབྱུང་གནས་ཀྱི།  ། བརྩོན་འགྲུས་རྩོམ་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཞི་གནས་རབ་ཏུ་ལྡན་པའི་ལྷག་མཐོང་གིས།  ། ཉོན་མོངས་རྣམ་པར་འཇོམས་པར་ཤེས་བྱས་ནས།  ། གཟུགས་མེད་བཞི་ལས་ཡང་དག་འདས་པ་ཡི།  ། བསམ་གཏན་སྒོམ་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཤེས་རབ་མེད་ན་ཕ་རོལ་ཕྱིན་ལྔ་ཡིས།  ། རྫོགས་པའི་བྱང་ཆུབ་ཐོབ་པར་མི་ནུས་པས།  ། ཐབས་དང་ལྡན་ཞིང་འཁོར་གསུམ་མི་རྟོག་པའི།  ། ཤེས་རབ་སྒོམ་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། རང་གི་འཁྲུལ་བ་རང་གིས་མ་བརྟགས་ན།  ། ཆོས་པའི་གཟུགས་ཀྱིས་ཆོས་མིན་བྱེད་སྲིད་པས།  ། དེ་ཕྱིར་རྒྱུན་དུ་རང་གི་འཁྲུལ་བ་ལ།  ། བརྟགས་ནས་སྤོང་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཉོན་མོངས་དབང་གིས་རྒྱལ་སྲས་གཞན་དག་གི །ཉེས་པ་གླེང་ན་བདག་ཉིད་ཉམས་འགྱུར་བས།  ། ཐེག་པ་ཆེ་ལ་ཞུགས་པའི་གང་ཟག་གི །ཉེས་པ་མི་སྨྲ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། རྙེད་བཀུར་དབང་གིས་ཕན་ཚུན་རྩོད་འགྱུར་ཞིང་།  ། ཐོས་བསམ་བསྒོམ་པའི་བྱ་བ་ཉམས་འགྱུར་བས།  ། མཛའ་བཤེས་ཁྱིམ་དང་སྦྱིན་བདག་ཁྱིམ་རྣམས་ལ།  ། ཆགས་པ་སྤོང་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། རྩུབ་མོའི་ཚིག་གིས་གཞན་སེམས་འཁྲུག་འགྱུར་ཞིང་།  ། རྒྱལ་བའི་སྲས་ཀྱི་སྤྱོད་ཚུལ་ཉམས་འགྱུར་བས།  ། དེ་ཕྱིར་གཞན་གྱི་ཡིད་དུ་མི་འོང་བའི།  ། ཚིག་རྩུབ་སྤོང་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཉོན་མོངས་གོམས་ན་གཉེན་པོས་བཟློག་དཀའ་བས།  ། དྲན་ཤེས་སྐྱེས་བུས་གཉེན་པོའི་མཚོན་བཟུང་ནས།  ། ཆགས་སོགས་ཉོན་མོངས་དང་པོ་སྐྱེས་མ་ཐག །འབུར་འཇོམས་བྱེད་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  །  །མདོར་ན་གང་དུ་སྤྱོད་ལམ་ཅི་བྱེད་ཀྱང་།  ། རང་གི་སེམས་ཀྱི་གནས་སྐབས་ཅི་འདྲ་ཞེས།  ། རྒྱུན་དུ་དྲན་དང་ཤེས་བཞིན་ལྡན་པ་ཡིས།  ། གཞན་དོན་སྒྲུབ་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  །  །དེ་ལྟར་བརྩོན་པས་བསྒྲུབས་པའི་དགེ་བ་རྣམས།  ། མཐའ་ཡས་འགྲོ་བའི་སྡུག་བསྔལ་བསལ་བྱའི་ཕྱིར་།  ། འཁོར་གསུམ་རྣམ་པར་དག་པའི་ཤེས་རབ་ཀྱིས།  ། བྱང་ཆུབ་བསྔོ་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ ཡིན།  ། མདོ་རྒྱུད་བསྟན་བཅོས་རྣམས་ལས་གསུངས་པའི་དོན།  ། དམ་པ་རྣམས་ཀྱི་གསུང་གི་རྗེས་འབྲངས་ནས།  ། རྒྱལ་སྲས་རྣམས་ཀྱི་ལག་ལེན་སུམ་ཅུ་བདུན།  ། རྒྱལ་སྲས་ལམ་ལ་སློབ་འདོད་དོན་དུ་བཀོད།  ། བློ་གྲོས་དམན་ཞིང་སྦྱངས་པ་ཆུང་བའི་ཕྱིར།  ། མཁས་པ་དགྱེས་པའི་སྡེབ་སྦྱོར་མ་མཆིས་ཀྱང་།  ། མདོ་དང་དམ་པའི་གསུང་ལ་བརྟེན་པའི་ཕྱིར།  ། རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་འཁྲུལ་མེད་ལེགས་པར་སེམས།  ། འོན་ཀྱང་རྒྱལ་སྲས་སྤྱོད་པ་རླབས་ཆེན་རྣམས།  ། བློ་དམན་བདག་འདྲས་གཏིང་དཔག་དཀའ་བའི་ཕྱིར།  ། འགལ་དང་མ་འབྲེལ་ལ་སོགས་ཉེས་པའི་ཚོགས།  ། དམ་པ་རྣམས་ཀྱིས་བཟོད་པར་མཛད་དུ་གསོལ།  ། དེ་ལས་བྱུང་བའི་དགེ་བས་འགྲོ་བ་ཀུན།  ། དོན་དམ་ཀུན་རྫོབ་བྱང་ཆུབ་སེམས་མཆོག་གིས།  ། སྲིད་དང་ཞི་བའི་མཐའ་ལ་མི་གནས་པའི།  ། སྤྱན་རས་གཟིགས་མགོན་དེ་དང་མཚུངས་པར་ཤོག །ཅེས་པ་འདི་རང་གཞན་ལ་ཕན་པའི་དོན་དུ་ལུང་དང་རིགས་པ་སྨྲ་བའི་བཙུན་པ་ཐོགས་མེད་ཀྱིས་དངུལ་ཆུའི་རིན་ཆེན་ཕུག་ཏུ་སྦྱར་བའོ།།  །

Lama Tsongkhapa: LỜI NGUYỆN CUỐI LAMRIM ĐẠI LUẬN

-Tựa Đề Tạng Ngữ (Tibetan Title): ࿓༅༎་ལམ་རིམ་སྨོན་ལམ་བཞུགས་སོ༎
-Tác giả (author): Lama Tsongkhapa (Lama Tông Khách Ba)
(sơ tổ dòng Gelug)
-Việt ngữ (translator): Hồng Như, bản mới 2018
Nghe Tụng (chanting): Lab Kyabgon Rinpoche <Youtube>
༡༽ དེར་ནི་རིང་དུ་འབད་ལས་ཚོགས་གཉིས་ནི ། །
DER NI RING DU BÄ LÄ TSHOG NYI NI
From my two collections, vast as space, that I have amassed
Bấy lâu gắng tu / được nhị lương này
མཁའ་ལྟར་ཡངས་པ་གང་ཞིག་བསགས་པ་དེས ། །
KHA TAR YANG PA GANG ZHIG SAG PA DE
From working with effort at this practice for a great length of time,
Rộng như trời rộng, / xin vì những ai
བློ་མིག་མ་རིག་གིས་ལྡོངས་འགྲོ་བ་ཀུན ། །
LO MIG MA RIG GI DONG DRO WA KÜN
May I become the chief leading buddha for all those
mắt tuệ khuất lấp / bởi màn vô minh
རྣམ་འདྲེན་རྒྱལ་བའི་དབང་པོར་བདག་གྱུར་ཅིག །
NAM DREN GYÄL WÄI WANG POR DAG GYUR CHIG
Whose mind’s wisdom eye is blinded by ignorance.
con nguyện thành Phật / thượng thủ dẫn đường

༢༽ དེར་མ་སོན་པའི་ཚེ་རབས་ཀུན་ཏུ་ཡང་། །
DER MA SÖN PÄI TSHE RAB KÜN TU YANG
Even if I do not reach this state, may I be held
Khi chưa được vậy / nguyện mọi kiếp sau
འཇམ་པའི་དབྱངས་ཀྱིས་བརྩེ་བས་རྗེས་བཟུང་ནས ། །
JAM PÄI YANG KYI TSE WÄ JE ZUNG NÄ
In your loving compassion for all lives, Manjushri,
Được đức Mạn thù / thương yêu gìn giữ,
བསྟན་པའི་རིམ་པ་ཀུན་ཚང་ལམ་གྱི་མཆོག །
TÄN PÄI RIM PA KÜN TSHANG LAM GYI CHOG
May I find the best of complete graded paths of the teachings,
Trọn vẹn thắng pháp / trình tự đạo giác,
རྙེད་ནས་སྒྲུབ་པས་རྒྱལ་རྣམས་མཉེས་བྱེད་ཤོག །
NYE NÄ DRUB PÄ GYÄL NAM NYE JE SHOG
And may I please all the buddhas by my practice.
Nguyện gặp và tu / khiến Phật đẹp lòng

༣༽ རང་གིས་ཇི་བཞིན་རྟོགས་པའི་ལམ་གྱི་གནད ། །
RANG GI JI ZHIN TOG PÄI LAM GYI NÄ
Using skillful means drawn by the strong force of compassion,
Chứng đúng như thật, cốt lõi đường tu
ཤུགས་དྲག་བརྩེ་བས་དྲངས་པའི་ཐབས་མཁས་ཀྱིས ། །
SHUG DRAG TSE WÄ DRANG WÄI THAB KHÄ KYI
May I clear the darkness from the minds of all beings
Lấy lực đại từ / làm thiện phương tiện
འགྲོ་བའི་ཡིད་ཀྱི་མུན་པ་བསལ་བྱས་ནས ། །
DRO WÄI YI KYI MÜN PA SÄL JÄ NÄ
With the points of the path as I have discerned them:
Quét sạch bóng tối / trong tâm hữu tình
རྒྱལ་བའི་བསྟན་པ་ཡུན་རིང་འཛིན་གྱུར་ཅིག །
GYÄL WÄI TÄN PA YÜN RING DZIN GYUR CHIG
May I uphold Buddha’s teachings for a very long time.
Giữ cho Pháp Phật / tồn tại dài lâu.

༤༽ བསྟན་པ་རིན་ཆེན་མཆོག་གིས་མ་ཁྱབ་པའམ།
TÄN PA RIN CHEN CHOG GI MA KHYAB PAM
With my heart going out with great compassion
Thắng Pháp quí giá / phương nào chưa thịnh,
ཁྱབ་ཀྱང་ཉམས་པར་གྱུར་པའི་ཕྱོགས་དེར་ནི ། །
KHYAB KYANG NYAM PAR GYUR WÄI CHOG DER NI
In whatever direction the most precious teachings
Hay là đã thịnh / nhưng rồi đã suy
སྙིང་རྗེ་ཆེན་པོས་ཡིད་རབ་བསྐྱོད་པ་ཡིས ། །
NYING JE CHEN PÖ YI RAB KYÖ PA YI
Have not yet spread, or once spread have declined,
Nguyện lấy đại bi / chấn động lòng người
ཕན་བདེའི་གཏེར་དེ་གསལ་བར་བྱེད་པར་ཤོག །
PHÄN DEI TER DE SÄL WAR JE PAR SHOG
May I reveal this treasure of happiness and aid.
Khai mở rạng ngời / kho tàng phúc lạc

༥༽སྲས་བཅས་རྒྱལ་བའི་རྨད་བྱུང་འཕྲིན་ལས་ལས༎
SÄ CHÄ GYÄL WÄI MÄ JUNG THRIN LÄ LÄ
May the minds of those who wish for liberation be granted bounteous peace
Nương hạnh nhiệm mầu / của Phật, Bồ tát
ལེགས་གྲུབ་བྱང་ཆུབ་ལམ་གྱི་རིམ་པས་ཀྱང་། །
LEG DRUB JANG CHUB LAM GYI RIM PÄ KYANG
And the buddhas’ deeds be nourished for a long time
Cùng với trình tự / đường tu giác ngộ
ཐར་འདོད་རྣམས་ཀྱི་ཡིད་ལ་དཔལ་སྟེར་ཞིང་། །
THAR DÖ NAM KYI YI LA PÄL TER ZHING
By even this graded path to enlightenment completed
Nguyện làm rực rỡ / tâm người cầu thoát,
རྒྱལ་བའི་མཛད་པ་རིང་དུ་སྐྱོང་གྱུར་ཅིག །
GYÄL WÄI DZÄ PA RING DU KYONG GYUR CHIG
Due to the wondrous virtuous conduct of the buddhas and their sons.
Huân dưỡng lâu dài / thiện hạnh Thế tôn.

༦༽ ལམ་བཟང་བསྒྲུབ་པའི་མཐུན་རྐྱེན་སྒྲུབ་བྱེད་ཅིང་༎
LAM ZANG DRUB PÄI THÜN KYEN DRUB JE CHING
May all human and non-human beings who eliminate adversity
Nguyện làm thuận duyên / cho pháp lành này
གལ་རྐྱེན་སེལ་བྱེད་མི་དང་མི་མིན་ཀུན ། །
GÄL KYEN SEL JE MI DANG MI MIN KÜN
And create conducive conditions for practicing the excellent paths
Nghịch duyên quét hết, / cho khắp mọi loài / nhân và phi nhân
ཚེ་རབས་ཀུན་ཏུ་རྒྱལ་བས་བསྔགས་པ་ཡི ། །
TSHE RAB KÜN TU GYÄL WÄ NGAG PA YI
Never be parted in any of their lives
Mọi đời kiếp sau / không bao giờ lìa
རྣམ་དག་ལམ་དང་འབྲལ་བར་མ་གྱུར་ཅིག །
NAM DAG LAM DANG DRÄL WAR MA GYUR CHIG
From the purest path praised by the buddhas.
Đường tu trong sáng / mà Phật tán dương.

༧༽གང་ཚེ་ཐེག་པ་མཆོག་ལ་ཆོས་སྤྱོད་བཅུའི༎
GANG TSHE THEG PA CHOG LA CHÖ CHÖ CHÜI
Whenever someone makes effort to act
Nguyện cho bao giờ / ở nơi thắng thừa
ཚུལ་བཞིན་བསྒྲུབ་ལ་བརྩོན་པ་དེ་ཡི་ཚེ ། །
TSHÜL ZHIN DRUB LA TSÖN PA DE YI TSHE
In accordance with the ten-fold Mahayana virtuous practices
Thuận theo thập thiện / hành trì tinh tấn,
མཐུ་ལྡན་རྣམས་ཀྱིས་རྟག་ཏུ་གྲོགས་བྱེད་ཅིང་། །
THU DÄN NAM KYI TAG TU DROG JE CHING
May he always be assisted by the mighty ones,
Sẽ luôn được chư / Đại lực nâng đỡ,
ཀྲ་ཤིས་རྒྱ་མཚོས་ཕྱོགས་ཀུན་ཁྱབ་གྱུར་ཅིག །
TRA SHI GYA TSÖ CHOG KÜN KHYAB GYUR CHIG
And may oceans of prosperity spread everywhere.
Biển rộng cát tường / tràn khắp mọi nơi.

ཅེས་པ་འདི་ནི་རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པས་མཛད་པའོ། །
Bài pháp này do đức Tsong Khapa trước tác

Atisa: CHUỖI NGỌC BỒ TÁT

-Tựa Đề Tạng Ngữ (Tibetan Title): བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའི་ནོར་བུའི་ཕྲེང་བ།
-Tác giả (author): Dipamkaraśrijñana (Je Atisa)
-Việt ngữ: Hồng Như, bản nháp 2019

Chuỗi Ngọc Bồ Tát

Tựa đề tiếng Phạn: Bodhisattvamanevali 
Tựa đề tiếng Tạng: changchub sempé norbü trengwa

Kính lễ Tâm Đại Bi
Kính lễ chư Thượng Sư
Kính lễ chư Tôn của tín tâm

1. Nghi hoặc vướng tâm, buông bỏ hết
Dốc tâm tận lực nơi pháp hành
Chìm, chậm và lười đều triệt bỏ
Phải luôn nỗ lực và tinh tấn

2.  Chánh niệm, tỉnh giác, bất phóng dật
Luôn dùng để giữ cửa giác quan
Ban ngày ba buổi, đêm ba buổi
Luôn xét tới lui dòng tâm thức

3. Lỗi ở nơi mình phải nói lớn
Còn lỗi người khác chớ tìm tòi
Công đức của mình nên giữ kín
Công đức của người phải nói ra

4. Phú quí, vinh quang, đều từ bỏ
Lợi danh mọi lúc đều phải buông
Phải biết thiểu dục và tri túc
Thọ ơn thì phải biết trả ơn

5. Tâm từ tâm bi, phải huân tập
Giữ tâm bồ đề thật vững chắc
Mười điều bất thiện, luôn từ bỏ
Tín tâm luôn giữ thật vững bền

6. Phẫn nộ ngã mạn đều phải diệt
Còn tâm khiêm hạ giữ bên mình
Nghề nghiệp bất thiện phải từ bỏ
Sinh sống bằng nghề thuận chánh pháp

7. Tài vật hết thảy đều buông bỏ
Trang điểm bằng tài sản Thánh nhân [xem chi tiết đoạn 25-26]
Bao nhiêu náo nhiệt buông ra cả
Ở nơi lan nhã mà an trú

8. Chuyện phiếm tào lao buông bỏ hết
Phải luôn tự chủ lời nói ra
Khi gặp đạo sư, thầy truyền giới
Khởi tâm thành kính muốn hầu Thầy

9. Đối với những ai có mắt pháp
Hay với chúng sinh mới nhập môn
Phải biết tất cả là Đạo sư
Khi gặp bất kỳ chúng sinh nào
Biết là cha mẹ, con cháu mình

10. Bạn bè bất thiện buông bỏ hết
Bậc thiện tri thức, phải nương vào
Bỏ tâm giận dữ và không vui
Còn chỗ nào vui, phải đi đến

11. Bất kể tham gì, cũng bỏ hết
Phải về trú ở sự không tham
Tham thì thiện đạo cũng không đạt
Và làm đứt mạng của giải thoát

12. Hễ thấy pháp gì mang vui đến
Cứ luôn ở đó mà dụng công
Đầu tiên bắt đầu như thế nào
Thì hãy cứ thế mà tu trước
Được vậy mọi sự đều sẽ tốt
Bằng không sẽ chẳng việc gì xong

13. Vì không hề vui cùng việc ác
Cho nên hễ khởi niệm tự cao
Thì ngay lúc ấy chặt ngã mạn
và phải nhớ lời dạy của Thầy

14. Bao giờ tâm lý nổi chán chường
Thì phải tán thưởng, nâng tâm lên
Quán về tánh không của cả hai.
Khi gặp cảnh nào khiến tham sân
Thì thấy chỉ như giả, như huyễn

15. Khi nghe phải lời nói khó nghe
Phải thấy chỉ như là tiếng vang
Bao giờ thân thể bị thương tổn
Phải thấy đó là do nghiệp cũ

16. Trú nơi lan nhã miền xa vắng
Giống như xác chết loài thú hoang
Phải tự dấu kín bản thân mình
Và phải trú ở sự không tham

17. Luôn luôn giữ vững thệ nguyện mình.
Khi nào nổi cơn lười giải đãi
Khi ấy hãy tự đếm lỗi mình
Nhớ lại tinh túy của giới luật

18. Khi nào gặp mặt bất kỳ ai
Thì lời nói phải nhẹ và thật
Mặt mày cau có đều bỏ hết
Phải luôn gìn giữ một nụ cười

19. Nói chung mỗi khi gặp người khác
Hãy vui mà cho, đừng bủn xỉn
Đố kị ghét ghen đều từ bỏ

20. Vì để giữ gìn tâm người khác
Nên mọi tranh chấp đều bỏ đi
Giữ tâm kham nhẫn cạnh bên mình

21. Đừng dua nịnh cũng đừng thay đổi
Trước sau như một, đáng tin cậy
Bỏ hết thái độ khinh rẻ người
Ngược lại luôn giữ lòng thành kính

22. Bao giờ cho người lời giáo huấn
Phải bằng tâm từ bi lợi tha
Giáo pháp Phật cho đừng phỉ báng
Pháp nào mà lòng thiết tha muốn
Thì nơi mười cửa pháp hạnh này
Ngày đêm chia ra mà dụng công

23. Ba thời thiện đức được bao nhiêu
Hồi hướng về đại vô thượng giác
Rãi hết công đức cho chúng sinh
Thất chi đại nguyện luôn hiến cúng

24. Làm được như vậy thì hai kho
Tư lương phước trí sẽ viên thành
Và hai chướng ngại sẽ đoạn diệt
Thân người này sẽ đầy ý nghĩa
Quả vô thượng giác sẽ viên thành

25. Tài sản sự tin và giữ giới
Tài sản của sự cho, sự nghe
Tài sản của tâm tàm, tâm quí
Và của trí tuệ, bảy kho tàng.

26. Hết thảy ngọc báu thắng diệu này
Là bảy tài sản không vơi cạn
Ai không phải người, đừng cho biết.


Ở giữa đám đông xét lời nói
Khi ở một mình tự xét tâm

Đến đây chấm dứt bài pháp Chuỗi Ngọc Bồ Tát do Sư trưởng Ấn độ Dipamkaraśrijñana soạn tác



༄༅༎རྒྱ་གར་སྐད་དུ།བོ་དྷི་སཏྭ་མ་ཎྀ་ཨ་བ་ལི།  བོད་སྐད་དུ།བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའི་ནོར་བུའི་ཕྲེང་བ།  ཐུགས་རྗེ་ཆེན་པོ་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ༎  བླ་མ་རྣམས་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ༎  དད་པའི་ལྷ་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ༎  ཐེ་ཚོམ་ཐམས་ཅད་སྤང་བྱ་ཞེང་།  བསྒྲུབ་ལ་ནན་ཏན་གཅེས་སུ་བྱ༎  གཉིད་རྨུགས་ལེ་ལོ་རབ་སྤང་ཞིང་།  རྟག་ཏུ་བརྩོན་འགྲུས་འབད་པར་བྱ༎  དྲན་དང་ཤེས་བཞེན་བག་ཡོད་པས༎  དབང་པོའི་སྒོ་རྣམས་རྟག་ཏུ་བསྲུང༌༎  ཉིན་མཚན་དུས་གསུམ་ཡང་དང་ཡང༌༎  སེམས་ཀྱི་རྒྱུད་ལ་བརྟག་པར་བྱ༎  བདག་གི་ཉེས་པ་བསྒྲག་བྱ་ཞིང༌༎  གཞན་གྱི་འཁྲུལ་པ་བཙལ་མི་བྱ༎  བདག་གི་ཡོན་ཏན་སྦ་བྱ་ཞིང༌༎  གཞན་གྱི་ཡོན་ཏན་བསྒྲག་པར་བྱ༎  རྙེད་དང་བཀུར་སྟི་སྤང་བྱ་ཞིང༌༎  ཁྱེད་གྲགས་རྟག་ཏུ་སྤང་བར་བྱ༎  འདོད་པ་ཆུང་ཞིང་ཆོག་ཤེས་དང་༎  བྱས་ལ་དྲིན་དུ་བཟོ་བར་བྱ༎  བྱམས་དང་སྙིང་རྗེ་བསྒོམ་བྱ་ཞིང༌༎  བྱང་ཆུབ་སེམས་ནི་བརྟན་པར་བྱ༎  མི་དགེ་བཅུ་ནི་སྤང་བྱ་ཞིང༌༎  རྟག་ཏུ་དད་པ་བརྟན་པར་བྱ༎  ཁྲོ་དང་ང་རྒྱལ་གཞོམ་བྱ་ཞིང༌༎  དམན་པའི་སེམས་དང་ལྡན་པར་བྱ༎  ལོག་པའི་འཚོ་བ་སྤང་བྱ་ཞིང༌༎  ཆོས་ཀྱི་འཚོ་བས་འཚོ་བར་བྱ༎  ཟང་ཟིང་ཐམས་ཅད་སྤང་བྱ་ཞིང༌༎  འཕགས་པའི་ནོར་གྱིས་བརྒྱན་པར་བྱ༎  འདུ་འཇི་[‘འཛི?]ཐམས་ཅད་སྤང་བྱ་ཞིང༌༎  དགོན་པ་ལ་ནི་གནས་པར་བྱ༎  འཁྱལ་བའི་ཚིག་རྣམས་སྤང་བང་ཞིང༌༎  རྟག་ཏུ་ངག་ནི་བསྡམ་པར་བྱ༌།  བླ་མ་མཁན་པོ་མཐོང་བའི་ཚེ ༎  གུས་པར་རིམ་གྲོ་བསྐྱེད་པར་བྱ༎  གང་ཟག་ཆོས་ཀྱི་མིག་ཅན་དང་།  ལས་དང་པོ་པའི་སེམས་ཅན་ལ༎  སྟོན་པའི་འདུ་ཤེས་བསྐྱེད་པར་བྱ༎  སེམས་ཅན་ཐམས་ཅད་མཐོང་བའི་ཚེ༎  ཕ་མ་བུ་ཚའི་འདུ་ཤེས་སྐྱེད༎  སྡིག་པའི་གྲོགས་པོ་སྤང་བྱ་ཞིང༌༎  དགེ་བའི་བཤེས་གཉེན་བསྟེན་པར་བྱ༎  སྡང་དང་མི་བདེའི་སེམས་སྤངས་ཞིང༌༎  གང་དུ་བདེ་བར་འགྲོ་བར་བྱ༎  གང་ལའང་ཆགས་པ་སྤང་བྱ་ཞིང༌༎  ཆགས་པ་མེད་པར་གནས་པར་བྱ༎  ཆགས་པས་བདེ་འགྲོའང་མི་ཐོབ་ཅིང་།  ཐར་པའི་སྲོག་ཀྱང་གཅོད་པར་བྱེད༎  གང་དུ་བདེ་བའི་ཆོས་མཐོང་བ༎  དེར་ནི་རྟག་ཏུ་འབད་པར་བྱ༎  ཐོག་མར་བརྩམས་པ་གང་ཡིན་པ༎  དང་པོར་དེ་ཉིད་བསྒྲུབ་བྱ་སྟེ༎  དེ་ལྟ་ན་ནི་ཀུན་ལེགས་བྱས༎  གཞན་དུ་གཉིས་ཀ་འགྲུབ་མི་འགྱུར༎  རྟག་ཏུ་སྡིག་དང་དགའ་བྲལ་བས༎  གང་དུ་མཐོ་བའི་སེམས་བྱུང་ཚེ༎  དེ་ཚེ་ང་རྒྱལ་བཅག་བྱ་ཞིང༌༎  བླ་མའི་གདམས་ངག་དྲན་པར་བྱ༎  ཞུམ་པའི་སེམས་ནི་བྱུང་བའི་ཚེ༎  སེམས་ཀྱི་གཟེངས་ནི་བསྟོད་པར་བྱ༎  གཉིས་ཀ་སྟོང་པ་ཉིད་དུ་བསྒོམ༎  གང་དུ་ཆགས་སྡང་ཡུལ་བྱུང་ཚེ༎  སྒྱུ་མ་སྤྲུལ་པ་བཞིན་དུ་ལྟ༎  མི་སྙན་ཚིག་རྣམས་ཐོས་པའི་ཚེ༎  བྲག་ཆ་བཞིན་དུ་བལྟ་བར་བྱ༎  ལུས་ལ་གནོད་པ་བྱུང་བའི་ཚེ༎  སྔོན་གྱི་ལས་སུ་བལྟ་བར་བྱ༎  བས་མཐའ་དགོན་པར་རབ་གནས་ཤིང༌༎  རི་དྭགས་ཤི་བའི་རོ་བཞིན་དུ༎  བདག་གིས་བདག་ཉིད་སྦ་བྱ་ཞིང༌༎  ཆགས་པ་མེད་པར་གནས་པར་བྱ༎  རྟག་ཏུ་ཡི་དམ་བརྟན་བྱ་ཞིང༌༎  ལེ་ལོ་སྙོམས་ལས་སེམས་བྱུང་ཚེ ༎  དེ་ཚེ་བདག་ལ་རྔན་བགྲང་ཞིང༌༎  བརྟུལ་ཞུགས་སྙིང་པོ་དྲན་པར་བྱ༎  གལ་ཏེ་གཞན་དག་མཐོང་བའི་ཚེ༎  ཞི་དེས་གསོང་པོར་སྨྲ་བ་དང་། ༎  ཁྲོ་གཉེར་ངོ་ཟུམ་སྤང་བྱ་ཞིང༌༎  རྟག་ཏུ་འཛུམ་ཞིང་གནས་པར་བྱ༎  རྒྱུན་དུ་གཞན་དག་མཐོང་བའི་ཚེ ༎  སེར་སྣ་མེད་ཅིང་སྦྱིན་ལ་དགའ༎  ཕྲག་དོག་ཐམས་ཅད་སྤང་པར་བྱ༎  གཞན་གྱི་སེམས་ནི་བསྲུང་བའི་ཕྱིར༎  རྩོད་པ་ཐམས་ཅད་སྤང་བྱ་ཞིང༌༎  རྟག་ཏུ་བཟོད་དང་ལྡན་པར་བྱ༎  ངོ་དགའ་མེད་ཅིང་གསར་འགྲོགས་མེད༎  རྟག་ཏུ་ཚུགས་ནི་ཐུབ་པར་བྱ༎  གཞན་ལ་བརྙས་པ་སྤང་བྱ་ཞིང༌༎  གུས་པའི་ཚུལ་གྱིས་གནས་པར་བྱ༎  གཞན་ལ་གདམས་ངག་བྱེད་པའི་ཚེ༎  སྙིང་རྗེ་ཕན་སེམས་ལྡན་པར་བྱ༎  ཆོས་ལ་བསྐུར་བ་མི་འདེབས་ཤིང་།     གང་མོས་དེ་ལ་འདུན་པ་དང་༎  ཆོས་སྤྱོད་རྣམ་བཅུའི་སྒོ་ནས་ནི༎  ཉིན་མཚན་ཕྱེད་པར་འབད་པར་བྱ༎  དུས་གསུམ་དགེ་བ་ཅི་བསགས་པ༎  བླ་མེད་བྱང་ཆུབ་ཆེན་པོར་སྔོ༎  བསོད་ནམས་སེམས་ཅན་རྣམས་ལ་བདར༌༎  རྟག་ཏུ་ཡན་ལག་བདུན་པ་ཡི༎  སྨོན་ལམ་ཆེན་པོ་གདབ་པར་བྱ༎  དེ་ལྟར་བྱས་ན་བསོད་ནམས་དང་༎  ཡེ་ཤེས་ཚོགས་གཉིས་རྫོགས་པར་འགྱུར༎  སྒྲིབ་པ་གཉིས་ཀྱང་ཟད་འགྱུར་ཏེ༎  མི་ལུས་ཐོབ་པ་དོན་ཡོད་པས༎  བླ་མེད་བྱང་ཆུབ་ཐོབ་པར་འགྱུར༎  དད་པའི་ནོར་དང་ཚུལ་ཁྲིམས་ནོར༎  གཏོང་བའི་ནོར་དང་ཐོས་པའི་ནོར༎  ཁྲེལ་ཡོད་ངོ་ཚ་ཤེས་པའི་ནོར༎  ཤེས་རབ་ཉིད་ཀྱི་ནོར་བདུན་ཏེ༎  ནོར་གྱི་དམ་པ་འདི་དག་ནི༎  མི་ཟད་པ་ཡི་ནོར་བདུན་ཏེ༎  མི་མ་ཡིན་ལ་བརྗོད་མི་བྱ༎  མང་པོའི་ནང་དུ་ངག་ལ་བརྟག༎  གཅིག་བུར་འདུག་ན་སེམས་ལ་བརྟག༎  རྒྱ་གར་གྱི་མཁན་པོ་དཔལ་ལྡན་མར་མེ་མཛད་བཟང་པོ་ཡི་ཤེས་སྙིང་པོས་མཛད་པ༎བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའི་ནོར་བུའི་ཕྲེང་བ་རྫོགས་སོ༎

Trừ Bệnh: HỘ LUÂN KIM CANG GIÁP [Protection Wheel of Vajra Armor – Dorje Gotrab]

-Tựa Đề Anh Ngữ (English Title)The Protection Wheel of Vajra Armor, Short & long practices translated and composed by Lama Zopa Rinpoche
-Đạo Sư (Teacher): Kyabje Lama Zopa Rinpoche
-Việt ngữ: Hồng Như
Hạ tải văn bản: Nghi thức dài và ngắn, tiếng Việt <PDF>

Ghi chú: đây là pháp quán vận dụng năng lực từ bi để sám hối giải ác nghiệp, ác bệnh, ác chướng, tà chướng. Có thể tự hành trì để giải trừ bệnh dữ cho chính mình, hoặc hành trì giúp người khác. Xin lưu ý làm đúng theo điều kiện hành trì.

Gần đây Lama Zopa Rinpoche khuyên nên tụng chú này để tự bảo vệ mình cùng người quanh mình trước hiểm nạn coronavirus. Xem thêm chi tiết <Trước hiểm nạn Coronavirus>. Trong thời kỳ tối ám tam tai ngũ trược, ác bệnh tràn lan như lốc xoáy, nguyện bài pháp này có thể làm bạn đồng hành, giúp nhiều người tăng nguồn nghị lực, kiên cố trong chánh pháp, chuyển hết ác bệnh ác chướng thành nhân tố đạt giác ngộ.

Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Đệ tử Hồng Như Thubten Munsel.
02, 2020



Điều kiện hành trì Mọi người đều có thể hành trì.
Để quán tưởng mình là bổn tôn Vajrapani, cần thọ những pháp sau đây:
  • Quán đảnh (wang) Vajrapani;
  • hoặc là thọ quán đảnh bất cứ đấng bổn tôn nào thuộc bộ mật tông hành, mật tông du già hay là mật tông tối thượng du già, và pháp jenang của đức Vajrapani;
  • hoặc thọ quán đảnh của bất cứ đấng bổn tôn nào thuộc bộ Như Lai hay Kim Cang của mật tông tác và pháp jenang của đức Vajrapani.
  • Nếu không, hãy quán tưởng đức Vajrapani trên đỉnh đầu, hay trước mặt.

Hộ Luân Kim Cang Giáp – Nghi thức Ngắn

rang nyi chhag dor thing nag ngam
Khởi hiện sắc tướng đức Kim Cang Thủ màu xanh đêm
[ND. Tự khởi nếu đã có quán đảnh, bằng không quán bổn tôn ở phía trước mặt]
dor je drül zhag dzin pa yi
Tay cầm chùy kim cang và thòng lọng
ku la dur thrö päl chhä dzog
Thân trang điểm đầy đủ mọi phẩm trang sức nghĩa trang
zhab zung pä nyir dor tab drä
Chân sải rộng trên đài sen và mặt trời,
ye she me pung long du zhug
Đứng giữa vùng lửa trí tuệ siêu việt chói sáng.
ku lä me khyung chag dig dang
Từ nơi thân phóng ra kim sí điểu lửa, bò cạp sắt,
phag nag lung me tsän dug gi
heo đen, gió lửa và khí độc
ngän lung ser lung tshub tar thrö
mãnh liệt như cuồng phong bão đá
nä rim dön geg lag par sam
Tiêu trừ mọi ác bệnh, tật dịch, tà chướng, ác chướng.

HUM VAJRA PHAT! OM PÄDMA SHAWA RI PHAT / NÄN PAR SHIG / NAGA NÄN/ TAD YA THA / SARVA BI RI TA / HANA HANA / VAJRE NA RAKSHA RAKSHA SVAHA
[Hung bên-za pây / ôm pê-ma sa-wa ri pây / nên pa-xừng / na-ga-nên /

ta-ya-tha / sạt-wa / bê-rê-ta / ha-na ha-na / bên zê na / rak-sa rak-sa / sô-ha]

Có thể tụng được bao nhiêu thì tụng bấy nhiêu. Tụng xong, [thổi vào] nước để gia trì. Rồi uống và xoa bằng nước này. <LZR:  Cũng có thể tụng chú rồi thổi vào kem, hay bơ, rồi xoa lên chỗ da bị nhiễm>. Tu mỗi ngày thì thổi vào lỗ mũi  <LZR: Tụng chú xong đặt hai tay trước miệng và thổi lên để khí đi vào lỗ mũi.> 

Khi hoàn tất thời công phu, hãy nghĩ rằng tất cả mọi tật bệnh, tà chướng, ác chướng đều bị tiêu diệt triệt để. Trú tâm một lúc trong pháp thiền chân tánh, siêu việt đối tượng và chủ thể của sự hộ trì.

Từ trong tánh không, khởi hiện sắc tướng Bổn tôn [ND. Tự khởi nếu đã có quán đảnh, bằng không quán bổn tôn trên đầu hay phía trước mặt].

Rồi phát nguyện, hồi hướng, và nguyện cát tường

Với thiện căn công đức / của con và chúng sinh / của chư Phật, Bồ Tát, / tích lũy từ ba thời / nguyện tất cả những ai / thấy, nghe hay nhớ nghĩ / hay là chạm vào con, / có bao nhiêu nguyện ước, / nguyện con như là cây / hay như ngọc như ý / làm cho mọi ước nguyện / đều rốt ráo viên thành.

Nguyện ác nghiệp ác chướng tích lũy từ vô thủy sinh tử liền tức thì thanh tịnh. Nguyện khởi tâm bồ đề, quí người hơn bản thân. Nguyện minh quang đại thủ ấn dễ dàng khởi trong tâm, mau chóng thành tựu quả vô thượng bồ đề.

Tóm lại nguyện làm / vui lòng đạo sư, // Đa văn hiểu thấu / ý thật của Phật// Mà khéo vượt qua / bến bờ bên kia // Hoằng dương Pháp Phật / ở khắp mười phương.

Bài pháp này do Jñana trích từ Bánh Xe Tối Oai Nộ Hộ Trì Gốc Rễ Thành Tựu, để dùng làm pháp tu hàng ngày

Xuất xứ bản gốc: Hồi hướng do người mang tên Thupten Zopa viết ra để cho [TD. thân người]  ung sung sung mãn trở nên có ý nghĩa.
Xuất xứ ấn bản Anh ngữ: Đầu tiên là Lama Zopa Rinpoche chuyển Anh ngữ vào tháng 3, 2003 và Holly Ansett chép văn bản. Kendall Magnussen nhuận văn tháng 8, 2011, dựa vào văn bản tương tự do Ven. Thubten Pemba dịch, tháng 05, 2009. Ba câu hồi hướng do Fabrizio Pallotti Champa Pelgye, chuyển Anh ngữ, 2014. Phiên âm minh chú: Ven. Tenzin Tsomo and Joona Repo, FPMT Education Services, May 2019. Soát bản văn Joona Repo, FPMT Translation Services, August 2019.
Ấn bản Việt ngữ: Hồng Như Thupten Munsel dịch và thực hiện. Bản dịch đầu 2006. Cập nhật theo ấn bản Anh ngữ FPMT-2011: năm 2016. Cập nhật theo ấn bản FPMT-2019 – thêm hình đức Vajrapani từ FPMT gửi ra: 02, 2020,



Pháp Quán Hộ Luân Kim Cang Giáp – Nghi thức dài

1. Qui Y –  Phát Tâm Bồ Đề  [Refuge – Bodhicitta]

Nơi Phật, nơi Pháp / cùng Tăng tôn quí
Cho đến bồ đề / xin về qui y
Nhờ công đức tu / sáu hạnh toàn hảo
Nguyện vì chúng sinh / đạt quả vị Phật. (3x)

2. Tám Thi Kệ Chuyển Tâm  [8 Verses Mind Training]

  1. Với quyết tâm thành tựu / lợi lạc lớn lao nhất / nhờ tất cả chúng sinh, / tôi nguyện luôn giữ gìn / chúng sinh trong đáy tim, / vì chúng sinh quí hơn / cả bảo châu như ý.
  2. Khi gặp gỡ tiếp xúc / với bất kỳ một ai, / nguyện tôi luôn thấy mình / là kẻ thấp kém nhất; / từ đáy lòng chân thật / luôn tôn kính mọi người / như kính bậc tối cao.
  3. Nguyện trong từng hành động / tôi luôn tự xét mình. / Phiền não vừa dấy lên, / đe dọa mình và người, / nguyện tức thì nhận diện, / và tức thì dẹp tan.
  4. Khi gặp người hiểm ác / vì bị tâm phiền não / và ác nghiệp tác động, / nguyện tôi quí người ấy / như vừa tìm ra được / kho tàng trân quí nhất.
  5. Khi gặp người vì lòng / ganh ghen và đố kỵ / miệt thị phỉ báng tôi, / nguyện tôi nhận phần thua, / nhường đi mọi phần thắng.
  6. Khi gặp người mà tôi / giúp đỡ, đặt kỳ vọng, / lại vong ân bội nghĩa / gây tổn hại cho tôi, / nguyện tôi xem người ấy / là một đấng tôn sư.
  7. Tóm lại tôi xin nguyện / trực tiếp và gián tiếp / trao tặng mọi lợi lạc / cho tất cả chúng sinh / đều là mẹ của tôi / từ vô lượng kiếp trước. / Nguyện âm thầm gánh chịu / mọi ác nghiệp khổ não / thay thế cho chúng sinh.
  8. Nguyện những điều nói trên / không bị vướng ô nhiễm / bởi tám ngọn gió chướng. / Nguyện tôi thấy mọi sự / hiện ra trong cõi đời / đều chỉ như huyễn mộng / cho tâm thôi chấp bám / thoát ràng buộc luân hồi.

3. Tứ Vô Lượng Tâm [Four Immeasurable]

Ước gì  chúng sinh / trú tâm đại xả / không gần vì luyến, / không xa vì thù.
Nguyện cho chúng sinh / trú nơi tâm này.
Tôi sẽ khiến họ / trú nơi tâm này.
Đức Phật – Đạo sư / xin hãy gia lực / cho con đủ sức / làm nên việc này

Ước gì chúng sinh / đạt quả vị Phật.
       [LZR đổi chữ “tìm được hạnh phúc…” thành “chữ “đạt quả vị Phật” 

Nguyện cho chúng sinh / đạt quả vị Phật.
Tôi sẽ khiến họ / đạt quả Phật
Đức Phật – Đạo sư / xin hãy gia lực / cho con đủ sức / làm nên việc này.

Ước gì chúng sinh / thoát hết khổ đau / cùng nhân tạo khổ
Nguyện khắp chúng sinh / thoát hết khổ đau / cùng nhân tạo khổ
Tôi sẽ khiến họ / thoát hết khổ đau / cùng nhân tạo khổ
Đức Phật – Đạo sư / xin hãy gia lực / cho con đủ sức / làm nên việc này.

Ước gì chúng sinh / không lìa niềm vui / thiện đạo, giải thoát
Nguyện cho chúng sinh / không lìa niềm vui.
Tôi sẽ khiến họ / không lìa niềm vui
Đức Phật – Đạo sư / xin hãy gia lực / cho con đủ sức / làm nên việc này

4. Pháp Quán Cho và Nhận  [Tong-len]

[Hãy khởi tâm từ bi vô lượng đối với chúng sinh, nghĩ rằng:]

“Thật tốt biết bao nếu tất cả chúng sinh đều thoát khỏi khổ đau và thoát cả nguyên nhân tạo khổ.”

Gánh hết khổ nạn của chúng sinh về phần mình, nhất là khổ vì bệnh, khổ vì người thân. Nhận lãnh mọi khổ đau, mọi nguyên nhân tạo khổ, mọi mê muội tối ám—là điều không ai mong cầu— gom thành một khối ô nhiễm, tan vào tâm ngã ái. Ngã ái bị hủy diệt triệt để, và cái “ngã” mà tâm ngã ái này bám vào, cho rằng quí giá lắm, bây giờ trở thành không. Trú tâm vào nơi tánh không này càng lâu càng tốt.

Khi tu pháp nhận, nên dành một ít thời gian để quán tánh không. Thỉnh thoảng mở lòng từ ái, mang thân thể, tài sản, ba thời công đức, cống hiến cho chúng sinh, đặc biệt là những ai thù ghét ta. Tuy vậy, chủ yếu vẫn là dành thời gian cho pháp nhận.

5. Diệt Ngã Ái [Destroying the Self-Cherishing Thought]

<LZR: Điều cần phải nhớ rõ, cần thường xuyên tự nhắc nhở mình như sau>

Mọi khổ nạn đều phát sinh từ ngã ái. Mọi vấn đề xảy ra đều là do ngã ái ban tặng, chẳng việc gì  tôi phải nhận chịu. Vậy tôi nay hoàn trả về lại cho tâm ngã ái, cho ngã ái chịu khổ một mình.

Bất cứ lúc nào, hễ gặp khổ nạn, quí vị cứ hãy làm theo như vậy. Cố gắng nhận diện ngã ái, dùng làm vũ khí diệt sạch ngã ái bằng cách trả mọi khổ nạn về lại cho nó.

Mỗi khi gặp khổ nạn, thay vì thống trách hoàn cảnh bên ngoài, hãy nên trách tâm ngã ái, mang hết mọi vấn đề hoàn trả lại cho ngã ái. Phải luôn thấy ngã ái chính là kẻ thù độc hại nhất của ta, phải lánh xa như lánh rắn độc. Được vậy  bất kể gặp bao nhiêu vấn đề, dù to như quả địa cầu, dù nhiều như bão đá, liền tức khắc vấn đề đã không còn là vấn đề. Đó là pháp chuyển tâm Đại thừa trọng yếu bậc nhất, làm cách  nào chận đứng tức thì mọi vấn đề.

6. Quán Tưởng  [Visualisation]

Quán tưởng đức bổn tôn như trong tranh, là một với mọi đấng đạo sư mà quí vị đã chọn nương theo và đã kết nối [ví dụ đã thọ pháp dưới danh nghĩa đạo sư đệ tử]

[Đức Vajrapani màu xanh đêm, vô cùng oai nộ, tay cầm chùy kim cang và rắn thòng lọng. Thân tướng nhiệm mầu của Ngài được trang điểm đầy đủ mọi phẩm trang sức nghĩa trang. Chân sải rộng trên đài sen và mặt trời, Ngài đứng giữa vùng lửa trí tuệ siêu việt chói sáng. Từ nơi thân Ngài phóng ra kim sí điểu lửa, bò cạp sắt, heo đen, gió, và lửa, với sức mạnh cuồng phong mãnh liệt như bão đá, tiêu diệt mọi ác bệnh, tật dịch, tà chướng, ác chướng.]

7. Tụng Chú [Mantra Recitation]

Trong khi tụng chú, dòng cam lồ ngũ sắc rót vào năm điểm khác nhau trên thân thể quí vị: sắc trắng từ trán, đỏ từ cổ, xanh dương từ tim, vàng từ bụng dưới, và xanh lá từ chỗ kín. Dòng cam lồ ngũ sắc này thanh tịnh năm loại phiền não, thanh tịnh mọi tập khí phiền não, mọi ác nghiệp do phiền não mà có, mọi mê muội, mọi ác nghiệp tích tụ từ vô lượng đời kiếp, mọi tật bịnh do long thần hay các loại tà ma ác quỉ tác hại. Tất cả đều thoát ra ngoài từ các lỗ chân lông và các cửa dưới, dưới dạng nước đen bẩn như khi giặt tắm. Tiếp theo, mọi tật bịnh—như bịnh ung thư hay các chứng bịnh ác hiểm khác mà quí vị đang phải chịu—đều thoát ra ngoài dưới dạng súc vật, rắn, ếch và các loài vật sống dưới biển.

Minh Chú Hộ Luân Kim Cang Giáp [Dorje Gotrab Mantra]

HUM VAJRA PHAT! OM PÄDMA SHAWA RI PHAT / NÄN PAR SHIG / NAGA NÄN/ TAD YA THA / SARVA BI RI TA / HANA HANA / VAJRE NA RAKSHA RAKSHA SVAHA

<LZR: Mỗi lần tụng một tràng hạt 108 chú thì có 87 chú cho người tụng và 21 cho chúng sinh. Thổi vào nước sau khi tụng. Còn một cách khác, nấu nước rồi cho vào bình hay hủ lớn (hay bất cứ vật chứa gì khác) đặt trước mặt, quán tưởng dòng cam lồ ngũ sắc xuất ra từ Kim Cang Giáp, tan vào trong nước. Thổi vào nước thêm một lần nữa.>

Khởi niềm tự tin rằng chắc nước này bây giờ trở thành nước cam lồ của đại trí vô thượng, đại bi vô lượng, và đại dũng lực có khả năng tức thì thanh tịnh và hàng phục mọi tật bịnh—như chứng ung thư hay tất cả mọi ác bịnh nào khác mà quí vị đang có—cùng tất cả  nhiễm tâm.

Tụng xong một chuỗi hạt lại thổi vào nước. Cứ làm như vậy mỗi ngày bao nhiêu thời cũng được—ba hay bốn thời. Mỗi thời từ một đến một tiếng rưỡi đồng hồ hay nhiều hơn, phải cố gắng tiếp tục sám hối như vậy và gia trì cho nước.

8. Pháp Quán Hoàn Tất [Concluding visualization]

Cuối thời công phu, tất cả ác nghiệp tật bịnh tuôn ra dưới nhiều sắc dạng khác nhau, giờ chất lại như núi quanh quí vị, che lấp hết cõi địa cầu. Dưới chỗ quí vị ngồi, đất nẻ chín tầng sâu. Diêm Vương hiện ra, há miệng. Tất cả chui vào miệng Diêm Vương và đều biến thành nước cam lồ. Diêm Vương thập phần hoan hỉ, chày vàng kim cang niêm kín miệng, quay về chỗ ở của mình, rất xa nơi này, không thể nào trở lại. Đất khi nãy nẻ ra bây giờ khép lại liền lạc. Làm vậy thì pháp tu này sẽ là pháp trường thọ.

9. Hồi Hướng  [Dedication]

Bồ đề tâm trân quí
Nơi nào chưa có, nguyện cho phát sinh; 
Nơi nào đã sinh, nguyện không thoái chuyển; 
Vĩnh viễn tăng trưởng, không bao giờ ngừng.

Bài hồi hướng này Lama Zopa Rinpoche có nhiều cách triển khai khác nhau, phổ thông nhất là:

Nương công đức ba thời / của con cũng như của / vô số Phật, bồ tát, / và vô số chúng sinh / nguyện cho bồ đề tâm / sinh trong tim chúng sinh / ở khắp cả sáu cõi / đặc biệt là trong tim / người cõi thế gian này, / bao gồm chúng đệ tử / thí chủ, thiện nguyện viên / ở FPMT, / người nương dựa vào con, / người mà con đã hứa / sẽ cầu nguyện giúp cho, / người đưa tên cho con. / Nguyện cho bồ đề tâm / sinh trong tim của con, / của thân nhân, gia đình / của người còn, kẻ mất. Nguyện cho bồ đề tâm / nơi nào đã khởi sinh / sẽ luôn luôn tăng trưởng.

<LZR: Tưởng tượng cống hiến hết thân khẩu và ý của mình, cùng mọi sở hữu, tài sản, công đức ba thời, mọi quả an lạc hạnh phúc cho đến tận quả giác ngộ, mang hết ra cống hiến cho chúng sinh cõi địa ngục v.v…, cho khắp cả chúng sinh>

Tất cả mọi nghiệp khổ / mà chúng sinh phải chịu / nguyện đổ về nơi con.  / Tất cả mọi công đức / mà con tích tụ được / nguyện hồi hướng chúng sinh.

Với công đức ba thời / của con và chúng sinh, / của chư Phật, Bồ Tát, / nguyện mọi việc con làm / không bao giờ gây hại / nhỏ nhoi nào cho ai / ngược lại tạo lợi ích / cho tất cả mọi người.

Đời sống dù có là  / khổ đau hay hạnh phúc / nguyện luôn làm nhân tố / cho tất cả chúng sinh / sớm đạt quả giác ngộ.

Với công đức ba thời / của con và chúng sinh / của chư Phật, Bồ Tát,  / nguyện bao nhiêu chúng sinh / đang chịu nhiều bịnh khổ, / hoặc gặp chứng ung thư, / hoặc gặp chứng truyền nhiễm, / hoặc đeo nặng ác nghiệp / phải chịu quả tật bịnh, / những chúng sinh như vậy / nguyện cùng được thoát hết, / vĩnh viễn không bao giờ / phải chịu cảnh ốm đau.

Với công đức ba thời / của con và chúng sinh, / của chư Phật, Bồ Tát,  / —thực chất chỉ là Không— / nguyện cho bản thân con  / —thực chất chỉ là Không—  / đạt địa vị toàn giác / của đạo sư pháp chủ / —thực chất chỉ là Không— / nguyện cho bản thân con / —thực chất chỉ là không / dựa vào sức một người  / mà dẫn dắt chúng sinh / —thực chất chỉ là Không— / mau chóng đạt giác ngộ / —thực chất chỉ là Không.

Hướng dẫn hành trì [Practice Advice]

Liên tục hành trì công phu này mỗi ngày ít nhất là một thời, nhiều hơn càng tốt. Nhắp ba, bốn, hay năm ngụm nước đầy sau mỗi thời công phu, nghĩ rằng tất cả mọi ác bịnh đều được thanh tịnh, và cả nguyên nhân của tật bịnh—là ác nghiệp, vọng tâm và phiền não—cũng đều được thanh tịnh. Sau khi uống nước, hãy nghĩ rằng mình vừa nhận được trí toàn giác viên mãn, được tâm từ bi vô lượng che khắp chúng sinh hữu tình, và được tất cả mọi tánh đức vô lượng của bậc chánh đẳng chánh giác.

Đây là một trong những câu minh chú có năng lực hóa giải nghiệp ung thư mãnh liệt nhất, và cũng thường được dùng để giải trừ các loại nghiệp gây ác bịnh khác, giải nghiệp tà ma ám hại. Đọc minh chú này nhiều lần mỗi ngày có thể có được khả năng chữa bịnh cho người khác. Đọc tụng minh chú này để gia trì cho nước, rồi dùng nước ấy cho người bịnh uống.

Xuất xứ:

Nghi Thức này (bản Anh ngữ) do Lama Thubten Zopa Rinpoche soạn tại Genting, Malaysia, tháng 04/1997. Ven. Jampa Lundrup đánh máy và nhuận văn. Kendall Magnussen nhuận văn tháng 8, 2011. Phần để trong “[ ]” mô tả sắc tướng bổn tôn được trích từ nghi thức ngắn, thêm vào đây cho tiện việc hành trì.

Phiên âm chú: . Tenzin Tsomo and Joona Repo, FPMT Education Services, May 2019. Các bài kệ sau đây được cập nhật: Quy y – Phát tâm bồ đề, Tám Thi Kệ Chuyển Tâm, Tứ Vô Lượng Tâm và bài hồi hướng đầu tiên và cuối cùng, tháng 10, 2019.

Ấn bản Việt ngữ: Hồng Như Thupten Munsel dịch và thực hiện. Bản dịch đầu 2006. Cập nhật theo ấn bản Anh ngữ FPMT-2011: năm 2016. Cập nhật theo ấn bản FPMT-2019 – thêm hình: 02, 2020



Geshe Dawa: XƯNG TÁN 21 ĐỨC TARAS – Chánh Văn & Giảng

Chánh Văn và Giảng về 21 đức Tara theo dòng truyền thừa của đức A-ti-sa – [Commentaries on the 21 Taras’ Praises according the Atisa’s Lineage]

Reference for English Readers:

XƯNG TÁN 21 ĐỨC TARAS – chánh văn

ཨོཾ་རྗེ་བཙུན་མ་འཕགས་མ་སྒྲོལ་མ་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ།
21 Praises to Tara
– Hồng Như chuyển ngữ – bản dịch 2015 tra theo tiếng Tạng

Điều kiện hành trì: ai cũng có thể đọc và hành trì, không cần thọ pháp.
Prerequisites: everyone can read and practice.

Continue reading

ĐẠO SƯ DU GIÀ Lama Tsongkhapa (Trăm Đấng Bổn Tôn Cõi Đâu Xuất Tịnh Độ – Ganden Lha Gyama)

 – English Title: Hundreds Deities of Tushita
– Tibetan:  GANDEN LHA GYA MA
– Ngôn ngữ: Anh – Việt – Tạng Âm
Việt ngữ: Hồng Như
Điều kiện – Prerequisites: Mọi người đều có thể đọc và hành trì – Everyone can read and practice

Continue reading

image_pdfimage_print