KINH ĐỊA TẠNG – Thượng nhân Thích Trí Quang dịch giải

Dịch từ hán văn: Tỷ Kheo Thích Trí Quang

| Mở Đầu | Chánh Văn | Ghi chú |         

MỞ ĐẦU

I. Dẫn Nhập
II. Địa Tạng Đại Sĩ
III. Nghi Thức Sám Nguyện Đơn Giản

I. Dẫn Nhập

Ghi Sau Khi Duyệt Địa Tạng

Nếu nói vì sự dấn thân mà được Phật đem chúng ta ký thác, thì đó là sự đặc thù của đức Địa tạng mà Phật tử thì phải học tập.

Đời Phật có 2 vị đại sĩ quan trọng. Một là đức Từ thị, sẽ thay Phật làm Phật. Hai là đức Địa tạng, thay Phật mà gánh vác chúng sinh.

Địa tạng đề cao niệm Phật và bất sát, và xếp vào loại bất khả tư nghị cái phước giúp người già, người bịnh và sản phụ. Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài, và cái phước là làm theo giáo huấn ấy.

Địa tạng nói đến quỉ thần. Quỉ thần thật thì không đáng nói lắm. Hãy nói quỉ thần hình người mặt người. Quỉ thần ác có thiện có. Nhưng con người đa số ác nên quỉ thần ác lộng hành. Vậy đối phó với quỉ thần ác thì phải đừng ác.

Phật giáo có cái thuyết tam tai – Tam tai là 3 tai nạn đao binh, tật dịch và cơ cẩn, mà tôi đã dịch là chiến tranh, nhiễm độc và nhân mãn. Đó là 3 điều đang là mối lo lớn nhất cho cả thế giới. Trước đây không lâu thì chiến tranh hạt nhân là mối lo lớn nhất, nhưng hiện nay thì mối lo lớn nhất là ô nhiễm môi trường và bùng nổ dân số. Mối lo ô nhiễm môi trường lại có những mối lo liên hệ mà vi khuẩn HIV chỉ là một. Phật giáo không nói tận thế như các tôn giáo khác, nhưng mô tả tam tai thì thật kinh hoàng. Và nói về Địa tạng đại sĩ thì tam tai được nói đến còn hơn nói đến ngũ trược.

Mồng 8 tháng tư, 2537
Trí Quang

*

Thứ Nhất, Tiểu Dẫn Về Tài Liệu

1. Kinh này dịch và in năm 2514 (1970) một cách bình thường. Nay được chữa lại khá kỹ dẫu không còn để phần dịch âm.

2. Tài liệu được sử dụng là Đại tạng kinh bản Đại chính tân tu (ký hiệu là Chính) và Tục tạng kinh bản chữ Vạn (ký hiệu là Vạn).

3. Nguyên bản căn cứ để chữa là Chính 13/777 – 790. Nguyên bản này không chia 3 cuốn mà chia 2 cuốn thượng hạ. Bản in riêng của Phật giáo Trung hoa cũng được sử dụng. Địa tạng khoa chú (Vạn 35/197-336) lại càng được tham chiếu.

4. Quan trọng đến nỗi không thể thiếu được trong việc tìm hiểu về đức Địa tạng là kinh Thập luân (Chính 13/721-777). Bản dịch trước của kinh này (Chính 13/681-721) và kinh Chiêm sát (Chính 17/901-910) cũng được tham khảo.

5. Tài liệu để soạn nghi thức sám nguyện là Tán lễ Địa tạng bồ tát sám nguyện nghi (Vạn 129/68-71), nhưng kinh Thập luân vẫn là tài liệu chính.

Thứ Hai, Tìm Xét Về Dịch Chủ

Về dịch giả kinh Địa tạng, có thể có 3 thuyết. Thứ nhất, tôi nhớ khi nhỏ có thấy 1 bản ghi ngài Pháp cự dịch. Thứ hai, 1 bản dịch ghi là ngài Pháp đăng. Thứ ba, nhiều bản ghi là ngài Thật xoa nan đà.

Về ngài Pháp cự, niên đại dịch kinh là 290-306 (Chính 98/678). Xuất xứ này cũng ghi dịch phẩm của ngài, như những xuất xứ khác. Trong những dịch phẩm được ghi, không có kinh Địa tạng. Nhưng trong Chính 49/61, cũng như mấy xuất xứ nữa, ghi dịch phẩm của ngài có 132 bộ 142 cuốn ẫ mà không bản mục lục nào ghi được đầy đủ. Như vậy không rõ trong đó có kinh Địa tạng mà thất lạc, hay không?

Về ngài Pháp đăng, không thể tìm thấy tên, nên không thể nói gì được.

Về ngài Thật xoa nan đà, niên đại dịch kinh là 695-704 (Chính 98/668). Có đến 5 xuất xứ ghi ngài là dịch giả kinh Địa tạng: Chính 13/777, Vạn 35/220A, Chính 99/346, Chính 99/376, và Chính 100/1010.

Phần tôi, sau khi tra cứu gần hết sử truyện và mục lục, ghi lại như trên đây. Nhưng thấy vấn đề dịch giả kinh Địa tạng vẫn bất ổn. Tôi lại không có 1 bản giảng giải mới nào, nên không biết có sự tra cứu nào đáng kể không. Riêng ngài Thái hư thì cũng cho dịch giả kinh Địa tạng là ngài Thật xoa nan đà (Thái hư toàn thư, 29/2470).

Thứ Ba, Khái Lược Về Nội Dung

Như vừa nói, nguyên bản kinh này chia 2 cuốn: cuốn thượng có các phẩm 1-6, cuốn hạ có các phẩm 7-13. Xét ra chia như vậy mới có nghĩa. Chia 3 cuốn thượng trung hạ chỉ để trì tụng cho thích hợp thì gian mà thôi. Kinh này cốt nói đại nguyện đại lực của Địa tạng đại sĩ. Cuốn thượng kể như là phần chính thuyết, nói đại lược đã đủ, và cuối phẩm 6 đã kết thúc bằng sự đặt tên kinh. Còn cuốn hạ kể như là phần bổ túc, bổ túc một số chi tiết. Nay tóm lược tất cả dưới đây.

Phần Chính Thuyết

Phẩm 1: Thần thông tại cung Đao lợi.- Sát với chính văn thì phải dịch là thần thông tại cung trời Đao lợi. Cung trời Đao lợi là Thiện pháp đường, tức giảng đường của Đế thích, và là chỗ Phật thuyết pháp cho mẹ, trong pháp được thuyết có kinh Địa tạng. Thần thông là đại bộ phận của thần lực và nhiều lúc cũng gọi là thần lực. Vã lại chữ thần lực đủ và sát với phẩm này, nên phải đổi ra. Xét thần lực của phẩm này nói thì thấy có 3. Một, thần lực không nói mà thấy rõ, đó là biến cung Đao lợi vốn rất lớn và trang nghiêm lại càng lớn và trang nghiêm vô tận (như Bồ đề tràng trong Hoa nghiêm). Hai, thần lực ánh sáng và âm thanh mà Phật biểu hiện ở cung Đao lợi (như phóng quang và thần lực trong Pháp hoa). Ba, thần lực hóa độ và tác thành của đức Địa tạng mà tại cung Đao lợi Phật đã đề cao. Chính yếu của phẩm này là 2 thần lực sau. Ngoài 3 thần lực này, phẩm này cốt nói đại nguyện của đức Địa tạng, đại nguyện ấy cũng là một thần lực, mà là thần lực quan trọng.

Phẩm 2: Thân phân hóa qui tụ lại.- Phân thân là phương tiện quan trọng nhất trong những phương tiện mà đức Địa tạng đã vận dụng để giải thoát cho bao kẻ tội khổ như đại nguyện mà phẩm 1 đã nói. Cũng chính vì đại nguyện nghiêng nặng về bao kẻ tội khổ, nên phân thân mà phẩm này nói đã nhấn mạnh phân thân ở địa ngục. Nhưng phân thân của đức Địa tạng, theo kinh Thập luân thì đếm được 42 loại (Chính 13/725), còn kinh này có 20 loại, của Phật nhưng là điển hình cho các vị đại sĩ. Phân thân như vậy có 2 loại lớn là hữu tình và vô tình. Trong loại vô tình, kinh Thập luân chỉ nói” hiện những cảnh đẹp cho người vui thích”, còn kinh này nói rõ hơn: hiện ra làm núi rừng, dòng nước, đồng bằng, sông ngòi, ao hồ, suối giếng. Nói rõ mà không đủ, vì ngoài núi rừng và đồng bằng, chỉ nói toàn nước — Nói như vậy cũng không lạ, nếu ta biết đến vấn đề nước ở cái xứ nóng như Ấn độ. Nhưng phải nói như chính đức Địa tạng đã nói mới rõ và đủ hơn, dầu vắn tắt hơn, rằng thân đức Địa tạng là thân không biên cương, rằng tại mỗi thế giới hệ, ngài phân hóa trăm ngàn vạn ức thân hình. Và phân hóa thân hình là để thuyết pháp. Nhưng thuyết pháp ở đây không phải chỉ có một cách nói bằng lời, mà nói bằng nhiều cách: cách nào mà lợi người là thuyết pháp cả. Nên cảnh vật làm người vui thích, làm người được ích lợi, thì đó chính là sự thuyết pháp, là sự độ thoát. Đừng hiểu rằng hiện cảnh vật ích lợi mọi người để rồi sau đó thuyết pháp độ thoát cho họ. Mặt khác, vì đại nguyện và sự phân thân như vậy, nên trong phẩm này đức Địa tạng được đức Thế tôn đem chúng sinh, trong đó có chúng ta, ký thác cho ngài.

Phẩm 3: Quán sát nghiệp quả chúng sinh.- Nghiệp quả, hay nghiệp cảm, là hành vi và kết quả của hành vi. Nói quán sát nghiệp quả của chúng sinh, nhưng thật ra phẩm này lấy người Diêm phù chúng ta làm điển hình mà nói. Vì đại nguyện của đức Địa tạng chú trọng chúng sinh tội khổ, nên phân thân của ngài đã nhấn mạnh phân thân địa ngục, và bây giờ nói quán sát nghiệp quả, nhưng thật ra chỉ quán sát nghiệp quả địa ngục  đặc biệt địa ngục vô gián, nơi nghiệp dữ nhất và quả khổ nhất. Điều rất đáng tiếc là trong phần nói về nghiệp dữ nhất ấy đã không nói đến nghiệp dữ hơn hết, ấy là những chủ thuyết độc hại nhân loại mà chữ tà kiến hay ác kiến không diễn đạt hết được. Phản bội Phật pháp, đi theo các chủ thuyết ấy, cũng là nghiệp dữ nhất mà kinh này đã không nói đến.

Phẩm 4: Nghiệp quả của người Diêm phù.- Phẩm này tiếp tục phẩm trước, lấy người Diêm phù chúng ta làm điển hình mà nói về nghiệp quả của chúng sinh, nhưng nói rộng hơn: Một, về nghiệp quả, không phải chỉ nói nghiệp quả vô gián, nhưng vẫn chú trọng nghiệp quả đường dữ. Hai, nói về đại thệ (lời thề thực hiện đại nguyện) của đức Địa tạng. Ba, nói về cách giải thoát nghiệp quả cho chúng sinh của đức Địa tạng; trong cách này, ở đây đưa ra cách nói về nhân quả, nhưng chữ nói ấy không phải chỉ là nói, khuyên và răn, mà là nói bằng sự “vận dụng hàng trăm hàng ngàn phương tiện”. Hai phần đại thệ và cách nói như vậy là vài phương tiện của đức Địa Tạng.

Phẩm 5: Danh xưng địa ngục.- Danh xưng địa ngục là tên của các địa ngục. Chính tên của mỗi địa ngục biểu thị hình cụ và cực hình của địa ngục ấy. Phẩm này chỉ bổ túc cho phẩm 4, nói về các địa ngục, nơi nghiệp dữ phải chịu quả báo, sau khi chịu hoa báo và trước khi chịu dư báo. Nhưng đến đây, sau 3 phẩm 3, 4 và 5 nói về nghiệp quả, những điểm chính yếu sau đây phải được nhận rõ: địa ngục thật khổ, và ai làm nghiệp dữ thì người ấy tự chịu, chứ không ai có thể chịu thay cho; như vậy địa ngục là thật, nếu thật có nghiệp dữ; nhưng cũng không thật, nếu nghiệp dữ không có hay có mà được trừ bỏ; sự trừ bỏ cũng vẫn có thể hy vọng, nếu biết qui y đức Địa tạng và làm theo kinh này chỉ dẫn; và đức Địa tạng trừ bỏ cứu vớt cho cũng không phải chỉ trừ bỏ cứu vớt nơi cái nhân mà còn ngay nơi cái quả: Đó là sự đặc biệt, bất khả tư nghị của đức Địa tạng và kinh Địa tạng.

Phẩm 6: Thế tôn tuyên dương.- Các phẩm trước đã nói về thệ nguyện, phương tiện và sở độ của đức Địa tạng, phẩm này nói về sự ích lợi nhân thiên của ngài. Ích lợi nhân thiên là đem lại cho nhân thiên và mọi loài sự ích lợi mà phần chính là ở chính trong nhân thiên. Sự ích lợi ấy gọi là sự yên vui tuyệt diệu (thắng diệu lạc). Sự ích lợi ấy ích lợi cả nhân và quả, cả hiện tại và vị lai. Ích lợi này còn được nói đến trong phẩm 12 và rải rác ở các phẩm khác. Và, như đã nói, đến đây kể như đã lược đủ về đại nguyện và đại lực của đức Địa tạng, nên Phật đặt tên cho kinh này, tên ấy biểu thị đại nguyện và đại lực đã nói.

Phần Bổ Túc

Phẩm 7: Lợi ích người còn kẻ mất.- Phẩm này bổ túc cho chi tiết ích lợi kẻ mất: làm cách nào để kẻ mất được ích lợi mà người còn cũng được. Trong cách ấy, hại nhất cho kẻ mất, cái hại phải cố mà tránh, ấy là sự sát sinh cúng tế.

Phẩm 8: Chúa tôi Diêm la xưng tụng.- Diêm la là Diêm la thiên tử, cũng gọi là Diêm vương, thuộc loài quỷ, thống lãnh quỉ chúng và tổng quản địa ngục. Phẩm này bổ túc những chi tiết sau đây: Thứ nhất, bổ túc sự đại tinh tiến, cứu độ không chán mệt của đại nguyện đức Địa tạng. Thứ hai, bổ túc uy thần của đức Địa tạng đối với thế giới quỉ — thế giới rất mạnh và đa dạng, mạnh nên gây họa mạnh bao nhiêu thì giúp phước cũng mạnh bấy nhiêu, khi có uy thần của đức Địa tạng. Thứ ba, bổ túc ích lợi khi chết, nhất là lúc sinh. Trong chi tiết này có vài chi tiết nhỏ: Một, lúc sinh không được sát sinh tiệc tùng (phẩm trước mới nói khi chết không được sát sinh cúng tế); còn khi chết thì phẩm này nói đến một trong những cái gọi là “cách ấm mê”: sự bị mê hoặc dẫn dụ khi chết. Hai, chúa quỉ Chủ sinh mạng, vị bổ túc chi tiết thứ ba này được Phật gọi là một vị đại bồ tát và thọ ký cho: quan trọng biết bao. Điều cần phải đặc biệt nói thêm, là kinh này hết sức răn việc sát sinh (để cúng tế khi chết và tiệc tùng lúc sinh), coi việc sát sinh cùng loại với tội vô gián (chính văn : … ngoại trừ 5 thứ nghiệp dữ vô gián với nghiệp dữ sát sinh, còn những nghiệp dữ tương đối nhỏ hơn…).

Phẩm 9: Xưng tụng danh hiệu chư Phật.- Phẩm này bổ túc chi tiết nghe hay niệm danh hiệu Phật đà. Điều cần ghi chú, là mục đích bổ túc, cũng như lời kết thúc, tuy có vẻ nhấn mạnh giành cho sự chết — sắp chết, chết, sau khi chết; nhưng, những hiệu năng của mỗi hiệu Phật được nói đến lại không phải chỉ như vậy. Vậy mới biết, khi sắp chết, cái an ủi người chết, cái để cho người chết bám víu là danh hiệu của Phật, nhưng danh hiệu ấy cũng là, trước hết đã là, cái cho người sống bám víu, và từ đó thấy rõ cái phước được biết Phật và được niệm Phật cần thiết đến mức nào trong đời sống.

Phẩm 10: Trắc lượng công đức bố thí.- Phẩm này bổ túc nhân tố thánh thiện, đặc biệt còn chỉ cách biến nhân tố ấy từ hữu lậu thành vô lậu.

Phẩm 11: Thần đất hộ trì.- Phẩm này bổ túc chi tiết phụng thờ đức Địa tạng. Cách thức và ích lợi của sự phụng thờ ấy, phẩm này nói rõ. Trong phần ích lợi, sự đất đai được màu mỡ (thứ 1) và hay gặp dịp làm phước (thứ 10) đã đáng chú ý, nhưng đáng chú ý hơn nữa là ở phẩm này người nói về đức Địa tạng là một vị Địa thần: 2 chữ Địa như vậy không phải ngẫu nhiên mà trùng hợp.

Phẩm 12: Ích lợi của sự thấy nghe.- Thấy nghe là thấy hình tượng hay nghe danh hiệu của đức Địa tạng. Ích lợi của sự thấy nghe như vậy là bổ túc cho sự ích lợi nhân thiên của đức Địa tạng. Trước khi nói ích lợi ấy, Phật phóng ánh sáng đặc biệt, và vị phát khởi là chính đức Quan âm: như thế cũng đủ thấy sự ích lợi ấy bất khả tư nghị đến mức nào. Nên sự ích lợi nhân thiên chính là sự bất khả tư nghị: siêu việt và khác thường, tư tưởng và ngôn ngữ bình thường không thể tư duy và mô tả sự ích lợi ấy, nhất là tư duy mô tả theo cách thức bình thường.

Phẩm 13: Thế tôn ký thác.- Chính văn là chúc lụy nhân thiên: đem nhân loại và chư thiên, và bao chúng sinh tội khổ mà chúc lụy. Chúc, hay phó chúc, là giao phó, căn dặn. Lụy là mối lụy, trách nhiệm nặng nề. Chúc lụy là căn dặn mà giao phó trách nhiệm nặng nề. Nên tôi đổi ra chữ ký thác cho dễ hiểu. Nội dung phẩm này tổng kết sự ích lợi bất khả tư nghị của đức Địa tạng, nhưng quan trọng nhất là một lần nữa Phật lại đem chúng ta và chúng sinh ký thác cho ngài. Sự ký thác này thật đặc biệt: một là chỉ ký thác cho ngài, hai là chỉ kinh này có sự ký thác như vậy. Ngay như kinh Pháp hoa, sự ký thác ở đó cũng không như ở đây.

*

II. Địa Tạng Đại Sĩ

Tài liệu ghi về đại sĩ dưới đây toàn xuất từ kinh Thập luân. Cách ghi thì phần nhiều lược văn mà không lược ý, nhưng cũng có chỗ dẫn dụng chính văn. Chỗ nào dẫn kinh điển khác thì ghi tên rõ ràng.

1. Danh hiệu của đức Địa tạng.- Theo nghĩa đen, địa là đất, tạng là kho tàng: kho tàng đất, gọi là Địa tạng. Nếu đọc Địa tàng thì lại có nghĩa sự tàng trữ của đất. Nhưng nghĩa chính thì nên lấy cách đọc Địa tạng. Đại nhật kinh sớ nói Điạ tạng bồ tát chủ trì kho báu vô biên công đức phát khởi từ bản tánh của tâm địa. Định nghĩa này biến thành định nghĩa mà khoa nghi thường nói “khể thủ bản nhiên tịnh tâm địa, vô tận phật tạng đại từ tôn”. Còn 1 bài tựa của Địa tạng khoa chú (Vạn 35/206A) dẫn lời Phật nói dũng mãnh là Địa tạng. Lời này không thấy ghi xuất xứ, nhưng rất đúng với đại thệ nguyện và đại tinh tiến của đức Điạ tạng phân thân vào trong các đường dữ, nhất là vào trong địa ngục. Còn kinh Thập luân, khi tả đức tính của ngài về lục độ, có nói nhẫn thì vững như cõi đất to lớn, định thì sâu như kho tàng bí mật. Lời này thành định nghĩa của Phật học đại từ điển. Thế nhưng các định nghĩa ấy không bằng chính văn sau đây. “Vị đại sĩ này, bằng định lực, làm cho tất cả trái hạt phong phú. Tại sao, vì vị đại sĩ này đã qua vô số kiếp, nơi vô số Phật, phát cái nguyện cực kỳ tinh tiến và kiên cố; do năng lực của nguyện ấy, để hóa độ chúng sinh, ngài giữ gìn tất cả đất đai và mầm giống cho chúng sinh tùy ý hưởng dụng. Chính năng lực của ngài đã làm cho cả cõi đất to lớn này cỏ cây rau lá sinh trưởng tốt tươi, thóc lúa hoa quả đầy đủ chất lượng”. Lời này cho thấy Địa tạng là kho đất, là nghĩa đen thật sự. Và việc này rất liên hê đến sự tồn tại của Phật pháp, liên hệ một cách đặc biệt. “Địa tạng đại sĩ bạch đức Thế tôn, con nguyện tế độ tất cả bốn chúng đệ tử của đức Thế tôn. Con làm tăng trưởng hết thảy bạch pháp giải thoát, tăng trưởng cây trái thực phẩm và dược liệu, tăng trưởng đất nước gió lửa, nói tóm, con làm cho dòng giống Tam bảo trường tồn, rực rỡ và uy đức … Đức Thế tôn nói, Địa tạng đại sĩ làm được như vậy là vì đại sĩ đã được tuệ giác Bát nhã sâu xa, nắm chắc tính chất đối kháng và hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình sinh diệt của đất nước gió lửa”.

Tư tưởng hệ Phật giáo về con người và thế giới con người không phải chỉ có một mặt: có mặt do phước báo mà có, đó là nhân quả dị thục; có mặt do nhân lực mới thành, đó là nhân quả sĩ dụng; nhưng còn mặt nữa, đó là thần lực của chư Phật chư đại bồ tát. Thần lực ấy thấy rõ nhất nơi Địa tạng đại sĩ, nên trong kinh đã dẫn, đức Thế tôn đề cao như sau, “giả sử có người đối với vô số đại bồ tát trì niệm và hiến cúng cả trăm kiếp, không bằng có người trong thì gian một bữa ăn chí tâm qui y, lễ bái, trì niệm và hiến cúng Địa tạng, vị đại sĩ có đại bi nguyện và đại tinh tiến quá hơn các vị bồ tát”.

Đến đây thì đã thấy khi xưng niệm ngài, nên thay những chữ thừa mà thiếu là đại bi đại nguyện đại thánh đại từ bằng những chữ đại bi đại nguyện đại định đại lực, đã thấy ngài là vị minh dương cứu khổ chứ không phải chỉ là u minh giáo chủ, đã thấy trì niệm ngài không phải chỉ để cầu siêu. Những điều này, dưới đây sẽ còn thấy rõ hơn nữa.

Trên đây là định nghĩa chính về danh hiệu của Địa tạng đại sĩ. Phần tôi, căn cứ tinh thần kinh Địa tạng, nhất là căn cứ câu “tất cả thân hình của Điạ tạng đại sĩ phân hóa tại các địa ngục của các thế giới hệ” trong phẩm 2, tôi lại muốn định nghĩa đơn giản, rằng Địa tạng là tàng hình trong điạ ngục. Tôi nói muốn định nghĩa như vậy, không nói đó là định nghĩa. Tuy nhiên, tôi thấy như vậy lại rất thâm thiết đối với hạnh nguyện của Địa tạng đại sĩ. Sau này có dịp được thấy Thái hư đại sư đã có ý kiến đó (Thái hư toàn thư tập 29 trang 2468).

2. Hình tượng của đức Địa tạng.- Địa tạng đại sĩ đến với Phật từ phương nam, bằng hình tướng Thanh văn, tức hình tướng xuất gia. Hình tướng ấy vừa tiêu biểu vừa hộ trì cho Tăng bảo và sự giải thoát của toàn bộ Phật pháp. Thị hiện hình tướng ấy, có nghĩa như Phật nói, “chỉ có chư Phật thế tôn và bồ tát đại sĩ mới hộ trì được 2 việc: hộ trì người xuất gia vì muốn tiếp nối dòng giống Tam bảo và hộ trì chánh pháp thuận với sự giải thoát của cả Tam thừa. Thế quyền không làm được việc ấy; đừng rình sơ hở mà hại đệ tử và chánh pháp của ta”.

Quốc độ này Tăng bảo là người xuất gia. Muốn làm cho Phật pháp tồn tại thì phải ái hộ người xuất gia. Ái hộ người xuất gia, trước hết và căn bản, là ái hộ giới pháp. “Người xuất gia dẫu tàn tệ đến nỗi chỉ là cái thây chết phá giới, không giới, sẽ đọa ác đạo, nhưng vẫn làm thiện tri thức cho nhân thiên ở chỗ có thể tuyên thuyết Phật pháp cho họ, lại vì có hình tướng và uy nghi của người xuất gia nên làm cho mọi người phát sinh cảm nghĩ quí báu”. Do đó, Phật không chấp nhận họ là đệ tử, nhưng cũng không chấp nhận thế quyền xúc phạm đến họ. Phật chỉ chấp nhận sự trừng trị theo giới luật của Tăng chúng thanh tịnh.

Ái hộ người xuất gia là, kế đó, ái hộ sự giải thoát và chánh pháp đem lại sự giải thoát ấy. Chánh pháp giải thoát là cọng tướng của toàn bộ Phật pháp gồm cả thanh văn tiểu thừa và vô thượng đại thừa, tuy nhiên, chánh pháp ấy căn bản vẫn là thanh văn tiểu thừa. “Như vậy những kẻ tự xưng đại thừa, khinh miệt và cản trở sự truyền bá tiểu thừa, những kẻ không tin, phỉ báng và cản trở cả tiểu thừa đại thừa, tất cả những kẻ này không được xuất gia, xuất gia rồi phải đuổi gấp, vì họ mới thật là kẻ đại tội ác gần với tội ác vô gián”. “Đừng vì lợi và danh mà lừa đảo thế gian, tự xưng đại thừa, phỉ báng tiểu thừa. Làm như vậy thì họ không còn là đồ chứa đựng chánh pháp, dầu là chánh pháp tiểu thừa hay chánh pháp đại thừa”. Nên đối với những kẻ phá hoại này Phật nghiêm khắc hơn cả với kẻ phá giới. Ngài đã biết trước và dạy thi hành sự bất cọng trú đối với họ: “Tăng chúng thanh tịnh và hòa hợp trục xuất rồi mà họ dùng tiền của, học thức, khéo miệng và mưu mô, làm cho thế quyền đứng về phía họ, buộc Tăng chúng thanh tịnh phải để họ ở chung như cũ, thì trong Tăng chúng những vị tỷ kheo giữ giới và hổ thẹn, hãy vì hộ trì giới pháp mà trình bày rõ ràng với thế quyền, đừng giận dữ thóa mạ những kẻ phá pháp ấy. Nếu thấy trình bày mà bị đàn áp, thì nên bỏ chỗ ấy mà đi ở chỗ khác”.

Ái hộ người xuất gia không phải chỉ ái hộ giới luật thanh tịnh và chánh pháp giải thoát, Địa tạng đại sĩ còn ái hộ bằng sự làm tăng thêm tư cụ để người xuất gia sống mà giữ giới, mà tu bạch pháp giải thoát, mà, nói tóm, tiếp nối dòng giống Tam bảo. Nên như đã thấy, “Địa tạng đại sĩ bạch đức Thế tôn, con nguyên tế độ tất cả 4 chúng đệ tự của đức Thế tôn. Con làm tăng trưởng hết thảy bạch pháp giải thoát, tăng trưởng cây trái thực phẩm và dược liêu, tăng trưởng đất nước gió lửa, nói tóm, con làm cho dòng giống Tam bảo trường tồn, rực rỡ và uy đức”.

Với sự tiêu biểu và hộ trì người xuất gia như trên đây, hình tướng xuất gia của đức Địa tạng đã thành vấn đề, và là vấn đề trọng đại, là phải.

3. Đại nguyện của đức Địa tạng.- Kinh đã dẫn tả đại nguyên này bằng những từ ngữ như sau. “Vị đại sĩ này có vô số những sự bất khả tư nghị, ích lợi chúng sinh một cách cần mẫn tinh tiến, là vì đối trước hằng sa chư Phật, để ích lợi chúng sinh, ngài đã phát khởi thệ nguyện đại từ bi, rất kiên cố, khó phá hoại, rất dũng mãnh, rất tinh tiến và vô cùng tận; do năng lực tăng thượng của thệ nguyện ấy mà trong mỗi thì gian bằng một ngày đêm hay một bữa ăn, ngài cứu độ được vô lượng chúng sinh, làm cho những sở cầu đúng như chánh pháp của họ đều thỏa mãn cả”.

4. Phân thân của đức Địa tạng.- Kinh đã dẫn nói, “Vị đại sĩ này, bằng vào những sự bất khả tư nghị đã hoàn thành, vào sự dũng mãnh tinh tiến của thệ nguyện kiến cố, để cứu độ chúng sinh, khắp trong thế giới hệ mười phương, ngài thị hiện đủ mọi thân hình”. Thân hình mà ngài thị hiện, không những đủ loài, đủ hạng trong mỗi loài, đủ từ thân Phật đà đến thân địa ngục, mà quan trọng và đặc biệt, còn “hiện những cảnh đẹp cho người vui thích”. Nhưng câu này phải nói như kinh Địa tạng mới rõ: thân của Địa tạng đại sĩ là thân không biên cương. Phẩm 2 của kinh ấy nói về sự phân thân của Phật, điển hình cho sự phân thân của chư Phật và đại bồ tát, lại nói, “hoặc hiện rừng núi, dòng nước, đồng bằng, sông ngòi, ao hồ, suối giếng, ích lợi khắp cả mọi người, ai cũng được độ thoát”. Chính văn câu này như sau, “hoặc hiện sơn, lâm, xuyên, nguyên, hà, trì, tuyền, tỉnh, lợi cập ư nhân, tất giai độ thoát”. Trước đây tôi đã chuyển văn một chút mà dịch như sau, “hoặc hiện núi sông, bình nguyên, ao hồ, suối giếng, ích lợi khắp cả, toàn là tác dụng hóa độ”. Chưa có kinh điển nào nói minh bạch được như vậy, dẫu rằng trong cách nói cũng có thể làm cho ta hiểu rằng sự phân thân của chư Phật và đại bồ tát là như thế đó, không phải chỉ có những thân hình như chúng ta hiểu theo nghĩa của chúng ta.

5. Định lực của đức Địa tạng.- Kinh đã dẫn nói, tại bất cứ thế giới hệ nào, Địa tạng đại sĩ cũng nhập các định, hoạt hiện vô biên diệu dụng, hóa độ vô lượng chúng sinh. Sau khi kể rõ 23 định (2) , nhập định nào có lực dụng gì, kinh đã dẫn nói, “nói tổng quát, vị đại sĩ này, hằng ngày mỗi buổi sáng sớm, vì cứu độ chúng sinh nên nhập vô số định. Định lực ấy tùy sở ưng mà ích lợi chúng sinh trong mọi thế giới hệ”, “đặc biệt là trong giai đoạn ngũ trược và những thế giới hệ không có Phật xuất hiện”.

6. Sở độ của đức Địa tạng.- Như lời kinh đã dẫn trên đây, đối tượng sở độ của Địa tạng đại sĩ có 3. Thứ nhất, nói tổng quát là chúng sinh trong hết thảy quốc độ và thì gian. Thứ hai, nói đặc biệt lại có 3, là chúng sinh ở những quốc độ không có Phật, ở những quốc độ có Phật nhưng thuộc giai đoạn ngũ trược (và dẫn đếm tam tai) và thuộc giai đoạn cách hở giữa 2 đức Phật (mà Phật pháp không còn). Thứ ba, nói thiết cận là châu Diêm phù, tức loài người chúng ta đây, và theo kinh Địa tạng thì quan trọng là chúng sinh tội khổ trong các ác đạo, nhất là ác đạo địa ngục, của châu Diêm phù. Do đó, Phật nói, Địa tạng đại sĩ ứng hiện khắp nơi, nhưng nghiêng nặng đối với giai đoạn dữ dội (Chiêm sát, Chính 17/902). Chính đại sĩ thì ngài nói, đã 13 đại kiếp đến nay, ngài nỗ lực cực nhọc loại trừ ngũ trược và tam tai cho chúng sinh. Còn kinh Địa tạng thì nói đi lặp lại, rằng đối với châu Diêm phù, ngài có một sự liên hệ lớn lao.

Vì châu Diêm phù, và giai đoạn ngũ trược dẫn đến tam tai (3) , là đối tượng sở độ đặc biệt của Địa tạng đại sĩ, nên ở đây phải nói sơ lược.

Như đã nói, Diêm phù là thế giới loài người chúng ta đây. Thế giới ấy là 1 trong 1 tỷ thành phần của thế giới hệ Sa bà. Đại bộ phận thế giới hệ này, cũng như các thế giới hệ tương tự, có như nhau một quá trình là thành: kết thành, trú: tồn tại, hoại: hư rã, không: tan biến. Nhưng không rồi lại thành, lại trú, lại hoại, lại không, luân chuyển như thế chứ không mất hẳn. Mỗi thời kỳ thành trú hoại không đều có thì gian như nhau, nhưng chỉ thời kỳ trú mới có chúng sinh sinh sống, chúng sinh mà trong đó loài người là đại bộ phận. Thời kỳ trú có 20 tăng giảm. Thời kỳ thành rồi thì có người sinh sống, và sống rất lâu, ấy là tăng; sau đó con người vì phát sinh ngũ trược mà sự sống giảm dần, giảm đến trung bình không quá trăm tuổi là ngũ trược tăng thì, và rồi sẽ giảm dần nữa cho đến dẫn ra tam tai, ấy là giảm. Tam tai là đao binh, tật dịch, cơ cẩn (chiến tranh, nhiễm độc, nhân mãn). Sau tam tai, con người sống sót rất ít, mới biết khủng khiếp và thương nhau, loài người lại phồn thịnh, trong đó có sự sống lâu tăng dần, nhờ sự thương nhau đó, đó lại là tăng. Và cứ như thế mà tăng rồi giảm, giảm lại tăng. Hiện nay là ngũ trược tăng thì của thời kỳ giảm thứ 9 trong 20 thời kỳ tăng giảm của thời kỳ trú. Như vậy thì trước nữa và sau nữa còn có vô tận những giai đoạn ngũ trược và tam tai. Trong ngũ trược, nhất là trong tam tai, Địa tạng đại sĩ cứu độ bằng định lực. Nguyên nhân chính của tam tai là sự tàn hại lẫn nhau, nên từ tâm thương nhau là nguyên nhân chính kết thúc tam tai. Do đó mà trong tam tai, ai tu từ tâm thì khỏi. Mà một trong vô số hiệu năng định lực của đức Địa tạng là làm cho con người “bỏ được tâm lý độc hại mà hướng về nhau bằng từ tâm”.

7. Phó cảm của đức Địa tạng.- Diệu dụng của Địa tạng đại sĩ là như thế, như một ít điều đã ghi trên đây. Diệu dụng ấy, như vậy, toàn là để thỏa mãn mọi sự sở cầu, miễn mọi sự sở cầu ấy là “như pháp sở cầu” và xuất từ “chí tâm xưng niệm”, đó là 2 từ ngữ mà kinh Thập luân đã dẫn luôn luôn nói đến.

—o0o—

Địa Tạng Đại Sĩ và Kinh Địa Tạng

Bây giờ hãy nói vắn tắt về nội dung kinh Địa tạng và đức Địa tạng qua kinh này.

Kinh này được gọi là hiếu kinh của Phật giáo. Hiếu niệm của Phật giáo, chỉ cần nói, theo Bồ tát giới Phạn võng, cái tội nặng nhất là phải sinh ở những chỗ không được nghe cái tên Cha mẹ hay Phật pháp tăng, cũng đủ để ý thức. Gọi là hiếu kinh của Phật giáo, vì kinh này có nội dung sau đây.

Thứ nhất, kể lại hiếu hạnh của Địa tạng đại sĩ mà đại nguyện của ngài đã xuất phát từ hiếu hạnh ấy và hoàn thành hiếu hạnh ấy. Đại nguyện của Địa tạng đại sĩ đại khái có 2 cách nhìn: một, căn bản là “chúng sinh độ tận phương chứng bồ đề, địa ngục vị không thệ bất thành Phật”; hai, tùy thời, tùy căn và tùy cảnh, còn có những lời thề để thực hiện đại nguyện căn bản trên đây. Đối tượng của đại nguyện Địa tạng đại sĩ đương nhiên vô giới hạn, nhưng đặc biệt là chúng sinh tội khổ trong tam đồ, nhất là trong địa ngục; là người Diêm phù; và như đã nói, còn có những kẻ ở các thế giới hệ không Phật, hay có Phật mà thuộc giai đoạn ngũ trược, giai đoạn tam tai, và thời kỳ cách hở giữa 2 đức Phật.

Thứ hai, tóm tắt những ích lợi, những sự bất khả tư nghị của đại nguyện Địa tạng đại sĩ đem lại cho chúng sinh. Đại nguyện Địa tạng đại sĩ thể hiện qua danh hiệu, hình tượng và kinh điển (kinh Địa tạng) của ngài. Nên 3 pháp hạnh trì niệm danh hiệu, chiêm bái hình tượng và trì tụng kinh điển chính là trì niệm, chiêm bái và trì tụng đại nguyện của Địa tạng đại sĩ, và những sở cầu mà trong kinh nói rõ, sẽ được đại nguyện ấy làm cho như ý. Đặc biệt chữ sinh tử trong kinh này nói, ngoài cái nghĩa tổng quát như bao nhiêu kinh điển khác, còn có cái nghĩa rõ nhất là lúc sinh lúc chết, khi còn khi mất. Kinh này dạy rõ thực hành như thế nào về 3 pháp hạnh thì tiếp nhận được những gì về ích lợi mà đại nguyện Địa tạng đại sĩ đem lại cho, trong lúc sinh lúc chết và người còn kẻ mất. Do đó, khi cha mẹ hay thân nhân đau ốm, khi sắp chết, khi chết và sau khi chết, kinh này kể rõ đại nguyện Địa tạng đại sĩ tác thành hiếu niệm cho những người con hiếu hạnh như thế nào, và dạy rõ cách thức mà những người con hiếu hạnh có thể làm được để tiếp nhận sự tác thành ấy. Đó là đối với lúc chết và người mất. Đối với lúc sinh và người còn, kinh này càng rất quan tâm, bằng cách răn sự sát sinh, đề cao sự giúp đỡ sản phụ, bịnh nhân và người già, lại chỉ dạy những sự cần thiết, chỉ dạy cũng với thái độ nghiêm trọng.

Thứ ba, có một chi tiết quan trọng là kinh này rất trọng thắng diệu lạc (sự yên vui tuyệt diệu) ở trong nhân loại và chư thiên. Giải thoát, theo kinh này, là giải thoát ác đạo (nhất là địa ngục) và giải thoát luân hồi. Con cá sa vào dòng nước có lưới, thì thoát là thoát lưới và thoát cả dòng nước. Chỉ thoát lưới là thoát tạm, thoát rồi cũng có thể mắc lại. Phải giải thoát cả lục đạo luân hồi mới là giải thoát vĩnh viễn, nếu chỉ giải thoát ác đạo thì thoát rồi cũng có thể đọa lại. Lý lẽ là như vậy, nhưng cấp bách nhất vẫn là sự giải thoát ác đạo mà sinh lên nhân thiên, hưởng thắng diệu lạc. Đó là điều kinh này đặc biệt quan tâm. Điều ấy rất phù hợp với thái độ của Phật nói trước về giới luận và thí luận mỗi khi thuyết pháp cho người mới đến.

Thứ tư, việc cảm động nhất và nổi nhất của kinh này là do những điều trên, nhất là do đại nguyện, mà Địa tạng đại sĩ được Phật đem chúng sinh tội khổ ký thác cho. Không những như vậy, sự ký thác này, và kinh đại nguyện này của Địa tạng đại sĩ, được Phật thực hiện và tuyên thuyết khi ngài lên Đao lợi thuyết pháp cho mẹ, trước ngày nhập niết bàn. Như vậy, chính việc đem chúng sinh ký thác cho Địa tạng đại sĩ, và việc nói về đại nguyện của Địa tạng đại sĩ, là việc báo hiếu của Phật, đối với mẹ và đối với chúng sinh. Quan trọng biết bao! Kinh này phổ cập sâu rộng, chính là vì điều này đây.

Với nội dung trên đây, trọng tâm kinh Địa tạng là nói về đại nguyện của Địa tạng đại sĩ, nên Phật đã mệnh danh là kinh bản nguyện, và dạy thọ trì cùng truyền bá theo đại nguyện ấy. Mặt khác, kinh này nói giản dị, sự việc cần thiết và gần gũi lòng người, nhưng hạnh nguyện là hạnh nguyện thượng thừa, và triết thuyết thì cực kỳ viên đốn khi minh bạch nói rằng cảnh vật cũng là hóa thân và toàn là tác dụng hóa độ. Cảm kích nhất vẫn là việc kinh này được Phật nói lúc ngài thuyết pháp cho mẹ để nhập niết bàn, lại nói về đại nguyện của một vị đại sĩ như đức Địa tạng, và thiết tha đem chúng ta ký thác cho đại sĩ. Như vậy, qua kinh Địa tạng, đức Địa tạng mới thật bất khả tư nghị.


III. Nghi Thức Sám Nguyện Đơn Giản

Trước Khi Trì Tụng Kinh Địa Tạng

1. Phụng thỉnh qui y

Nhất tâm phụng thỉnh và qui y đức Phật bổn sư Thích ca mâu ni như lai, đức Phật đương lai Di lạc như lai, cùng Phật, Phật pháp và Tỷ kheo tăng khắp cả pháp giới.

Nhất tâm phụng thỉnh và qui y đức Phật bổn tôn A di đà như lai, cùng Quan thế âm bồ tát, Đại thế chí bồ tát, Thanh tịnh đại hải chúng bồ tát ở quốc độ Cực lạc.

Nhất tâm phụng thỉnh và qui y đức đại bi đại nguyện đại định đại lực Địa tạng bồ tát, cùng Bồ tát, Duyên giác và Thanh văn khắp cả pháp giới.

2. Tác bạch tâm nguyện

Đệ tử tên họ XX , pháp danh XX, nguyện vì cầu siêu cho XX, cầu an cho XX (4) , và cầu nguyện cho bản thân, cho người thân kẻ thù trong đời này và bao nhiêu kiếp khác, cho hết thảy Tăng ni Phật tử, cho mọi người và mọi loài, mà chí thành lễ bái và trì tụng kinh Địa tạng bản nguyện. Ngưỡng nguyện Tam bảo vô thượng và Địa tạng đại sĩ từ bi chứng minh, nhiếp thọ hộ trì, làm cho người còn kẻ mất đều được siêu thoát, an lạc.

3. Lễ bái chư Phật bồ tát

Kính lạy đức Phật bổn sư Thích ca mâu ni như lai, đức Phật đương lai Di lạc như lai, cùng hết thảy chư Phật như lai trong pháp hội tuyên thuyết kinh Địa tạng và trong thì hiện tại khắp các quốc độ mười phương.

Kính lạy đức Sư tử phấn tấn cụ túc vạn hạnh như lai, đức Giác hoa định tự tại vương như lai, đức Nhất thế trí thành tựu như lai, đức Thanh tịnh liên hoa mục như lai, cùng hết thảy chư Phật như lai trong thì quá khứ khắp các quốc độ mười phương.

Kính lạy đức Vô biên thân như lai, đức Bảo tánh như lai, đức Ba đầu ma thắng như lai, đức Sư tử hống như lai, đức Bảo thắng như lai, đức Bảo tướng như lai, đức Ca sa tràng như lai, đức Đại thông sơn vương như lai, đức Tịnh nguyệt như lai, đức Sơn vương như lai, đức Trí thắng như lai, đức Tịnh danh vương như lai, đức Trí thành tựu như lai, đức Vô thượng như lai, đức Diệu thanh như lai, đức Mãn nguyệt như lai, đức Nguyệt diện như lai, cùng chư Phật như lai nhiều đến số lượng không thể nói hết.

Kính lạy đức Tỳ bà thi như lai, đức Thi khí như lai, đức Tỳ xá phù như lai, đức Câu lưu tôn như lai, đức Câu na hàm mâu ni như lai, đức Ca diếp như lai, đức Thích ca mâu ni như lai, đức Di lạc như lai, cùng hết thảy chư Phật như lai trong ba thì quá khứ hiện tại và vị lai của quốc độ Sa bà.

Kính lạy đức Vô tướng như lai, cùng hết thảy chư Phật như lai trong thì vị lai khắp các quốc độ mười phương.

Kính lạy Văn thù sư lợi bồ tát, Tài thủ bồ tát, Định tự tại vương bồ tát, Vô tận ý bồ tát, Giải thoát bồ tát, Phổ hiền bồ tát, Phổ quảng bồ tát, Quan thế âm bồ tát, Hư không tạng bồ tát, cùng hết thảy bồ tát đại sĩ ở quốc độ Sa bà và khắp các quốc độ mười phương.

4. Lễ bái Địa tạng đại sĩ

Kính lạy đức Địa tạng, vị đại sĩ đại bi đại nguyện đại định đại lực, được Phật đem chúng sinh ký thác.

Kính lạy đức Địa tạng, vị đại sĩ đại bi đại nguyện đại định đại lực, thị hiện hình tướng xuất gia để tiêu biểu và hộ trì cho người xuất gia tiếp nối dòng giống Tam bảo, cho giới pháp của người xuất gia, cho chánh pháp giải thoát của toàn bộ Phật pháp.

Kính lạy đức Địa tạng, vị đại sĩ đại bi đại nguyện đại định đại lực, tế độ bốn chúng đệ tử của Phật bằng cách làm tăng trưởng bạch pháp giải thoát, tăng trưởng cây trái thực phẩm và dược phẩm, tăng trưởng đất nước gió lửa, để dòng giống Tam bảo trường tồn, rực rỡ và uy đức.

Kính lạy đức Địa tạng, vị đại sĩ đại bi đại nguyện đại định đại lực, tế độ chúng sinh bằng cách giữ gìn cõi đất to lớn, làm cho cây trái thực phẩm và dược phẩm đầy đủ chất lượng, để chúng sinh tùy ý hưởng dụng.

Kính lạy đức Địa tạng, vị đại sĩ đại bi đại nguyện đại định đại lực, phân hóa thân không biên cương ra làm đủ loài đủ giống, làm cả cảnh vật, lợi ích khắp cả, ai cũng được độ thoát.

Kính lạy đức Địa tạng, vị đại sĩ đại bi đại nguyện đại định đại lực, ứng hóa khắp nơi, đặc biệt ứng hóa trong địa ngục, trong châu Diêm phù, trong những quốc độ không có Phật xuất hiện, trong những quốc độ có Phật xuất hiện nhưng thuộc thời kỳ ngũ trược tam tai, thời kỳ cách hở giữa 2 đức Phật mà Phật pháp không còn.

Kính lạy đức Địa tạng, vị đại sĩ đại bi đại nguyện đại định đại lực, ích lợi cho cả lúc tạo tác nguyên nhân và lúc hưởng chịu kết quả, cho cả người còn kẻ mất, cho cả lúc sinh lúc chết, tác thành hiếu đạo cho những người con hiếu hạnh.

Kính lạy đức Địa tạng, vị đại sĩ đại bi nguyện và đại tinh tiến quá hơn các vị bồ tát, phó cảm hết thảy sở cầu như pháp của tất cả những người chí tâm xưng niệm.

5. Sám nguyện hồi hướng

Đệ tử chúng con
tuy được thân người,
nhưng lại tách rời
chánh tín chánh kiến,
tách rời bạn tốt
chỗ tốt thời tốt.
Không biết tùy hỷ
không tuân giới luật.
Xúc phạm các vị xuất gia
trở ngại chánh pháp giải thoát.
Tự phong đại thừa
phỉ báng thanh văn.
Lợi dụng xuất gia
phá người xuất gia,
ỷ thế thế quyền
phá Tăng thanh tịnh,
phá mọi chánh pháp
của cả tam thừa.
Tự gây vô số ác nghiệp
tự tạo vô lượng khổ báo.
Ngày nay chúng con
lòng rất hãi sợ,
phát lộ sám hối
dứt sự tiếp tục.
Chân thành tùy hỷ
công đức của người,
nỗ lực bền chí
tu tập bạch pháp.
Học đại bi nguyện
tập đại tinh tiến.
Tuân giữ giới pháp
hộ trì Tăng bảo,
hộ trì chánh pháp
thuận với giải thoát,
làm cho dòng giống
Tam bảo vô thượng
tồn tại lâu dài
rực rỡ uy đức.
Ngưỡng nguyện chư Phật
đại từ thế tôn,
ngưỡng mong Địa tạng
định lực đại sĩ,
từ bi nhiếp thọ
hộ trì chúng con.
Làm cho chúng con
thường gặp thiện hữu,
chừa tội phá giới
bỏ lỗi phá pháp,
tịnh trừ hắc nghiệp
siêu thoát u minh,
hiến cúng Tam bảo
phục vụ Phật pháp.
Nguyện cầu người còn kẻ mất
ước mong người thân kẻ thù
đồng được siêu thoát
đồng được an lạc,
thể hiện từ tâm
hỷ xả với nhau,
đời đời kiếp kiếp
không rời Tam bảo,
cùng nhau kết thành
bà con Phật pháp,
cùng nhau đạt đến
tuệ giác vô thượng.

Kính lạy đức Phật bổn sư Thích ca mâu ni như lai, đức Phật đương lai Di lạc như lai, cùng Phật, Phật pháp, Tỷ kheo tăng khắp cả pháp giới.

Kính lạy đức Phật bổn tôn A di đà như lai, cùng Quan thế âm bồ tát, Đại thế chí bồ tát, Thanh tịnh đại hải chúng bồ tát ở quốc độ Cực lạc.

Kính lạy đức đại bi đại nguyện đại định đại lực Địa tạng bồ tát, cùng Bồ tát, Duyên giác và Thanh văn khắp cả pháp giới.



Dịch từ hán văn: Tỷ Kheo Thích Trí Quang
| Mở Đầu | Chánh Văn  | Ghi chú |

[Phần Chánh Văn]

Phẩm 1: Thần Thông Tại Cung Đao Lợi
Phẩm 2: Thân phân hóa qui tụ lại
Phẩm 3 : Quán sát nghiệp quả chúng sinh
Phẩm 4 : Nghiệp quả của Người Diêm Phù
Phẩm 5 : Danh xưng địa ngục
Phẩm 6 : Thế Tôn Tuyên Dương
Phẩm 7: Lợi ích người còn kẻ mất
Phẩm 8: Chúa tôi Diêm La xưng tụng
Phẩm 9: Xưng tụng danh hiệu Chư Phật
Phẩm 10: Trắc lượng công đức bố thí
Phẩm 11: Thần Đất hộ trì
Phẩm 12: Lợi ích của sự thấy nghe
Phẩm 13: Thế Tôn ký thác

Phẩm 1: Thần Thông Tại Cung Đao Lợi

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Thế tôn (5) ở tại Đao lợi thiên cung, thuyết pháp cho mẹ. Bấy giờ các đức Phật đà và các đại bồ tát, nhiều đến hai lần không thể nói hết (6) , ở khắp mười phương vô lượng thế giới hệ (7) , đều đến tụ tập, tán dương đức Thế tôn có cái năng lực ở trong thời kỳ dữ dội đầy cả năm thứ vẩn đục, vận dụng sức mạnh của tuệ giác và thần thông rộng lớn siêu việt (8) mà thuần hóa những kẻ ương ngạnh, làm cho họ biết được cái gì đau khổ, cái gì yên vui. Các đức Phật đà lại phái thị giả vấn an đức Thế tôn.

Khi ấy đức Thế tôn mỉm cười, phóng ra ánh sáng ngàn vạn ức sắc thái (9) : ánh sáng đại viên mãn, ánh sáng đại từ bi, ánh sáng đại trí tuệ, ánh sáng đại bát nhã, ánh sáng đại tam muội, ánh sáng đại cát tường, ánh sáng đại phước đức, ánh sáng đại công đức, ánh sáng đại qui y, ánh sáng đại tán thán… Phóng ra ánh sáng không thể nói hết sắc thái (10) như vậy rồi, đức Thế tôn lại xuất ra âm thanh đủ mọi sắc thái mầu nhiệm (11) : âm thanh bố thí ba la mật, âm thanh trì giới ba la mật, âm thanh nhẫn nhục ba la mật, âm thanh tinh tiến ba la mật, âm thanh thiền định ba la mật, âm thanh bát nhã ba la mật; âm thanh từ bi, âm thanh hỷ xả, âm thanh giải thoát, âm thanh vô lậu, âm thanh trí tuệ và đại trí tuệ, âm thanh sư tử hống và đại sư tử hống, âm thanh vân lôi và đại vân lôi …

Đức Thế tôn xuất ra âm thanh hai lần không thể nói hết sắc thái như vậy rồi (12) , quốc độ Sa bà này và các quốc độ phương hướng khác, có vô số ức thiên long quỉ thần cũng đến tụ tập tại Đao lợi thiên cung, tức thiên chúng ở các tầng trời Tứ thiên vương, Đao lợi, Tu diệm ma, Đâu suất đà, Hóa lạc, Tha hóa tự tại; Phạn chúng, Phạn phụ, Đại phạn; Thiểu quang, Vô lượng quang, Quang âm; Thiểu tịnh, Vô lượng tịnh, Biến tịnh; Phước sinh, Phước ái, Quảng quả; Vô tưởng; Vô phiền, Vô nhiệt, Thiện kiến, Thiên hiện, Sắc cứu cánh; Đại tự tại; cho đến Phi phi tưởng (13) ; thiên chúng như vậy cùng với long chúng, quỉ chúng và thần chúng đều đến tụ tập. Các quốc độ khác và quốc độ này lại có thần biển, thần sông, thần rào, thần cây, thần núi, thần đất, thần suối, thần lúa, thần ngày, thần đêm, thần không gian, thần thiên giới, thần ẩm thực, thần thảo mộc, thần chúng như vậy cũng đến tụ tập. Các quốc độ khác và quốc độ này còn có các chúa quỉ lớn, như chúa quỉ Mắt dữ, chúa quỉ Ăn huyết, chúa quỉ Ăn tinh chất, chúa quỉ Ăn thai trứng, chúa quỉ Gây bịnh tật, chúa quỉ Trừ độc, chúa quỉ Từ tâm, chúa quỉ Phước lợi, chúa quỉ Rất yêu kính, những chúa quỉ như vậy cũng đến tụ tập.

Vào lúc bấy giờ, đức Thế tôn bảo đại bồ tát Văn thù, vị thái tử của đức Pháp vương, rằng ông hãy quan sát, các đức Phật đà và đại bồ tát, cùng thiên long quỉ thần, ở thế giới này hay thế giới khác, ở quốc độ này hay quốc độ khác, hiện đến tụ tập tại Đao lợi thiên cung đây, coi biết được hay không biết được số lượng bao nhiêu? Đại bồ tát Văn thù thưa, bạch đức Thế tôn, đem năng lực thần trí của con mà tính đến ngàn đời đi nữa, cũng không thể biết được. Đức Thế tôn dạy, Như lai lấy mắt Phật mà nhìn, cũng vẫn không cùng tận được số lượng ấy. Vậy mà số lượng ấy toàn do Địa tạng đại sĩ (14) , từ xa xưa đến bây giờ và sau này, đã hóa độ đang hóa độ và sẽ hóa độ, đã tác thành đang tác thành và sẽ tác thành.

Đại bồ tát Văn thù thưa, bạch đức Thế tôn, từ quá khứ, con đã thực hành thiện pháp lâu lắm, đã thực hiện tuệ giác vô ngại, nên nghe đức Thế tôn dạy thì con tin tưởng và tiếp nhận tức khắc. Nhưng tuệ giác còn kém như các vị Thanh văn, nhất là tám bộ thiên long (15) và những kẻ trong vị lai, thì dẫu được nghe lời nói thành thực của đức Thế tôn cũng vẫn nghi ngờ, có cung kính mà tiếp nhận đi nữa, vị tất đã khỏi dị nghị. Do đó, con thỉnh cầu đức Thế tôn nói một cách rộng rãi, trong nhân địa, Địa tạng đại sĩ đã lập thệ nguyện gì, đã làm công hạnh nào, mà thành tựu được sự không thể nghĩ bàn như đức Thế tôn vừa dạy.

Đức Thế tôn dạy, Văn thù, cả đại thiên quốc độ này có bao nhiêu cỏ, cây, lùm, rừng, lúa, mè, tre, lau, núi, đá và bụi, mỗi vật giả thiết là một sông Hằng; rồi số cát trong các sông Hằng ấy, mỗi hạt giả thiết là một thế giới hệ; số bụi của các thế giới hệ này, mỗi hạt giả thiết là một kiếp; mỗi kiếp này tích lũy bao nhiêu hạt bụi thì đem cả ra mà giả thiết mỗi hạt là một kiếp nữa. Vậy mà Địa tạng đại sĩ, từ khi thực hiện quả vị Đệ thập địa cho đến ngày nay, thì gian còn nhiều hơn cả ngàn lần số lượng về kiếp đã giả thiết trên đây, huống chi thì gian mà Địa tạng đại sĩ thực hiện quả vị Thanh văn và quả vị Duyên giác. Văn thù, thần lực và nguyện lực của vị đại sĩ này không thể nghĩ bàn. Trong vị lai, thiện nam hay thiện nữ nào nghe được danh hiệu của vị đại sĩ này mà xưng tụng, chiêm ngưỡng, lễ bái, trì niệm, hiến cúng, cho đến vẽ, khắc, đắp, sơn hình tượng của đại sĩ, thì người ấy sẽ được trăm lần sinh lên tầng trời Đao lợi này, một thì gian lâu dài (16) không rơi vào đường dữ.

Văn thù, Địa tạng đại sĩ trong quá khứ lâu xa, trước đây những kiếp nhiều đến hai lần không thể nói hết, bản thân làm một vị đại trưởng giả. Thời kỳ ấy, thế giới hệ này có đức Phật xuất hiện, danh hiệu là Sư tử phấn tấn cụ túc vạn hạnh như lai. Vị đại trưởng giả nhìn thấy tướng hảo của đức Như lai ấy ngàn phước trang nghiêm, nhân đó bạch hỏi ngài đã thực hành hạnh nguyện gì mà được tướng hảo như vậy. Đức Sư tử phấn tấn cụ túc vạn hạnh như lai dạy rằng, muốn thực hiện thân thể như vầy thì phải trải qua thì gian lâu xa, cứu độ bao kẻ tội khổ. Văn thù, lúc ấy vị đại trưởng giả nhân lời huấn dụ này mà phát nguyện, “cùng tận biên cương của thì vị lai, trải qua những kiếp không thể tính kể đi nữa, con vẫn nguyện vì chúng sinh tội khổ trong sáu đường (17) mà vận dụng mọi cách phương tiện, làm cho họ giải thoát tất cả, bấy giờ bản thân con mới bước lên quả vị Phật đà”. Vì đối trước đức Sư tử phấn tấn cụ túc vạn hạnh như lai, Địa tạng đại sĩ đã lập thệ nguyện lớn lao như vậy, nên ngày nay, dẫu đã trải qua những kiếp nhiều đến trăm ngàn vạn ức trăm triệu (18) không thể nói hết, đại sĩ vẫn còn làm bồ tát (19) .

Thêm nữa, trong quá khứ, cách nay những kiếp vô số (20) không thể nghĩ bàn, bấy giờ thế giới hệ này có đức Phật xuất hiện, danh hiệu là Giác hoa định tự tại vương như lai. Đời sống của ngài đến bốn trăm ngàn vạn ức kiếp vô số. Trong thời kỳ giáo pháp tương tự (21) của ngài, có một nữ nhân thuộc giai cấp Bà la môn, phước cũ sâu dày, quần chúng khâm phục, đi đứng nằm ngồi đều được chư thiên hộ vệ.

Nhưng mẹ của nữ nhân lại mê tín tà thuyết, thường khinh Tam bảo. Nữ nhân như bực thánh ấy giải thích đủ cách để khuyên mẹ, ý nguyện làm cho mẹ phát sinh kiến thức chân chính. Mẹ của nữ nhân chưa tin hoàn toàn, thì chẳng bao lâu sinh mạng đã kết thúc, nghiệp thức (22) sa vào vô gián ngục. Nữ nhân Bà la môn biết mẹ sinh tiền bài bác nguyên lý nhân quả, thì tính chắc phải tùy theo nghiệp dữ mà sa vào đường dữ, nên phát mãi nhà cửa, sắm nhiều hoa hương và phẩm vật hiến cúng, làm việc hiến cúng lớn lao tại chùa tháp thờ phụng đức Giác hoa định tự tại vương như lai.

Nữ nhân Bà la môn thấy đức Giác hoa định tự tại vương như lai qua hình tượng của ngài trong một ngôi chùa tháp, được đắp vẽ thể hiện đủ mọi nét đẹp từ bi và trang nghiêm. Nữ nhân chiêm bái dung nhan của ngài, lòng thành kính ngưỡng mộ lại bội phần tăng lên. Nữ nhân tự nghĩ, Phật là bậc đại giác, hoàn thành cái trí thấu triệt toàn bộ vũ trụ. Nếu ngài còn, mẹ con mất, con đến hỏi, chắc chắn biết được sa lạc chỗ nào. Nữ nhân khóc khá lâu, lại thiết tha chiêm ngưỡng đức Giác hoa định tự tại vương như lai. Thốt nhiên nghe trong không gian có tiếng bảo, nữ nhân đang khóc kia, con đừng quá bi lụy, ta sẽ chỉ cho con biết chỗ mẹ con sinh đến. Nữ nhân chắp tay, hướng lên không gian mà thưa, vị nào định giải tỏa lo buồn cho con đây? Từ khi mất mẹ đến giờ, con thương nhớ ngày đêm, không có chỗ nào khả dĩ hỏi để biết thế giới mẹ con sinh đến. Trong không gian lại có tiếng nói, ta là Giác hoa định tự tại vương như lai đã nhập diệt mà con đang chiêm ngưỡng lễ bái đó. Thấy con nhớ mẹ quá hơn những kẻ thường tình, nên ta đến chỉ cho con. Nữ nhân Bà la môn nghe nói như vậy thì cả người đổ xuống, chân tay rã rời, hai bên đỡ cứu một lát mới tỉnh, lại hướng lên không gian mà tác bạch, xin Phật thương con, dạy cho con biết liền thế giới mẹ con sinh đến. Con cảm thấy cơ thể và tâm trí của con sắp phải chết mất. Đức Giác hoa định tự tại vương như lai dạy nữ nhân, con hiến cúng rồi trở về nhà liền đi, ngồi ngay thẳng mà trì niệm danh hiệu của ta, thì sẽ biết ngay chỗ mẹ con sinh đến.

Nữ nhân lạy Phật, về nhà tức khắc. Vì nhớ thương mẹ, nữ nhân ngồi ngay thẳng, trì niệm danh hiệu của đức Giác hoa định tự tại vương như lai, suốt một ngày đêm. Bỗng thấy mình đến nơi một bờ biển, nước biển sôi sục, có nhiều thú dữ toàn là mình sắt, lướt nhảy trên mặt biển, xua bên này đuổi bên kia. Thấy trăm ngàn vạn kẻ, nam có nữ có, nổi lên ngập xuống trong biển ấy, bị các thú dữ tranh nhau mà ăn. Lại thấy quỉ dạ xoa hình thù kỳ dị, lắm tay lắm mắt, nhiều chân nhiều đầu, nanh chĩa ngoài miệng, và sắc nhọn như gươm, một mặt xua đuổi tội nhân đến cho thú dữ, mặt khác chúng tự chụp bắt, túm đầu chân lại. Thảm cảnh vạn trạng, không đủ can đảm mà nhìn mãi.

Nữ nhân Bà la môn nhờ năng lực của sự niệm Phật nên không sợ hãi gì cả. Một chúa quỉ tên Vô độc, bước đến cúi đầu đón tiếp, hỏi, lành thay bồ tát, người cần gì mà đến đây? Nữ nhân hỏi chúa quỉ, chỗ này là gì? Chúa quỉ thưa, chỗ này là lớp biển thứ nhất, ở về phía tây dãy núi đại thiết vi. Nữ nhân hỏi, tôi nghe nói giữa dãy núi ấy có địa ngục ở trong đó, thật chăng? Chúa quỉ thưa, thật. Nữ nhân hỏi, vì sao mà tôi đến được nơi địa ngục này? Chúa quỉ thưa, phi thần lực thì nghiệp lực, phi hai lực ấy thì không thể nào đến được.

Nữ nhân lại hỏi, lớp biển này vì sao mà nước sôi sục, có nhiều tội nhân và lắm thú dữ? Chúa quỉ thưa, tội nhân ấy là những kẻ làm ác ở châu Diêm phù (23) mà mới chết. Trải qua bốn mươi chín ngày, nếu không có ai kế tự để làm công đức mà cứu vớt cho họ, khi còn sống họ cũng không tạo nhân tố thánh thiện (24) , thì sẽ y theo nghiệp dữ đã làm mà cảm ra quả khổ địa ngục, quả khổ mà đương nhiên trước hết phải bơi qua lớp biển này. Phía đông lớp biển này, cách mười vạn do tuần, có một lớp biển nữa, khổ sở gấp đôi biển này. Phía đông lớp biển sau này lại còn một lớp biển khác nữa, khổ sở càng gấp đôi. Do nhân tố độc ác của ba nghiệp thân miệng ý mà cảm ra, và cùng mang tên biển nghiệp, là ba chỗ này đây. Nữ nhân lại hỏi chúa quỉ, nhưng địa ngục ở chỗ nào? Chúa quỉ thưa, giữa ba lớp biển này toàn là địa ngục (25) , số lượng đến hàng trăm hàng ngàn, và khác biệt với nhau. Khổ sở lớn nhất thì có mười tám. Kế đó thì có năm trăm, khổ sở vô lượng. Kế đó nữa thì có trăm ngàn, cũng vô lượng khổ sở.

Nữ nhân lại hỏi, mẹ tôi mới mất, không biết nghiệp thức phải đến chỗ nào? Chúa quỉ hỏi lại, mẹ người khi sống quen làm hạnh nghiệp gì? Nữ nhân nói, mẹ tôi tà kiến, phỉ báng Tam bảo, có lúc hơi tin rồi lại bất kính, chết mới mấy ngày mà không biết sinh đến chỗ nào? Chúa quỉ hỏi, mẹ người tên họ là gì? Nữ nhân nói, cha mẹ tôi đều là dòng dõi Bà la môn, cha là Thi la, mẹ là Duyệt đế lợi. Chúa quỉ chắp tay mà bạch, xin thánh nữ trở về, khỏi cần lo buồn thương nhớ. Nữ tội nhân Duyệt đế lợi đã sinh chư thiên cách nay ba ngày, được biết rằng nhờ hiếu nữ làm phước cho mẹ bằng sự hiến cúng chùa tháp thờ phụng đức Giác hoa định tự tại vương như lai. Không phải một mình mẹ của thánh nữ được thoát địa ngục, mà tội nhân vô gián ngục trong ngày ấy cũng được vui vẻ, cùng sinh lên chư thiên với mẹ người. Nói rồi, chúa quỉ chắp tay thi lễ mà cáo thoái.

Nữ nhân Bà la môn liền như mộng tỉnh, ý thức việc này rồi, tức khắc đến trước hình tượng của đức Giác hoa định tự tại vương như lai thờ trong chùa tháp mà phát nguyện cao rộng, “nguyện cùng tận thì gian vị lai, có bao kẻ tội khổ, con xin tìm đủ cách mà làm cho họ giải thoát”.

Đức Thế tôn bảo đại bồ tát Văn thù, chúa quỉ Vô độc lúc ấy là bồ tát Tài thủ ngày nay, còn nữ nhân Bà la môn thì chính là Địa tạng đại sĩ.

*

Phẩm 2: Thân Phân Hóa Qui Tụ Lại

Khi ấy, tất cả thân hình của Địa tạng đại sĩ phân hóa tại các địa ngục của những thế giới hệ nhiều đến trăm ngàn vạn ức, không thể nghĩ bàn tính kể, vô số con số vô số, đều đến tụ tập tại Đao lợi thiên cung. Do thần lực của đức Thế tôn mà từ các phương xứ của mình, thân hình phân hóa nào cũng dẫn theo những người đã thoát khỏi đường dữ, và nhiều đến số lượng ngàn vạn ức trăm triệu, đồng cầm hương hoa đến hiến cúng đức Thế tôn. Những người đi theo này, nhờ Địa tạng đại sĩ giáo hóa mà đối với tuệ giác vô thượng (26) đã vĩnh viễn không còn thoái chuyển. Những người này, từ bao kiếp lâu xa, đã bị trôi cuốn trong đại dương sinh tử, chịu khổ trong sáu đường một cách liên tục. Ngày nay, nhờ từ bi cao cả và thệ nguyện sâu xa của Địa tạng đại sĩ mà họ thực hiện được đạo quả. Khi đến Đao lợi, lòng họ quá mừng, chiêm ngưỡng đức Thế tôn đến nỗi mắt không rời ngài một thoáng.

Vào lúc ấy, đức Thế tôn đưa cánh tay vàng xoa trên đỉnh đầu hết thảy thân hình của Địa tạng đại sĩ đã phân hóa tại các thế giới hệ nhiều đến trăm ngàn vạn ức, không thể nghĩ bàn tính kể, vô số con số vô số, mà bảo, Địa tạng đại sĩ, Như lai đã ở trong thời kỳ dữ dội đầy cả năm thứ vẩn đục mà giáo hóa những kẻ ương ngạnh, làm cho tâm tính của họ thuần hậu, xa bỏ đường tà, quay về nẻo chánh. Nhưng trong mười phần, có một vài phần vẫn còn thói dữ. Chính Như lai cũng vẫn phân hóa thân hình ra cả ngàn trăm ức (27) , vận dụng đủ cách mà hóa độ. Kẻ trình độ cao thì nghe Như lai dạy là tin tưởng và tiếp nhận tức khắc. Kẻ quả báo tốt thì ân cần khuyến hóa vẫn được thành tựu. Kẻ ám độn thì giáo hóa thật lâu mới biết quay về. Còn kẻ nghiệp nặng thì không sinh tâm kính ngưỡng. Những kẻ như trên đây, khác nhau đến mấy, Như lai cũng phân hóa thân hình mà cứu độ. Hoặc hiện thân nam tử, hoặc hiện thân nữ nhân. Hoặc hiện thân thiên chúng và long chúng, hoặc hiện thân quỉ chúng và thần chúng. Hoặc hiện núi rừng, dòng nước, đồng bằng, sông ngòi, ao hồ, suối giếng, ích lợi khắp cả mọi người, ai cũng được độ thoát (28) . Hoặc hiện thân Đế thích, hoặc hiện thân Phạn vương, hoặc hiện thân Luân vương. Hoặc hiện thân cư sĩ, hoặc hiện thân quốc chúa, hoặc hiện thân tể tướng, hoặc hiện thân thuộc quan. Hoặc hiện các thân tỷ kheo, tỷ kheo ni, thiện nam, tín nữ. Cho đến các thân Thanh văn, La hán, Duyên giác, Bồ tát, Như lai cũng hiện ra để hóa độ. Không phải Như lai hiện ra trước họ chỉ có thân hình Phật đà mà thôi.

Địa tạng đại sĩ, hãy quan sát mà coi, Như lai đã bao kiếp, siêng và khổ, hóa độ những kẻ tội khổ, ương ngạnh và khó dạy. Tựu trung, kẻ nào chưa thuần hậu thì phải tùy nghiệp dữ mà chịu quả khổ. Trong quả khổ ấy, nếu họ sa vào đường dữ, lãnh chịu khổ sở khốc liệt, thì đại sĩ hãy nhớ hôm nay, tại Đao lợi thiên cung, Như lai đem người Sa bà trong quãng từ nay đến ngày Di lạc từ tôn xuất thế, thiết tha ký thác cho đại sĩ, mà làm cho họ được thoát thống khổ, được gặp Phật đà, được tiếp nhận sự thọ ký của các ngài (29) .

Khi ấy, bao nhiêu thân hình của Địa tạng đại sĩ phân hóa tại các thế giới hệ đều hợp lại một bản thân, cảm kích rơi lệ mà thưa với đức Phật của mình (30) , rằng bạch đức Thế tôn, bao kiếp đến nay, con nhờ đức Thế tôn dìu dắt mà được thần lực siêu việt và tuệ giác vĩ đại. Thân hình phân hóa của con khắp các thế giới hệ nhiều đến như cát của trăm ngàn vạn ức sông Hằng, mỗi thế giới hệ con lại phân hóa trăm ngàn vạn ức thân hình, mỗi thân hình con hóa độ trăm ngàn vạn ức người, làm cho họ qui kính Tam bảo, rời sinh tử, đến niết bàn. Hễ biết làm lành theo lời huấn thị của đức Thế tôn, thì điều lành ấy bằng một sợi lông, một giọt nước, một hạt cát, một mảy bụi, hay chỉ bằng một chút lông tóc đi nữa, con cũng hóa độ cho họ dần dần được ích lợi lớn lao. Kính xin đức Thế tôn đừng vì những kẻ tội ác trong tương lai mà lo nghĩ. Ba lần như vậy, Địa tạng đại sĩ tác bạch, kính xin đức Thế tôn đừng vì những kẻ tội ác trong tương lai mà lo nghĩ.

Đức Thế Tôn xưng tụng Địa tạng đại sĩ, lành thay, Như lai tán trợ cho sự đáng mừng của đại sĩ. Đại sĩ có năng lực hoàn thành cái thệ nguyện vĩ đại mà đại sĩ đã phát ra từ bao kiếp lâu xa, sắp hoàn tất sự hóa độ rộng lớn và thực hiện tuệ giác vô thượng.

*

Phẩm 3 : Quán Sát Nghiệp Quả Chúng Sinh

Bấy giờ thân mẫu của đức Thế tôn là hoàng hậu Ma da, chắp tay một cách cung kính mà hỏi đức Địa tạng, bạch đại sĩ, người Diêm phù gây nghiệp dữ và chịu quả khổ như thế nào? Địa tạng đại sĩ nói, kính thưa Phật mẫu, ngàn vạn thế giới hệ nơi có địa ngục nơi không, nơi có nữ nhân nơi không, nơi có Phật pháp nơi không, Thanh văn Duyên giác cũng vậy, nơi có nơi không, không phải chỉ có mỗi một việc nghiệp quả địa ngục. Ma da hoàng hậu lại thưa, bạch đại sĩ, nhưng tôi xin nghe trước về nghiệp dữ, và đường dữ do nghiệp dữ ấy cảm ra, của người Diêm phù. Địa tạng đại sĩ nói, kính thưa Phật mẫu, xin ngài nghe và tiếp nhận, tôi sẽ nói đại lược về điều ấy. Phật mẫu thưa, xin đại sĩ nói cho.

Địa tạng đại sĩ nói, kính thưa Phật mẫu, tại châu Diêm phù phía nam này, nghiệp dữ gây quả khổ có những danh xưng như thế này. Kẻ nào bất hiếu đến nỗi sát hại cha mẹ thì sa vào vô gián ngục, một kiếp ngàn vạn ức năm cầu thoát mà khó mong thoát khỏi. Kẻ nào làm chảy máu thân Phật, phỉ báng Tam bảo, khinh thường kinh pháp, cũng sa vào vô gián ngục, một kiếp ngàn vạn ức năm cầu thoát mà khó mong thoát khỏi. Kẻ nào xâm phạm của tăng chúng thường trú, làm bẩn tăng ni, ngay trong chốn già lam mà mặc ý làm sự không phải phạn hạnh hay sự sát hại sinh mạng, thì sa vào vô gián ngục, một kiếp ngàn vạn ức năm cầu thoát mà khó mong thoát khỏi. Kẻ nào giả làm sa môn mà tâm hạnh không phải sa môn, lạm dụng của tăng chúng thường trú, lừa đảo thế nhân, vi phạm giới luật, tạo các nghiệp dữ, thì sa vào vô gián ngục, một kiếp ngàn vạn ức năm cầu thoát mà khó mong thoát khỏi. Kẻ nào trộm cắp tài vật, thóc gạo, đồ ăn, đồ uống và đồ mặc của tăng chúng thường trú, cho đến một vật không cho mà lấy, thì sa vào vô gián ngục, một kiếp ngàn vạn ức năm cầu thoát mà khó mong thoát khỏi (31) . Địa tạng đại sĩ nói, kính thưa Phật mẫu, những kẻ làm những nghiệp dữ trên đây thì phải sa vào vô gián ngục, nơi có năm sự không xen cách (32) , mong mỏi khổ sở tạm ngừng một lát cũng không thể có được.

Ma da hoàng hậu lại hỏi, bạch đại sĩ, vô gián ngục là gì? Địa tạng đại sĩ nói, kính thưa Phật mẫu, địa ngục phần nhiều ở giữa dãy núi đại thiết vi. Loại lớn thì có mười tám sở. Loại kế đó thì có năm trăm, tên gọi khác nhau. Loại kế đó nữa thì có trăm ngàn, tên gọi cũng khác. Vô gián ngục là, thành các địa ngục chu vi hơn tám vạn dặm, làm toàn bằng sắt; thành ấy cao một vạn dặm, trên thành lửa dồn lại, ít có chỗ trống; trong thành, ngục sở liền nhau nhưng tên gọi khác nhau, tựu trung có một ngục sở tên vô gián ngục. Ngục sở ấy chu vi một vạn tám ngàn dặm. Tường ngục cao một ngàn dặm, toàn làm bằng sắt; lửa trên suốt dưới, lửa dưới thấu trên; rắn sắt và chó sắt phun lửa mà đuổi tội nhân, lại bò và chạy qua lại trên tường ngục. Trong ngục có cái giường rộng đầy vạn dặm; một người thọ hình tự thấy thân mình nằm khắp mặt giường, mà ngàn vạn người cùng lúc thọ hình thì ai cũng tự thấy thân mình nằm khắp mặt giường. Do nghiệp dữ của những người ấy mà cảm ra quả khổ như vậy.

Tội nhân vô gián ngục phải chịu đủ thứ cực hình. Trăm ngàn dạ xoa và quỉ dữ nanh như gươm, mắt như điện, móng như đồng, móc kéo tội nhân. Dạ xoa khác, cầm kích sắt lớn mà đâm tội nhân, vào mình, vào miệng, vào mũi, vào bụng, vào lưng, rồi dồi lên trên không mà giơ kích đỡ lấy, hoặc xóc để trên giường. Chim ưng bằng sắt ăn mắt tội nhân. Rắn sắt quấn cổ tội nhân mà xiết. Cả trăm đốt và khớp của cơ thể đều bị đóng đinh dài. Lưỡi bị lôi ra mà cày, ruột bị rút ra mà chặt, miệng bị rót nước đồng sôi, mình bị quấn giây sắt nóng. Chết đi sống lại cả ngàn vạn lần trong mỗi một ngày đêm: nghiệp dữ cảm ra như vậy. Vậy mà phải trải qua cái kiếp có cả ức năm, cầu thoát nhưng khó mong thoát khỏi. Hễ thế giới hệ này hư rã thì chuyển qua thế giới hệ khác, thế giới hệ khác hư rã thì chuyển qua thế giới hệ khác nữa, thế giới hệ khác nữa hư rã thì chuyển qua thế giới hệ khác khác nữa. Sau khi thế giới hệ này kết thành thì lại bị chuyển về. Quả khổ vô gián ngục là như vậy.

Vì năm sự sau đây, do nghiệp dữ cảm ra, nên mệnh danh vô gián. Một là cực hình chịu suốt ngày đêm cho đến hết số lượng một kiếp, không lúc nào gián đoạn, nên mệnh danh vô gián. Hai là một tội nhân cũng tự thấy mình đầy cả ngục, mà nhiều tội nhân thì ai cũng tự thấy mình đầy cả ngục, nên mệnh danh vô gián. Ba là hình cụ như chỉa ba, gậy, chim ưng, rắn, sói, chó, cối giã, cối xay bằng đá, cưa, đục, đồ chặt, đồ phát, vạc nấu, nước sôi, lưới sắt, giây sắt, lừa sắt, ngựa sắt, da sống để quấn đầu, sắt sôi để dội thân, viên sắt nóng để bắt nuốt khi van đói, nước sắt sôi để bắt uống khi kêu khát, từ năm này qua năm khác, trọn hết số lượng một kiếp vài trăm triệu năm, cực hình liên hợp mà lại liên tục, không có gián đoạn, nên mệnh danh vô gián. Bốn là bất kể nam nữ, mọi rợ văn minh (33) , già trẻ, sang hèn, rồng thần, trời quỉ, hễ tạo nghiệp dữ thì cảm quả khổ và đồng chịu như nhau, nên mệnh danh vô gián. Năm là sa vào vô gián ngục thì từ khi mới vào cho đến hết số lượng một kiếp, mỗi một ngày đêm chết đi sống lại đến cả vạn lần, cầu lấy một lát tạm ngừng cũng không thể có được, trừ phi nghiệp dữ hết rồi mới được chết hẳn mà sinh làm loài khác: sống chết liền liền như vậy nên mệnh danh vô gián.

Địa tạng đại sĩ nói, kính thưa Phật mẫu, vô gián ngục nói đại lược là như vậy. Nếu nói rõ ràng về tên hình cụ và sự khổ sở trong đó, thì suốt một kiếp muốn nói cho hết vẫn không hết được. Ma da hoàng hậu nghe rồi, buồn và lo, chắp tay đảnh lễ mà lui về chỗ của mình.

*

Phẩm 4 : Nghiệp Quả Của Người Diêm Phù

Địa tạng đại sĩ khi ấy thưa rằng, bạch đức Thế tôn, con nhờ thần lực của đức Thế tôn mà khắp trong trăm ngàn vạn ức thế giới hệ, con phân hóa thân hình cứu vớt những kẻ đang chịu quả khổ của nghiệp dữ. Phi thần lực từ bi vĩ đại của đức Thế tôn, con không thể có sự phân thân đó. Nay con lại được đức Thế tôn đem sáu đường chúng sinh, trong quãng từ nay đến ngày Di lạc từ tôn xuất thế, ký thác cho con, dạy con cứu độ cho họ giải thoát. Dạ, bạch đức Thế tôn, con xin vâng lời. Xin đức Thế tôn đừng lo nghĩ. Đức Thế tôn dạy, Địa tạng đại sĩ, kẻ chưa giải thoát thì thức tánh bất định: làm dữ thì kết thành khổ quả, làm lành thì cảm ra phước báo, và làm dữ làm lành gì cũng tùy hoàn cảnh chi phối; rồi luân chuyển năm đường liên miên bất tận, trải qua những kiếp nhiều như cát bụi mà vẫn còn mê mờ, lầm lẫn, vẫn bị chướng ngại, tai nạn. Y như cá lội trong lưới, cuốn theo dòng nước chảy mãi: đã sẩy vào trong dòng nước có lưới rồi thì dẫu có lúc tạm thoát ra khỏi lưới đi nữa, cũng sẽ mắc lại lưới ấy mà thôi (34) . Nên vì họ mà Như lai lo nghĩ. Nay đại sĩ đã muốn hoàn thành lời nguyện căn bản và lời thề trọng đại trong nhiều kiếp đã qua, hóa độ những kẻ tội khổ một cách sâu rộng, thì Như lai còn lo nghĩ gì nữa.

Khi lời ấy được đức Thế tôn nói ra thì trong pháp hội có một vị đại bồ tát danh hiệu Định tự tại vương, thưa với ngài, bạch đức Thế tôn, Địa tạng đại sĩ từ bao kiếp đến nay, kiếp nào đã phát nguyện gì mà ngày nay được đức Thế tôn ân cần xưng tụng, con thỉnh cầu đức Thế tôn tóm tắt mà dạy cho chúng con. Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Định tự tại vương, hãy nghe cho kỹ hãy khéo nghĩ và nhớ, Như lai sẽ nói cho các người.

Trong quá khứ, cách nay bằng những kiếp nhiều đến vô lượng vô số trăm triệu không thể nói hết, lúc ấy có đức Phật danh hiệu Nhất thế trí thành tựu như lai, ứng cúng, chánh biến tri, minh hạnh túc, thiện thệ, thế gian giải, vô thượng sĩ, điều ngự trượng phu, thiên nhân sư, phật: thế tôn. Ngài sống đến sáu vạn kiếp. Khi chưa xuất gia, ngài làm một tiểu quốc vương, kết bạn với một tiểu quốc vương lân bang, cùng nhau thực thi mười nghiệp lành, lợi ích dân chúng. Nhưng dân chúng lân bang đa số làm ác. Hai vị quốc vương mới bàn tính phương cách thích hợp. Một vị nguyện thành Phật sớm để hóa độ cho hết dân chúng ấy. Một vị nguyện nếu không hóa độ trước những kẻ tội khổ, làm cho họ được yên vui và được toàn giác, thì bản thân chưa muốn thành Phật. Định tự tại vương, vị quốc vương nguyện thành Phật sớm là Nhất thế trí thành tựu như lai, còn vị quốc vương nguyện hóa độ lâu dài những kẻ tội khổ mà chưa muốn thành Phật là Địa tạng đại sĩ.

Lại nữa, trong quá khứ, cách nay vô lượng vô số kiếp, có đức Phật xuất hiện thế gian, danh hiệu của ngài là Thanh tịnh liên hoa mục như lai. Ngài sống đến bốn chục kiếp. Trong thời kỳ giáo pháp tương tự của ngài, có một vị La hán đem phước đức mà hóa độ cho người. Nhân tuần tự hóa độ, vị La hán ấy gặp một nữ nhân tên Quang mục, thiết trai hiến cúng. Vị La hán hỏi muốn cầu nguyện điều gì, Quang mục thưa, gặp ngày mẹ con mất, con muốn nhờ phước hiến cúng tôn giả để cứu vớt cho mẹ con; không biết mẹ con hiện nay sinh đến chỗ nào? Vị La hán thương mà nhập định quan sát, thấy mẹ Quang mục đọa vào đường dữ, chịu khổ khốc liệt. Ngài hỏi Quang mục, mẹ con lúc sống làm nghiệp dữ nào mà nay phải chịu khổ lớn ở trong đường dữ? Quang mục thưa, thói quen của mẹ con chỉ thích ăn cá và ba ba. Thích ăn nhất là cá và ba ba con. Bằng cách hoặc chiên hoặc nấu, mẹ con tha hồ mà ăn. Số lượng sinh mạng của chúng, tính ra, chết đến ngàn vạn mà còn hơn nữa. Xin tôn giả thương mà dạy cho con biết làm cách nào để cứu mẹ. Vị La hán từ bi chỉ dạy cách thức, khuyên Quang mục hãy chí thành trì niệm danh hiệu của đức Thanh tịnh liên hoa mục như lai, lại đắp vẽ hình tượng của ngài mà thờ phụng, thì người còn kẻ mất đều được phước báo.

Quang mục nghe vậy, tức khắc hy sinh những gì mình luyến tiếc, nhờ vẽ liền tượng Phật mà tôn thờ. Cùng cực tôn kính, Quang mục khóc mà chiêm ngưỡng và lạy. Ngay phần sau của đêm ấy, Quang mục mộng thấy thân Phật ánh vàng rực rỡ, đồ sộ như núi Tu di, phóng ánh sáng lớn mà bảo Quang mục, mẹ con không bao lâu nữa sẽ sinh trong nhà con, hễ biết đói lạnh là biết nói. Sau đó, nữ tỳ trong nhà Quang mục sinh một đứa bé, chưa đầy ba ngày mà đã biết nói. Cúi đầu, tủi khóc, đứa bé bảo Quang mục, trong phạm vi sinh tử, hễ tự làm nghiệp dữ thì tự chịu quả khổ. Ta là mẹ con đây, lâu nay phải ở trong chỗ đen tối. Từ khi biệt ly với con, ta sa mãi vào trong địa ngục lớn. Nhờ phước con làm mới được sinh làm người, nhưng làm người hèn hạ mà chết yểu, năm mười ba tuổi sẽ lại bị sa vào đường dữ. Con có cách gì cứu mẹ cho khỏi? Quang mục nghe nói, biết đích mẹ mình, nghẹn ngào khóc mà hỏi, nếu là mẫu thân thì phải biết tội mình đã làm nghiệp dữ nào mà phải sa vào đường dữ ? Đứa bé nói, sát sinh và mắng nhiếc, vì hai nghiệp dữ ấy mà phải chịu quả khổ. Phi cái phước con làm để cứu nạn cho mẹ, thì vì hai nghiệp dữ ấy lẽ đáng mẹ chưa được giải thoát. Quang mục hỏi, quả khổ địa ngục như thế nào? Đứa bé nói, quả khổ ấy nói ra thật bất nhẫn. Mà có nói đi nữa, trăm ngàn năm cũng không cùng.

Quang mục nghe như vậy, hướng lên không gian, khóc mà tác bạch, con cầu nguyện cho mẹ con thoát hẳn địa ngục, hết mười ba tuổi thì không còn nghiệp dữ để sa vào đường dữ. Phật đà mười phương xin thương tưởng con, chứng minh cho con vì mẹ mà phát thệ nguyện rộng lớn: Nếu mẹ con được thoát hẳn ba nẻo đường dữ và thân người hèn hạ, cho đến cái thân nữ nhân cũng vĩnh viễn không làm nữa, thì trước hình ảnh đức Thanh tịnh liên hoa mục như lai, con nguyện từ nay sắp đi, cho đến trăm ngàn vạn ức kiếp sau này, bao nhiêu những kẻ tội khổ ở trong địa ngục ngạ quỉ súc sinh của các thế giới hệ, con thề cứu vớt cho họ thoát khỏi những chỗ ấy; những kẻ tội khổ thành Phật cả rồi con mới thành. Phát thệ nguyện rộng lớn như vậy rồi, Quang mục nghe rõ tiếng nói của đức Thanh tịnh liên hoa mục như lai, bảo, Quang mục, lòng từ bi của con thật lớn lao, khi con biết vì mẹ mà phát nguyện vĩ đại. Ta thấy mẹ con hết mười ba tuổi, bỏ quả báo này rồi, sẽ sinh làm một phạn chí, sống lâu trăm năm. Hết quả báo ấy thì vãng sinh Vô ưu quốc độ, sống lâu với những kiếp không thể tính kể. Về sau thành Phật thì hóa độ sâu rộng, trong đó có nhân loại và chư thiên, và số người được hóa độ nhiều như cát sông Hằng.

Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Định tự tại vương, vị La hán đem phước đức hóa độ Quang mục lúc ấy là bồ tát Vô tận ý ngày nay. Mẹ của Quang mục nay là bồ tát Giải thoát. Còn Quang mục thì chính là Địa tạng đại sĩ; trong những kiếp lâu xa của quá khứ, đại sĩ đã từ bi như vậy, phát ra thệ nguyện nhiều như cát sông Hằng, hóa độ chúng sinh một cách sâu rộng. Sau này, bất cứ nam tử hay nữ nhân, có kẻ không làm lành, có kẻ làm dữ, có kẻ phủ nhận nguyên lý nhân quả, có kẻ tà dâm vọng ngữ, có kẻ lưỡng thiệt ác khẩu, có kẻ phỉ báng đại thừa, những kẻ nghiệp dữ như vậy tất sa đường dữ. Nhưng nếu gặp bạn tốt khuyến khích qui y Địa tạng đại sĩ thì dẫu chỉ bằng thì gian đàn chỉ (35) một cái, những kẻ ấy cũng thoát được quả khổ trong ba đường dữ. Nếu ai hết lòng tôn kính, qui y, chiêm ngưỡng, lễ bái, xưng tụng, hay phụng hiến hoa hương, y phục (36) , bảo vật, ẩm thực, thì trong vị lai, trăm ngàn vạn ức kiếp thường ở trên chư thiên, hưởng thụ sự yên vui tuyệt diệu. Phước báo chư thiên hết rồi, sinh xuống nhân gian, cũng vẫn còn trăm ngàn kiếp thường làm quốc chúa, nhớ được nhân quả gốc ngọn về đời trước của mình.

Định tự tại vương, Địa tạng đại sĩ có cái thần lực lớn lao, và bất khả tư nghị, ích lợi sâu rộng cho mọi người như vậy. Bồ tát các người hãy nhớ kinh này và truyền bá rộng rãi. Đại bồ tát Định tự tại vương thưa, bạch đức Thế tôn, xin đức Thế tôn đừng lo nghĩ. Chúng con, ngàn vạn bồ tát đại sĩ, chắc chắn có năng lực vâng theo uy thần của đức Thế tôn mà truyền bá kinh này một cách rộng rãi tại châu Diêm phù, lợi ích chúng sinh. Thưa đức Thế tôn như vậy rồi, đại bồ tát Định tự tại vương chắp tay cung kính đảnh lễ mà lui về chỗ của mình.

Lúc ấy bốn vị Thiên vương ở bốn phương hướng cùng đứng dậy khỏi chỗ họ ngồi, chắp tay cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn, từ những kiếp lâu xa, Địa tạng đại sĩ đã phát đại nguyện như trên, vì lý do nào mà ngày nay sự hóa độ của đại sĩ vẫn chưa hết, đại sĩ vẫn còn lặp lại đại nguyện ấy, chúng con thỉnh cầu đức Thế tôn dạy cho chúng con rõ. Đức Thế tôn bảo bốn vị Thiên vương, lành thay, Như lai nay vì lợi ích sâu rộng cho các ông, cho hết thảy chư thiên, nhân loại và các loài khác, trong hiện tại và vị lai, nói về những phương tiện mà Địa tạng đại sĩ ở trong các nẻo đường sinh tử của châu Diêm phù, thuộc thế giới hệ Sa bà này, thương mà cứu những kẻ tội khổ. Bốn vị Thiên vương thưa, bạch đức Thế tôn, chúng con nguyện muốn được nghe.

Đức Thế tôn dạy bốn vị Thiên vương, từ những kiếp lâu xa cho đến ngày nay, Địa tạng đại sĩ hóa độ chúng sinh mà vẫn chưa hoàn tất đại nguyện, là vì một mặt thương những kẻ tội khổ trong thì hiện tại, mặt khác nhìn đến vô số kiếp thuộc thì vị lai, những kẻ tội khổ vẫn dây dưa không ngừng, nên đại sĩ vẫn phải lặp lại thệ nguyện trọng đại.

Vị đại sĩ như vậy, ở tại châu Diêm phù của thế giới hệ Sa bà, đã vận dụng trăm ngàn vạn ức phương tiện mà giáo hóa. Bốn vị Thiên vương, Địa tạng đại sĩ gặp người sát sinh thì nói về quả khổ chết yểu vì tội cũ, gặp người trộm cắp thì nói về quả khổ nghèo nàn và khốn khó, gặp người tà dâm thì nói về quả khổ làm bồ câu uyên ương (37) ; gặp người ác khẩu thì nói về quả khổ bà con đánh cãi nhau, gặp người chê bai thì nói về quả khổ không lưỡi hoặc lở miệng; gặp người giận dữ thì nói về quả khổ xấu xí lại tàn tật, gặp người keo lẫn thì nói về quả khổ sở cầu hay trái ý; gặp người ăn uống vô độ thì nói về quả khổ đói khát và bịnh cổ, gặp người săn bắn tha hồ thì nói về quả khổ kinh hãi điên cuồng mà mất mạng, gặp người phản nghịch cha mẹ thì nói về quả khổ trời đất giết chết bằng tai nạn, gặp người thiêu đốt núi rừng thì nói về quả khổ cuồng sảng mà tự lấy cái chết, gặp cha ghẻ mẹ ghẻ ác độc thì nói về quả khổ trở lại gây ra roi vọt và phải chịu lấy ngay trong đời này, gặp người lưới bắt chim non thì nói về quả khổ cốt nhục phân ly; gặp người phỉ báng Tam bảo thì nói về quả khổ mù điếc câm ngọng, gặp người khinh ngạo giáo pháp thì nói về quả khổ ở lâu trong các đường dữ, gặp người phá tán lạm dụng của tăng chúng thường trú thì nói về quả khổ nhiều đời luân hồi địa ngục, gặp người làm bẩn phạn hạnh vu khống tăng ni thì nói về quả khổ ở lâu trong loài súc sinh; gặp người sát hại sinh vật bằng nước sôi, bằng lửa, bằng sự chém chặt, thì nói về quả khổ luân hồi đền mạng lẫn nhau, gặp người phá giới phạm trai thì nói về quả khổ cầm thú đói khát, gặp người tiêu dùng phi lý thì nói về quả khổ nhu cầu thiếu thốn, gặp người ta tao cao ngạo thì nói về quả khổ tôi tớ hèn hạ, gặp người đâm thọc gây rối thì nói về quả khổ không lưỡi hay nhiều lưỡi; gặp người kiến thức sai lầm thì nói về quả khổ sinh chỗ không có Phật pháp (38) .

Đại loại như vậy, người Diêm phù từ thân miệng ý tạo ra nghiệp dữ và kết thành quả khổ có đến hàng trăm hàng ngàn sắc thái, nay Như lai chỉ nói sơ lược. Đối với nghiệp dữ và quả khổ khác nhau như vậy của người Diêm phù, Địa tạng đại sĩ vận dụng hàng trăm hàng ngàn phương tiện mà giáo hóa cho họ. Vì lẽ những người ấy, sau khi chịu những quả khổ như Địa tạng đại sĩ đã nói (39) , họ còn sa vào địa ngục, trải qua đời kiếp khó có hy vọng thoát khỏi. Nên các ông hộ vệ dân chúng và hộ vệ đất nước thì đừng để nghiệp dữ mê hoặc mọi người.

Bốn vị Thiên vương nghe đức Thế tôn dạy, buồn và khóc, chắp tay lạy ngài mà lui về chỗ của mình.

*

Phẩm 5 : Danh Xưng Địa Ngục

Khi ấy đại bồ tát Phổ hiền bạch đức Địa tạng, thưa đại sĩ, tôi thỉnh cầu ngài nói cho tám bộ, cho bốn chúng (40) , cho cả mọi người trong hiện tại vị lai, về tên gọi và cực hình của địa ngục, nơi chịu quả khổ của những kẻ tội ác ở thế giới hệ Sa bà, trong đó có châu Diêm phù, để bao kẻ sau này, trong thời kỳ giáo pháp cuối cùng, biết rõ quả khổ ấy. Địa tạng đại sĩ nói, thưa nhân giả, tôi sẽ dựa vào uy thần của đức Thế tôn và của nhân giả mà nói đại lược về tên gọi và cực hình của địa ngục.

Thưa nhân giả, phía đông Diêm phù có dãy núi tên thiết vi. Giữa dãy núi ấy đen tối thăm thẳm, không có ánh sáng của mặt trời mặt trăng, có địa ngục lớn nhất tên cực vô gián, có địa ngục tên đại a tỳ, có địa ngục tên bốn góc, có địa ngục tên dao bay, có địa ngục tên tên lửa, có địa ngục tên núi ép, có địa ngục tên phóng giáo, có địa ngục tên xe sắt, có địa ngục tên giường sắt, có địa ngục tên bò sắt, có địa ngục tên áo sắt, có địa ngục tên ngàn mũi nhọn, có địa ngục tên lừa sắt, có địa ngục tên nước đồng sôi, có địa ngục tên ôm cột đồng, có địa ngục tên lửa tuôn, có địa ngục tên cày lưỡi, có địa ngục tên chặt đầu, có địa ngục tên đốt chân, có địa ngục tên ăn mắt, có địa ngục tên viên sắt, có địa ngục tên cãi cọ, có địa ngục tên rìu sắt, có địa ngục tên giận nhiều … Địa tạng đại sĩ nói với đại bồ tát Phổ hiền, thưa nhân giả, trong dãy núi thiết vi có những địa ngục như vậy, số lượng vô số. Lại còn có địa ngục kêu la, địa ngục rút lưỡi, địa ngục phẫn giải, địa ngục xích đồng, địa ngục voi lửa, địa ngục chó lửa, địa ngục ngựa lửa, địa ngục bò lửa, địa ngục núi lửa, địa ngục đá lửa, địa ngục giường lửa, địa ngục cầu lửa, địa ngục chim ưng lửa, địa ngục cưa răng, địa ngục lột da, địa ngục uống huyết, địa ngục đốt tay, địa ngục đốt chân, địa ngục đâm ngược, địa ngục nhà lửa, địa ngục nhà sắt, địa ngục sói lửa … Những địa ngục như vậy mỗi thứ còn có những địa ngục nhỏ phụ thuộc, hoặc một hoặc hai, hoặc ba hoặc bốn, cho đến hàng trăm hàng ngàn, và tên gọi khác nhau.

Địa tạng đại sĩ nói với đại bồ tát Phổ hiền, thưa nhân giả, tất cả địa ngục ấy được cảm ra bởi nghiệp lực của những kẻ làm ác ở châu Diêm phù. Nghiệp lực cực lớn: cao như núi cao, sâu như biển cả, hại cả thánh đạo. Vì vậy, mọi người đừng khinh thường lỗi nhỏ, cho là không hại gì. Bởi lẽ chết rồi, quả báo đủ cả, mảy may cũng phải chịu lấy. Chí thân như tình cha con đi nữa, cũng đường ai nấy đi. Túng sử gặp nhau, cũng không được chịu thay cho nhau (41) . Tôi nay dựa vào uy thần của đức Thế tôn, sắp kể ra đây một cách sơ lược cảnh tượng cực hình của trong địa ngục. Ước mong nhân giả nghe qua lời ấy. Đại bồ tát Phổ hiền nói, chính vì tôi biết từ lâu (42) về quả khổ ba đường dữ, nên mong muốn đại sĩ nói để làm cho sau này, trong thời kỳ giáo pháp cuối cùng, những kẻ làm ác nghe lời đại sĩ mà biết quay về với Phật.

Địa tạng đại sĩ nói, thưa nhân giả, cực hình địa ngục như thế này. Có chỗ kéo lưỡi tội nhân cho bò cày. Có chỗ moi tim tội nhân cho dạ xoa ăn. Có chỗ đun vạc sôi cuồn cuộn mà nấu thân tội nhân. Có chỗ nung đỏ cột đồng mà bắt tội nhân ôm lấy. Có chỗ phun lửa táp vào tội nhân. Có chỗ toàn là băng lạnh. Có chỗ tràn đầy phẫn giải. Có chỗ phóng toàn viên sắt có cạnh sắc gai nhọn (43) . Có chỗ đâm toàn giáo lửa. Có chỗ chỉ đánh lưng bụng. Có chỗ chỉ đốt tay chân. Có chỗ rắn sắt quấn xiết. Có chỗ xua chó sắt cắn. Có chỗ toàn là bắt cỡi lừa sắt … Thưa nhân giả, cực hình như vậy trong các địa ngục được có bởi hàng trăm hàng ngàn hình cụ toàn là đồng, sắt, đá và lửa. Cả bốn thứ này đều do nghiệp dữ chung của mọi người cảm ra. Nếu kể cho rõ về cực hình địa ngục, thì trong mỗi chỗ đã có cả trăm cả ngàn cảnh tượng thảm khốc, huống chi nhiều chỗ. Tôi nay dựa vào uy thần của đức Thế tôn và của nhân giả mà nói sơ lược như trên. Nói và giải thích cho rõ thì trọn đời cũng không hết được.

*

Phẩm 6 : Thế Tôn Tuyên Dương

Vào lúc bấy giờ, toàn thân đức Thế tôn phóng ra ánh sáng vĩ đại, chiếu khắp cõi Phật tương đương số cát của trăm ngàn vạn ức sông Hằng, rồi xuất ra âm thanh vĩ đại, tuyên cáo hết thảy bồ tát đại sĩ cùng thiên long quỉ thần (44) trong các cõi Phật ấy, rằng các người hãy nghe, hôm nay Như lai sẽ xưng tụng tán dương việc Địa tạng đại sĩ khắp trong thế giới hệ mười phương, vận dụng sức mạnh của uy thần và từ bi vô cùng vĩ đại, siêu việt, cứu vớt hộ trì hết thảy những kẻ tội khổ. Sau khi Như lai nhập niết bàn, các người, bồ tát đại sĩ và thiên long quỉ thần, hãy làm mọi cách mà kính giữ kinh này, để cho ai nấy đều thực hiện được cái vui niết bàn.

Khi lời ấy của đức Thế tôn được nói ra thì trong pháp hội có một vị đại bồ tát danh hiệu Phổ quảng, chắp tay cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn, hôm nay con thấy đức Thế tôn xưng tụng Địa tạng đại sĩ có uy thần và từ bi rất vĩ đại và siêu việt, nên con thỉnh cầu đức Thế tôn vì những người trong thời kỳ giáo pháp cuối cùng mà nói về việc Địa tạng đại sĩ đem lại ích lợi trong nhân loại và chư thiên (45) , lúc tạo tác nguyên nhân cũng như lúc hưởng chịu kết quả, để tám bộ thiên long cùng những kẻ trong tương lai biết tôn kính tiếp nhận huấn dụ của đức Thế tôn. Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Phổ quảng, và cả bốn chúng, hãy nghe cho kỹ Như lại sẽ nói cho các người một cách sơ lược về việc Địa tạng đại sĩ lợi ích bằng cách tạo ra phước đức trong nhân loại và chư thiên. Đại bồ tát Phổ quảng thưa, bạch đức Thế tôn, chúng con xin tuân lời ngài, nguyện muốn được nghe.

Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Phổ quảng, trong thì vị lai, thiện nam hay thiện nữ nào nghe danh hiệu của Địa tạng đại sĩ mà chắp tay, xưng tụng, lễ bái hay ngưỡng mộ, thì người ấy siêu thoát cái tội đáng lẽ phải chịu khổ trong ba mươi kiếp.

Phổ quảng, thiện nam hay thiện nữ nào vẽ hình tượng của Điạ tạng đại sĩ, hay làm hình tượng đại sĩ bằng đất đá, keo sơn, bạc vàng, đồng sắt, thì dầu một chiêm ngưỡng hay một lễ bái, kẻ đó vẫn được trăm lần sinh lên Đao lợi, trong một thì gian lâu dài không sa vào đường dữ. Giả sử phước báo chư thiên hết rồi, sinh xuống nhân gian, cũng vẫn còn làm quốc chúa, không mất lợi ích lớn lao.

Phổ quảng, nữ nhân nào chán thân nữ nhân, chí thành hiến cúng Địa tạng đại sĩ qua tượng vẽ, tượng làm bằng đất đá, keo sơn, đồng sắt, với cách ngày nào cũng tinh tiến hiến cúng hương hoa, ẩm thực, y phục, gấm lụa (46) , tràng phan, bảo vật, thì nữ nhân ấy, hết cái thân quả báo nữ nhân này rồi, trăm ngàn vạn kiếp không còn sinh vào thế giới có nữ nhân, huống chi phải làm lại thân ấy. Ngoại trừ trường hợp vì thệ nguyện từ bi, phải làm thân nữ nhân để hóa độ kẻ khác, thì thiện nữ ấy, nhờ sức thần của đức Địa tạng mà mình hiến cúng và nhờ sức mạnh của công đức hiến cúng đức Địa tạng, nên trăm ngàn vạn kiếp không còn làm thân nữ nhân nữa.

Phổ quảng, nữ nhân nào chán ngán cái thân xấu xí bịnh hoạn, thì hãy đối trước hình tượng Điạ tạng đại sĩ mà chí tâm chiêm ngưỡng, lễ bái. Làm như vậy dẫu thì gian chỉ bằng bữa ăn, nữ nhân ấy cũng ngàn vạn đời được cái thân tướng mạo toàn hảo, không mọi bịnh hoạn (47) . Nếu nữ nhân xấu xí ấy không chán thân nữ nhân, thì trong trăm ngàn vạn ức đời thường làm vương nữ, vương phi, con gái tể tướng, quí tộc, đại trưởng giả, sinh ra là đoan trang, tướng mạo tuyệt hảo. Vì lòng chí thành nên chiêm bái Địa tạng đại sĩ được phước như vậy.

Phổ quảng, thiện nam hay thiện nữ nào đối trước hình tượng Địa tạng đại sĩ mà diễn tấu nhạc khí (48) , ca vịnh, tán dương, hương hoa hiến cúng, lại khuyến cáo một người cho đến nhiều người cùng làm như vậy, thì những người ấy, trong hiện tại cũng như trong tương lai, luôn luôn được hàng trăm hàng ngàn quỉ thần ngày đêm hộ vệ, không để cho việc dữ lọt vào tai họ, huống chi để họ bị mọi sự ngang trái.

Phổ quảng, trong thì gian vị lai, nếu có người ác, quỉ ác và thần ác, thấy thiện nam hay thiện nữ nào biết qui y, tôn kính, hiến cúng, xưng tụng, chiêm ngưỡng hay lễ bái hình tượng Địa tạng đại sĩ mà mỉa mai, phỉ báng rằng vô phước và vô ích, hoặc nhe răng ra mà cười, hoặc công kích sau lưng trước mặt, hoặc lôi cuốn một người hay nhiều người chung nhau phỉ báng, thì sự phỉ báng này dầu chỉ một lát mà thôi, kẻ phỉ báng ấy, ngàn vị Phật đà của Hiền kiếp nhập diệt cả rồi, quả khổ của sự phỉ báng làm cho họ vẫn còn ở trong vô gián ngục, chịu hình phạt rất nặng. Hiền kiếp qua rồi mới được làm ngạ quỉ, ngàn kiếp sau đó mới được làm súc sinh, ngàn kiếp sau đó nữa mới được làm người. Dẫu được làm người, nhưng làm người nghèo nàn hèn hạ, giác quan không đủ, phần nhiều bị nghiệp dữ trở lại kết nơi tâm lý, nên không bao lâu lại sa vào đường dữ. Phổ quảng, phỉ báng sự hiến cúng Điạ tạng đại sĩ của người khác mà còn bị quả khổ như vậy, huống chi chính mình phỉ báng Địa tạng đại sĩ bằng kiến thức ác hại.

Phổ quảng, trong thì gian vị lai, nam tử hay nữ nhân đau ốm liệt giường mòn gối, cầu sống không được, muốn chết không xong. Ban đêm mộng thấy quỉ dữ, thấy bà con, thấy đi vào đường hiểm, thấy lắm sự kinh hãi (49) , thấy đi với quỉ thần. Rồi ngày tháng dần dà chuyển thành lao bại, trong giấc ngủ kêu la thảm thiết. Như vậy toàn là đang bị luận định về nghiệp dữ, nặng nhẹ chưa quyết, nên chết đã khó mà lành càng khó hơn. Mắt phàm nam nữ làm sao rõ được việc ấy. Vậy thân nhân nên đối trước tượng Phật đà hay tượng Bồ tát, cao tiếng mà tụng cho bịnh nhân một biến kinh này. Lại nên đem tài sản mà bịnh nhân vốn luyến tiếc, như y phục, đồ quí, ruộng vườn, nhà cửa, đối trước bịnh nhân, cao tiếng nói rõ mình tên họ như vậy, xin vì bịnh nhân mà đối trước kinh Phật và tượng Phật đem tài sản của bịnh nhân hiến cúng kinh tượng, hoặc tạo tượng Phật đà hay tượng Bồ tát, hoặc làm chùa tháp, hoặc cúng vào qụ hương đèn, hoặc hiến cúng tăng chúng thường trú. Hãy nói ba lần như vậy cho bịnh nhân nghe và biết. Giả sử bịnh nhân ý thức đã tản, đến nỗi hơi thở đã hết, cũng vẫn một ngày cho đến bảy ngày, cao tiếng mà nói và cao tiếng tụng kinh. Như vậy thì bịnh nhân ấy, sau khi chết, nghiệp dữ đã làm dẫu nặng đến như năm tội sa vào vô gián ngục đi nữa (50) , cũng vẫn thoát khỏi lâu dài, sinh ra ở đâu cũng tự biết đời trước của mình. Ấy là bịnh nhân được làm cho mà hiệu quả đến như vậy, huống chi chính thiện nam hay thiện nữ nào tự sao chép kinh Địa tạng hoặc khuyên người sao chép, tự đắp vẽ tượng Địa tạng hay khuyên người đắp vẽ, thì kết quả nhận được thật đại lợi ích. Vì lý do ấy, Phổ quang, hễ thấy ai đọc hay tụng kinh Địa tạng, cho đến chỉ chốc lát xưng tụng hay tôn kính kinh này mà thôi, các người cũng phải vận dụng trăm ngàn phương tiện, khuyến khích cho họ nỗ lực mà đừng có thoái chí, thì quyết chắc trong hiện tại cũng như trong tương lai, họ thực hiện được ngàn vạn ức công đức bất khả tư nghị.

Phổ quảng, trong thì gian vị lai, những kẻ chiêm bao hay ngủ say, thấy các quỉ thần với bao nhiêu biến dạng buồn có, khóc có, rầu có, than có, sợ có, hãi có. Ấy toàn là cha mẹ con cái, anh em chị em, hay vợ chồng bà con, trong quá khứ một đời mười đời hay trăm đời ngàn đời, hiện ở trong đường dữ mà chưa được thoát khỏi, không biết hy vọng vào đâu làm phước cứu vớt, nên họ báo mộng cho những kẻ xương thịt trong quá khứ, trông mong làm phước để cứu họ thoát khỏi đường dữ. Phổ quảng, các người hãy vận dụng thần lực làm cho những kẻ xương thịt ấy biết đối trước tượng Phật đà hay tượng Bồ tát, chí tâm tự tụng kinh này hay cung thỉnh người khác tụng cho, số lượng phải ba biến hay bảy biến. Như vậy, những kẻ bà con còn ở trong đường dữ kia, hễ tiếng tụng kinh đủ biến chấm dứt, thì họ cũng được siêu thoát, mộng mị cũng không bao giờ còn thấy họ nữa.

Phổ quảng, trong thì gian vị lai, những kẻ thấp thỏi, như những người làm tôi tớ cho đến những người không còn tự chủ, ý thức nghiệp cũ mà muốn sám hối, thì hãy chí thành chiêm bái hình tượng Địa tạng đại sĩ, và ít nhất cũng trong một tuần bảy ngày, trì niệm danh hiệu của đại sĩ cho được vạn biến, thì những người ấy hết quả báo này rồi, trong ngàn vạn đời sau thường sinh chỗ tôn quí, lại không còn trải qua quả khổ ở trong ba đường dữ.

Phổ quảng, trong thì gian vị lai, tại châu Diêm phù này, sát đế lợi hay bà la môn, trưởng giả hay cư sĩ, mọi người thuộc giai cấp và sắc tộc khác nhau, có con mới sinh thì bất cứ nam hay nữ, trong một tuần bảy ngày, hãy sớm đọc tụng cho chúng bản kinh không thể nghĩ bàn này, lại trì niệm cho chúng danh hiêu của Địa tạng đại sĩ đủ số vạn biến. Như vậy, những trẻ sơ sinh ấy, bất cứ nam hay nữ, nếu đời trước có nghiệp dữ để sẽ chịu quả khổ thì cũng tiêu tan được cả, yên vui, dễ nuôi, tăng thêm tuổi thọ; nếu sinh ra bởi phước đức, thì hạnh phúc và tuổi thọ lại càng thêm lên.

Phổ quảng, trong thì gian vị lai, mỗi tháng các ngày mồng một, mồng tám, mười bốn, rằm, mười tám, hâm ba, hâm bốn, hâm tám, hâm chín hay ba mươi, là những ngày kê cứu tội ác để phán định nặng nhẹ. Mà người Diêm phù thì cử động (51) hay suy tư toàn là nghiệp, toàn là tội, huống chi lại còn mặc ý sát sinh trộm cướp tà dâm vọng ngữ, nghiệp dữ cả trăm cả ngàn. Trong những ngày thập trai trên đây, nếu kẻ nào biết đối trước tượng Phật đà, tượng Bồ tát hay tượng Hiền thánh mà tụng một biến kinh này, thì khu vức người ấy cư trú, đông tây nam bắc chu vi một trăm do tuần, không có mọi sự tai nạn, và nhà ở của người ấy thì bất cứ lớn nhỏ, từ hiện tại đến vị lai, trong cả trăm cả ngàn năm thoát khỏi đường dữ một cách lâu dài. Mỗi ngày thập trai biết tụng kinh này một biến, việc ấy, ngay trong đời này, đã làm cho cả nhà không có tai họa, bịnh tật, ăn mặc sung túc.

Đại loại như vậy, Phổ quảng, các người nên biết Địa tạng đại sĩ, xuất từ thần lực vĩ đại, có những sự ích lợi cho người đạt đến số lượng trăm ngàn vạn ức, không thể nói hết. Đối với Địa tạng đại sĩ, người Diêm phù có sự liên hệ lớn lao. Người ở đây nghe danh hiệu hay thấy hình tượng của đại sĩ, cho đến nghe kinh này dầu chỉ được ba chữ hay năm chữ, một bài chỉnh cú hay một câu đủ nghĩa (52) , hiện tại cũng đạt được sự yên vui tuyệt diệu, mà vị lai thì trăm ngàn vạn đời luôn luôn sinh ra trong nhà tôn quí, tướng mạo và tánh tình đều hoàn hảo.

Lúc ấy đại bồ tát Phổ quảng nghe đức đại giác Thế tôn tán dương và xưng tụng Địa tạng đại sĩ rồi, quì xuống, chắp tay mà thưa thêm nữa, rằng bạch đức Thế tôn, từ lâu rồi con đã biết vị đại sĩ này có thần lực siêu việt và nguyện lực vĩ đại như đức Thế tôn đã dạy. Nhưng con muốn làm cho bao kẻ sau này biết được những sự ích lợi xuất từ thần lực và nguyện lực ấy, nên đã thỉnh vấn đức Thế tôn. Con xin cung kính tiếp nhận những lời đức Thế tôn huấn dụ.

Bạch đức Thế tôn, kinh này ngài mệnh danh là gì, và dạy chúng con truyền bá như thế nào? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Phổ quảng, kinh này có ba danh hiệu: có thể mệnh danh là Bản nguyện của Địa tạng đại sĩ, cũng có thể mệnh danh là Bản hạnh của Địa tạng đại sĩ, lại có thể mệnh danh là Năng lực hạnh nguyện của Địa tạng đại sĩ. Cả ba danh hiệu ấy đều căn cứ vào thệ nguyện trọng đại và ích lợi chúng sinh của Địa tạng đại sĩ đã phát ra từ bao kiếp lâu xa. Vì lý do ấy, các người hãy thể theo đại nguyện như vậy mà truyền bá kinh này.

Đại bồ tát Phổ quảng nghe đức Thế tôn huấn dụ, chắp tay cung kính, làm lễ mà lui về chỗ của mình.

*

Phẩm 7: Lợi Ích Người Còn Kẻ Mất

Vào lúc ấy, Địa tạng đại sĩ bạch đức Thế tôn, con thấy người Diêm phù mống tâm động niệm toàn là tội lỗi. Gặp được việc tốt thì phần nhiều hay lùi mất tâm chí ban đầu, còn gặp phải sự xấu thì tăng thêm tội lỗi ngay trong từng ý nghĩ. Những kẻ như vậy khác nào đi trên đường bùn lầy mà vác thêm đá nặng, càng khốn càng nặng, chân lún càng sâu. Nếu may mắn gặp được người quen vác bớt hay vác hết cho, người quen này lại có sức mạnh hơn nữa dìu đỡ kẻ ấy, khuyến khích kẻ ấy mạnh chân lên, nên đến được đất bằng. Đến rồi thì phải biết rõ đường hiểm ấy, đừng bước vào đó nữa.

Bạch đức Thế tôn, người làm ác thì khởi đầu chỉ mảy may mà rồi đi đến vô lượng. Người ấy, lúc sắp chết, cha mẹ bà con nên làm phước giúp cho đời sau của họ, bằng cách hoặc treo phan cái (53) , hoặc đốt dầu đèn, rồi trì tụng bản kinh tôn quí, hiến cúng hình tượng Phật đà hoặc hình tượng Hiền thánh, lại trì niệm danh hiệu của Phật đà, của Bồ tát, của Duyên giác. Mỗi một danh hiệu như vậy đều thấu vào thính giác của người sắp chết, hoặc được nghe qua bản thức của người ấy. Người ấy, nghiệp dữ họ làm, tính quả khổ cảm ra tất phải sa vào đường dữ, nhưng mà nhờ cha mẹ bà con đã tạo cho họ những nhân tố thánh thiện như trên, nên nghiệp dữ đến như thế cũng vẫn tan biến được cả. Sau khi người ấy chết rồi, trong bảy tuần bảy ngày, nếu cha mẹ bà con lại làm thêm cho họ những nhân tố thánh thiện như trên, thì năng lực việc làm ấy làm cho người chết kia thoát khỏi đường dữ một cách lâu dài, được sinh trong nhân loại hay trên chư thiên, hưởng thụ sư yên vui tuyệt diệu. Còn cha mẹ bà con đã tạo nhân tố thánh thiện cho họ thì được lợi ích vô lượng.

Chính vì lý do ấy, hôm nay, đối trước đức đại giác Thế tôn, trước tám bộ thiên long, trước nhân loại và loài khác, con khuyến cáo người Diêm phù, trong ngày người thân sắp chết, phải hết sức thận trọng, đừng sát hại sinh vật và làm những việc dữ khác như tế lễ quỉ thần, cầu cúng yêu quái. Tại sao con khuyến cáo như vậy, vì lẽ bao nhiêu sự sát hại và cúng tế ấy không có một mảy may năng lực ích lợi cho người sắp chết, ngược lại, chỉ kết thêm nghiệp dữ cho sâu và nặng hơn lên. Giả sử người sắp chết, ngay sau khi mới chết (54) hay lúc còn sống, có được phần nào nhân tố thánh thiện để sinh trong nhân loại hay sinh lên chư thiên, nhưng bị lúc sắp chết, cha mẹ bà con làm những nhân tố tội ác nói trên, nên làm cho người ấy phải đối chất về tai vạ như vậy mà bị trì hoãn việc sinh vào đường lành. Huống chi người sắp chết ấy lúc sống đã không có một chút nghiệp lành, căn cứ nghiệp dữ tự làm đã phải tự chịu quả khổ trong đường dữ, nỡ nào cha mẹ bà con còn bồi thêm vào nghiệp dữ ấy. Khác nào một kẻ đến đây từ đường sá xa xôi, hết ăn đã ba ngày, đồ vật gánh vác lại nặng quá trăm cân, vậy mà khi gặp được người làng xóm, người này lại chất thêm một ít đồ vật và gánh vác ấy, nên kẻ kia càng nặng và càng khốn hơn lên.

Bạch đức Thế tôn, con thấy người Diêm phù nếu biết làm lành theo những sự huấn thị của đức Thế tôn, thì điều lành ấy dầu chỉ bằng một sợi lông, một giọt nước, hay bằng một hạt cát, một mảy bụi đi nữa, cũng tự được ích lợi tất cả.

Địa tạng đại sĩ nói như vậy, trong pháp hội có trường giả tên Đại biện, một vị trưởng giả từ lâu đã thực hiện tuệ giác vô sinh, vì hóa độ mười phương chúng sinh nên hiện thân trưởng giả, chắp tay cung kính, thưa hỏi đức Địa tạng, kính bạch đại sĩ, người châu Diêm phù này, sau khi chết, bà con lớn nhỏ làm phước cho họ bằng cách thiết trai hiến cúng, tạo mọi nhân tố thánh thiện, thì người chết ấy được hay không được ích lợi và siêu thoát? Địa tạng đại sĩ dạy, trưởng giả, vì mọi người bây giờ và mai sau, tôi vâng theo uy thần của đức Thế tôn mà nói sơ lược về điều ấy.

Trưởng giả, bây giờ và sau này, những người trong ngày sắp chết, nếu nghe được một danh hiệu Phật đà, một danh hiệu Bồ tát, một danh hiệu Duyên giác, thì không kể có tội không tội, đều siêu thoát được cả. Nếu ai, bất luận nam tử hay nữ nhân, sống không làm nghiệp lành mà lại làm nhiều nghiệp dữ, nhưng sau khi chết, bà con lớn nhỏ làm phước cho họ bằng mọi nhân tố thánh thiện, thì trong bảy phần, người chết hưởng một, còn lại sáu phần người làm tự hưởng. Do đó, mà bây giờ và sau này, bất cứ thiện nam hay thiện nữ, nghe như vậy thì phải mạnh mẽ mà tự tu, bởi vì phần phước thánh thiện của người nào thì người ấy nhận được đủ cả.

Quỉ sứ lớn nhất là sự vô thường chết chóc. Mà nó đến thì không một ai được hẹn trước. Rồi trong cảnh mịt mù thăm thẳm, nghiệp thức chơi vơi, chưa biết sẽ chịu tội hay hưởng phước. Nên trong thì gian bảy lần bảy ngày, người chết như ngây như điếc, hoặc bị đưa đến những nơi liên hệ để đối biện về nghiệp và nghiệp quả. Sau khi thẩm định mới tùy nghiệp mà sinh vào các loài. Trong thì gian chưa đoán trước được mà khổ sở đã ngàn vạn rồi, huống chi sau đó sa vào các đường dữ. Người chết ấy, lúc chưa sinh vào các loài, tức là trong thì gian bảy lần bảy ngày, ý nghĩ này liên tiếp ý nghĩ khác, trông ngóng bà con xương thịt làm phước cứu vớt cho họ. Hết thì gian này rồi, phải tùy nghiệp mà chịu quả. Nếu là nghiệp dữ thì trải qua hàng trăm hàng ngàn năm cũng chưa có cái ngày thoát khỏi. Nếu là năm nghiệp dữ vô gián thì bị sa vào địa ngục lớn nhất ấy, trải qua cái kiếp hàng ngàn hàng vạn năm, chịu đủ mọi thứ cực hình trong thì gian rất lâu dài như vậy.

Do đó, trưởng giả Đại biện, những người nghiệp dữ sau khi chết, bà con xương thịt thiết trai hiến cúng để cứu giúp cho họ, thì lúc sắp đặt trai soạn, nước gạo và lá rau đừng đổ vãi xuống đất. Nhất là trai soạn chưa hiến cúng Phật và hiến cúng Tăng, hoặc hiến cúng mà thọ trai chưa xong, thì đừng ăn trước (55) . Nếu ăn trước hay thiếu tinh khiết, cẩn trọng, thì người chết chẳng hưởng được hiệu lực nào cả. Nếu tinh thành, cẩn trọng, giữ gìn sạch sẽ mà phụng hiến Phật và phụng hiến Tăng, thì người chết bảy phần được một. Cho nên, trưởng giả Đại biện, người Diêm phù nếu vì cha mẹ hay bà con đã chết mà thiết trai hiến cúng một cách hết lòng cẩn trọng, chân thành, làm phước như vậy thì người còn kẻ mất đều được ích lợi tất cả.

Khi lời này của Địa tạng đại sĩ được nói ra thì tại Đạo lợi thiên cung có ngàn vạn ức trăm triệu quỉ thần ở châu Diêm phù đều phát tâm tuệ giác không có giới hạn. Trưởng giả Đại biện thì đảnh lễ mà lui về chỗ của mình.

*

Phẩm 8: Chúa Tôi Diêm La Xưng Tụng

Lúc ấy có vô số chúa quỉ, vốn ở trong dãy núi thiết vi và đã tháp tùng Diêm la thiên tử mà lên Đao lợi, cùng đến chỗ đức Thế tôn, đại loại như chúa quỉ Ác độc, chúa quỉ Ác nhiều, chúa quỉ Cọp dữ, chúa quỉ Cọp trắng, Chúa quỉ Cọp huyết, chúa quỉ Cọp đỏ, chúa quỉ Gieo tai họa, chúa quỉ Phi thân, chúa quỉ Ánh điện, chúa quỉ Nanh sói, chúa quỉ Ngàn mắt, chúa quỉ Ăn thú vật, chúa quỉ Vác đá, chúa quỉ Chủ hao tổn, chúa quỉ Chủ tai họa, chúa quỉ Chủ thực phẩm, chúa quỉ Chủ tài sản, chúa quỉ Chủ gia súc, chúa quỉ Chủ loài chim, chúa quỉ Chủ loài thú, chúa quỉ Chủ quỉ mị, chúa quỉ Chủ sản dục, chúa quỉ Chủ sinh mạng, chúa quỉ Chủ bịnh tật, chúa quỉ Chủ hiểm nguy, chúa quỉ Ba mắt, chúa quỉ Bốn mắt, chúa quỉ Năm mắt, chúa quỉ Kỳ lợi thất, chúa quỉ Đại kỳ lợi thất, chúa quỉ Kỳ lợi xoa, chúa quỉ Đại kỳ lợi xoa, chúa quỉ A na tra, chúa quỉ Đại a na tra … Những chúa quỉ này ai cũng có cả trăm cả ngàn chúa quỉ nhỏ, cùng ở tại châu Diêm phù, có nhiệm vụ và có quyền hành riêng. Những chúa quỉ này cùng Diêm la thiên tử, nhờ thần lực của đức Thế tôn và của Địa tạng đại sĩ, mà cùng nhau đến được tại tại Đao lợi thiên cung, đứng vào một phía. Bấy giờ Diêm la thiên tử quì xuống, chắp tay mà thưa, bạch đức Thế tôn, hôm nay con với các chúa quỉ nhờ thần lực của đức Thế tôn và của Địa tạng đại sĩ mới đến được nơi pháp hội Đao lợi lớn lao như thế này. Việc ấy cũng đã là lợi ích tốt đẹp mà chúng con được hưởng. Bây giờ con có một nỗi hoài nghi nhỏ, dám xin thỉnh vấn đức Thế tôn. Xin đức Thế tôn từ bi chỉ dạy cho con. Đức Thế tôn bảo Diêm la thiên tử, tùy ý ông hỏi, Như lai sẽ nói cho.

Diêm la thiên tử lúc ấy chiêm ngưỡng và đảnh lễ đức Thế tôn, rồi xoay qua chiêm ngưỡng Địa tạng đại sĩ. Sau đó xoay lại mà thưa, bạch đức Thế tôn, con thấy Địa tạng đại sĩ ở trong sáu đường, vận dụng hàng trăm hàng ngàn phương tiện cứu vớt những kẻ tội khổ, không từ mệt nhọc. Đại sĩ có thần lực bất khả tư nghị như vậy, nhưng mọi người thì thoát khỏi đường dữ không lâu lại sa vào chốn ấy. Bạch đức Thế tôn, Địa tạng đại sĩ đã có thần lực bất khả tư nghị như vậy, tại sao mọi người không sống trong đường lành, siêu thoát mãi mãi? Con thỉnh cầu đức Thế tôn giải thích cho con.

Đức Thế tôn dạy, Diêm la thiên tử, người Diêm phù tính khí ương ngạnh, khó hướng dẫn, khó chế ngự. Địa tạng đại sĩ trong hàng trăm hàng ngàn kiếp, cứu vớt từng người một, ước mong làm cho họ sớm được giải thoát. Đến nỗi những người tội chướng như vậy bị sa vào nẻo đường rất dữ đi nữa, đại sĩ cũng vận dụng năng lực phương tiện mà cứu vớt họ thoát khỏi nghiệp quả căn bản, làm cho họ biết rõ cái khổ của đời sống vừa qua. Tự vì người Diêm phù đã kết quá nặng cái thói nghiệp dữ, nên đường dữ mới ra lại vào, làm mệt đại sĩ bao kiếp hóa độ.

Như kẻ quên mất nhà mình, lầm vào đường hiểm. Đường ấy lắm dạ xoa và cọp sói sư tử, hổ mang bò cạp … Trong đường hiểm như vậy, kẻ lầm đường chỉ lát nữa là sẽ bị hại. May có người bạn tốt biết nhiều thuật giỏi, không những trừ được các thứ độc tố mà còn trị được dạ xoa và mãnh thú, bắt gặp kẻ lầm đường đang muốn đi sâu vào đường hiểm ấy, vội hỏi, quái lạ, cần gì mà anh vào đây? Anh có phép lạ nào để chế ngự những sự độc hại? Kẻ lầm đường nghe vậy mới biết là đường hiểm, tức khắc lùi bước, cầu thoát nơi ấy. Người bạn tốt nắm tay mà dắt, dẫn ra khỏi đường hiểm, thoát khỏi độc hại. Khi đến đường tốt, yên ổn vui mừng rồi, bảo, kẻ lầm lạc, từ nay về sau đừng bước vào con đường ấy nữa. Đường ấy mà vào thì đã khó ra mà còn mất mạng. Kẻ lầm đường cũng biết cảm kích ơn nặng. Lúc chia tay, người bạn tốt lại bảo, anh thấy ai, bất kể quen lạ, nam nữ, hãy bảo cho họ biết đường ấy lắm độc và nhiều dữ, vào đó là mất mạng. Đừng để họ tự rước lấy cái chết.

Địa tạng đại sĩ đầy lòng từ bi vĩ đại, cứu vớt những kẻ tội khổ ra khỏi đường dữ, làm cho họ sinh trong nhân loại hay trên chư thiên, hưởng sự yên vui tuyệt diệu. Những kẻ tội khổ ấy, biết cái khổ đường dữ, nên thoát được rồi thì không bao giờ còn dám trở lại. Như kẻ lầm đường, lầm vào đường hiểm, được bạn tốt dẫn ra rồi thì không bao giờ còn bước lại vào đó. Gặp ai bước vào cũng biết khuyên can, bằng cách tự nói chính vì mình đã lầm vào đó mà biết là đường hiểm, nay ra được rồi thì không dám vào lại nữa. Ngược lại, kẻ nào vẫn cứ bước vào, ấy là vì còn quá ngu và lầm, quên đi đó là đường hiểm mà trước đây mình đã lạc vào, nên có thể tự gây ra sự mất mạng cho mình. Khác nào những kẻ sa vào đường dữ, được Địa tạng đại sĩ dùng năng lực phương tiện cứu cho thoát khỏi, sinh lên nhân loại hay chư thiên, nhưng liền sau đó lại tái tục sa vào. Rồi nếu nghiệp dữ kết lại quá nặng thì ở mãi trong địa ngục, không biết bao giờ thoát khỏi.

Lúc ấy chúa quỉ Ác độc chắp tay cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn, chúa quỉ như chúng con số lượng nhiều lắm. Tại châu Diêm phù, có kẻ giúp ích cho người, có kẻ gây họa cho người, việc làm khác nhau. Nhưng vì nghiệp và nghiệp báo của người Diêm phù mà làm cho thuộc hạ của chúng con đi đến đâu cũng gây họa nhiều hơn giúp ích. Tuy nhiên, nếu họ qua nhà cửa của ai, hoặc đô thị làng xóm hay trang trại phòng ốc nào mà có kẻ, hoặc nam hoặc nữ, biết làm nghiệp lành dầu bằng tơ tóc, hơn nữa biết treo một tràng phan hoặc một bảo cái, sắm một ít hương hay một ít hoa mà hiến cúng hình tượng Phật đà hay hình tượng Bồ tát, hoặc đốt hương mà hiến cúng và trì tụng bản kinh tôn quí này, thì dầu chỉ được một câu đủ nghĩa hay một bài chỉnh cú, những chúa quỉ như chúng con vẫn kính lạy những người ấy như kính lạy chư Phật trong mọi thì gian quá khứ hiện tại và vị lai. Chúng con lại hạ lịnh cho những quỉ nhỏ nhưng có sức lớn, cho kẻ có trách nhiệm về khu vức ấy, tự nhiên họ ra sức hộ vệ, làm cho việc dữ và việc ngang trái, bịnh dữ và bịnh ngang trái, cho đến mọi sự không vừa ý, đều không đến gần được khu vức có nhà cửa cho đến phòng ốc của những người ấy cư trú, huống chi để cho xâm nhập cửa ngõ. Đức Thế tôn khen chúa quỉ Ác độc, lành thay việc các người với Diêm la thiên tử hộ vệ được như vậy đối với những người thiện nam hay thiện nữ. Như lai cũng khuyến khích Phạn vương Đế thích hộ vệ cho các người.

Khi đức Thế tôn nói lời ấy thì trong pháp hội có một chúa quỉ khác, chúa quỉ Chủ sinh mạng, thưa với ngài, bạch đức Thế tôn, nghiệp của con là chủ trì sinh mạng của người Diêm phù. Lúc sinh cũng như lúc chết, con chủ trì cả. Bản nguyện của con rất muốn ích lợi cho họ. Nhưng tự họ không biết ý con, nên sinh và chết đều không yên. Tại sao như vậy, vì người Diêm phù mới sinh, không kể nam nữ, lúc sắp sinh thì chỉ nên làm lành để ích lợi thêm cho nhà cửa, tự nhiên quỉ thần khu vức họ ở hoan hỷ vô lượng, hộ vệ cả mẹ lẫn con được sự yên vui lớn lắm, ích lợi đến cả thân thuộc; lúc sinh rồi thì phải hết sức thận trọng, tránh sự sát sinh để kiếm vị tươi ngon cung cấp sản phụ hoặc để tụ tập thân thuộc uống ăn rượu thịt, ca hát đàn thổi. Nếu làm như vậy thì làm cho cả mẹ lẫn con không được yên vui. Vì lẽ lúc sinh nở thì vô số quỉ dữ yêu tinh muốn ăn uống máu huyết hôi tanh, chỉ vì con đã ra lịnh trước cho các vị thần linh khu vức, nên họ che chở hộ vệ cho cả mẹ lẫn con được yên vui ích lợi. Sản phụ và thân nhân thấy yên vui ích lợi thì lẽ đáng phải biết làm phước để gián tiếp đáp tạ thần linh khu vức, đằng này ngược lại, sát sinh và tụ tập bà con mà yến tiệc. Làm như vậy là phạm vào tội ác, và đương nhiên tự chịu tai họa là mẹ con cùng bị thương tổn.

Lại nữa, người Diêm phù khi sắp chết, bất cứ họ đã làm lành hay làm dữ, con muốn làm cho ai nấy đều khỏi sa vào đường dữ, huống chi tự họ biết làm lành, gián tiếp tăng thêm năng lực cho con. Tại châu Diêm phù này, những người biết làm lành mà khi sắp chết vẫn có cả trăm cả ngàn quỉ thần ác biến ra giống như cha mẹ bà con của họ, dẫn dụ cho họ sa vào đường dữ, huống chi những kẻ vốn chỉ biết làm ác.

Bạch đức Thế tôn, như vậy, bất cứ nam nữ, người Diêm phù lúc sắp chết, hầu hết nghiệp thức hôn mê, lành không biết dữ không hay, thị giác thính giác hết cả khả năng thấy nghe. Lúc ấy thân nhân của họ nên cố gắng làm việc hiến cúng lớn, trì tụng bản kinh tôn quí, trì niệm danh hiệu của Phật đà hay của Bồ tát. Nhân tố thánh thiện như thế này có năng lực làm cho người chết thoát khỏi đường dữ, quỉ thần thuộc ảnh hưởng ma vương cũng lùi bước và tản mất. Bạch đức Thế tôn, hết thảy mọi người khi sắp chết, nếu được nghe một danh hiệu Phật đà, một danh hiệu Bồ tát, hoặc một câu đủ nghĩa hay một bài chỉnh cú của kinh điển đại thừa, thì con thấy những người ấy, ngoại trừ năm thứ nghiệp dữ vô gián và nghiệp dữ sát hại, còn những nghiệp dữ tương đối nhỏ hơn nhưng vẫn có thể làm cho họ đáng lẽ sa vào đường dữ, thì tức khắc thoát khỏi được cả.

Đức Thế tôn dạy chúa quỉ Chủ sinh mạng, chính vì ông có đức Từ lớn lắm mới phát ra thệ nguyện trọng đại, nguyện ở trong sinh tử mà hộ vệ chúng sinh. Trong thì gian vị lai, con người bất cứ nam nữ, lúc họ sinh hay lúc họ chết, ông đừng bỏ thệ nguyện của mình, hãy hộ vệ cho họ trong tất cả những lúc ấy thoát khỏi tai họa, mãi mãi yên vui. Chúa quỉ Chủ sinh mạng bạch đức Thế tôn, xin đức Thế tôn đừng lo nghĩ. Con nguyện suốt đời con, ý nghĩ này liên tiếp ý nghĩ khác, hộ vệ người Diêm phù, làm cho họ lúc sinh cũng như lúc chết đều được yên vui. Con chỉ cầu nguyện mọi người, lúc sinh hay lúc chết, hãy tin theo lời con, thì không ai mà không thoát khỏi tai họa và được ích lợi lớn lao.

Đức Thế tôn nói với Địa tạng đại sĩ, chúa quỉ Chủ sinh mạng này đã hàng trăm hàng ngàn đời làm chúa quỉ lớn, ở trong sinh tử mà hộ vệ chúng sinh. Vì thệ nguyện từ bi mà vị đại bồ tát này biến hình làm chúa quỉ lớn, thật không phải quỉ đâu. Sau này, qua một trăm bảy chục kiếp nữa, vị đại bồ tát này sẽ thành Phật đà với danh hiệu Vô tướng như lai, thời kỳ tên An lạc, quốc độ tên Tịnh trú. Vô tướng như lai sống lâu với thì gian dài không thể tính kể. Địa tạng đại sĩ, việc của chúa quỉ lớn này đến như thế ấy, không thể nghĩ bàn, nhân loại và chư thiên mà vị ấy cứu độ cũng không thể nào tìm thấy giới hạn và số lượng.

*

Phẩm 9: Xưng Tụng Danh Hiệu Chư Phật

Địa tạng đại sĩ khi ấy thưa rằng, bạch đức Thế tôn, bây giờ con xin vì những người trong thì gian vị lai mà nói đến một sự ích lợi. Trong lúc sống cũng như trong lúc chết, sự ấy làm cho họ được ích lợi vĩ đại. Con thỉnh cầu đức Thế tôn cho phép con nói về sự ấy. Đức Thế tôn dạy, Điạ tạng, đại sĩ muốn thương và cứu hết thảy những kẻ tội khổ trong sáu đường mà định nói đến sự bất khả tư nghị thì thật đúng lúc, nên nói liền đi. Như lai sắp nhập niết bàn; nói đến sự ấy là đại sĩ tự làm cho thệ nguyện của mình sớm được hoàn tất, lại làm cho Như lai hết phải lo nghĩ về mọi người trong hiện tại và trong tương lai.

Địa tạng đại sĩ bạch đức Thế tôn, trong quá khứ, vô số kiếp vô số, có đức Phật xuất thế danh hiệu Vô biên thân như lai. Nam tử hay nữ nhân nào nghe được danh hiệu của ngài mà sinh tâm tôn kính, thì dẫu chỉ trong chốc lát, người ấy cũng vượt được tội nặng sinh tử trong bốn mươi kiếp, huống chi còn biết đắp vẽ hình tượng của ngài mà hiến cúng và xưng tụng. Cái phước mà người này được thật vô lượng vô biên.

Trong quá khứ, cách nay những kiếp nhiều như cát sông Hằng, có đức Phật xuất thế danh hiệu Bảo tánh như lai. Nam tử hay nữ nhân nào nghe được danh hiệu của ngài mà phát tâm qui y, thì dẫu chỉ bằng thì gian đàn chỉ một cái, người ấy đối với tuệ giác vô thượng cũng không còn thoái chuyển.

Trong quá khứ, có đức Phật xuất thế danh hiệu Ba đầu ma thắng như lai. Nam tử hay nữ nhân nào được danh hiệu của ngài lướt qua thính giác, thì người ấy sẽ được ngàn lần sinh lên sáu tầng trời Dục giới, huống chi còn biết chí tâm mà trì niệm danh hiệu ấy.

Trong quá khứ, lâu đến hai lần không thể nói hết về kiếp vô số, có đức Phật xuất thế danh hiệu Sư tử hống như lai. Nam tử hay nữ nhân nào nghe được danh hiệu của ngài mà phát tâm qui y, thì dẫu trong chốc lát mà thôi, người ấy cũng gặp được vô lượng chư Phật xoa trên đỉnh đầu mà thọ ký cho.

Trong quá khứ, có đức Phật xuất thế danh hiệu Câu lưu tôn như lai. Nam tử hay nữ nhân nào nghe được danh hiệu của ngài mà chí thành chiêm bái xưng tụng, thì người ấy, trong pháp hội của ngàn đức Phật đà thuộc về Hiền kiếp này, đều làm vị Phạn vương, và được sự thọ ký tối thượng.

Trong quá khứ, có đức Phật xuất thế danh hiệu Tỳ bà thi như lai. Nam tử hay nữ nhân nào nghe được danh hiệu của ngài thì trong thì gian rất lâu dài không còn sa vào đường dữ, thường sinh trong nhân loại hay trên chư thiên, hưởng sự yên vui tuyệt diệu.

Trong quá khứ, với những kiếp nhiều bằng số cát của vô lượng vô số sông Hằng, có đức Phật xuất thế danh hiệu Bảo thắng như lai. Nam tử hay nữ nhân nào nghe được danh hiệu của ngài thì người ấy tuyệt đối hết còn sa vào đường dữ, thường ở trên chư thiên mà hưởng sự yên vui tuyệt diệu.

Trong quá khứ, có đức Phật xuất thế danh hiệu Bảo tướng như lai. Nam tử hay nữ nhân nào nghe được danh hiệu của ngài mà sinh lòng tôn kính, thì người ấy không lâu sẽ thực hiện đạo quả La hán.

Trong quá khứ, vô lượng kiếp vô số, có đức Phật xuất thế danh hiệu Ca sa tràng như lai. Nam tử hay nữ nhân nào nghe được danh hiệu của ngài thì vượt được tội lỗi sinh tử trong một trăm đại kiếp.

Trong quá khứ, có đức Phật xuất thế danh hiệu Đại thông sơn vương như lai. Nam tử hay nữ nhân nào nghe được danh hiệu của ngài thì người ấy được gặp hằng sa chư Phật, được các ngài nói Phật pháp cho một cách đầy đủ, và quyết chắc thành tựu tuệ giác vô thượng.

Trong quá khứ, có đức Tịnh nguyệt như lai, đức Sơn vương như lai, đức Trí thắng như lai, đức Tịnh danh vương như lai, đức Trí thành tựu như lai, đức Vô thượng như lai, đức Diệu thanh như lai, đức Mãn nguyệt như lai, đức Nguyệt diện như lai … Các đức Như lai như vậy nhiều đến số lượng không thể nói hết. Bạch đức Thế tôn, hiện tại và vị lai, hết thảy mọi người, bất cứ chư thiên hay nhân loại, bất cứ nam tử hay nữ nhân, chỉ được trì niệm danh hiệu của một ngài, công đức cũng đã vô lượng, huống chi được trì niệm nhiều danh hiệu. Những người ấy, lúc sống cũng như lúc chết, tự được ích lợi lớn lao, không bao giờ còn bị sa vào đường dữ.

Những kẻ sắp chết, thân nhân trong nhà, dầu chỉ một người biết vì kẻ ấy mà cao tiếng niệm danh hiệu của một đức Phật đi nữa, kẻ ấy, ngoại trừ năm thứ nghiệp dữ vô gián, dư ra, nghiệp dữ của những quả khổ khác đều tan biến hết thảy. Năm thứ nghiệp dữ vô gián tuy cực kỳ nặng nề, sẽ sa vào địa ngục ấy với cái kiếp cả ức năm vẫn chưa thoát khỏi, nhưng mà nhờ lúc sắp chết được người khác niệm cho danh hiệu của Phật, nên nghiệp dữ ấy cũng tiêu dần đi, huống chi có kẻ tự mình niệm được danh hiệu của Phật. Kẻ ấy, phước được đã vô lượng mà tội diệt cũng vô lượng.

*

Phẩm 10: Trắc Lượng Công Đức Bố Thí

Địa tạng đại sĩ, lúc ấy, vâng theo uy thần của đức Thế tôn, đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, quì xuống, chắp tay mà thưa, bạch đức Thế tôn, con quan sát những kẻ ở trong các nẻo đường của nghiệp, trắc lượng sự bố thí của họ thì thấy có nhẹ có nặng, có sự hưởng phước một đời, có sự hưởng phước mười đời, có sự hưởng phước lớn trong trăm đời ngàn đời. Vì lý do nào, con thỉnh cầu đức Thế tôn dạy cho con rõ. Đức Thế tôn dạy, Địa tạng đại sĩ, hôm nay, trước toàn thể đại hội các chúng tại Đao lợi thiên cung như thế này, Như lai sẽ nói về sự bố thí tại châu Diêm phù, bằng cách trắc lượng công đức nhẹ nặng của sự ấy. Đại sĩ hãy nghe cho kỹ Như lai sẽ nói cho. Địa tạng đại sĩ bạch đức Thế tôn, con hoài nghi về việc ấy, nên rất ước muốn và thích thú được nghe.

Đức Thế tôn dạy Địa tạng đại sĩ, tại châu Diêm phù ở về phía nam này, những vị quốc chúa, tể tướng đại thần, đại trưởng giả, đại sát lợi, đại bà la môn, gặp những người rất thấp, rất nghèo, cho đến tật nguyền, câm ngọng, điếc lác, đui mù, cơ thể đủ cách không hoàn chỉnh như vậy, mà những vị quốc chúa cho đến bà la môn, trong lúc bố thí, vẫn đủ từ tâm rộng rãi, hạ lòng mình xuống, cười đón vui vẻ, tự tay đưa khắp cho họ, hay tự bảo người khác đưa giúp, dịu dàng an ủi, thì những vị quốc chúa cho đến bà la môn ấy được phước như hiến cúng chư Phật nhiều bằng số cát của một trăm sông Hằng. Lý do là vì quốc chúa cho đến bà la môn mà đối với những người rất thấp, rất nghèo, cơ thể không hoàn chỉnh, lại có từ tâm rộng rãi, nên phước của họ được có cái quả báo là trong trăm ngàn đời, bảy thứ quí báu còn luôn luôn đầy đủ, huống chi y phục, thực phẩm và những thứ cần dùng khác.

Địa tạng đại sĩ, trong vị lai, những vị quốc chúa cho đến bà la môn gặp được chùa tháp của Phật, hình tượng của Phật, hình tượng của Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác, đích thân sắm đồ mà hiến cúng, thì những vị quốc chúa cho đến bà la môn ấy được phước ba kiếp làm thân Đế thích, hưởng sự yên vui tuyệt diệu. Nếu biết đem cái phước bố thí như vậy hồi hướng cho pháp giới chúng sinh, thì những vị quốc chúa cho đến bà la môn ấy trong mười kiếp thường làm Phạn vương.

Địa tạng đại sĩ, trong vị lai, những vị quốc chúa cho đến bà la môn gặp được chùa tháp hay kinh tượng của Phật quá khứ bị hư hỏng mà biết phát tâm tu bổ, bằng cách tự mình lo liệu hay khuyến khích người khác, cả trăm cả ngàn người, hiến cúng để kết mối liên hệ tốt đẹp với Phật, thì những vị quốc chúa cho đến bà la môn ấy trăm ngàn đời thường làm Luân vương, còn những người chung sức thì cũng với số đời ấy thường làm quốc chúa. Nếu còn biết đem công đức như vậy đối trước chùa tháp hay kinh tượng đã tu bổ mà phát nguyện hồi hướng cho pháp giới chúng sinh, thì những vị quốc chúa cho đến bà la môn ấy, cùng những người chung sức với họ, đều sẽ làm Phật, vì lẽ quả báo của sự hiến cúng như thế này thật vô lượng vô biên.

Địa tạng đại sĩ, trong vị lai, những vị quốc chúa cho đến bà la môn thấy những người già cả, những người bịnh tật và những kẻ sản phụ mà, dẫu chỉ một lúc, phát ra từ tâm rộng rãi, chu cấp dược phẩm, đồ ăn, thức uống và đồ nằm cho họ yên vui, thì phước này rất bất khả tư nghị, trong một trăm kiếp thường làm chúa trời Tịnh cư, trong hai trăm kiếp thường làm chúa trời Lục dục, cho đến cuối cùng thì trở thành một đức Phật đà chứ không bao giờ còn sa vào đường dữ, cả trăm cả ngàn đời thính giác không nghe đến âm thanh đau khổ (55b) .

Địa tạng đại sĩ, trong vị lai, những vị quốc chúa cho đến bà la môn làm được những sự bố thí như trên đây thì được phước vô lượng. Nếu còn đem phước ấy hồi hướng cho pháp giới chúng sinh, thì bất cứ bố thí nhiều hay ít, cuối cùng thành Phật tất cả, huống chi làm Đế thích, Phạn vương hay Luân vương. Vì lý do này, Địa tạng đại sĩ, hãy khuyến khích mọi người nên học tập sự bố thí như vậy.

Lại nữa, Địa tạng đại sĩ, trong vị lai, thiện nam hay thiện nữ nào y theo giáo pháp của Như lai mà gieo trồng gốc rễ điều lành, thì điều lành ấy dầu chỉ bằng lông tóc cát bụi đi nữa, phước báo họ nhận được cũng không thể ví dụ.

Địa tạng đại sĩ, trong vị lai, thiện nam hay thiện nữ nào gặp được mà biết hiến cúng hình tượng của Phật đà, của Bồ tát, Duyên giác hay Luân vương, thì được phước vô lượng, thường ở trong nhân loại hay trên chư thiên mà hưởng sự yên vui tuyệt diệu. Nếu biết đem phước ấy hồi hướng cho pháp giới chúng sinh, thì phước báo họ nhận được không thể ví dụ.

Địa tạng đại sĩ, trong vị lai, thiện nam hay thiện nữ nào gặp được kinh điển đại thừa, dầu chỉ nghe một bài chỉnh cú hay một câu đủ nghĩa, mà thiết tha, trân trọng, xưng tụng, tôn kính và hiến cúng, thì kẻ đó được phước báo vĩ đại, có tính chất vô lượng vô biên. Nếu biết đem phước ấy hồi hướng cho pháp giới chúng sinh, thì phước báo họ nhận được không thể ví dụ.

Địa tạng đại sĩ, trong vị lai, thiện nam hay thiện nữ nào gặp được chùa tháp của Phật và kinh điển đại thừa, loại mới thì hiến cúng, xưng tụng, tôn kính, chắp tay, chiêm ngưỡng và lễ bái; loại cũ hoặc hỏng thì tu bổ bằng cách phát tâm ra sức một mình, hay khuyến khích nhiều người phát tâm chung sức. Những người chung sức thì trong ba mươi đời thường làm quốc chúa, còn người chủ xướng thì làm luân vương, lại đem pháp lành khuyến hóa thêm nữa cho các vị quốc chúa.

Địa tạng đại sĩ, trong vị lai, thiện nam hay thiện nữ nào y theo giáo pháp của Như lai mà gieo trồng gốc rễ điều lành như bố thí hiến cúng, như tu tạo chùa tháp, như chỉnh trang kinh điển, thì dẫu chỉ bằng một sợi lông, một mảy bụi, một hạt cát, một giọt nước đi nữa, điều lành như vậy nếu biết đem hồi hướng cho pháp giới chúng sinh, thì phước báo người ấy nhận được là trăm ngàn đời hưởng sự yên vui tuyệt diệu và thượng đẳng. Nếu chỉ biết đem cầu nguyện cho thân thuộc trong gia đình của mình, hay chỉ biết đem cầu nguyện cho lợi ích bản thân, thì kết quả chỉ hưởng được yên vui trong ba đời mà thôi. Như vậy thì biết bỏ một mới được cả vạn.

Địa tạng đại sĩ, nhân tố và phước báo của sự bố thí là như vậy.

*

Phẩm 11: Thần Đất Hộ Trì

Bấy giờ thần đất Cứng chắc bạch đức Thế tôn, từ xưa đến nay, con chiêm ngưỡng và lễ bái vô lượng bồ tát đại sĩ, toàn là những vị mà thần lực và tuệ giác đều vĩ đại và siêu việt, hóa độ sâu rộng hết thảy chúng sinh. Trong các vị ấy, Địa tạng đại sĩ có thệ nguyện sâu nặng hơn cả. Bạch đức Thế tôn, đối với châu Diêm phù này, Địa tạng đại sĩ có sự liên hệ lớn lao. Các vị đại bồ tát khác, như ngài Văn thù, ngài Phổ hiền, ngài Quan âm, ngài Di lạc, tuy cũng phân hóa thân hình cả trăm cả ngàn mà hóa độ sâu rộng sáu đường chúng sinh, nhưng thệ nguyện của các ngài vẫn có lúc hoàn tất. Đến như Địa tạng đại sĩ thệ nguyện hóa độ sáu đường chúng sinh thì số lượng về kiếp mà thệ nguyện ấy trải qua, nhiều đến như số cát của ngàn lần trăm ức sông Hằng.

Bạch đức Thế tôn, con thấy, trong vị lai, và ngay trong hiện tại, người nào, nơi chỗ mình cư trú mà xoay qua hướng nam, trên đất sạch sẽ, lấy đất đá tre gỗ mà làm khám thất (56) , trong đó đắp vẽ hình tượng Địa tạng đại sĩ, hay đem vàng bạc đồng sắt đúc hình tượng ấy, rồi đốt hương mà hiến cúng, chiêm ngưỡng, lễ bái, xưng tụng, thì người ấy, và chỗ ở của người ấy, được mười sự ích lợi: một là đất đai đầy những chất tốt, hai là nhà cửa luôn luôn yên vui, ba là người chết sinh lên chư thiên, bốn là người sống tăng thêm tuổi thọ, năm là ước muốn đúng đều toại ý, sáu là không bị tai họa nước lửa, bảy là không bị mọi sự hao tổn, tám là tuyệt hết mọi thứ ác mộng, chín là đi về quỉ thần hộ trì, mười là thường gặp nhân tố thánh thiện. Bạch đức Thế tôn, trong vị lai, và ngay trong hiện tại, người nào nơi chỗ mình ở mà hướng về phía nam, làm được sự hiến cúng như con đã nói, thì được những sự ích lợi cũng như con đã nói.

Thần đất Cứng chắc lại bạch đức Thế tôn, trong vị lai, thiện nam hay thiện nữ nào, nơi chỗ họ ở có kinh điển và hình tượng của Địa tạng đại sĩ, người ấy lại trì tụng kinh điển và hiến cúng hình tượng như vậy, thì cả ngày lẫn đêm, con luôn luôn vận dụng thần lực của con mà hộ vệ cho họ, đến nỗi thủy tai, hỏa hoạn, trộm cướp, giặc giã, tai họa ngang trái lớn, tai họa ngang trái nhỏ, hết thảy việc dữ đều tan biến cả.

Đức Thế tôn dạy, thần đất Cứng chắc, thần lực của ông lớn lắm, ít có thần nào sánh nổi. Vì lẽ đất đai Diêm phù đều nhờ ông gìn giữ. Cỏ cây, cát đá, lúa mè, tre lau, thóc gạo, đồ quí, tất cả do đất mà có — tất cả đều nhờ thần lực của ông. Vậy mà ông lại còn luôn luôn xưng tụng sự ích lợi chúng sinh của Địa tạng đại sĩ, thì công đức và thần lực của ông gấp trăm ngàn lần đối với các vị thần đất bình thường. Vị lai, thiện nam hay thiện nữ nào biết hiến cúng hình tượng và trì tụng kinh điển của Địa tạng đại sĩ, và dẫu chỉ biết làm theo một việc của kinh điển ấy, kinh Bản nguyện của Địa tạng đại sĩ, mà thôi, ông cũng nên vận dụng thần lực của mình mà hộ vệ cho họ, đừng để tai họ phải nghe những thứ tai hại và bất như ý, huống chi để thân họ phải chịu những thứ ấy.

Không phải chỉ mình ông biết hộ vệ cho những người ấy, mà Đế thích, Phạn vương, chư thiên và những kẻ tùy thuộc của họ, cũng hộ vệ cho những người ấy. Tại sao những người ấy được sự hộ vệ của bao nhiêu người hiền có thánh có như vậy? Vì lẽ lễ bái hình tượng Địa tạng đại sĩ và trì tụng kinh Bản nguyện của ngài thì đương nhiên cuối cùng thoát khỏi biển khổ, thực hiện niết nàn. Đó là lý do có được sự hộ vệ lớn lao.

*

Phẩm 12: Lợi Ích Của Sự Thấy Nghe

Vào lúc bấy giờ, từ trên đỉnh đầu, đức Thế tôn phóng ra trăm ngàn vạn ức tia sáng lớn: tia sáng trắng và trắng lớn, tia sáng điềm tốt và điềm tốt lớn, tia sáng ngọc và ngọc lớn, tia sáng tía và tía lớn, tia sáng xanh và xanh lớn, tia sáng biếc và biếc lớn, tia sáng hồng và hồng lớn, tia sáng lục và lục lớn, tia sáng vàng và vàng lớn, tia sáng mây lành và mây lành lớn, tia sáng ngàn vầng và ngàn vầng lớn, tia sáng vầng ngọc và vầng ngọc lớn, tia sáng mặt trời và mặt trời lớn, tia sáng mặt trăng và mặt trăng lớn, tia sáng cung điện và cung điện lớn (57) , tia sáng mây biển và mây biển lớn … Từ trên đỉnh đầu phóng ra những tia sáng như vậy rồi, đức Thế tôn lại xuất ra âm thanh tuyệt diệu, nói với toàn thể đại hội các chúng, trong đó có tám bộ thiên long, nhân loại và loài khác, rằng hãy lắng nghe, hôm nay, tại Đao lợi thiên cung, Như lai sẽ xưng tụng tán dương những sự sau đây của Địa tạng đại sĩ: sự đem lại lợi ích trong nhân loại và chư thiên hay là sự bất khả tư nghị, sự làm cho nhân tố thánh thiện ấy siêu việt lên hay là sự thực hiện quả vị thập địa, sự cứu cánh không thoái chuyển đối với tuệ giác vô thượng (58) .

Khi đức Thế tôn nói như vậy thì trong pháp hội có một vị đại bồ tát danh hiệu Quan thế âm, từ chỗ ngồi đứng dậy, quì xuống, chắp tay mà thưa, bạch đức Thế tôn, Địa tạng đại sĩ hoàn thành đại từ bi, xót thương chúng sinh tội khổ, nên trong ngàn vạn ức thế giới hệ, đại sĩ phân hóa ngàn vạn ức thân hình. Công đức và thần lực bất khả tư nghị của đại sĩ, con đã được nghe đức Thế tôn cùng chư Thế tôn trong mười phương, khác nhau cơ quan phát âm mà lại đồng nhất về lời tiếng, xưng tụng rằng, dẫu chư Phật quá khứ hiện tại và vị lai diễn đạt công đức và thần lực ấy cũng không cùng tận. Vừa rồi lại được đức Thế tôn nói cho toàn thể đại hội các chúng biết đức Thế tôn muốn tán dương những việc của Địa tạng đại sĩ, đại loại như việc ích lợi bất khả tư nghị của ngài. Do vậy mà con thỉnh cầu đức Thế tôn vì bao kẻ trong hiện tại và vị lai, trong đó có tám bộ thiên long, thực hiện sự tán dương ấy, để cho họ biết mà chiêm ngưỡng và hưởng phước (59) .

Đức Thế tôn dạy, đại bồ tát Quan thế âm, đối với thế giới hệ Sa bà này, ông có sự liên hệ lớn lao. Thiên long, nam nữ, quỉ thần, cho đến những người tội khổ trong sáu đường, ai nghe danh hiệu của ông, ai thấy hình tượng của ông, ai ngưỡng mộ ông, ai xưng tụng ông, những người ấy đối với tuệ giác vô thượng quyết chắc không còn thoái chuyển, thường sinh trong nhân loại hay trên chư thiên, hưởng thụ đầy đủ sự yên vui tuyệt diệu, và khi nhân quả sắp thành thục thì họ sẽ gặp Phật và được Phật thọ ký cho. Nay, vì lòng đại từ bi, ông xót thương chúng sinh trong đó có tám bộ thiên long, nên muốn nghe Như lai nói những sự ích lợi bất khả tư nghị của Địa tạng đại sĩ, thì ông hãy nghe cho kỹ Như lai sẽ nói đến. Đại bồ tát Quan thế âm thưa, bạch đức Thế tôn, con xin tuân lời ngài, nguyện muốn được nghe.

Đức Thế tôn dạy, Quan thế âm, vị lai hay hiện tại, trong các thế giới hệ, người nào trong chư thiên hưởng hết phước chư thiên, năm sự suy biến hiện ra, đến nỗi có thể sa vào đường dữ; thì người ấy, không kể nam hay nữ, trong lúc những sự suy biến hiện ra mà thấy được hình tượng hay nghe được danh hiệu của Địa tạng đại sĩ, nhất tâm chiêm ngưỡng và lễ bái (60) , thì chuyển tăng phước báo chư thiên, hưởng thụ hạnh phúc to lớn, và trong một thì gian lâu dài không sa vào đường dữ, huống chi thấy và nghe về Địa tạng đại sĩ rồi hiến cúng bằng hương hoa, y phục, ẩm thực, bảo vật, vòng hoa (61) , thì phước và phước báo của người ấy đạt được thật vô lượng vô biên.

Quan thế âm, vị lai hay hiện tại, trong các thế giới hệ, bất cứ người nào thuộc sáu đường chúng sinh, khi sắp chết mà được nghe danh hiệu Địa tạng đại sĩ, và chỉ mỗi một âm thanh ấy đi vào thính giác mà thôi, thì người ấy trong một thì gian lâu dài không phải trải qua cái khổ của ba đường dữ. Huống chi khi sắp chết, cha mẹ bà con biết đem nhà cửa, tài sản, bảo vật hay y phục của họ làm chi phí mà đắp vẽ hình tượng của Địa tạng đại sĩ, hơn nữa, cha mẹ bà con làm cho người ấy trong giờ phút sắp chết mà chưa chết, mắt thấy được hay tai nghe được, cùng lắm thức biết được, rằng cha mẹ bà con đem nhà cửa bảo vật của mình, vì mình mà đắp vẽ hình tượng Địa tạng đại sĩ. Như vậy, người ấy nếu nghiệp báo chỉ chịu bịnh nặng, thì nhờ công đức này mà lành ngay, tăng thêm đời sống; còn nếu nghiệp báo kết thúc sinh mạng, lại có nghiệp dữ đáng sa đường dữ, thì nhờ công đức này mà chết rồi sinh trong nhân loại hay trên chư thiên, hưởng sự yên vui tuyệt diệu, mọi thứ nghiệp dữ rồi ra tiêu tan được cả.

Quan thế âm, trong vị lai, nam tử hay nữ nhân nào, khi mới sinh hay lúc lên ba lên năm, lên đến mười tuổi trở lui, chết mất cha mẹ anh em chị em, lớn lên, người ấy tưởng nhớ cha mẹ thân thuộc, nghĩ không biết sa vào chỗ nào, sinh đến thế giới nào, hay sinh lên tầng trời nào. Người ấy nếu biết đắp vẽ hình tượng Địa tạng đại sĩ, hoặc nghe được danh hiệu của ngài, rồi nhất tâm chiêm bái. Từ một ngày cho đến bảy ngày, người ấy đừng suy giảm tâm chí ban đầu, chí thành trong việc nghe danh hiệu hay thấy hình tượng đều chiêm bái hiến cúng. Như vậy thì cha mẹ thân thuộc người ấy nếu vì nghiệp dữ mà đã sa đường dữ, và kể ra đáng lẽ phải trải qua số lượng cả kiếp, nhưng nhờ người ấy, vốn là con cái hay anh em chị em của họ, làm cái công đức đắp vẽ chiêm bái hình tượng Địa tạng đại sĩ, nên tức khắc thoát khỏi đường dữ, sinh lên nhân loại hay chư thiên, hưởng sự yên vui tuyệt diệu. Còn cha mẹ thân thuộc của người ấy nếu có nghiệp lành, đã sinh trong nhân loại hay trên chư thiên, hưởng sự yên vui tuyệt diệu, thì nhờ công đức trên mà tăng thêm cho nhân tố thánh thiện, sự yên vui họ đang hưởng cũng tăng thêm vô lượng (62) . Người ấy nếu có thể thêm nữa, trong ba lần bảy ngày, nhất tâm chiêm bái hình tượng Địa tạng đại sĩ, trì niệm danh hiệu của đại sĩ đủ một vạn biến, thì sẽ được đại sĩ hiện cái thân không biên cương, nói rõ cho biết chỗ sinh của cha mẹ thân thuộc; hoặc trong mộng, người ấy được đại sĩ dùng thần lực đích thân đưa đến mọi thế giới mà gặp cha mẹ thân thuộc.

Người ấy, hơn nữa, mỗi ngày trì niệm danh hiệu Địa tạng đại sĩ một ngàn lần, và trì niệm một ngàn ngày như vậy, thì bản thân còn được đại sĩ khuyến cáo quỉ thần khu vức người ấy cư trú hộ vệ người ấy suốt đời, hiện tại thì ăn mặc sung túc, không bịnh không khổ, đến nỗi mọi sự ngang trái không hề xâm nhập cửa ngõ, huống chi xâm nhập thân thể, và cuối cùng thì người ấy quyết chắc được đại sĩ xoa đầu mà thọ ký cho (63) .

Quan thế âm, trong vị lai, thiện nam hay thiện nữ nào muốn phát từ tâm quảng đại cứu độ tất cả, muốn tu tuệ giác vô thượng, muốn siêu thoát ba cõi, những người có những chí nguyện như vậy mà thấy hình tượng hay nghe danh hiệu của Địa tạng đại sĩ, chí tâm qui y, hiến cúng bằng hương hoa, y phục, bảo vật, ẩm thực, rồi chiêm ngưỡng và lễ bái, thì chí nguyện của họ sẽ hoàn thành một cách mau chóng, thoát khỏi mọi sự trở ngại.

Quan thế âm, trong vị lai, thiện nam hay thiện nữ nào muốn cầu trăm ngàn vạn ức ước nguyện và sự việc, về hiện tại cũng như tương lai, thì hãy qui y, chiêm ngưỡng, lễ bái, hiến cúng và xưng tụng Địa tạng đại sĩ qua hình tượng của ngài, như vậy thì ước nguyện và sự việc mà họ cầu sẽ thành tựu được cả. Lại nguyện cầu Địa tạng đại sĩ từ bi hộ trì mãi mãi cho con, thì người ấy, trong mộng, được đại sĩ xoa đầu mà thọ ký cho.

Quan thế âm, trong vị lai, thiện nam hay thiện nữ nào, đối với kinh điển đại thừa, vô cùng tôn trọng, quí báu, phát ra tâm chí siêu việt muốn học muốn tụng. Nhưng, dầu gặp minh sư chỉ dạy và chăm nom (64) để học cho thuộc, mà thuộc đâu quên đó, cả tháng liền năm vẫn không tụng được. Như vậy là vì thiện nam hay thiện nữ ấy (65) bị sự chướng ngại của nghiệp cũ chưa được trừ bỏ, nên đối với kinh điển đại thừa không có khả năng học tụng. Người ấy, nghe được danh hiệu và thấy được hình tượng của Địa tạng đại sĩ, hãy đem tâm nguyện của mình mà cung kính khấn bạch, rồi hiến cúng hương hoa, y phục, đồ ăn uống, đồ thưởng ngoạn. Lấy một chén nước trong và sạch, đặt trước hình tượng đại sĩ suốt một ngày đêm, rồi chắp tay xin uống, với sự xoay đầu qua hướng nam. Khi nước sắp vào miệng và khi nước vào miệng, hãy chí thành, trịnh trọng. Uống rồi, phải cữ năm vị cay nồng, cữ rượu thịt, cữ tà dâm (66) , cữ nói dối và cữ mọi sự sát sinh. Cứ như vậy trong một lần đến ba lần bảy ngày, thì thiện nam hay thiện nữ ấy, trong mộng, thấy rõ Địa tạng đại sĩ hiện thân không biên cương, rưới nước trên đỉnh đầu của mình. Người ấy tỉnh mộng tức khắc thông minh, kinh điển đại thừa lướt qua thính giác là nhớ mãi, không còn quên mất dầu chỉ một câu đủ nghĩa hay một bài chỉnh cú.

Quan thế âm, trong vị lai, bao nhiêu người thiếu ăn thiếu mặc, ước nguyện không thỏa, bịnh tật đã nhiều, tai biến càng không ít, nhà cửa không yên, thân thuộc tan tác, mọi sự ngang trái phần nhiều cùng đến ngổ ngáo thân họ, chiêm bao cũng phần nhiều kinh hãi. Những người như vậy, nghe danh hiệu hay thấy hình tượng Địa tạng đại sĩ mà hết lòng kính lễ và trì niệm đủ số vạn biến, thì bao nhiêu việc trái ý cực bụng đều tan biến dần đi, yên vui hiện ra, ăn mặc đầy đủ, đến nỗi chiêm bao cũng toàn an lạc.

Quan thế âm, trong vị lai, thiện nam hay thiện nữ nào vì việc làm ăn, vì nhiệm vụ công tư, vì việc sống chết, vì sự cấp bách, mà phải vào rừng núi hay vượt sông biển, gặp nước lớn hay qua đường hiểm, thì người ấy trước đó hãy trì niệm danh hiệu Điạ tạng đại sĩ đủ số vạn lần, như vậy qua chỗ nào cũng được quỉ thần hộ vệ, đi đứng nằm ngồi đều được giữ cho yên mãi, dầu gặp phải cọp sói, sư tử, mọi thứ độc hại, cũng không thể tổn thương.

Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Quan thế âm, đối với châu Diêm phù này, Địa tạng đại sĩ có sự liên hệ lớn lao, đến nỗi nếu nói đến mọi sự ích lợi mà chúng sinh thấy nghe về ngài, thì trong một kiếp cả trăm cả ngàn năm nói cũng không hết. Vì lý do ấy, đại bồ tát Quan thế âm, ông nên vận dụng thần lực mà truyền bá kinh này, cho người quốc độ Sa bà trăm ngàn vạn kiếp mãi mãi yên vui. Vào lúc bấy giờ, đức Thế tôn lại nói những lời chỉnh cú sau đây.

Như lai quan sát
thần lực Địa tạng,
thấy hằng sa kiếp
nói cũng không cùng.
Thấy hình nghe tên
vị đại sĩ này,
chí thành chiêm bái
dầu chỉ một lúc,
vẫn được lợi ích
ở trong nhân loại
và trên chư thiên
qua vô số việc.
*
Bất cứ nam nữ
hay là thiên long,
quả báo sắp hết
sắp sa đường dữ,
nhưng biết chí thành
qui y đại sĩ,
thì thêm tuổi thọ
lại hết nghiệp dữ.
*
Từ nhỏ đã mất
cha mẹ thân nhân,
không biết nghiệp thức
sinh nơi chốn nào,
anh em chị em
cùng với cha mẹ,
lớn lên nghĩ đến
chẳng biết sinh đâu.
Thì hãy đắp vẽ
hình tượng đại sĩ,
thiết tha chiêm bái
không chút lãng xao,
liên tiếp ba tuần
niệm hiệu đại sĩ,
đại sĩ sẽ hiện
thân không biên cương,
chỉ cho biết chỗ
thân nhân sinh đến,
dầu sa đường dữ
cũng thoát được liền.
Nếu không thoái chuyển
thành tâm ban đầu,
thì được đại sĩ
xoa đầu thọ ký.
*
Người nào muốn tu
tuệ giác vô thượng,
muốn giải thoát cả
khổ đau ba cõi,
đã có tâm chí
đại từ bi ấy,
trước hãy chiêm bái
hình tượng đại sĩ,
những chí nguyện này
thành tựu mau chóng,
bao nhiêu nghiệp chướng
hết còn cản trở.
*
Những người phát tâm
trì tụng kinh pháp
để cứu vớt người
vượt lên bờ giác;
tuy có chí nguyện
siêu việt như vậy,
nhưng học là quên
phần nhiều sót mất,
là vì nghiệp cũ
làm cho chướng ngại,
không thể nhớ thuộc
kinh pháp đại thừa.
Thì hãy hiến cúng
Địa tạng đại sĩ
hương hoa y phục
ẩm thực ngọa cụ,
đặt trước đại sĩ
chén nước trong sạch,
suốt một ngày đêm
cầu nguyện mà uống;
lòng phải cẩn trọng,
cữ năm vị tân,
cữ rượu cữ thịt
tà dâm vọng ngữ,
càng cữ sát sinh
suốt trong ba tuần,
chí thành trì niệm
danh hiệu đại sĩ,
tức thì mộng thấy
thân không biên cương,
tỉnh dậy liền được
thính giác sắc bén (67) ,
kinh pháp đại thừa
lướt qua thính giác,
là ngàn vạn kiếp
không bao giờ quên.
Thần lực siêu việt
của vị đại sĩ
làm cho người này
được tuệ giác ấy.
*
Bao người nghèo nàn
mà lại bịnh tật,
nhà cửa suy bại
thân thuộc ly tan,
đến nỗi chiêm bao
cũng toàn kinh hoàng,
ước vọng trái ý
không chút thỏa dạ.
Thì hãy chí tâm
chiêm bái đại sĩ,
hết thảy việc xấu
đều tan biến cả,
đến nỗi trong mộng
cũng toàn yên vui,
ăn mặc sung túc
quỉ thần hộ vệ.
*
Vào trong rừng núi
vượt qua biển cả,
cầm thú đã dữ
người còn dữ hơn,
thần dữ quỉ dữ
hợp với cuồng phong,
bao nhiêu gian nan
bao nhiêu nguy khốn.
Thì hãy trước đó
chiêm bái hiến cúng
Địa tạng đại sĩ
qua hình tượng ngài,
mọi sự dữ dội
ở trong rừng sâu
hay trong biển cả
biến mất hết thảy.
*
Quan âm tịnh thánh,
hãy chú tâm ý
nghe Như lai nói,
Địa tạng đại sĩ
có vô cùng tận
sự bất tư nghị.
Kiếp ngàn vạn năm
nói cũng không cùng
để tả thần lực
Địa tạng đại sĩ.
Ai nghe danh hiệu
Địa tạng đại sĩ,
ai thấy hình tượng
Địa tạng đại sĩ,
mà biết trì niệm
và biết chiêm bái,
lại hiến hương hoa
y phục ẩm thực,
thì trăm ngàn kiếp
hưởng phước tuyệt diệu.
Nếu đem phước ấy
hiến cho tất cả,
cuối cùng làm Phật
siêu thoát sinh tử.
Vì vậy Quan âm,
hãy nói rộng rãi
cho mọi quốc độ
biết được kinh này.

*

Phẩm 13: Thế Tôn Ký Thác

Khi ấy đức Thế tôn lại đưa cánh tay vàng xoa trên đỉnh đầu Địa tạng đại sĩ mà bảo, Địa tạng, Địa tạng, thần lực của đại sĩ thật là siêu việt, từ bi của đại sĩ thật là siêu việt, tuệ giác của đại sĩ thật là siêu việt, hùng biện của đại sĩ thật là siêu việt. Dầu chính mười phương chư Phật như lai tán dương và diễn đạt sự siêu việt của Đại sĩ trong một kiếp ngàn vạn năm cũng không thể cùng tận. Địa tạng, Địa tạng, đại sĩ hãy nhớ, hôm nay, tại Đao lợi thiên cung, trước đại hội gồm có các đức Phật đà, các đại bồ tát, cùng tám bộ thiên long, nhiều đến trăm ngàn vạn ức hai lần không thể nói hết, một lần nữa Như lai đem nhân loại, chư thiên và mọi loài khác, tất cả những người chưa thoát khỏi ba cõi mà vẫn còn ở trong nhà lửa, ký thác cho đại sĩ. Đại sĩ đừng để họ sa vào đường dữ dầu chỉ một ngày đêm, huống chi để họ bị sa đến tận vô gián a tỳ, nơi đủ cả năm sự không xen cách, và trải qua cái kiếp ngàn vạn ức năm, khó mong thoát khỏi.

Địa tạng đại sĩ, người Diêm phù ý chí và tánh tình thật là bất định, phần nhiều làm ác. Giả sử tâm lý hiền lành có phát ra đi nữa thì phút chốc cũng biến mất, nhưng gặp điều kiện độc ác thì độc ác tăng lên ngay trong mỗi ý tưởng. Vì lý do ấy, Như lai đã phân hóa thân hình ra cả ngàn trăm ức (68) , tùy trình độ và tâm lý mọi người mà hóa độ cho họ. Địa tạng đại sĩ, hôm nay Như lai thiết tha đem họ ký thác cho đại sĩ. Trong vị lai, người nào trong chư thiên, hay thiện nam thiện nữ nào trong nhân loại, biết y theo giáo pháp của Như lai mà gieo trồng gốc rễ điều lành, thì điều lành ấy dầu chỉ bằng một sợi lông, một mảy bụi, một hạt cát, một giọt nước, đại sĩ cũng vận dụng thần lực mà nâng đỡ giữ gìn cho họ bước lần lên tuệ giác vô thượng, đừng để lui mất. Hơn nữa, Địa tạng đại sĩ, trong vị lai, hoặc chư thiên, hoặc nhân loại, kẻ nào tùy theo nghiệp dữ mà sa vào đường dữ, khi sắp vào đó hay đã đến ngay đầu cửa rồi, kẻ ấy niệm được một danh hiệu Phật đà, một danh hiệu Bồ tát, hoặc nhớ được một câu đủ nghĩa hay một bài chỉnh cú của kinh điển đại thừa, thì đại sĩ hãy vận dụng thần lực mà cứu họ, bằng cách hiện thân không biên cương ra ngay nơi chỗ của họ, phá nát địa ngục cho họ sinh lên chư thiên, hưởng sự yên vui tuyệt diệu. Đức Thế tôn lại nói những lời chỉnh cú sau đây.

Trời người và các loài
trong hiện tại vị lai,
Như lai lại thiết tha
đem ký thác đại sĩ.
Đại sĩ dùng thần lực
phương tiện mà cứu độ,
đừng để họ sa lạc
vào trong các đường dữ.

Địa tạng đại sĩ, lúc bấy giờ, quì gối, chắp tay mà thưa, bạch đức Thế tôn, xin đức Thế tôn đừng lo nghĩ. Trong vị lai, thiện nam hay thiện nữ nào y theo giáo pháp của đức Thế tôn mà có một ý niệm tôn kính thôi, con cũng dùng trăm ngàn cách hóa độ cho họ siêu thoát sinh tử một cách mau chóng; huống chi nghe những việc lành của đức Thế tôn dạy mà thực tu trong từng ý nghĩ, thì những người ấy đối với tuệ giá vô thượng tự nhiên được con hộ trì mà vĩnh viễn không còn thoái chuyển.

Địa tạng đại sĩ nói lời ấy rồi, trong đại hội có một vị bồ tát danh hiệu Hư không tạng, thưa rằng, bạch đức Thế tôn, tại Đao lợi thiên cung này, từ lúc mới đến cho đến bây giờ, con được nghe đức Thế tôn xưng tụng thần lực của Địa tạng đại sĩ thật là siêu việt. Bạch đức Thế tôn, như vậy, trong vị lai, thiện nam hay thiện nữ nào, cho đến tám bộ thiên long, nghe được kinh điển và danh hiệu của Địa tạng đại sĩ, hoặc chiêm bái hình tượng của ngài thì được bao nhiêu phước? Con thỉnh cầu đức Thế tôn vì bao kẻ trong vị lai, và ngay trong hiện tại, mà dạy một cách khái lược về cái phước ấy.

Đức Thế tôn dạy bồ tát Hư không tạng, hãy nghe cho kỹ Như lai sẽ phân tích về cái phước ấy. Trong vị lai, thiện nam hay thiện nữ nào, thấy được hình tượng hay nghe được kinh điển của Địa tạng đại sĩ mà biết trì tụng, hiến cúng hương hoa, ẩm thực, y phục, trân bảo, rồi xưng tụng, chiêm bái, thì được hai mươi tám ích lợi: một là thiên chúng long chúng hộ trì thương tưởng, hai là phước báo ngày càng thêm lên, ba là tập hợp nhân tố thánh thiện và thượng đẳng, bốn là tuệ giác bồ đề không còn thoái chuyển, năm là ăn mặc đầy đủ, sáu là tật bịnh và bịnh truyền nhiễm không đến với họ, bảy là không bị tai nạn về nước và lửa, tám là không bị tai nạn trộm cướp giặc giã, chín là ai thấy cũng khâm phục và tôn kính, mười là quỉ thần giúp đỡ giữ gìn, mười một là thân nữ nhân sẽ chuyển được thân nam tử, mười hai là sẽ làm con gái vương giả hay đại thần, mười ba là tướng mạo đẹp và đoan trang, mười bốn là phần nhiều sinh lên chư thiên, mười lăm là hoặc làm quốc chúa, mười sáu là biết được đời trước, mười bảy là cầu gì cũng thỏa, mười tám là thân quyến yên vui, mười chín là tai họa ngang trái biến mất tất cả, hai mươi là thoát khỏi đường dữ một cách lâu dài, hai mươi mốt là đi đâu cũng thông suốt, hai mươi hai là trong mộng cũng yên vui, hai mươi ba là gia tiên thoát khổ, hai mươi bốn là chỉ sinh ra bằng phước đức đã làm, hai mươi lăm là các vị thánh giả đều xưng tụng, hai mươi sáu là thông minh lanh lợi, hai mươi bảy là giàu lòng từ bi, hai mươi tám là cứu cánh thành Phật.

Thêm nữa, Hư không tạng, hiện tại hay vị lai, tất cả thiên long quỉ thần, ai được niệm danh hiệu Địa tạng đại sĩ, ai được lạy hình tượng Địa tạng đại sĩ, hoặc nghe hạnh nguyện của Địa tạng đại sĩ mà xưng tụng, chiêm ngưỡng và lễ bái, thì được bảy ích lợi: một là vượt lên địa vị thánh giả một cách mau chóng, hai là nghiệp dữ tiêu tan, ba là chư Phật hộ trì, bốn là tuệ giác bồ đề không hề thoái chuyển, năm là tăng thêm năng lực đã có, sáu là biết được đời trước, bảy là cứu cánh thành Phật.

Lúc bấy giờ các đức Phật đà, các đại bồ tát, cùng tám bộ thiên long, số lượng đạt đến hai lần không thể nói hết, đã từ mười phương quốc độ hội đến Đao lợi thiên cung, nghe đức Thích ca mâu ni thế tôn xưng tụng sự siêu việt về thần lực vĩ đại của Địa tạng đại sĩ, ai cũng tán dương là việc chưa từng có. Đao lợi chư thiên tung rải như mưa bao nhiêu là hương hoa, y phục và chuỗi ngọc của chư thiên, hiến cúng đức Thích ca mâu ni thế tôn và ngài Địa tạng đại sĩ rồi, toàn thể đại hội, một lần nữa, cùng chiêm ngưỡng, lễ bái hay chắp tay mà cáo thoái.

[Hết Kinh]



Ghi Chú

Ghi Chú (1) Bản dịch này đáng lẽ cũng chia kinh Địa tạng làm 2 cuốn như Chính 13/777-790, nhưng vẫn chia làm 3 cuốn như nguyên bản thường là để dễ thích ứng với thì gian trì tụng.

Ghi Chú (2) Tạm dịch tên 23 định như sau: 1. định có thể phát ra trí giác, 2. định đầy đủ trí giác vô biên, 3. định đầy đủ trí giác trong sạch, 4. định đầy đủ trí giác hổ thẹn, 5. định đầy đủ trí giác các thừa, 6. định đầy đủ trí giác không lo, 7. định đầy đủ trí giác thần thông, 8. định soi khắp thế gian, 9. định đèn đuốc chư Phật, 10. định ánh sáng kim cương, 11. định trí giác khó phá, 12. định ánh sáng của điện, 13. định đầy đủ mùi vị hơn hết, 14. định đầy đủ tinh chất hơn hết, 15. định đầy đủ đồ dùng hơn hết, 16. định dẫn ra trí tuệ không cãi, 17. định dẫn ra phấn chấn hơn hết, 18. định dẫn ra ánh sáng đường đời, 19. định khéo ở kim cương hơn hết, 20. định dẫn ra quán sát tăng thượng, 21. định đầy đủ từ bi, 22. định dẫn ra phước đức, 23. định ánh sáng điện biển.

Ghi Chú (3) Ngũ trược, hay ngũ trược ác thế, mà trong kinh Thập luân, ngài Huyền tráng đã dịch ngũ trược ác thời, là thời kỳ dữ dội đầy cả 5 thứ vẩn đục — thời kỳ mà nói chung là kiếp trược (thời kỳ vẩn dục: thời kỳ dữ dội), vì có kiến trược (kiến thức vẩn đục: kiến thức sai lầm), có phiền não trược (tâm lý vẩn đục: tâm lý độc ác), có chúng sinh trược (con người vẩn đục: con người xấu kém), và có mạng trược (đời sống vẩn đục: đời sống ngắn ngủi). Giai đoạn ngũ trược thì dẫn đến giai đoạn tam tai, tức là 3 tai nạn đao binh, tật dịch, cơ cẩn (chiến tranh, nhiễm độc, nhân mãn). Sự dữ dội của tam tai thì cứ nhìn vào thế giới ngày nay cũng đủ thấy, không đợi phải tả lúc ấy con người thấy cái gì cũng là vũ khí, và một lá cỏ giết người còn hơn tất cả binh chủng toàn cõi Ấn độ xưa.

Ghi Chú (4) Phải nói rõ vị thứ đối với mình của người mình cầu an cầu siêu cho. Nếu nhiều người cùng lúc lễ bái trì tụng thì chỉ bạch “Đệ tử chúng con nguyện cầu siêu cho những người quá vãng và cầu an cho những người hiện còn”.

Ghi Chú (5) Khuy cơ đại sư nói, khi giải thích chữ Phật trong câu “nhất thời Phật tại”, rằng xét bản chữ Phạn của các kinh đều gọi đức bổn sư là Bạc dà phạn (Thế tôn). Đức Bổn sư dạy để chữ ấy vì chữ ấy gồm đủ các đức tính. Nhưng dịch chủ ý muốn vắn tắt nên để chữ Phật (Vạn 33/71B).

Ghi Chú (6) Hai lần không thể nói hết là 1 trong những số rất nhiều.

Ghi Chú (7) Thế giới hệ nghĩa là một hệ thống thế giới. Thế giới, quốc độ, hầu hết những chữ ấy tôi đã đổi ra chữ thế giới hệ, để mong hình dung nổi một thế giới của hóa thân Phật giáo hóa. Nên tạm đối chiếu thế giới hệ như vậy với các thiên hà trong thiên văn. Nhưng thế giới hệ chỉ là đại thiên thế giới (tam thiên đại thiên thế giới), chưa phải hoa tạng thế giới hay thế giới chủng.

Ghi Chú (8) Chính văn bất khả tư nghị có khi để nguyên, có khi được dịch là siêu việt, có khi được dịch là không thể nghĩ bàn. Bất khả tư nghị có nghĩa là siêu việt tư duy và mô tả. Ở chỗ khác, từ ngữ này có khi chỉ cho thật tướng “ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt”: chỉ cho Không. Nhưng ở kinh này thì từ ngữ này hầu hết chỉ có nghĩa siêu việt, vĩ đại, không thể nghĩ và nói cho thấu; có khi chỉ có nghĩa phi thường, đặc biệt, không thể nghĩ và nói một cách bình thường.

Ghi Chú (9) Ánh sáng ngàn vạn ức sắc thái, chính văn là bách thiên vạn ức đại quang minh vân, dịch đủ là vầng mây ánh sáng rực rỡ đủ cả trăm ngàn vạn ức sắc thái. Ánh sáng ngàn vạn ức sắc thái là ánh sáng biểu thị vô số các pháp mà Phật có và muốn truyền đạt, tức đại viên mãn, v/v. Nhìn vào ánh sáng này, bực thượng căn nhìn ra và có được các pháp ấy. Thuyết pháp và nghe pháp như vậy là sắc trần thuyết pháp. Mà lục trần đều thuyết pháp cả. Nên thế giới Hương tích thuyết pháp bằng hơi thơm và đó là hương trần thuyết pháp. Phải coi thêm các chú thích 11 và 12 dưới đây.

Ghi Chú (10) Không thể nói hết cũng là 1 số nhiều, sau số hai lần không thể nói hết.

Ghi Chú (11) Âm­ thanh đủ mọi sắc thái mầu nhiệm, chính văn là chủng chủng vi diệu chi âm, dịch sát là âm thanh đủ thứ mầu nhiệm. Âm thanh đây là tiếng. Chưa phải nói, chưa phải ngôn ngữ. Tức như tiếng Phật mở cửa tháp Đa bảo hay 2 tiếng dằng hắng và đàn chỉ trong Pháp hoa. Âm thanh đây có lúc cũng là nói, nhưng chỉ như Phật nói “Thiện lai tỷ kheo” (cách Phật truyền giới; người được nói với, nghe, là thành tỷ kheo). Âm thanh đủ sắc thái mầu nhiệm là âm thanh biểu thị vô số các pháp mà Phật có và muốn truyền đạt, tức lục độ, v/v. Các bậc thượng căn nghe âm thanh này là nghe ra và có được các pháp ấy. Thuyết pháp và nghe pháp như vậy là thanh trần thuyết pháp. Sau ánh sáng và âm thanh, Phật nói, chỉ là nói lại những gì 2 thứ ấy biểu thị, và nói cho những ai phải hiểu bằng lời nói. Lời nói cũng là thanh trần, nhưng sau âm thanh nhiều lắm, đến nỗi văn thân, danh thân và cú thân thì đã là bất tương ưng hành pháp.

Ghi Chú (12) Ánh sáng và âm thanh mà Phật phóng xuất là vài thần lực của ngài, có tác dụng vừa biểu thị các pháp mà ngài muốn truyền đạt, vừa làm cho những người có cơ duyên đến dự pháp hội Phật tuyên thuyết về các pháp ấy – tức kinh này đây.

Ghi Chú (13) Phi phi tưởng là Phi tưởng phi phi tưởng, nhưng gọi tắt là Phi phi tưởng lại chỉnh hơn.

Ghi Chú (14) Kinh này hay dùng chữ đại sĩ đễ gọi đức Địa tạng. Bản dịch này dùng toàn chữ này thay hết những chữ khác nữa đã gọi ngài. Và chỉ ngài mới gọi bằng chữ đại sĩ.

Ghi Chú (15) Tám bộ thiên long là 8 bộ loại: 1. Thiên: chư thiên, 2. Long: chúa thủy tộc, 3. Dạ xoa: quỉ thần phi hành không gian, 4. Càn thát bà: nhạc thần tấu nhạc thế tục của Đế thích, 5. A tu la: thần hay chiến đấu với Đế thích, 6. Ca lâu la: thần kim sí điểu, 7. Khẩn na la: ca thần tấu nhạc chánh pháp của Đế thích, 8. Ma hầu la dà: thần địa long. Tám bộ thiên long cũng gọi là 8 bộ, 8 bộ long thần, thiên long quỉ thần. Tám bộ này khác 8 bộ quỉ chúng của 4 Thiên vương thống lãnh. Trong 8 bộ, thiên và long linh nhất nên hay gọi là 8 bộ thiên long. Lại nữa, 8 bộ thiên long thường kèm theo từ ngữ “nhân phi nhân”, có nghĩa tất cả 8 bộ khi đến Phật thì hiện thân người, nhưng gốc của họ không phải loài người, nên gọi là nhân phi nhân (người không phải người). Trường hợp nhân phi nhân có nghĩa nhân loại và loài khác, thì từ ngữ này cũng hay đi sau từ ngữ 8 bộ thiên long, nhưng loài khác là 8 bộ thiên long (và 8 bộ quỉ chúng).

Ghi Chú (16) Thì gian lâu dài, chính văn là vĩnh. Vĩnh nghĩa là vĩnh viễn, lâu dài, rất lâu. Kinh này phần nhiều là 2 nghĩa sau.

Ghi Chú (17) Sáu đường (lục đạo) là địa ngục, quỉ, súc sinh (thường gọi là 3 đường dữ) và trời, người, a tu la (trời và người thường gọi là đường lành). Sáu đường có khi thu lại 5 đường (ngũ đạo) thì a tu la gồm vào trong quỉ và trời. Đường, chính văn là đạo, có nghĩa những nẻo đường chúng sinh qua lại lên xuống; cũng gọi là thú, có nghĩa những hướng chúng sinh đi mau đến. Do đó, 6 đường có khi cũng dịch 6 loài.

Ghi Chú (18) Trăm triệu, chính văn là na do tha, ngài La thập dịch là cai, ngài Khuy cơ giải là trăm triệu (Vạn 52/447B).

Ghi Chú (19) Đọc thấy như thế này đừng nghĩ thành Phật rồi không còn độ sinh nữa. Trái lại. Thành Phật là để độ sinh, và độ sinh mới nhiều hơn. Nên chính đức Địa tạng cũng hiện thân Phật mà độ sinh (Chính 13/725). Như vậy, nói như trên đây về đại nguyện của đức Địa tạng chỉ là đề cao một đại nguyện đặc biệt của một vị đại sĩ độc đáo. Những cách nói sau này cũng vậy.

Ghi Chú (20) Kiếp vô số là a tăng kỳ tiếp. A tăng kỳ là vô số (1 trong các số rất lớn). A tăng kỳ kiếp là thời kỳ dài vô số.

Ghi Chú (21) Giáo pháp tương tự, chính văn là tượng pháp. Sự tồn tại của giáo pháp Phật có 3 thời kỳ: thời kỳ giáo pháp nguyên chất (chánh pháp, có sự giải thoát kiên cố), thời kỳ giáo tương tự (tượng pháp, có sự thiền định kiên cố) và thời kỳ giáo pháp cuối cùng (mạt pháp, chỉ có sự đấu tranh kiên cố). Hiện nay là thời kỳ giáo pháp cuối cùng của đức Bổn sư.

Ghi Chú (22) Nghiệp thức, chính văn là hồn thần, 1 chữ có vẻ cố ý dùng cho phổ thông. Nhưng chữ ấy có những ý tưởng trái với Phật pháp. Chữ ấy đúng ra phải nói là nghiệp thức, tức di thục thức trong Duy thức học hay thức và hữu trong 12 duyên khởi, là trung hữu trong 4 hữu, nên phải đổi lại cho xác. Nghiệp thức là thức đã huân tập nghiệp một cách thành thục, nên ngay hiện tại mà đã hình thành nghiệp quả vị lai: đang là con người mà đã thấy sẽ là ông trời hay con vật (nghiệp quả vị lai ấy là sinh trong 12 duyên khởi).

Ghi Chú (23) Diêm phù, nói giản dị, là thế giới loài người chúng ta đây.

Ghi Chú (24) Nhân tố thánh thiện, hay nhân tố thánh thiện và thượng đẳng, là dịch những chữ thiện nhân, thánh nhân, thánh phần, thánh sự, thiện sự, thiện duyên, thánh thượng nhân. Những chữ này, ở kinh này, dầu gồm có chữ thánh cũng vẫn chưa phải chỉ cho nhân tố vô lâểu, mà chỉ là những việc thiện kinh này đề ra, quan trọng là niệm Phật, trì kinh này, bố thí hiến cúng, không sát sinh … Việc thiện như vậy là nhân tố sinh nhân thiên. Và sẽ trở thành nhân tố vô lậu nếu biết hồi hướng cho chúng sinh, nghĩa là làm cho nhân tố thánh thiện vượt lên (siêu thánh nhân) như kinh này dạy rõ.

Ghi Chú (25) Toàn là địa ngục, chính văn là thị giai địa ngục, thị, có bản chép đại: sai.

Ghi Chú (26) Tuệ giác vô thượng, chính văn là a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, dịch ý là vô thượng chánh đẳng giác: tuệ giác biết đúng, biết khắp và biết hơn hết. Tuệ giác ấy là của Phật, và được gọi tắt là vô thượng bồ đề (tuệ giác vô thượng).

Ghi Chú (27) Phân hóa thân hình ra cả ngàn trăm ức là, theo kinh Phạn võng (Chính 24/997), Phật từ bản thân phân hóa một ngàn thân, một ngàn thân này mỗi thân phân hóa một trăm ức thân nữa. Như vậy ngàn trăm ức nghĩa là một ngàn và một ngàn lần trăm ức. Thân Phật trong lịch sử loài người là 1 trong số một ngàn lần trăm ức. Nhưng một ngàn và một ngàn lần trăm ức như vậy chỉ là nói Phật phân hóa thân Phật, chưa nói Phật phân hóa thân khác và phân hóa cảnh vật – là 2 sự phân hóa mà kinh Địa tạng này kể ra một số ở dưới. Phật nói chính ta cũng phân hóa thân hình ra cả ngàn trăm ức, Phật ấy, đối với chúng ta thì chỉ là một trong số một ngàn lần trăm ức, nhưng đối với đức Địa tạng thì ít nhất cũng là bản thân đã phân hóa ra ngàn trăm ức thân hình (như Phạn võng nói) lại phân hóa thân khác và phân hóa cảnh vật (như một phần nữa của kinh này nói).

Ghi Chú (28) Bản in năm 2514 (1970) tôi đã chuyển văn một chút mà dịch: Hoặc hiện sông núi, bình nguyên, ao hồ, suối giếng, lợi ích tất cả, toàn là tác dụng hóa độ. Nay trích ra đây để làm cho câu này rõ nghĩa hơn. Về chữ bình nguyên, chính văn là nguyên, không nên cố hiểu như có bộ thủy rồi dịch là suối nguồn.

Ghi Chú (29) Dịch sát: … thì đại sĩ hãy nhớ, tại cung trời Đao lợi này ta đã thiết tha ký thác, mà làm cho chúng sinh thế giới hệ Sa bà trong quãng từ nay đến ngày Di lạc từ tôn xuất thế, đều được giải thoát, xa hẳn mọi sự thống khổ, gặp Phật thọ ký cho.

Ghi Chú (30) Đức Phật của mình, chính văn là kỳ Phật. Chữ kỳ Phật ấy là chữ duy nhất và rất đúng. Trong phần dẫn nhập, phẩm 1 đã nói thần lực tại cung Đao lợi có 1 phần không nói mà thấy rất rõ, đó là biến cung Đao lợi vốn rất lớn và trang nghiêm càng lớn và trang nghiêm vô tận, trường hợp như Bồ đề tràng trong Hoa nghiêm. Đến phẩm này, khi nói “đức Thế tôn đưa cánh tay vàng xoa trên đỉnh đầu hết thảy thân hình của Địa tạng đại sĩ đã phân hóa tại các thế giới hệ nhiều đến vô số con số vô số”. Nói như vậy mà không thêm ít nhất là mấy chữ “bằng thần lực” vào trước hay sau mấy chữ đức Thế tôn, nhưng ta vẫn thấy thần lực ấy rất rõ. Đó là nói về Phật. Còn đức Địa tạng thì nội một việc phân thân cũng đã thấy ngài là vị pháp thân đại sĩ. Nên đức Phật của ngài, như trên, không phải chỉ là đức Phật chúng sinh thấy được.

Ghi Chú (31) Năm nghiệp dữ trong đoạn này nói, xét ra chính là 5 thứ mà các phẩm sau gọi là 5 tội sa vào vô gián ngục, mặc dầu trong chi tiết thì nói cho người xuất gia nhiều hơn. Trong đoạn này chính văn có câu “thiên vạn ức kiếp” cần phải nói đến. Câu này không phải chỉ có trong đoạn này, mà kinh này còn nhiều chỗ nữa cũng nói và có khi nói khác một chút. Câu này theo văn tự thường và thường hiểu là ngàn vạn ức kiếp. Ý nghĩa câu này thì ngoại trừ nói tổng quát, khoa dụ hay cảnh cáo, nói để biểu thị sự tối đa, còn có chỗ như đoạn này lại có ý nói đến đại kiếp. Nhưng sự sống lâu tại vô gián ngục, theo 2 ngài Khuy cơ và Cát tạng là các vị đáng học nhất, khi giải thích Pháp hoa (phẩm Thí dụ) nói “nhập a tỳ ngục, cụ túc nhất kiếp” (Chính 9/15) thì kiếp ấy là tiểu kiếp (tiểu kiếp của ngài La thập dịch là trung kiếp của ngài Huyền tráng dịch). Tham chiếu Vạn 42/401B và Vạn 52/410B và 411A. Do vậy, “thiên vạn ức kiếp” phải dịch một kiếp ngàn vạn ức năm (và ức kiếp nên dịch một kiếp có ức năm …).

Ghi Chú (32) Năm sự ấy nói ngay ở dưới. Nhưng nói tắt và xác hơn thì cái tên vô gián ngoài cái nghĩa của luận Câu xá nói chịu khổ một cách không có sự tạm ngừng hay không có sự vui xen vào, còn có cái nghĩa của luận Thành thật nói đọa vào vô gián ngục thì không có đời nào hay sát na nào xen cách vào. Nghĩa là đời này chết là đời sau đọa liền, không có đời nào xen cách; hơn nữa, sát na này chết là sát na sau đọa liền, không có sát na nào xen cách. Học lý này cho thấy đọa vô gián ngục nặng ở chỗ không có cái thì gian 49 ngày để có thể làm phước cứu vớt hiệu quả hơn.

Ghi Chú (33) Dịch sát: mọi Khương, rợ Hồ, các sắc tộc phương đông và các sắc tộc phương bắc. Tức là chỉ nói về mọi rợ. Nhưng ý thì ở đây rõ ràng phải nói cả mọi rợ và văn minh.

Ghi Chú (34) Đã sẩy vào trong dòng nước có lưới rồi, thì dẫu có lúc tạm thoát ra khỏi lưới đi nữa, chính văn là thoát nhập tạm xuất (sẩy vào tạm thoát). Chữ sẩy khá giống từ ngữ bất giác vọng động. Không bản chính nào chép thoát hoặc tạm xuất (thảng hoặc tạm thoát). Với ví dụ này, kinh này nói giải thoát có 2: thoát đường dữ (thoát lưới) và thoát cả 5 đường luân hồi (thoát dòng nước). Đó là nói về quả. Nói về nhân thì ví dụ này cho thấy giải thoát là thoát thức tánh bất định (thoát dòng nước) và thoát hoàn cảnh chi phối (thoát lưới); hoặc cạn hơn, giải thoát là thoát nghiệp dữ (thoát lưới) và thoát hoàn cảnh chi phối (thoát dòng nước). Như vậy sự giải thoát kinh này tuy có 2: có sự thoát tạm và có sự thoát hẳn; nhưng sự thoát tạm (thoát lưới: thoát nghiệp dữ và đường dữ địa ngục) là cần kíp nhất và kinh này rất quan tâm.

Ghi Chú (35) Đàn chỉ, thường cắt nghĩa là gảy móng tay, có nghĩa móng tay này gảy móng tay khác. Nhưng xét ra có lúc và có chỗ không ổn. Đàn là đánh, gõ, gảy; chỉ là ngón tay, không phải móng tay. Như vậy đàn chỉ là đánh hay gõ ngón tay vào vật khác (như gõ cửa) hay có nơi dùng 8 ngón tay của 2 bàn tay đánh vào nhau (gần như vỗ tay). Đàn chỉ như vậy thì đúng nhu cầu của Tăng luật. Còn đàn chỉ theo nghĩa tốc độ (như kinh này nói ở đây) thì cắt nghĩa thế nào cũng được.

Ghi Chú (36) Y phục ở đây là vải lụa gấm vóc dùng làm khăn, đãy và hộp mà che phủ chứa đựng.

Ghi Chú (37) Chính văn đủ thì có 3: tước, cáp (bồ câu) và uyên ương. Riêng tước, thường nói là chim sẻ, nhưng Địa tạng khoa chú (Vạn 35/264A) nói là khổng tước (con công) : loại chim dâm bậy nhất.

Ghi Chú (38) Kiến thức sai lầm, chính văn là tà kiến, cốt yếu chỉ cho các chủ thuyết phủ nhận nguyên lý nhân quả, nhất là nguyên lý nhân quả về thiện ác và nghiệp báo. Tà kiến là ác kiến: kiến thức độc hại. Chỗ không có Phật pháp, chính văn là biên địa: những địa phương biên thùy, nói rộng ra là những nơi không có Phật giáo hay tư tưởng Phật giáo. Tuy nhiên, tà kiến và quả báo tà kiến như thế này chưa đủ để diễn tả những chủ thuyết độc hại nhân loại hiện nay.

Ghi Chú (39) Khổ báo hay phước báo đều có 3 giai đoạn. Ba giai đoạn của khổ báo: giai đoạn chịu trước, chịu ngay trong đời này hay đời kế tiếp; giai đoạn chính thức, chịu ngay trong đời kế tiếp hay các đời sau (trừ trường hợp sinh thân đọa địa ngục); giai đoạn còn thừa, chịu trong các đời sau. Xét những quả khổ được nói trong đoạn kinh này thì thấy phần nhiều giai đoạn chịu trước, cũng có thứ là giai đoạn còn thừa. Hai giai đoạn này hay giống nhau, và phần nhiều chịu trong loài người, còn giai đoạn chính thức thì toàn đọa 3 đường dữ mà khổ nhất là địa ngục.

Ghi Chú (40) Bốn chúng là tỷ kheo, tỷ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di. Bốn chúng còn là người (4 chúng trên), trời, rồng và thần (tức 8 bộ). Lại có pháp số 4 chúng nữa tuy không chính thức mà rất đáng chú ý. Là với một pháp thoại của Phật có 1. người phát khởi: người khơi động để Phật nói, 2. người đương cơ: những người đối tượng của pháp Phật nói, 3. người ảnh hưởng: những người làm trang trọng cho cuộc nói pháp ấy, 4. người kết duyên: những người kết duyên lành với pháp ấy để tương lai chứng ngộ.

Ghi Chu (41) Dịch sát: không bằng lòng chịu thay. Nhưng nghĩa chính là bằng lòng chịu thay cũng không được.

Ghi Chú (42) Vì tôi biết từ lâu, chính văn là ngô dĩ cửu tri. Chữ dĩ ở đây là vì, không phải chữ dĩ là đã như bản khác chép. Chép dĩ là đã thì thừa và non.

Ghi Chú (43) Viên sắt có cạnh sắc gai nhọn, chính văn là tật lê. Tật lê phải viết bộ thảo, không phải bộ kim. Tật lê là vũ khí bằng sắt, làm giống trái tật lê, thứ trái có 3 cạnh 4 gai, tức là có nhiều cạnh sắc gai nhọn. Vũ khí này mắc vào một đầu giây xích. Người sử dụng móc tay vào đầu dây xích còn lại, rồi cánh tay giật tới giật lui với một tốc độ mau và mạnh, vũ khí tật lê vung tới vung lui làm cho nạn nhân khó né tránh cho khỏi. Vũ khí người học võ còn có cái gọi là tật lê chùy, quân khí cũng có thứ gọi là thiết tật lê.

Ghi Chú (44) Lược bớt chữ nhân phi nhân, chỉ để ngắn gọn mà thôi.

Ghi Chú (45) Đem lại lợi ích trong nhân loại và chư thiên, chính văn là lợi ích nhân thiên. chính văn ấy tuy cũng có thể hiểu và dịch là lợi ích cho nhân loại và chư thiên, nhưng không chính xác với việc và ý bằng sự hiểu và dịch như đã dịch. Dịch như đã dịch, có nghĩa là đem lại sự yên vui tuyệt diệu (thắng diệu lạc mà ở đây gọi là lợi ích) cho nhân thiên và mọi loài (chính văn gọi là 6 đường chúng sinh). Thắng diệu lạc hay lợi ích như vậy tuy còn siêu việt lên nữa chứ không phải chỉ có ở trong phạm vi nhân thiên, nhưng phần chính vẫn là ở trong phạm vi ấy, nên gọi là “đem lại lợi ích trong nhân loại và chư thiên”.

Ghi Chú (46) Y phục gấm lụa: coi lại chú thích 36 .

Ghi Chú (47) Không mọi bịnh hoạn, chính văn là vô chư tật bịnh. Có bản chép thiếu 4 chữ này : sai.

Ghi Chú (48) Diễn tấu nhạc khí, chính văn là tác chư kyՠnhạc. Câu này có chỗ còn là biểu diễn kịch nghệ và hòa tấu nhạc khí. Dĩ nhiên kyՍ nhạc ở đây là kyՠnhạc Phật giáo. Riêng chữ kyՠphải viết bộ thủ hay bộ nhân, nghĩa là kyՠthuật diễn tấu; không phải viết bộ nữ, có nghĩa là kyՠnữ.

Ghi Chú (49) Lắm sự kinh hãi, chính văn là yểm mị. Mị là ngủ say. Yểm là bóng đè, ma đè, ác mộng, nói chung là những sự làm kinh hãi.

Ghi Chú (50) Năm tội sa vào vô gián ngục, chính văn là ngũ vô gián tội, còn được dịch là 5 nghiệp dữ vô gián hay dịch tắt hơn: 5 tội vô gián. Dịch thật rõ thì ngũ vô gián tội là 5 tội sa vào địa ngục có 5 sự không xen cách. Năm tội hay nghiệp dữ ấy, ở kinh này, là tội đã nói trong phẩm 3 (coi lại chú thích 31).

Ghi Chú (51) Cử động, chính văn là cử chỉ, dịch đúng và đủ thì phải là hoạt động (cử) và đình chỉ (chỉ), có nghĩa làm hay ngưng gì của chúng ta cũng là tội lỗi nếu làm hay ngưng với dụng ý và hậu quả xấu.

Ghi Chú (52) Một câu đủ nghĩa, chính văn và nhất cú. Nhất cú không phải là 1 câu, mà là 1 câu đủ nghĩa, như nói các pháp vô thường, chúng sinh có giác tánh, v/v. Còn 1 bài chỉnh cú, chính văn là nhất kệ. Kệ, mà dịch ý là tụng, có 2 loại chung và riêng. Loại riêng là thể văn chỉnh cú, 4 câu làm 1 kệ, mỗi câu có 3 đến 8 chữ. Loại chung là lối tính tổng số chữ : bất cứ thể văn chỉnh cú hay thể văn trường hàng, cứ đếm 8 chữ làm 1 câu, 4 câu làm 1 kệ, và mấy kệ là tổng số chữ của mỗi kinh luận. Nhất kệ (1 bài chỉnh cú) là chỉ cho cả 2 loại kệ ấy: chỉ cho bất cứ 4 câu liên tiếp nào thuộc thể văn chỉnh cú, hay chỉ cho bất cứ 32 chữ liên tiếp nào trong tổng số chữ.

Ghi Chú (53) Phan cái, cái ở đây không phải lọng, dù, mà là bảo cái. Phan cái là bảo cái có mắc tràng phan.

Ghi Chú (54) Ngay sau khi mới chết, chính văn là lai thế. Lai thế là đời sau. Nói người sắp chết hay chết rồi mà đời sau họ có nhân lành làm cho đời sau ấy sinh nhân thiên thì vô lý, nên có người đổi chữ lai thế mà dịch là đời trước: đời trước hay đời này họ có nhân lành để đời sau họ sinh nhân thiên. Nhưng sự việc ở đây là ngay sau khi mới chết, nhất là 49 ngày sau đó, thì gian này cũng thuộc về lai thế (đời sau) nhưng chỉ mở đầu lai thế ấy mà thôi. Và thì gian này người chết có thể có nhân lành do người khác làm cho: đó là điều kinh này khuyến khích và mới nói ở đoạn trên và trong nhiều chỗ khác. Người khác làm cho, người khác ấy là một phần thân nhân biết Phật pháp, là bạn tốt. Không những người khác làm cho, mà tự người chết, ngay sau khi mới chết, cũng có thể có nhân lành, như phẩm 13 nói, “… kẻ nào tùy theo nghiệp dữ mà sa vào đường dữ, khi sắp vào đó hay đã đến ngay đầu cửa rồi, kẻ ấy niệm được một danh hiệu Phật đà, một danh hiệu Bồ tát, hoặc nhớ được 1 câu đủ nghĩa hay 4 câu chỉnh cú của kinh điển đại thừa …” Như vậy, ngay sau khi mới chết (cũng là lai thế mà chính văn nói), người chết vẫn có nhân lành do được làm cho hay tự làm lấy và nhân lành đó rất quan trọng đối với đời sau (lai thế) của người chết.

Ghi Chú (55) Sát chính văn thì đoạn này phải dịch:… để cứu giúp họ, thì thọ trai chưa xong hay lúc sắp đặt trai soạn, nước gạo lá rau đừng đổ nơi đất; cho đến trai soạn chưa hiến cúng Phật Tăng thì đừng ăn trước … Dịch sát như vậy thì vị trí mấy chữ “thọ trai chưa xong” không ổn. Nên phải chuyển văn mà dịch như đã dịch. Thêm nữa, xét những chữ tinh khiết, sạch sẽ, cẩn trọng, giữ gìn sạch sẽ ở dưới, thì đoạn này đáng lẽ nên hiểu và dịch “lúc sắp đặt trai soạn thì gạo nước rau lá đừng để dưới đất”. Nay không dịch như vậy nhưng vẫn phải hiểu và làm như vậy. Tức là đồ thải ra không đổ xuống đất, mà đồ chưa làm hay đang làm không nên để dưới đất, dưới chỗ ngồi.

Ghi Chú (55b) Điều này, và cọng với trước đây, cho thấy kinh Địa tạng đề cao niệm Phật, không sát sinh, chu cấp người già người bịnh và sản phụ. Đó là sự đặc thù của kinh này về quan niệm phước đức.

Ghi Chú (56) Khám thất là cái nhà làm theo hình cái khám thờ, tức như đền, miếu … Nếu tách ra thì khám là khám thờ, thất là đền miếu thờ.

Ghi Chú (57) Cung điện, như của chư thiên mà thôi cũng đã có ánh sáng và di chuyển theo thân (cũng có ánh sáng).

Ghi Chú (58) Đoạn này dịch như vậy là đối chiếu kyՠvới chữ và việc dưới đây, nhất là sau đây. Dịch như vậy có nghĩa sự đem lại lợi ích trong nhân loại và chư thiên chính là sự bất khả tư nghị, và sự làm cho nhân tố thánh thiện ấy siêu việt lên chính là sự chứng được thập địa. Nên 4 sự mà thực ra chỉ có 2: sự ích lợi bất khả tư nghị, sự này là nhân tố thánh thiện; sự làm cho nhân tố thánh thiện ấy siêu việt lên để chứng được thập địa. Hai sự như thế này tức như Phật dạy về sự bố thí và dạy cách hồi hướng sự bố thí ấy. Cả 2 sự này có cái căn bản và cứu cánh là vô thượng bồ đề. Rốt lại, sự ích lợi bất khả tư nghị là chính yếu, trong đó bao gồm sự biến thành nhân tố chứng được thập địa và không thoái chuyển vô thượng bồ đề. Chính sự diễn dịch qui nạp này cho thấy tại sao ở đây liệt ra 5 sự mà sau đây thì nói toàn là những sự ích lợi bất khả tư nghị. Nếu không làm như vậy mà chỉ dịch lấy có thì là “sự ích lợi nhân thiên, sự bất khả tư nghị, sự siêu việt nhân tố thánh thiện lên (không phải siêu việt lên trên nhân tố thánh thiện), sự chứng thập địa, sự cứu cánh không thoái chuyển vô thượng bồ đề”.

Ghi Chú (59) Sát thì phải dịch: Vừa rồi lại được đức Thế tôn nói cho toàn thể đại chúng biết ngài muốn tán dương sự lợi ích của đức Địa tạng. Nên con thỉnh cầu đức Thế tôn vì hết thảy chúng sinh trong hiện tại và vị lai mà tán dương sự bất khả tư nghị của đức Địa tạng, làm cho 8 bộ thiên long chiêm lễ được phước. Dịch sát như vậy thì có sự trùng lặp, lại có sự ngược nhau. Nhưng vẫn dịch sát ra đây để thấy sự ích lợi của đức Địa tạng chính là sự bất khả tư nghị của ngài. Vì vậy mà xuống ngay đoạn dưới, tự Phật nói rõ là sự lợi ích bất khả tư nghị.

Ghi Chú (60) Chính văn là nhất chiêm nhất lễ, dịch sát là một nhìn một lạy. Nhưng đối chiếu với từ ngữ ấy ở đoạn sau đoạn này 1 đoạn thì thấy ý nghĩa là chuyên nhất trong sự chiêm lễ, nên phải dịch nhất tâm mà chiêm ngưỡng lễ bái.

Ghi Chú (61) Chính văn là anh lạc, chữ ấy có trường hợp là chuỗi ngọc, nhưng ở đây là vòng hoa (dầu có thể là vòng hoa được làm bằng ngọc). Có một bản dịch Pháp hoa từ Phạn tự cho thấy như vậy.

Ghi Chú (62) Có bản chép ít lời hơn, theo đó thì dịch: … chiêm bái hình tượng Địa tạng đại sĩ nên tức khắc tránh khỏi đường dữ; còn cha mẹ thân nhân của người ấy vốn có nghiệp lành đã sinh trong nhân loại hay chư thiên hưởng sự yên vui tuyệt diệu, thì nhờ công đức trên mà tăng thêm cho nhân tố thánh thiện, sự yên vui họ đang hưởng cũng tăng thêm vô lượng …

Ghi Chú (63) Đoạn này tuy văn khí và văn ý thuộc về đoạn trên, nhưng rõ ràng và có thể tách ra làm 1 đoạn riêng, mà là 1 đoạn quan trọng cho những người chuyên trì niệm đức Địa tạng.

Ghi Chu (64) Chỉ dạy và chăm nom, chính văn là giáo thị. Thị ở đây là nhìn, coi sóc, chăm nom, không phải thị là chỉ, chỉ bày, chỉ dạy (cùng nghĩa với chữ giáo) như bản khác chép.

Ghi Chú (65) Thiện nam hay thiện nữ ấy, chính văn là thiện nam nữ. Nữ, có bản chép tử: sai.

Ghi Chú (66) Tà dâm có thể tổng quát làm 2 phần. Phần bản thân là thủ dâm, ý dâm, cho dâm. Phần với người hôn phối là hành dâm phi xứ (ngoài phòng ngủ) phi chi (Ngoài bộ phận sinh dục) phi lượng (dâm dục quá độ) và phi thời (lúc bịnh, thời kỳ mang thai, thời kỳ con bú, lúc trai giới, cầu nguyện, ngày vía). Cữ tà dâm ở đây là bản thân và phi thời, nghĩa là cữ dâm dục hoàn toàn. Đến như tà dâm là ngoại tình thì không cần phải nói.

Ghi Chú (67) Thính giác sắc bén, chính văn là lợi nhĩ căn (thính giác sắc bén, nhĩ căn lanh lợi). Có bản chép lợi căn nhĩ (thính giác thuộc giác quan sắc bén, nhĩ căn thuộc lợi căn). Nghĩa như nhau.

Ghi Chú (68) Ngàn trăm ức, chính văn là thiên bách ức, chép bách thiên ức: sai. Coi chú thích 27.




KINH PHÁP HOA – Thượng nhân Thích Trí Quang dịch giải

Lược Dẫn & Cuốn 1 | Cuốn 2 | Cuốn 3 | Cuốn 4 | Cuốn 5 | Cuốn 6 | Cuốn 7 | Phẩm Phổ Hiền | Kinh Pháp Hoa Toát Yếu |

[1]

KINH PHÁP HOA
(Hoa Sen Của Chánh Pháp) 
Phần CHÍNH VĂN
Tỷ kheo Thích Trí Quang dịch

Ký hiệu (cho lời lược dẫn)
LƯỢC DẪN
Lược nói chủ ý
Lược xét văn bản
Lược trình toàn văn
Lược phân đại ý
Lược nói đương cơ
Lược điểm chi tiết
Lược nói hiệu lực
Lược giải đề kinh

CUỐN 1
Phẩm 1: Mở đầu
Phẩm 2: Phương tiện

Ký hiệu (cho lời lược dẫn)

C : Đại tạng kinh bản Đại chính tân tu, thí dụ | C10/20t, là đại tạng ấy, tập 10, trang 20, khoảng trên (g: giữa, d : dưới). V : Tục tạng kinh bản chữ Vạn, thí dụ V10/20a, là tục tạng ấy, tập 10, tờ 20, mặt trước (b : mặt sau).

CV : Chính văn, tức Diệu pháp liên hoa kinh của ngài La thập dịch, top

hường gọi là CV, nằm trong C9/1-62.

HD : Chánh pháp hoa kinh của ngài Pháp hộ dịch, thường gọi là Tấn dịch, nằm trong C9/63-134.

ĐD : Thiêm phẩm Diệu pháp liên hoa kinh của các ngài Xà na quật đa và Cấp đa dịch, thường gọi là Tùy dịch, nằm trong C9/134-196.

KD : Anh dịch Pháp hoa của Kern (bản dịch Việt văn của Lệ pháp Nguyễn Công Luận), tức Saddharma pundarika.

PT : luận Pháp hoa (Diệu pháp liên hoa kinh ưu ba đề xá) của bồ tát Thế thân, nằm trong
C36/1-19.

PB : Phật học đại từ điển của Đinh Phúc Bảo.

PQ : Phật quang đại từ điển.


LƯỢC DẪN

Lược nói chủ ý

Không có dịch phẩm nào của tôi dịch chữ Hoa và chữ Hoa Việt ra chữ Việt nhiều bằng Pháp Hoa. Không những cốt làm cho bớt nặng nề mà cốt vì một số chữ quen dùng nên hóa ra không hiểu hay hiểu sai: kiếp là số kiếp, duyên là duyên nợ, phổ môn là… phổ môn, vân vân. Thế nhưng trong các bản in 1 (với ảnh bìa Phổ Hiền), bản in 2 (với ảnh bìa Thế Chí), bản in 3 ( với ảnh bìa Hoa sen), bản in 4 (ở hải ngoại, với bìa Pháp luân), vẫn để nguyên vài chỗ, như 10 như thị, vân vân. Nay thì vài chỗ ấy cũng dịch cả. Lại chữa vài chữ cho thích đáng, thí dụ cúng dường (cung dưỡng) đã dịch là hiến cúng, nay có chỗ chữa là phụng sự, vân vân. Ngoài ra, những từ ngữ nói về số nhiều cũng phải chú ý. Một số để nguyên. Một số để nguyên mà còn dịch rõ hơn. Nhưng một số phải dịch gọn mới nói lên khái niệm nhiều, rất nhiều và cực nhiều.

Kế đến, các bản in trước đây không chú trọng lược giải mà chỉ ghi chú và phụ lục. Nay thì lược giải gồm có ghi chú, phụ lục, lược giải và toát yếu. Do vậy, bản chữa lần này là định bản, gồm có hai tập, có thể in chung mà cũng có thể in riêng: Tập 1 gọi là phần chính văn, gồm có chính văn kinh Pháp Hoa, phụ lục phẩm Phổ Hiền và toát yếu kinh Pháp Hoa. Vì nhiều lý do, tôi không dịch hay dịch lược kinh Vô Lượng Nghĩa và kinh Quán Phổ Hiền, là 2 kinh hay được gồm với Pháp Hoa mà gọi là Pháp Hoa tam kinh. Tập 2 gọi là phần lược giải nội dung mới nói ở trên; ở đây xin nói thêm rằng chủ ý lược giải của tôi, nhất là ghi chú, cốt làm sáng ý của chính văn, vì chính văn có mấy chỗ chuyển văn hay chuyển ý mà rất cần phải tìm hiểu.

Với tuổi đời 76, sức yếu, mắt kém, nhưng tôi ráng hiến cúng Pháp Hoa lần chót để như là tụng kinh lần chót, hồi hướng cho cha mẹ, sư trưởng, thiện hữu, tín thí, cho đồng loại và chúng sinh.

Lược xét văn bản

Pháp hoa có 3 bản dịch, nằm cả trong C9/1-198. Bản thứ nhất là Tần dịch (CV), bản thứ hai là Tấn dịch (HD), bản thứ ba là Tùy dịch (ĐD). Hãy lược xét về 3 văn bản ấy.

Nói về thì gian thì HD có sớm nhất (288 dương lịch), CV tiếp theo (406 dương lịch), ĐD có sau đó (601 dương lịch).

Nói về Phạn bản thì có thể suy đoán CV có sớm nhất, HD có tiếp theo, ĐD có sau đó. Hãy coi thêm các tiểu mục dưới đây.

Nói về Phạn bản của CV thì bài tựa của ĐD (không có tên tác giả, nằm trong C9/134) suy đoán là bản Qui tư. Nhưng tài liệu này không nói rõ là Phạn văn lưu hành ở Qui tự hay là văn tự Qui tư. Còn tài liệu khác, C51/54t, thì nói Pháp hoa mà ngài La thập dịch là được truyền dạy bởi thầy ngài, tôn giả Tu lị da tô ma (Soryasoma), có nghĩa Phạn bản của CV là Phạn văn Ấn độ. Phạn bản của HD thì lời tựa ĐD suy đoán là bản Đa la (Đa la diệp: Lá đa la ?). Phạn bản của ĐD thì lời tựa tự cho cũng là bản Đa lạ.

Nói về nội dung thì mục lược trình toàn văn sau đây sẽ nói. Ở đây chỉ nói rằng tôi suy đoán

Phạn bản của CV có sớm và thuần hơn, đặc biệt tương đồng với PT (luận Pháp Hoa của ngài Thế Thân) hơn cả. Còn Phạn bản của HD và của ĐD, thêm nữa của KD, thì rõ ràng có chậm lắm, thêm thắt không ít, và những chỗ thêm thắt ấy không thích đáng với phong cách Pháp Hoa cả văn lẫn ý. Lời tựa của ĐD nói CV thiếu thì đáng lẽ phải nói các bản khác thêm và thừa (trừ chỉnh cú phẩm Phổ môn khá thích đáng, nhưng KD lại thêm hơn và vì vậy mà không đáng có).

Nói về giá trị thì CV dĩ nhiên đặc tôn. Nhưng HD có cái sở trường là dịch từ ngữ, không đối chiếu với HD thì có những từ ngữ của CV sẽ bị hiểu lầm. Tức như từ ngữ châu giao lộ man mà không hiểu giao lộ mới là gạch nối. Còn ĐD thì chỉ thêm mấy chỗ mà lời tựa cho là thiếu (nhưng vẫn không đủ bằng HD), ngoài ra, toàn bộ chỉ sao lại CV, nên chẳng có giá trị bao nhiêu.

Lược trình toàn văn

Thật ra nên nói CV có 2 bản: CV nguyên hữu và CV bổ sung. Nguyên hữu là y nguyên của ngài La Thập dịch. Bổ sung là sau này thêm vào 2 chỗ.

Đây là toàn văn CV nguyên hữu, trích và kê theo Pháp Hoa sớ (V150/396-412, được viết năm 432) của ngài Đạo Sinh (355-434, đứng đầu tứ kiệt của học đồ ngài La Thập) : phẩm 1 Mở đầu, phẩm 2 Phương tiện, phẩm 3 Ví dụ, phẩm 4 Tin hiểu, phẩm 5 Cây cỏ, phẩm 6 Thọ ký, phẩm 7 Tương quan xa xưa, phẩm 8 Năm trăm đệ tử tiếp nhận thọ ký, phẩm 9 Thọ ký cho các vị tu học tiếp tục và tu học hoàn tất, phẩm 10 Người diễn giảng Pháp Hoa, phẩm 11 Bảo tháp xuất hiện, phẩm 12 Kính giữ Pháp Hoa, phẩm 13 Sống yên vui, phẩm 14 Từ đất xuất hiện, phẩm 15 Sự sống lâu của đức Thế Tôn, phẩm 16 Phân tích thành quả, phẩm 17 Thành quả tùy hỷ, phẩm 18 Thành quả của người diễn giảng Pháp Hoa, phẩm 19 Bồ tát Thường bất Khinh, phẩm 20 Sức thần của đức Thế Tôn, phẩm 21 Giao phó trọng trách, phẩm 22 Việc cũ của bồ tát Dược Vương, phẩm 23 Bồ tát Diệu Âm, phẩm 24 Quan Âm đại sĩ: vị Toàn diện, phẩm 25 Tổng trì minh chú, phẩm 26 Việc cũ của Diệu Trang Nghiêm Vương, phẩm 27 Sự khuyến khích của bồ tát Phổ Hiền.

CV nguyên hữu, như vậy, là rất gọn gàng và sáng sủa. Còn CV bổ sung thì thêm vào 2 chỗ: một, sau phẩm 11 thêm phẩm Đề bà đạt đa thành phẩm 12, và do vậy CV bổ sung có 28 phẩm; hai, phẩm 24 thêm phần chỉnh cú. Thế nhưng CV bổ sung lại là bản Pháp Hoa lưu hành, và có thể là định bản. Việc bổ sung 2 chỗ thành Pháp Hoa lưu hành và định bản này không rõ ai làm, lịch sử và dã sử đều chưa tìm thấy, chỉ xét thấy việc làm khá có ý thức, và phải có sau thời ngài Pháp Vân (467-529) viết Pháp Hoa ký (cũng giải thích CV nguyên hữu, làm cho kinh này thành vấn đề và có học thuyết hơn trước).

Nay lại đối chiếu với HD, ĐD và KD để thấy CV bổ sung không có những gì nữa. Thì ngoài 2 chỗ bổ sung nói trên, còn có 5 chỗ nữa CV bổ sung không có, đó là không có nửa sau của phẩm Cây cỏ (điều này rất giống PT, vì ở đó không có cái ví dụ như nửa sau ấy), là không có 3 chỗ như HD, ở trong các phẩm 8, 10 và 11 (ghi theo số hiệu các phẩm của CV bổ sung), là không có 7 bài chỉnh cú nữa ở trong phẩm 25 như KD. Những chỗ không có trên đây (mà tôi nói không có, không nói là thiếu) sẽ được ghi chú và phụ lục ngay nơi mỗi chỗ, và đủ hơn cả lời tựa đầy nhược điểm của ĐD.

Đến đây xin kết luận rằng, may, rất may, CV bổ sung chỉ có 2 chỗ như đã ghi.

Lược phân đại ý

Toàn văn CV bổ sung, như đã thấy, có 28 phẩm. Xét thẳng ý chính của 28 phẩm ấy, ta có thể, và nên, hệ thống hóa như sau, cực kỳ đơn giản. Phẩm 1 là ngài Di Lạc phát khởi. Phẩm 28 là ngài Phổ Hiền kết thúc. Còn 26 phẩm giữa thì chia làm 2 đại bộ phận. Đại bộ phận 1 gồm các phẩm 2-9, nói về nhất thừa. Đại bộ phận 2 gồm các phẩm 10-27, nói về sự quảng bá nhất thừa.

Pháp Hoa cốt nói nhất thừa. Nhất thừa ở đây là Pháp Hoa. Pháp Hoa không công nhận La hán (hay Duyên giác) là cứu cánh. Pháp Hoa nói Phật xuất thế để làm cho người làm Phật. Phật không có đệ tử Thanh văn, chỉ có đệ tử Bồ tát. Thanh văn chỉ là phương tiện. Phương tiện ở đây có 2 nghĩa: Thanh văn chỉ là Phật phương tiện thiết lập, chỉ là nửa đường đi đến Phật.

Bằng nhiều cách, Pháp Hoa xác quyết nhất thừa như vậy, trong đại bộ phận 1. Qua đại bộ phận 2, càng bằng nhiều cách, Pháp Hoa nói quảng bá như thế nào về nhất thừa, lại bổ túc nhiều mặt cho đại bộ phận 1.

Cũng có thể bỏ sự hệ thống hóa đi, chỉ nhìn cái thế liên hoàn của 28 phẩm, càng có thể thấy, không như kinh khác, Pháp Hoa có lắm văn và ý độc đáo và đặc tôn.

Lược nói đương cơ

Một người hướng dẫn giỏi, dẫn một đoàn người vượt qua con đường hiểm mà dài để đến chỗ vàng ngọc. Nửa đường họ muốn trở lui. Người hướng dẫn phải tạo ra một đô thành giả cho họ nghỉ. Nghỉ thế mà họ cho là an toàn và đến rồi. Người hướng dẫn hủy diệt đô thành ấy, và bảo họ phải đi tới nữa: sắp đến chỗ vàng ngọc rồi.

Phật cũng vậy. Đã hướng dẫn đệ tử, mà chủ yếu là Thanh văn, đến cái niết bàn của La hán rồi thì nay, ở Pháp Hoa, xác quyết rằng niết bàn ấy chỉ là giả thiết. Và rằng Phật xuất thế để đưa người làm Phật. Phật mới cứu cánh. Do vậy mà Thanh văn thành ra đương cơ, đối thoại chủ yếu của Pháp Hoa.

Thế nhưng vẫn có một số Thanh văn tăng thượng mạn: tự thị La hán đã là cứu cánh. Loạn hơn, họ cho Phật cũng chỉ là La hán—dầu chính nguyên thỉ và tiểu thừa cũng nói, không như La hán, Phật có 10 lực, 4 vô úy, 18 bất cọng, đại bi tam niệm, tam bất hộ, vân vân. Do vậy, Thanh văn tăng thượng mạn không là đương cơ của Pháp Hoa. Họ rời khỏi đại hội Pháp Hoa ngay từ đầu—dầu sau đó Phật vẫn theo đuổi giáo hóa cho họ cũng được làm Phật. Còn lại là chư vị Thanh văn có thể trở thành Bồ tát, tự tín làm Phật. Họ là đương cơ của Pháp Hoa. Pháp Hoa không như Duy ma nói Thanh văn là mầm hư giống hỏng, tuyệt phần nhất thừa; Pháp Hoa nói, từ lâu và mãi hoài, Phật giáo hóa nhất thừa cho Thanh văn. Thanh văn thời Phật, hay sau đó và sau này, bao kiếp đi nữa rồi ra ai cũng làm Phật, không ai cố định là La hán.

Lược điểm chi tiết

Như đã nói Pháp Hoa có lắm văn và ý độc đáo và đặc tôn. Nhưng ở đây chỉ nêu lên một số cần thiết để làm sáng thêm đại ý của Pháp Hoa.

Trước hết là Phật quan, Pháp Hoa khái niệm về Phật rất độc đáo. Cái gọi là đức Phật trong lịch sử, cái gọi là đức Phật cửu viễn thật thành, cái gọi là đức Phật phi sinh phi diệt, theo Pháp Hoa, toàn là Thích Ca. Phật không nhập diệt. Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta. Ta không thấy Phật chỉ vì ta thấy là thấy sống chết mà Phật thì phi sinh diệt. Nhưng mù nên không thấy mặt trời mà vẫn sống nhờ ánh sáng của nó. Ta không thấy Phật nhưng ơn hóa độ của Phật không rời bỏ ta, ta vẫn luôn luôn được hưởng. Phật quan của Pháp Hoa là như vậy.

Thứ hai là Pháp quan. Khái niệm 10 như vậy (hay 5 gì) về cái gọi là thật tướng, đã khá độc đáo trong văn cũng như ý, vì khái niệm như vậy thì Pháp chính là bản thân và thuộc tính của Phật. Nhưng rõ ràng hơn, chỉnh cú 101 và 102 của phẩm 2, tuy nói cả tánh đức và tu đức mà vẫn rõ ràng đề cao tu đức, khi nói giống Phật cũng phát từ các yếu tố. Pháp Hoa là như vậy, không những nói Pháp là đương xứ tiện thị, mà dẫu vì vốn và vẫn trong sáng nên tu được, nhưng tu mới là điều Pháp Hoa khuyến phát và đôn đốc.

Thứ ba là Niết bàn. Pháp Hoa không công nhận tiểu thừa là không công nhận niết bàn của tiểu thừa. Pháp Hoa nói niết bàn ấy chỉ giải thoát hư ảo, chưa thật niết bàn, vì giải thoát mà chưa được tuệ giác vô thượng. Khái niệm không những phủ nhận niết bàn của tiểu thừa mà còn không cho niết bàn chỉ là đoạn đức. Niết bàn phải đủ hết đoạn đức trí đức và ân đức. Tựa như đứa con vẫn là đứa con, nhưng bỏ cha mà đi là con dại, biết cha mà nhận là con thật. Lăng nghiêm nói cánh tay vẫn là cánh tay, chỉ vì chỉ xuống nên gọi là ngược, khi chỉ lên thì gọi là xuôi. Niết bàn của Pháp Hoa là như vậy: hoạt dụng hơn cả sinh tử, với biết bao bất tư nghị nghiệp, khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến.

Thứ tư là Nhất thừa. Pháp Hoa nói tam thừa là phương tiện, nói nhất thừa mới chân thật, cách nói nào cũng nói lên cái khái niệm “ai cũng có thể làm Phật”: tất cả Thanh văn đều được thọ ký làm Phật, và bất cứ người nào, và chỉ niệm Phật một tiếng đi nữa, rồi ra cũng làm Phật cả. Ý nghĩa này rất quan trọng, vì không những tu hành tiểu thừa cuối cùng cũng làm Phật, mà một điều thiện nhỏ nhặt đến mấy cũng không vô hiệu quả, vô lượng thì gian cũng không mất đi, và cuối cùng sẽ làm Phật tất cả. Chính trong ý nghĩa này mà ngài Đạo Sinh nhận định đầu tiên rằng Pháp Hoa là vạn thiện đồng quy. Pháp Hoa nhất thừa cao đến tột đỉnh mà lại bao trùm hết thảy.

Thứ năm là Thanh văn. Thanh văn chủ yếu là hai bộ đại Tăng, có loại còn tu học có loại hết tu học, và có bốn đạo quả mà tột bậc là La Hán. Pháp Hoa nói về Thanh văn càng độc đáo. Tất cả Thanh văn, thời Phật cũng như thời nay và sau này, toàn đã là đệ tử của Phật – của vị Sa di Bồ tát thứ 16. Chưa hết, Thanh văn còn là “nội bí Bồ tát hạnh, ngoại hiện Thanh văn tướng.” Pháp Hoa thọ ký làm Phật cho Thanh văn, điều này kinh động tiểu thừa quá lắm, vì như thế là không công nhận La Hán đã cứu cánh, niết bàn của La Hán, dầu hữu dư (chỉ hết tập đế) dầu vô dư (hết cả khổ đế) đều chưa thật niết bàn. Thanh văn, kể cả Thanh văn La hán, tự cho đã cứu cánh thì bị Pháp Hoa gọi là kẻ Tăng thượng mạn. Thế nên tất cả Thanh văn phải, và có thể, làm Phật: đó là chủ ý của Pháp Hoa. Vì vậy mà đối tượng chính yếu của Pháp Hoa là Thanh văn, cũng vì vậy mà Pháp Hoa không công nhận có một loại Thanh văn cố định, vĩnh viễn không chuyển hướng đại thừa.

Thứ sáu là Duyên giác. Phạn tự pratyeka buddha, ngoài chữ Duyên giác (giác ngộ đạo lý duyên khởi) còn dịch là Độc giác (độc lực giác ngộ đạo lý duyên khởi). Tra cứu cách nói của các danh tác thuộc cả đại thừa tiểu thừa và nguyên thỉ thì thấy nói Duyên giác có nhiều loại. Nhưng nói thế nào cũng không minh bạch Duyên giác là đệ tử của Phật, Phật có giáo pháp huấn dụ riêng cho, và giáo pháp ấy gọi là Duyên giác thừa. Trái lại, xét cách nói thì thấy Phật giáo thừa nhận có người đời trước hay những đời trước gặp Phật hoặc Phật pháp nên đời này không gặp mà vẫn tự ngộ tương đương với đạo lý duyên khởi. Pháp Hoa thì không thấy Phật thọ ký làm Phật cho ai gọi là Duyên giác. Thế nhưng Pháp Hoa nói đến Duyên giác lại minh bạch các vị này cũng là đệ tử của Phật, minh bạch có cái gọi là Duyên giác thừa. Không dưới vài chỗ nói ai cầu Thanh văn thì Phật nói cho 4 chân lý, ai cầu Duyên giác thì Phật nói cho 12 duyên khởi, ai cầu Bồ tát thì Phật nói cho 6 ba la mật. Phẩm 3 lại nói như sau về tam thừa, “Người nào theo Phật nghe Pháp mà tin tưởng tiếp nhận, thiết tha tinh tiến, nhưng ước muốn cấp tốc thoát ra 3 cõi nên cầu tự niết bàn, đó là theo cỗ xe Thanh văn. Người nào theo Phật nghe Pháp mà tin tưởng tiếp nhận, thiết tha tinh tiến, nhưng cầu tuệ giác tự nhiên, thích đơn độc, khéo vắng lặng, biết sâu nguyên lý duyên khởi của các pháp, đó là theo cỗ xe Duyên giác. Người nào theo Phật nghe Pháp mà tin tưởng tiếp nhận, thiết tha tinh tiến, nhưng cầu tuệ giác hoàn toàn, tuệ giác Phật đà, tuệ giác tự nhiên, tuệ giác không thầy, nói tóm là cầu sự thấy biết của Phật mà nội dung có đủ các phẩm chất như 10 đại năng lực, 4 sự không sợ, và cầu như vậy là vì thương tưởng, muốn đem lại sự yên vui cho vô số chúng sinh, cứu độ cho hết thảy, đó là theo cỗ xe vĩ đại. Bồ tát cầu cỗ xe vĩ đại ấy nên gọi là bậc vĩ đại”. Ngoài đoạn văn trên đây, phẩm 7 nói đức Trí Thắng mà cũng như nói đức Thích Ca, rằng Phật nói 4 chân lý rồi nói rộng thành 12 duyên khởi. Vậy có thể nói thế này: dầu 12 duyên khởi là Phật quảng diễn 4 chân lý, nhưng đối tượng là cho những người có trình độ hơn Thanh văn. Thế nhưng quả vị Duyên giác dẫu hơn Thanh văn về gì đi nữa cũng chỉ chứng niết bàn với trạng huống hữu dư và vô dư, với tận trí và vô sinh trí. Như vậy Duyên giác cũng là La hán mà đặc biệt một chút về trình độ thôi. Và trong Pháp Hoa thì Duyên giác được nói riêng vì trình độ ấy, nhưng vẫn bao gồm trong Thanh văn khi nói về đối tượng đương cơ của Pháp Hoa, về sự thọ ký làm Phật ở đó.

Thứ bảy là Bồ tát. Một ít khái niệm về Bồ tát của Pháp Hoa càng phải chú ý. Một, rất đơn giản, Bồ tát có 2 loại cần nói: loại mới phát tâm chí (sơ phát tâm) và loại không còn thoái chuyển (bất thoái). Loại trước thì thấp nhất là Càn tuệ địa, cao nhất là Phát tâm trú; loại sau là Cực hỷ địa sắp lên. Hai, loại trước rất quan trọng, vì từ căn bản, Bồ tát phải có tâm chí xuất từ sự tự tín có thể làm Phật. Ba, Phật xuất thế cốt làm cho ai cũng làm Phật, do vậy, Pháp Hoa nói rõ, Phật chỉ có đệ tử Bồ tát, không có đệ tử Thanh văn. Nói cách khác, Pháp Hoa không công nhận có loại Thanh văn cố định là Thanh văn; Thanh văn nào rồi cũng là Bồ tát và được thọ ký làm Phật. Bốn, Bồ tát, đúng ra là tư cách Bồ tát (Bồ tát chủng tánh), mới được nói cho Pháp Hoa, thế nên cuối cùng, khi thấy Thanh văn đã có thể chuyển ra Bồ tát thì Phật nói cho Pháp Hoa. Thêm nữa, Pháp Hoa còn có một loại Bồ tát mà bản (gốc gác) và tích (dấu vết) đều rất cao. Thí dụ các ngài Quan Âm, Diệu Âm, Dược Vương, Văn Thù… Thí dụ các vị Bồ tát từ đất xuất hiện… Nhưng nói Bồ tát thì phải nói Bồ tát hạnh (việc làm của Bồ tát). Bồ tát hạnh mà Pháp Hoa nói thì tổng quát là “tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sinh” (làm sạch thế giới, làm nên chúng sinh).

Thứ tám là thọ ký. Thọ ký là trao cho lời biết trước, lời phán quyết, lời ghi nhận. Thọ ký ở đây là Phật thọ ký cho làm Phật. Sự thọ ký này xác quyết ai cũng sẽ làm Phật, đặc biệt các vị Thanh văn La hán phải làm Phật mới là cứu cánh. Thế nên 5.000 người rời khỏi đại hội Pháp Hoa khi Phật sắp xác quyết La hán là giả thiết, Phật đà mới tột bậc. Họ là tăng thượng mạn, tự cho đã là cứu cánh. Họ không thể đương cơ Pháp Hoa, dẫu sau đó bao nhiêu đời kiếp đi nữa Phật vẫn theo đuổi giáo hóa cho họ cũng được làm Phật (không có vấn đề họ cố định là họ). Ngoài họ ra, Phật đã thọ ký cho tất cả Thanh văn, không phân giới tính và trình độ. Không những thọ ký cho Thanh văn, Pháp Hoa còn có mấy sự thọ ký nữa rất đặc thù. Thọ ký cho Đề bà đạt Đa để thấy cực ác cũng vẫn có thể sẽ làm Phật. Long Nữ thì Phật chứng kiến cho làm Phật để thấy bộ loại, giới tính và tuổi tác, không là chướng ngại cho sự làm Phật. Rồi Bồ tát Thường bất Khinh nói không dám khinh ai, ai cũng sẽ làm Phật, thì đó là điều mà Bồ tát Thế Thân ghi cũng là sự thọ ký. Sau hết, phải ghi nhận cũng là sự thọ ký về lời Phật nói sau đây, trong phẩm 10, “Dược Vương, sau khi Như Lai nhập diệt, nếu có người nào nghe kinh Pháp Hoa, thì dẫu chỉ nghe được một bài chỉnh cú, một câu đủ nghĩa, hay đến nỗi chỉ có được một ý niệm tùy hỷ mà thôi, Như Lai cũng thọ ký cho tất cả sẽ được tuệ giác vô thượng”.

Thứ chín là kỳ vĩ. Pháp Hoa có lắm sự kỳ lạ, vĩ đại, tiêu biểu sâu xa cho ý nghĩa của kinh này. Trước hết hãy nói thêm về Phật, về đức Bổn sư Thích Ca. Đặc biệt phẩm 16, ở đó nói Phật ở cạnh ta; đỉnh Linh sơn là tịnh độ của Phật mà lửa hoại kiếp cũng không thiêu hủy được; Phật biểu hiện qua thân và việc mình hoặc qua thân và việc khác; Phật phi tồn tại phi nhập diệt, phi là một phi khác nhau; quả báo Bồ tát hạnh của Phật cũng đã làm cho Phật có thọ lượng bất tận. Phẩm 11 nói phân thân ở hướng đông của Phật mà đã ngồi đầy một thế giới Phật lớn đến ba ngàn hai trăm vạn ức lần trăm triệu quốc độ. Phẩm 7 nói tất cả đệ tử thời Phật, sau đó và sau này, toàn là đệ tử của Phật, Phật bao giờ cũng đeo đuổi giáo hóa cho bằng nhất thừa. Qua những cách nói trên đây cho thấy, không những cái thuyết 3 thân mà chính cái nghĩa bản tích cũng không đủ để nói, và nói rất khéo, về Phật. Điều phải chú ý là những cách nói này cho thấy Phật nói cho Pháp Hoa là quan trọng, nhưng quan trọng hơn nữa là Phật làm cho ta đến được trình độ để Phật nói cho Pháp Hoa. Bổ khuyết cho điều này, kinh Địa Tạng còn nói Phật biểu hiện mọi thân hình và mọi cảnh vật có tác dụng hóa độ; luận Khởi tín nói Phật biểu hiện đến cả tôi tớ và kẻ thù; “không phải biểu hiện chỉ có thân Phật”.

Ngoài sự kỳ vĩ trên đây của đức Bổn sư, Pháp Hoa còn có sự xuất hiện của bảo tháp và toàn thân của đức Đa Bảo, xuất hiện với phong cách đến nỗi thuyết cửu triệt nói Đa Bảo là “bản Phật”, là pháp thân. Còn có ngài Thường bất Khinh, rất đơn sơ, đáng mến và gần gũi. Còn có hằng hà sa Bồ tát dũng xuất. Còn có thần dụng của các giác quan do cha mẹ sinh ra. Còn có Đề Bà được thọ ký và ai nghe Pháp Hoa nói về việc này mà không hoài nghi hay lầm lẫn thì sinh ra ở đâu cũng được nghe thuyết Pháp Hoa. Còn có Long Nữ không khác bao nhiêu với thiên nữ trong kinh Duy Ma (dầu ở đó Thanh văn than mình là mầm hư giống hỏng đối với đại thừa, không như trong Pháp Hoa Thanh văn được thọ ký làm Phật).

Thứ mười là bà con. Pháp Hoa trọng thị sự liên hệ với nhau, nhất là liên hệ thành thân quyến (bà con thế gian) rồi thành pháp quyến (bà con Phật pháp). Phẩm 1, nhất là phẩm 7, chưa nói phẩm 27, không những là thân quyến, là pháp quyến, mà còn là khởi đầu về Pháp Hoa của đức Bổn sư. Sau này Lương Hoàng Sám đặc biệt đề cao cái gọi là “bồ đề quyến thuộc”, còn Cảnh Sách nguyện “bách kiếp thiên sinh đồng vi pháp lữ”, thì quả thật rất phù hợp với Pháp Hoa.

Thứ mười một là quảng bá. Trước hết Pháp Hoa trọng thị sự thọ trì đọc tụng vị thuyết thư tả là vì Pháp Hoa đề cao sự quảng bá Pháp Hoa. Pháp Hoa còn đặc biệt đề cao sự tùy hỷ, nhất là 3 yếu tố và 4 cách sống. Riêng 3 yếu tố thật đáng cảm, “muốn thuyết Pháp Hoa thì hãy vào nhà của Phật, mặc áo của Phật, ngồi chỗ của Phật”. Quảng bá Pháp Hoa là như vậy, nên người làm việc này được Phật nói là “sứ giả của Như Lai làm việc của Như Lai”.

Lược nói hiệu lực

Pháp hạnh Pháp Hoa đem lại tướng tốt (mà Pháp Hoa rất trọng thị tướng tốt ấy, coi các phẩm 18, 28 và 23 thì biết), không bệnh tật, không chết yểu, sống mà chiêm bao cũng đẹp, hơi thở như hương sen, “ước nguyện không vô hiệu quả”. Nên khi chết thì được “cả ngàn đức Phật trao tay cho”, rồi hoặc sinh Cực lạc của đức Di Đà (phẩm 23) hoặc sinh Đâu suất của đức Di Lạc (phẩm 28) hoặc sinh Đao lợi (cũng phẩm 28) hoặc sinh trong nhân loại chư thiên hay trước chư Phật (phẩm 12). “Cả ngàn đức Phật trao tay cho”, điều này rất quan trọng, so sánh được với người niệm Phật thì lâm chung được Phật tiếp dẫn như thế nào.

 Lược giải đề kinh

HD là Chánh Pháp Hoa, CV là Diệu Pháp Liên Hoa, đều có từ gốc Phạn tự Saddharma pundarika. Chánh pháp hay Diệu pháp là chỉ cho Nhất thừa (xác quyết ai cũng làm Phật). Nhất thừa ấy ví dụ như hoa sen. Hoa sen ở đây là thế nào?

Một, khởi đầu như ngài Tăng Duệ giải thích hoa sen ở đây là phân đà lị (pundarika), là hoa sen mà nở đúng độ, không phải mới nở hay đã tàn. Đem Nhất thừa ví dụ như hoa sen ấy là nói sự viên mãn (C9/62).

Hai, ngay khi mới thành đạo, Phật đã đem hoa sen ví dụ cho chúng sinh: có kẻ như hoa sen ngoi ra khỏi bùn, có kẻ như hoa sen ngoi lên nửa nước, có kẻ như hoa sen ngoi lên mặt nước, có kẻ như hoa sen ngoi lên khỏi mặt nước và nở ra. Nói theo ý nghĩa “vạn thiện đồng qui” thì Nhất thừa chẳng phải chỉ làm cho chúng sinh làm Phật, mà còn làm cho chúng sinh ngoi ra khỏi bùn cho đến ngoi lên mặt nước. Thế Thân đại sĩ nói càng sát ý Pháp Hoa, rằng hoa sen ở đây là lấy sự ngoi lên và nở ra: Nhất thừa làm cho Thanh văn ngoi lên khỏi bùn nước Tiểu thừa mà tín giải pháp thân của Phật (C26/3t). Pháp thân ở đây ngôn ngữ Pháp Hoa gọi là Phật tri kiến.

Ba, thế nhưng chính trong phẩm 2, Phật nói Nhất thừa hiếm có như hoa ưu đàm. Ưu đàm là ưu đàm bát la (udumbara) mà nay có người nói tên khoa học là ficus glomerata. Ưu đàm là hoa thiêng quí hiếm hay là ficus glomerata thì tôi tồn nghi. Nhưng điều chắc chắn là ưu đàm không thể không liên hệ gì với hoa sen.

Do vài điều sơ lược trên đây mà ít ra cũng biết nói hoa sen nhân quả đồng thời (mà thật ra đâu phải chỉ hoa sen mới là như vậy) chỉ là ý kiến mới có từ trung diệp bách kỷ 6.

*

Đến đây có thể tạm ngưng được để nói như lược lại, rằng tu học Pháp Hoa thì phải thấy mấy điều sau đây. Một, thấy chính cái thế giới này là tịnh độ của Phật. Phật thuyết Pháp Hoa tại Linh sơn thì Linh sơn là tịnh độ của Phật. Tịnh độ của Phật là đương xứ tiện thị: ở đâu và lúc nào cũng là tịnh độ của Phật. Hai, thấy Phật không nhập diệt. Phật siêu sống chết, siêu thì gian và không gian. Phật luôn luôn ở bên ta, trên ta và trong ta. Cái thấy của ta không cục bộ thì thế là thấy Phật. Ba, thấy đạo lý Pháp Hoa là “như vậy”: biểu hiện, đặc tính, bản thể, năng lực, động tác, nhân tố, duyên tố, kết quả, hình thành, toàn bộ, hết thảy các mặt của các pháp toàn là “như vậy”: toàn là Pháp Hoa. Nói ngay ta đây, tất cả những gì là ta thì chính tất cả những gì ấy là Phật, như cả cái cánh tay đang chỉ xuống chính là cả cái cánh tay sẽ chỉ lên. Bốn, thấy ta cũng từng là đệ tử của Phật, không của ngài Thường Bất Khinh thì của vị Sa di Bồ tát thứ 16. Năm, thấy làm gì cũng không vô hiệu quả: một câu con tôn kính Phật, một lời giới thiệu Pháp Hoa, rồi ra cũng làm Phật cả. Sáu, tu học Pháp Hoa là vào nhà Phật, mặc áo Phật, ngồi chỗ Phật. Bảy, chết thì được chư Phật trao tay cho, rồi sinh chỗ đức Di Đà, chỗ đức Di Lạc, sinh lại tại thế giới này, chưa kể chỉ sao chép ấn hành Pháp Hoa cũng sinh Đao lợi, kỳ lạ nữa là nghe kẻ cực ác được thọ ký mà tin hiểu chính xác thì hết còn đọa lạc đường dữ, sinh trong nhân loại hay chư thiên, sinh trước chư Phật.

Rằm tháng 2, 2542 (3, 1998)

TRÍ QUANG


CUỐN 1

Ngưỡng bạch Phật Pháp Tăng vô tận Tam bảo từ bi chứng minh. Đệ tử chúng con nguyện vì bản thân, vì cha mẹ bà con, vì người thân kẻ thù, vì mọi người và vì chúng sinh, trì tụng kinh Đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa.

Mở đầu tụng kinh Pháp Hoa, chúng con xin kính lạy:

Kính lạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh cho Bồ tát và được Phật giữ gìn. Kính lạy tất cả Pháp bảo trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni, đức Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp Hoa. Kính lạy đức Đa Bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp Hoa toàn là chân thật. Kính lạy đức Di Lạc, đức Phật đương lai, đã phát khởi kinh Pháp Hoa và tiếp dẫn những người hành trì Pháp Hoa vãng sinh Đâu Suất tịnh độ. Kính lạy tất cả Phật bảo trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy Bồ tát Văn Thù, vị Pháp sư Pháp Hoa. Kính lạy Bồ tát Phổ Hiền, vị khuyến phát Pháp Hoa. Kính lạy Bồ tát Quan Âm, vị Đại sĩ toàn diện. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ. 


KINH PHÁP HOA

Phẩm 1: Mở đầu

Tôi nghe như vầy. Một thời đức Thế Tôn ở trong đỉnh Linh sơn, thuộc thành Vương Xá, cùng chúng đại Tỷ kheo mười hai ngàn vị, toàn là những bậc A La Hán mà sự sơ hở đã được tận diệt, sự phiền não không còn tái sanh, đã đạt được sự ích lợi của bản thân, đã dứt hết sự ràng buộc vào hiện hữu, tâm trí tự tại giải thoát. Tên các vị ấy là tôn giả Kiều Trần Như, tôn giả Đại Ca Diếp, tôn giả Tần Loa Ca Diếp, tôn giả Già Da Ca Diếp, tôn giả Na Đề Ca Diếp, tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả Mục Kiền Liên, tôn giả Ca Chiên Diên, tôn giả A Nâu Lâu Đà, tôn giả Kiếp Tân Na, tôn giả Kiều Phạm Ba Đề, tôn giả Ly Bà Đa, tôn giả Tất Lăng Già, tôn giả Bạc Câu La, tôn giả Câu Hy La, tôn giả Nan Đà, tôn giả Tôn Đà Ra Nan Đà, tôn giả Phú Lâu Na, tôn giả Tu Bồ Đề, tôn giả A Nan Đà, tôn giả La Hầu La, đại loại như vậy, những vị A La Hán mà mọi người đều biết. Lại có hai ngàn vị tu học tiếp tục và tu học hoàn tất, có Tỷ kheo ni Đại Thắng Sinh Chủ cùng với sáu ngàn người tùy thuộc, có thân mẫu tôn giả La Hầu La là Tỷ kheo ni Trì Dự cùng với những người tùy thuộc, đều đến tụ tập.

Chúng đại Bồ tát có tám mươi ngàn, toàn là những vị không thoái chuyển đối với tuệ giác vô thượng, được các pháp tổng trì, được các tài hùng biện mà trong đó có sự biện thuyết hoan hỷ, biện thuyết về pháp không thoái chuyển; đã phụng sự vô lượng trăm ngàn chư Phật, vun trồng các gốc rễ công đức ở nơi chư Phật ấy, và thường được chư Phật ấy tán dương; sửa mình bằng đức tính từ bi, khéo nhập vào tuệ giác Phật đà, thông suốt tuệ giác vĩ đại, đạt đến bờ bến bên kia; danh tiếng vang khắp vô lượng quốc độ, hoá độ vô số trăm ngàn chúng sanh. Tên các vị ấy là Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ tát Quan Thế Âm, Bồ tát Đại Thế Chí, Bồ tát Thường Tinh Tấn, Bồ tát Bất Hưu Tức, Bồ tát Bảo Chưởng, Bồ tát Dược Vương, Bồ tát Dũng Thí, Bồ tát Bảo Nguyệt, Bồ tát Nguyệt Quang, Bồ tát Mãn Nguyệt, Bồ tát Đại Lực, Bồ tát Vô Lượng Lực, Bồ tát Việt Tam Giới, Bồ tát Hiền Hộ, Bồ tát Di Lạc, Bồ tát Bảo Tích, Bồ tát Đạo Sư, đại loại như vậy, tám mươi ngàn vị đại bồ tát đều đến tụ tập.

Chư Thiên thì có Đế Thích cùng hai mươi ngàn thiên nhân tùy thuộc; Nguyệt thiên tử, Phổ Hương thiên tử, Bảo Quang thiên tử, và bốn vị đại thiên vương, cùng mười hai ngàn thiên nhân tùy thuộc; Tự Tại thiên tử và Đại Tự Tại thiên tử cùng ba mươi ngàn thiên nhân tùy thuộc; Phạn vương chủ thế giới hệ Kham nhẫn, cùng các Phạn vương đại loại Phạn vương Thi Khí, Phạn vương Quang Minh, và hai mươi ngàn thiên nhân tùy thuộc, đều đến tụ tập. Các bộ khác thì có tám Long vương là Hỷ, Hiền Hỷ, Diêm Hải, Cửu Đầu, Đa Thiệt, Vô Nhiệt Não, Từ Tâm và Hồng Liên Hoa, mỗi vị cùng mấy trăm ngàn tùy thuộc; có bốn Khẩn na la vương là Pháp và Diệu Pháp, Đại Pháp và Trì Pháp, mỗi vị cùng mấy trăm ngàn tùy thuộc; có bốn Càn thát bà vương là Nhạc và Nhạc Âm, Mỹ và Mỹ Âm, mỗi vị cùng mấy trăm ngày tùy thuộc; có bốn A tu la vương là Tối Thắng, Dục Cẩm, Yến Cư và Hấp Khí, mỗi vị cùng mấy trăm ngàn tùy thuộc; có bốn Ca lâu la vương là Đại Uy Đức, Đại Thân, Đại Mãn và Như Ý, mỗi vị cùng mấy trăm ngày tùy thuộc, đều đến tụ tập.

Nhân loại thì có con Hoàng hậu Vi Đề Hy là Hoàng đế A Xà Thế, cùng mấy trăm ngàn tùy thuộc, cũng đến tụ tập.

Tất cả các chúng trên đây, mỗi chúng đảnh lễ ngang chân đức Thế tôn, rồi lui lại mà ngồi mỗi chúng một chỗ.

Vào lúc này, đức Thế Tôn được bốn chúng vây quanh, hiến cúng, cung kính, tôn trọng, tán dương. Ngài nói cho các vị Bồ tát bản kinh Đại thừa tên Nghĩa Vô Lượng, bản kinh dạy cho Bồ tát và được Phật giữ gìn. Nói kinh ấy rồi, đức Thế Tôn vẫn ngồi xếp bằng ở ngay giữa đại hội mà nhập định. Vị trí của Nghĩa Vô Lượng, thân thể và tâm trí đều không dao động. Ngay khi ấy chư thiên mưa xuống hoa mạn đà, hoa mạn đà lớn, hoa mạn thù, hoa mạn thù lớn, rải trên đức Thế Tôn và cả đại hội. Khắp cõi Phật này chấn động đủ cả sáu cách. Trong đại hội, bốn chúng là Tỷ kheo và Tỷ kheo ni, Ưu bà tắc và Ưu bà di; tám bộ là thiên, long, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la dà, toàn là những người không phải loài người, và các chúng khác mà trong đó có các vị quốc vương và các vị luân vương, hết thảy các chúng như vậy đều được sự chưa từng có, hoan hỷ, chắp tay, và chuyên chú chiêm ngưỡng đức Thế Tôn. Còn đức Thế Tôn thì từ nơi tướng lông trắng giữa hai đầu của hai hàng lông mày phóng ra ánh sáng, chiếu soi mười tám ngàn thế giới hệ ở về hướng đông, không thế giới hệ nào mà không chiếu soi dưới đến Vô gián ngục trên đến Sắc cứu cánh. Làm cho đại hội ở thế giới hệ này mà thấy hết chúng sinh trong sáu loài của các thế giới hệ ấy; lại thấy chư Phật hiện tại của các thế giới hệ ấy, nghe kinh pháp của chư Phật ấy nói, thấy bốn chúng, những người hành đạo và đắc đạo trong các thế giới hệ ấy; lại thấy các vị bồ tát đi theo đường đi của bồ tát bằng các thứ yếu tố, các cách tin hiểu và các loại hình thức; lại thấy chư Phật nhập diệt, thấy sau đó xá lợi của chư Phật ấy được đem ra xây dựng những ngôi tháp bằng bảy chất liệu quý báu mà tôn thờ.

Bấy giờ đức Di Lạc suy nghĩ, hôm nay đức Thế Tôn biểu hiện cảnh tượng thần biến. Vì lý do gì mà có điềm lành như vậy? Đức Thế Tôn đang nhập định, sự thể ngoài sự nghĩ bàn ấy biểu hiện cảnh tượng hiếm có này, ta nên hỏi ai, ai giải đáp được? Đức Di Lạc lại nghĩ, bồ tát Văn Thù, vị thái tử của đức Pháp vương, đã từng thân gần phụng sự vô lượng chư Phật quá khứ, tất đã thấy được cảnh tượng hiếm có này, vậy ta nên hỏi người. Cùng lúc, cả bốn chúng, tám bộ và các chúng khác, ai cũng nghĩ rằng, cảnh tượng thần biến biểu hiện bởi ánh sáng của đức Thế Tôn như vầy, nên đem hỏi ai? Đức Di Lạc muốn giải quyết nghi ngờ của mình, lại xét tâm trí của cả đại hội, nên hỏi bồ tát Văn Thù, vì lý do nào mà có điềm lành—có cảnh tượng thần biến là đức Thế Tôn phóng ánh sáng lớn chiếu soi mười tám ngàn cõi Phật ở về hướng đông, làm cho đại hội ở đây mà thấy hết mọi sự huy hoàng của các cõi Phật ấy? Đức Di Lạc muốn lặp lại ý nghĩa đã hỏi, nên hỏi bồ tát Văn Thù bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Văn Thù đại sĩ,
vì lý do nào
mà đức Thế Tôn,
vị thầy dẫn đạo,
từ nơi lông trắng
giữa hai đầu mày,
phóng ánh sáng lớn
chiếu soi khắp cả?

(2) Chư thiên mưa xuống
bao nhiêu hoa quí
mạn đà mạn thù,
và thổi làn gió
hơi thơm đàn hương,
đẹp lòng đại hội.

(3) Vì vậy mặt đất
cả quốc độ này
rực rỡ huy hoàng,
và cả quốc độ
đều chấn động lên
đủ hết sáu cách.
Làm cho bốn chúng
hoan hỷ tất cả,
cơ thể tâm trí
đều thấy thích thú,
cảm nhận sự thể
chưa bao giờ có.

(4) Chỉ một ánh sáng
phóng từ lông trắng
giữa hai đầu mày
chiếu soi hướng đông,
mà khiến một vạn
tám ngàn quốc độ
đều như màu sắc
ánh từ vàng ròng.

(5) Trong các quốc độ
được chiếu như vậy,
từ Vô gián ngục
đến Sắc cứu cánh,
hết thảy chúng sinh
thuộc cả sáu loài
sinh từ loài này
chết đến loài khác,

(6) hành vi lành dữ,
kết quả tốt xấu,
ở quốc độ này
mà thấy rõ cả.

(7) Lại thấy chư Phật,
chúa của thánh hiền,
tuyên thuyết kinh pháp
tinh túy bậc nhất,
bằng tiếng trong thanh
xuất lời hòa nhã
mà dạy bồ tát
vô số ức vạn.

(8) Bằng tiếng Phạn thiên
thâm thúy kỳ diệu
khiến người thích nghe,
chư Phật ở nơi
quốc độ của mình
diễn giảng chánh pháp,
vận dụng vô số
yếu tố, ví dụ,
soi sáng chánh pháp
thức tỉnh chúng sinh:

(9) Ai bị khổ não,
chán già bịnh chết,
thì nói cho họ
về pháp niết bàn,
để họ diệt tận
biên cương khổ não.

(10) Ai có phước đức
từng hiến cúng Phật,
chí cầu đạt được
chân lý cao hơn,
thì nói cho họ
về pháp duyên giác.

(11) Còn các con Phật
làm mọi hạnh nguyện
để cầu thành tựu
tuệ giác vô thượng,
thì nói cho họ
tuệ giác trong suốt.
*

(12) Văn Thù đại sĩ,
tôi ở nơi đây
mà thấy và nghe
đến như thế đó,
có ngàn ức việc.
Việc nhiều như vậy
nay tôi chỉ kể
một cách vắn tắt.

(13) Tôi thấy bồ tát
như cát sông Hằng,
của trong tất cả
thế giới hệ ấy,
đem mọi yếu tố
cầu tuệ giác Phật.

(14) Có người thực hành
hạnh nguyện bố thí:
bạc, vàng, san hô,
chân châu, ma ni,
xa cừ, mã não,
kim cương, của quí,
tôi tớ, xe thuyền,
vật để cỡi, chở,

(15) xe liễn, xe dư
trang hoàng vàng ngọc,
cũng rất hoan hỷ
mà đem hiến cho,
rồi hồi hướng cả
về nơi trí Phật,

(16) nguyện được xe Phật
cỗ xe bậc nhất
trong cả ba cõi,
được Phật tán dương.

(17) Hoặc có bồ tát
cho xe quí báu
kéo bởi bốn ngựa,
lại có lan can
mui trần hoa mỹ
mái riềm trang hoàng.

(18) Lại thấy bồ tát
cho thân cho thịt
cho tay cho chân
cho cả vợ con,
quyết chí đạt đến
tuệ giác vô thượng.

(19) Lại thấy bồ tát
cho đầu cho mắt
cho cả thân thể _
cho mà vui thích,
để cầu thành tựu
tuệ giác Phật đà.

(20) Văn Thù đại sĩ,
tôi thấy vua chúa
đi đến chỗ Phật
hỏi pháp vô thượng,
rồi từ bỏ liền
đất nước thịnh vượng,
bỏ cả cung điện
đình thần hậu phi,

(21) cạo sạch râu tóc
mà mặc pháp y.

(22) Hoặc thấy bồ tát
mà làm tỷ kheo,
chỉ ở một mình
nơi chỗ thanh vắng,
vui vẻ thích thú
đọc tụng kinh điển.

(23) Lại thấy bồ tát
dũng mãnh tinh tiến,
vào chốn núi sâu
suy nghĩ trí Phật.

(24) Lại thấy bồ tát
tách rời dục vọng,
thường xuyên trú ở
những chỗ trống vắng,
tu sâu thuyền định
được năm thần thông.

(25) Lại thấy bồ tát
chân đứng vững vàng
tư tưởng tập trung
hai tay chắp lại,
đem cả ngàn vạn
bài văn chỉnh cú
hoan hỷ ca tụng
các đấng Pháp vương.

(26) Lại thấy bồ tát
trí sâu, nhớ chắc
có thể thưa hỏi
chánh pháp nơi Phật,
nghe rồi tiếp nhận
ghi nhớ đủ cả.

(27) Lại thấy con Phật
đủ cả định tuệ,
áp dụng vô số
mọi sự ví dụ,
diễn giảng chánh pháp
cho các chúng khác;

(28) lại vui thuyết pháp
giáo hóa bồ tát,
chiến thắng ma vương
và binh đội nó,
rồi gióng lớn lên
tiếng trống chánh pháp.

(29) Lại thấy bồ tát
vắng bặt im lặng,
trời rồng cung kính
không lấy làm mừng.

(30) Lại thấy bồ tát
ở trong núi rừng
mà phóng ánh sáng
cứu khổ địa ngục,
thức tỉnh cho họ
hướng vào trí Phật.
*

(31) Lại thấy con Phật
chưa từng ngủ nghỉ,
kinh hành trong rừng
siêng cầu trí Phật.

(32) Lại thấy có vị
giới pháp đầy đủ,
uy nghi vẹn toàn,
sạch sẽ trong suốt
in như ngọc quí
để cầu trí Phật.

(33) Lại thấy con Phật
trụ vào sức nhẫn,
bao kẻ thượng mạn
mắng nhiếc đánh đập
vẫn nhẫn được cả
để cầu trí Phật.

(34) Lại thấy bồ tát
từ bỏ trò chơi,
bỏ luôn những kẻ
thân thuộc ngu dốt,
chỉ biết thân gần
những người thánh trí,

(35) chuyên nhất tâm ý
trừ bỏ loạn động,
trú ở núi rừng
tập trung tư tưởng,
trải qua ức vạn
những năm như vậy
để cầu thành tựu
tuệ giác Phật đà.

(36) Hoặc thấy bồ tát
cỗ bàn quí trọng,
thức uống, đồ ăn,
các loại dược phẩm,
đều đem hiến cúng
Phật bảo Tăng bảo.

(37) Y phục danh tiếng
và thượng hảo hạng,
giá trị ngàn vạn
hoặc đến vô giá,
đều đem hiến cúng
Phật bảo Tăng bảo.

(38) Nhà cửa quí báu
bằng gỗ đàn hương,
trong đó đồ nằm
rất tốt và đẹp,
nhà và đồ ấy
nhiều đến vạn ức,
đều đem hiến cúng
Phật bảo Tăng bảo.

(39) Vườn rừng quang đãng,
trong đó đủ cả
hoa trái tốt nhiều,
suối chảy ao tắm,
đều đem hiến cúng
Phật bảo Tăng bảo.

(40) Đồng đẳng như vậy,
họ đem hiến cúng
đủ hết những thứ
rất là tinh tế,
mà lòng hoan lạc
không biết nhàm chán,
chí quyết đạt đến
tuệ giác vô thượng.

(41) Hoặc có bồ tát
bằng nhiều minh chứng,
nói về nguyên lý
tuyệt đối vắng lặng,
huấn dụ vô số
các loại chúng sinh.

(42) Hoặc thấy bồ tát
xét thấy bản thể
tất cả vạn hữu
in như hư không:
không những khái niệm
thuộc về nhị biên.
Lại thấy con Phật
tâm không vướng mắc,
đem tuệ mầu này
cầu tuệ vô thượng.
*

(43) Văn Thù đại sĩ,
có những bồ tát
Phật nhập diệt rồi
hiến cúng xá lợi.

(44) Lại thấy con Phật
dựng bao chùa tháp
nhiều bằng Hằng sa
tô điểm quốc độ.

(45) Tháp thì tráng lệ,
làm bằng bảy báu,
chiều cao có đến
năm ngàn do tuần,
chu vi rộng đến
hai ngàn do tuần.

(46) Mỗi một chùa tháp
cờ phan cả ngàn,
màn được kết ngọc,
chuông nhỏ hòa reo,
tám bộ thiên long,
loài người loài khác,
thường đem hiến cúng
hoa hương, kịch nhạc.

(47) Văn Thù đại sĩ,
những con Phật ấy
chính vì hiến cúng
xá lợi của Phật
mà cố trang hoàng
những ngôi chùa tháp,
nên cả quốc độ
tự nhiên tráng lệ
tuyệt diệu tuyệt hảo,
in như cây chúa
của trời Đế Thích
toàn bộ nở hoa.

*

(48) Thế Tôn chỉ phóng
một đường ánh sáng
mà làm cho tôi
và cả đại hội
thấy quốc độ này
đủ mọi vẻ đẹp.

(49) Những thần thông lực
của đức Thế Tôn
thật là hiếm có:
chỉ phóng một đường
ánh sáng rực rỡ
mà chiếu khắp cả
vô lượng quốc độ.

(50) Làm cho chúng tôi
nhìn cảnh tượng này
ai cũng cảm được
sự chưa từng có.
Phật tử Văn Thù,
xin hãy giải thích
cho nỗi nghi ngờ
của cả đại hội.

(51) Tất cả bốn chúng
thích thú trông ngóng,
nhìn vào nhân giả
và nhìn vào tôi.

(52) Ai cũng muốn biết
tại sao Thế Tôn
phóng ra ánh sáng
đến như thế này?

(53) Phật tử Văn Thù,
hãy đáp ứng gấp,
giải tỏa nghi ngờ
cho họ hoan hỷ:
vì ích lợi nào
mà đức Thế Tôn
phóng ra ánh sáng
đến như thế này –

(54) Chánh pháp tinh túy
mà đức Thế Tôn
đã chứng ngộ được
trong khi mới ngồi
nơi bồ đề tràng,
ngài muốn tuyên thuyết
về chánh pháp ấy,
hay muốn thọ ký?

(55) Ánh sáng Thế Tôn
đã làm hiện ra
cho chúng tôi thấy
bao nhiêu cõi Phật
đẹp và sáng lên
với những ngọc quí,
lại được thấy cả
chư vị Phật đà,
thì đó không phải
là sự kiện nhỏ.

(56) Văn Thù đại sĩ,
nên biết tất cả
bốn chúng tám bộ
và các chúng khác,
nhìn xem nhân giả
nói cho rhế nào?

Lúc ấy bồ tát Văn Thù nói với đức Di Lạc, và các vị đại sĩ khác, chư vị thiện nam tử, theo tôi suy xét thì đức Thế Tôn hiện nay muốn nói chánh pháp vĩ đại, đổ mưa chánh pháp vĩ đại, thổi loa chánh pháp vĩ đại, đánh trống chánh pháp vĩ đại, diễn nghĩa chánh pháp vĩ đại. Chư vị thiện nam tử, nơi chư Phật quá khứ, tôi đã từng thấy điềm lành như vậy. Các ngài phóng ra ánh sáng này rồi là nói về chánh pháp vĩ đại. Do đó, chư vị nên biết, đức Thế Tôn hiện nay phóng ra ánh sáng thì cũng sẽ làm như vậy. Muốn làm cho chúng sinh ai cũng nghe biết được cái pháp mà cả thế gian đều khó tin, nên đức Thế Tôn biểu hiện điềm lành như vầy.

Chư vị thiện nam tửû, như trong quá khứ, lâu đến rất nhiều thời kỳ vô số, bấy giờ có đức Phật danh hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, đủ mười đức hiệu: bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua niết bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giác hoàn toàn: bậc Tôn cao nhất đời. Ngài tuyên thuyết chánh pháp một cách phần đầu phần giữa phần cuối ba phần đều tuyệt hảo, nghĩa lý sâu xa, lời tiếng tukyệt diệu, thuần nhất không tạp, đủ hết sắc thái phạn hạnh trắng trong. Ấy là người cầu Thanh văn thì nói mà đáp ứng bằng bốn chân lý, để họ vượt qua sinh, già, bịnh, chết, cứu cánh niết bàn; người cầu Duyên giác thì nói mà đáp ứng bằng mười hai duyên khởi; còn các vị Bồ tát thì nói mà đáp ứng bằng sáu ba la mật, làm cho họ được tuệ giác vô thượng, nghĩa là thành bậc Tuệ giác biết tất cả.

Kế đó lại có đức Phật cũng tên Nhật Nguyệt Đăng Minh, kế đó nữa lại có đức Phật cũng tên Nhật Nguyệt Đăng Minh. Như vậy có hai mươi ngàn đức Phật đều cùng một tên, tên Nhật Nguyệt Đăng Minh, và cùng một họ, họ Phả La Đọa. Di Lạc đại sĩ, đại sĩ nên biết, đức Phật đầu tiên cũng như đức Phật cuối cùng đều cùng một tên Nhật Nguyệt Đăng Minh, cùng đủ mười đức hiệu, và pháp mà các ngài tuyên thuyết cũng phần đầu phần giữa phần cuối ba phần đều tuyệt hảo. Đức Phật cuối cùng, khi chưa xuất gia, có tám vương tử, thứ nhất tên Hữu Ý, thứ hai tên Thiện Ý, thứ ba tên Vô Lượng Ý, thứ tư tên Bảo Ý, thứ năm tên Tăng Ý, thứ sáu tên Trừ Nghi Ý, thứ bảy tên Hướng Ý, thứ tám tên Pháp Ý. Cả tám vương tử đều uy đức tự tại, thống lãnh bốn đại lục. Khi nghe phụ hoàng xuất gia, thành tựu tuệ giác vô thượng, thì tám vương tử ấy cùng bỏ ngôi vua mà xuất gia theo, phát tâm Đại thừa, thường hành phạn hạnh, và cùng làm pháp sư, vì đã từng gieo trồng các gốc rễ điều lành ở nơi ngàn vạn đức Phật. Bấy giờ đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh cũng đã nói bản kinh Đại thừa tên Nghĩa Vô Lượng, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Nói kinh ấy rồi, đức Phật ấy cũng đã ở ngay giữa đại hội mà ngồi xếp bằng, nhập định vị trí của nghĩa vô lượng, thân thể và tâm trí đều không dao động. Lúc ấy chư thiên cũng mưa xuống hoa Mạn Đà, hoa Mạn Đà lớn, hoa Mạn Thù, hoa Mạn Thù lớn, rải trên đức Phật và cả đại hội. Khắp cõi Phật này cũng chấn động đủ hết sáu cách. Trong đại hội, bốn chúng, tám bộ và các chúng khác, hết thảy các chúng như vậy cũng được sự chưa từng có, hoan hỷ, chắp tay, chuyên chú mà chiêm ngưỡng đức Phật. Còn đức Phật thì cũng từ nơi tướng lông trắng giữa hai đầu của hai hàng lông mày phóng ra ánh sáng, chiếu soi mười tám ngàn cõi Phật ở về hướng đông, không cõi Phật nào mà không chiếu soi khắp cả, y như những cõi Phật mà ngày nay chư vị đang thấy.

Di Lạc đại sĩ, đại sĩ nên biết, trong đại hội lúc ấy có hai mươi ức bồ tát ưa thích nghe pháp. Các vị bồ tát này thấy ánh sáng của Phật chiếu khắp các cõi Phật như vậy thì cũng được sự chưa từng có, và cũng muốn biết mục đích của ánh sáng ấy. Bấy giờ có một vị bồ tát tên Diệu Quang, có tám trăm đệ tử. Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh xuất định, nhân bồ tát Diệu Quang mà nói bản kinh Đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Ngài nói đến sáu mươi thời kỳ bậc nhỏ, không đứng dậy khỏi pháp tòa. Đại hội thính giả lúc ấy cũng ngồi một chỗ, trải qua sáu mươi thời kỳ bậc nhỏ mà thân thể và tâm trí đều bất động, nghe đức Phật nói thì cho rằng chỉ bằng thì gian một bữa ăn. Cả đại hội không một ai mà thân thể hay tâm trí sinh nhác sinh mệt. Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh nói kinh Pháp Hoa trong sáu mươi thời kỳ bậc nhỏ rồi, liền ở giữa đại hội các chúng phạn vương, ma vương, sa môn, bà la môn, và chư thiên, nhân loại, tu la, tuyên ngôn rằng giữa đêm hôm nay Như Lai sẽ nhập niết bàn hoàn toàn.

Bấy giờ có bồ tát tên Đức Tạng, đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh liền thọ ký cho, bằng cách nói với chư vị Tỷ kheo, rằng vị bồ tát Đức Tạng này sẽ kế tiếp làm Phật, danh hiệu Tịnh Thân, bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và kháép. Thọ ký rồi, ngay giữa đêm ấy, đức Phật nhập niết bàn hoàn toàn. Sau đó bồ tát Diệu Quang ghi nhớ Pháp Hoa, diễn giảng cho người trọn tám mươi thời kỳ bậc nhỏ. Tám vương tử con đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đều tôn thờ bồ tát Diệu Quang làm thầy, bồ tát ấy giáo hóa, làm cho tám vương tử vững chắc đối với tuệ giác vô thượng. Tám vương tử, sau đó, phụng sự rất nhiều ức đức Phật rồi, được thành Phật cả, và vị thành Phật cuối cùng danh hiệu là Nhiên Đăng. Trong tám trăm đệ tử của bồ tát Diệu Quang, có một vị tên là Cầu Danh, đam mê danh lợi, dẫu cũng đọc tụng kinh pháp mà không thông suốt, phần nhiều quên mất, nên mới có cái tên Cầu Danh. Nhưng vị này cũng nhờ sự gieo trồng các gốc rễ điều lành mà được gặp rất nhiều ức đức Phật, hiến cúng, cung kính, tôn trọng và tán dương. Di Lạc đại sĩ, đại sĩ nên biết bồ tát Diệu Quang lúc ấy đâu phải ai khác, mà chính là tôi đây, còn bồ tát Cầu Danh thì chính là đại sĩ. Ngày nay thấy điềm lành như vầy so với ngày xưa không khác gì cả, nên tôi nghĩ rằng đức Thế Tôn hiện nay sẽ tuyên thuyết về bản kinh Đại thừa tên là Pháp Hoa, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn.

Lúc ấy, ở giữa đại hội, bồ tát Văn Thù muốn lập lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(57) Tôi nhớ quá khứ
vô số thời kỳ,
có đức Phật đà,
bậc tôn cao nhất,
danh hiệu ngài là
Nhật Nguyệt Đăng Minh.

(58) Đức Phật đà ấy
tuyên thuyết chánh pháp
hóa độ vô lượng
các loại chúng sinh,
và vô số ức
các vị Bồ tát,
làm cho vào được
tuệ giác Phật đà.

(59) Có tám vương tử
con của Phật sinh
lúc chưa xuất gia,
thấy Phật xuất gia
cũng xuất gia theo
thực hành phạn hạnh.

(60) Bấy giờ Phật nói
bản kinh đại thừa
tên Nghĩa Vô Lượng,
giảng giải rộng rãi
nghĩa lý vô lượng
cho cả đại hội.

(61) Phật tuyên thuyết xong
bản kinh ấy rồi,
liền ngồi xếp bằng
ngay trên pháp tòa,
nhập định Vị trí
của nghĩa vô lượng.

(62) Chư thiên mưa xuống
hoa mạn đà la,
và trống chư thiên
tự kêu vang rền;
tám bộ thiên long
dùng hoa trống ấy
hiến cúng lên bậc
tôn cao nhất người.

(63) Toàn cõi Phật này
đồng thời chấn động.
Và rồi đức Phật
phóng ra ánh sáng
từ nơi lông trắng
giữa hai đầu mày,
biểu hiện đủ cả
cảnh tượng hiếm có.
*

(64) Ánh sáng như vậy
chiếu soi một vạn
tám ngàn cõi Phật
ở về hướng đông,
biểu hiện cho thấy
tất cả những chỗ
các loại chúng sinh
sinh ra chết đi,
hành động lành dữ,
hưởng chịu tốt xấu.

(65) Lại được nhìn thấy
có những cõi Phật
toàn thể trang hoàng
bằng bao vàng ngọc,
ánh lên màu sắc
lưu ly pha lê;
đại hội thấy được
đến như thế này
là do ánh sáng
của Phật chiếu soi.

(66) Lại thấy tất cả
tám bộ thiên long
cùng với nhân loại
tại mỗi quốc độ
cùng nhau hiến cúng
đức Phật của mình.

(67) Lại thấy chư Phật
tự thành Phật tuệ,
thân như núi vàng
cực kỳ tráng lệ.
Các ngài ở giữa
đại hội thánh hiền
diễn giảng nghĩa ý
của pháp sâu xa,
thì trông giống như
những tượng vàng thật
hiện trong các khối
lưu ly trong suốt.

(68) Trong mỗi cõi Phật,
thanh văn vô số,
cũng nhờ ánh sáng
của Phật chiếu soi
mà thấy rõ cả
chúng thanh văn ấy.

(69) Thấy chư tỷ kheo
ở trong núi rừng,
tinh tiến giữ giới
như giữ ngọc sáng.

(70) Lại thấy bồ tát
nỗ lực bố thí
kiên trì nhẫn nhục,
số bồ tát ấy
nhiều như hằng sa
mà thấy được cả,
là do ánh sáng
của Phật chiếu soi.

(71) Thấy các bồ tát
tinh tiến nhập định
một cách sâu xa,
thân tâm bất động,
đem thiền định ấy
cầu trí vô thượng.

(72) Thấy các bồ tát
biết rất thấu suốt
thật tướng vắng lặng
của tất cả pháp,
thuyết thật tướng ấy
nơi quốc độ mình,
đem bát nhã này
cầu thành trí Phật.

(73) Bấy giờ bốn chúng
được thấy đức Phật
Nhật Nguyệt Đăng Minh
biểu hiện thần lực
đến như thế ấy,
lòng họ hoan hỷû
và cùng hỏi nhau,
rằng cảnh tượng này
vì lý do nào
mà Phật biểu hiện?
*

(74) Khi ấy đức Phật,
đấng mà trời người
ai cũng tôn thờ,
vừa mới xuất định,
tức thì khen ngợi
bồ tát Diệu Quang:

(75) Ông là con mắt
của cả thế gian!
Ai cũng qui về
tin tưởng nơi ông!
Ông kính giữ được
kho tàng chánh pháp!
Kho tàng chánh pháp
mà rồi Như Lai
sẽ nói hết ra,
chỉ ông chứng biết!

(76) Đức Phật khen ngợi
làm cho bồ tát
Diệu Quang hoan hỷ,
rồi nói Pháp Hoa
suốt hết sáu mươi
thời kỳ bậc nhỏ.

(77) Và pháp tối thượng
tuyệt diệu như vậy
được Phật tuyên thuyết
mà không đứng dậy
rời khỏi pháp tòa,
pháp sư Diệu Quang
vẫn tiếp nhận được
và ghi nhớ cả.

(78) Đức Phật tuyên thuyết
về kinh Pháp Hoa
làm cho các chúng
hoan hỷ cả rồi,
liền trong ngày ấy
ngài bảo các chúng:

(79) Thật tướng các pháp
Như Lai đã đem
nói cho các người.
Giữa đêm hôm nay
Như Lai sẽ nhập
niết bàn hoàn toàn.

(80) Các người cần phải
một lòng tinh tiến
chuyên chú vào pháp
Như Lai đã nói,
còn sự phóng dật
nên tránh thật xa;
vì lẽ chư Phật
rất là khó gặp,
vạn ức thời kỳ
mới thấy một lần.

(81) Đệ tử của Phật
nghe Phật loan báo
sắp sửa nhập diệt,
ai cũng đau buồn
nghĩ Phật nhập diệt
sao mà mau chóng.

(82) Vị chúa thánh triết
và vua các pháp
an ủi các chúng:
sau khi Như Lai
nhập niết bàn rồi
các người đừng lo.

(83) Bồ tát Đức Tạng
tâm trí thấu triệt
thật tướng thuần khiết,
sẽ kế Như Lai
thành đức Phật đà
danh hiệu Tịnh Thân,
và cũng hóa độ
vô lượng các chúng.

(84) Rồi giữa đêm ấy
đức Phật nhập diệt
như củi mà hết
thì lửa cũng tắt.
Sau đó xá lợi
được phân bủa ra
và xây dựng lên
vô số bảo tháp.

(85) Chư vị tỷ kheo
và tỷ kheo ni
số lượng nhiều đến
như cát sông Hằng,
lại càng nỗ lực
tinh tiến hơn lên
để cầu đạt được
tuệ giác vô thượng.
*

(86) Phần ngài Diệu Quang,
pháp sư bồ tát,
kính giữ kho tàng
chánh pháp của Phật,
trải qua tám mươi
thời kỳ bậc nhỏ
tuyên thuyết rộng rãi
Diệu Pháp Liên Hoa.

(87) Còn tám vương tử
thì nhờ bồ tát
Diệu Quang khai hóa,
tất cả đều được
vững chắc đối với
tuệ giác vô thượng,
nên sau gặp được
vô số Phật đà.

(88) Các vị phụng sự
chư Phật như vậy,
cùng nhau đi theo
con đường vĩ đại,
nên kế tiếp nhau
được thành Phật cả,
và theo thứ tự
thọ ký cho nhau.

(89) Đức Phật cuối cùng,
vị trời nhất trời,
danh hiệu ngài là
Nhiên Đăng Như Lai,
bậc thầy dẫn đạo
các vị hiền triết,
độ cho giải thoát
vô số các chúng.

(90) Pháp sư Diệu Quang
có một đệ tử
tính thường biếng nhác
đam mê danh lợi,

(91) cầu hồ danh lợi
một cách không chán,
nên hay giao du
với nhà dòng dõi,
bỏ bê kinh pháp
đã được tụng tập,
nên hay quên mất
chứ không thông suốt.

(92) Vì lý do ấy
có tên Cầu Danh.

(93) Nhưng cũng thực hành
đủ các pháp lành,
gặp được vô số
chư vị Phật đà,
phụng sự hiến cúng
Phật đà như vậy
và cũng đi theo
con đường vĩ đại,
hoàn thiện sáu pháp
đến bờ bên kia,
nên nay lại gặp
Sư tử họ Thích.

(94) Thì gian sau ngài,
sẽ kế làm Phật
với danh hiệu là
Di Lạc từ tôn,
cứu độ rộng rãi
các loại chúng sinh
mà số lượng ấy
không thể tính kể.
*

(95) Sau khi đức Phật
Nhật Nguyệt Đăng Minh
nhập niết bàn rồi,
người hay biếng nhác
chính là đại sĩ,
còn vị pháp sư
bồ tát Diệu Quang
là bản thân tôi.

(96) Chính tôi xưa kia
Ở nơi đức Phật
Nhật Nguyệt Đăng Minh
đã từng thấy được
điềm lành ánh sáng
như tôi vừa nói.

(97) Vì vậy tôi biết
Thế Tôn ngày nay
chủ ý muốn nói
về kinh Pháp Hoa.

(98) Cảnh tượng hiện nay
giống điềm lành cũ,
và là phương tiện
của chư Thế Tôn:
Thế Tôn ngày nay
phóng ánh sáng lớn
là để hổ trợ
phát hiện thật tướng.

(99) Chư vị nên biết
chủ ý như vậy,
và hãy chắp tay
nhất tâm mà chờ.
Thế Tôn sẽ đổ
nước mưa chánh pháp,
sung túc những người
cầu tuệ giác Phật.

(100) Tất cả những người
cầu ba cỗ xe
nếu có điều gì
hoài nghi hối tiếc,
thì vị Toàn giác
sẽ giải trừ cho –
giải trừ sạch hết,
không còn sót lại

Phẩm 2: Phương tiện

Khi ấy đức Thế Tôn thung dung xuất định, nói với tôn giả Xá lợi Phất, tuệ giác Như Lai sâu xa vô tận, cửa ngõ tuệ giác ấy khó biết khó vào. Hết thảy Thanh văn Duyên giác không thể biết thấu. Vì sao, vì Như Lai đã từng thân gần vô số chư Phật, thực hành trọn vẹn vô số các pháp đạt đến tuệ giác vô thượng mà chư Phật ấy đã thực hành, dũng mãnh tinh tiến, danh tiếng vang khắp, và thành tựu sự chưa từng có rất là sâu xa, ấy là tùy nghi thuyết pháp, ý hướng khó hiểu. Xá lợi Phất, từ khi trở thành bậc Toàn giác cho đến ngày nay, Như Lai đem mọi thứ yếu tố và mọi sự ví dụ mà diễn rộng các cách lập luận, vận dụng vô số phương tiện ấy dẫn dắt chúng sinh thoát được sự vướng mắc vào điểm này hay điểm khác. Tại sao Như Lai làm được như vậy? Vì Như Lai đã hoàn thành sự thấy biết toàn hảo và sự phương tiện toàn hảo. Xá lợi Phất, sự thấy biết của Như Lai rộng lớn sâu xa: những phẩm chất của sự thấy biết ấy đại loại như bốn tâm vô hạn, bốn trí thông suốt, mười đại năng lực, bốn sự không sợ, bốn thiền, bốn định, tám sự giải thoát, ba pháp tam muội, Như Lai đã đi sâu vào một cách không có giới hạn, nên thành tựu sự chưa từng có nói trên. Do đó, Xá lợi Phất, Như Lai phân tích và khéo nói các pháp, lời chữ hòa nhã, đẹp lòng mọi người. Lấy cốt yếu mà nói, thì sự chưa từng có có tính cách vô lượng vô biên, Như Lai đã thành tựu đầy đủ.

Xá lợi Phất, thôi, không nên nói nữa, vì sự chưa từng có, và khó hiểu bậc nhất ấy, mà Như Lai đã thành tựu, là chỉ Như Lai với chư vị Như Lai mới cứu xét cùng tận và tuyên thuyết khéo léo về thật tướng các pháp. Thật tướng ấy là biểu hiện như vậy, đặc tính như vậy, bản thể như vậy, năng lực như vậy, động tác như vậy, nhân tố như vậy, duyên tố như vậy, kết quả như vậy, hình thành như vậy, toàn bộ như vậy.

Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Vô lượng những bậc
anh hùng trong đời,
chư thiên nhân loại
hết thảy chúng sinh,
không ai hiểu thấu
đối với Như Lai.

(2) Mười đại năng lực
bốn sự không sợ
tám sự giải thoát
ba pháp tam muội
cùng với bao nhiêu
phẩm chất Phật đà
mà Như Lai có,
thì không một ai
có thể biết được
một cách tận tường.

(3) Vốn từ vô số
chư Phật Như Lai
Như Lai trọn vẹn
thực hành các pháp
tuệ giác vô thượng,
là pháp cực kỳ
sâu xa tinh túy
khó mà thấy biết.

(4) Trải qua vô lượng
vạn ức thời kỳ,
thực hành trọn vẹn
các pháp ấy rồi,
Như Lai đến ngồi
nơi bồ đề tràng,
được đại thành quả
biết rõ tất cả.

(5) Đại thành quả này
biết rõ những nghĩa
biểu hiện như vậy
đặc tính như vậy…
chỉ có Như Lai
cùng với mười phương
chư Như Lai khác
mới biết như vậy.

(6) Và pháp như vậy
không thể phô bày,
khái niệm ngôn ngữ
bặt dấu ở đây.

(7) Hết thảy chúng sinh
không ai hiểu nổi,
trừ chư bồ tát
đức tin vững chắc.

(8) Những con Phật khác
dẫu từng hiến cúng
chư Phật Như Lai,
phiền não đã hết,
đã đến trạng thái
thân này là thân
sống chết cuối cùng,
các vị như vậy
năng lực của họ
cũng vẫn bất kham.

(9) Giả sử tràn đầy
thế giới loài người
ai nấy đều như
Xá lợi Phất cả,
cùng tận tư duy
chung nhau suy lường,
cũng không lường được
tuệ giác Như Lai.

(10) Nếu thật đầy khắp
mười phương quốc độ
ai nấy đều như
Xá lợi Phất cả,
hoặc như các vị
đại đệ tử khác
cũng đầy khắp cả
mười phương quốc độ,

(11) cùng tận tư duy
chung nhau suy lường,
vẫn không biết được
tuệ giác Như Lai.

(12) Các vị Duyên giác
trí tuệ lanh lợi
phiền não không còn,
thân họ cũng là
cái thân cuối cùng;
các vị như vậy
cũng đầy mười phương
như một rừng tre,

(13) cùng nhau một lòng,
trải qua vô lượng
vạn ức thời kỳ,
suy nghĩ cho thấu
tuệ giác chân thật
mà Như Lai có,
cũng vẫn không thể
biết được ít phần.

(14) Các vị bồ tát
mới phát tâm chí,
phụng sự vô số
chư Phật Như Lai,
thấu triệt pháp nghĩa
lại khéo thuyết pháp;

(15) các vị như vậy
như lúa như tre,
tràn đầy khắp cả
mười phương quốc độ,

(16) kết hợp vận dụng
trí tuệ tinh tế,
trải qua thời kỳ
nhiều bằng hằng sa,
chung sức tư duy
chung nhau ước lượng,
cũng không biết được
tuệ giác Như Lai.

(17) Các vị bồ tát
đã không thoái chuyển,
số lượng nhiều bằng
cát của sông Hằng,
cùng nhau tìm xét
cũng không biết được.

(18) Này Xá lợi Phất,
cái pháp cực kỳ
sâu xa, tinh túy,
không còn sai sót,
ngoài tầm nghĩ bàn,
Như Lai đã biết
một cách đầy đủ.
Và chỉ Như Lai
mới biết pháp ấy,
cũng như chư vị
Như Lai mười phương
mới biết như vậy.

(19) Này Xá lợi Phất,
tôn giả nên biết
lời Như Lai nói
không có mâu thuẫn.
Đối với cái pháp
của Như Lai nói,
các người phải có
đức tin lớn lao.
Bởi vì nguyên tắc
của chư Như Lai
sau thì gian dài
phải nói sự thật.

(20) Cho nên ngày nay
Như Lai tuyên cáo
với chư Thanh văn
và chư Duyên giác,
những người đã được
Như Lai làm cho
thoát khổ thắt buộc
đạt được niết bàn,

(21) rằng đó chỉ là
Như Lai vận dụng
năng lực phương tiện
thiết ba cỗ xe,
để ai vướng mắc
bất cứ chỗ nào
Như Lai cũng dắt
cho được thoát ra.

Lúc ấy trong đại hội có một ngàn hai trăm vị A la hán đã hết phiền não, thuộc chúng Thanh văn, đại loại như tôn giả Kiềàu trần Như, cùng tỷ kheo và tỷ kheo ni, ưu bà tắc và ưu bà di, những người tâm chí thanh văn duyên giác, đều nghĩ như vầy, tại sao hôm nay đức Thế Tôn ân cần tán dương sự phương tiện, bằng cách nói rằng pháp Như Lai được cực kỳ sâu xa tinh túy và khó hiểu, rằng Như Lai nói gì ý hướng cũng khó biết, rằng hết thảy thanh văn duyên giác không thể đạt đến? Đức Thế Tôn nói về sự giải thoát đồng nhất thì chúng ta cũng thành tựu sự ấy, đạt đến niết bàn. Nhưng hôm nay thì chúng ta không biết sự ấy về đâu.

Tôn giả Xá lợi Phất biết nỗi hoài nghi trong lòng bốn chúng và chính mình cũng chưa thấu triệt, nên thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, vì yếu tố chính và yếu tố phụ nào mà đức Thế Tôn ân cần tán dương sự phương tiện bậc nhất của ngài là pháp sâu xa, tinh túy và khó hiểu? Hồi nào đến giờ con chưa hề nghe đức Thế Tôn nói như vậy. Hiện giờ bốn chúng đều nghi ngại. Con thỉnh cầu đức Thế Tôn giải thích vấn đề này cho chúng con: vì lý do nào mà ngài ân cần tán dương sự phương tiện của ngài là sâu xa, tinh túy và khó hiểu? Tôn giả Xá lợi Phất muốn lặp lại ý nghĩa đã hỏi, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(22) Mặt trời tuệ giác,
bậc đại thánh triết,
lâu rồi mới nói
điều đặc biệt này.
Là ngài tự nói
bao nhiêu phẩm chất
mà Như Lai có,
đại loại như là
mười đại năng lực
bốn sự không sợ
ba pháp tam muội
bốn thiền bốn định
tám sự giải thoát,
toàn là những pháp
trên sự tư duy
ngoài tầm thảo luận.

(23) Ngài tự nói đến
pháp mà ngài biết
trong khi ngài ngồi
nơi Bồ đề tràng,
chứ không một ai
có thể hỏi thấu.
Ngài lại tự nói
ý ngài khó biết,
điều này cũng không
một ai hỏi được.

(24) Không ai hỏi được,
chỉ ngài tự nói,
tán dương con đường
mà ngài đã đi,
tán dương tuệ giác
cực kỳ tinh túy
mà như chư Phật,
ngài đã đạt được.

(25) Các vị La Hán
đã hết phiền não,
cùng với những vị
cầu được Niết bàn,
hôm nay cùng sa
vào lưới ngờ vực:
Thế Tôn vì gì
tự nói như vậy?

(26) Những vị cầu được
tuệ giác duyên giác,
các vị tỷ kheo
và tỷ kheo ni,
cùng với tất cả
tám bộ thiên long,
ai cũng bối rối
mà nhìn lẫn nhau
và nhìn lên ngài,
một bậc hoàn hảo
cả hai phương diện
phước đức tuệ giác.

(27) Bạch đức Thế Tôn,
việc này thế nào?
xin ngài giải thích
cho chúng con rõ.

(28) Trong chúng Thanh văn,
Thế Tôn nói con
là bậc thứ nhất,
nhưng nay chính con
tự mình đối với
tuệ giác của mình
cũng sinh nghi hoặc:
không rõ tuệ ấy
đã là cứu cánh
hay phải tới nữa?

(29) Bao nhiêu con Phật
sinh từ miệng Phật
nay đang chắp tay
ngước nhìn chờ đợi,
ước mong Thế Tôn
xuất ra âm thanh
cực kỳ tuyệt diệu,
kịp thời nói cho
về pháp của ngài
đúng như pháp ấy.

(30) Tám bộ thiên long
số bằng hằng sa,
chư vị Bồ tát
cầu tuệ giác Phật
số lượng đại khái
cũng có tám vạn.

(31) Lại còn xuất từ
vạn ức các nước,
các vị luân vương
cùng nhau đến đây,
ai cũng chắp tay
đem lòng cung kính
mong muốn được nghe
con đường hoàn hảo.

Đức Thế Tôn bảo tôn giả Xá Lợi Phất, thôi thôi, không nên nói. Nói vấn đề này thì cả thế gian, trong đó có chư thiên và nhân loại, sẽ kinh sợ ngờ vực. Tôn giả Xá Lợi Phất lại thưa, bạch đức Thế Tôn, xin đức Thế Tôn dạy cho vấn đề này, vấn đề này xin đức Thế Tôn dạy cho. Vì đại hội này nhiều đến trăm ngàn, vạn ức, vô số, có nhiều người từng gặp chư Phật, các căn lanh lợi, trí tuệ sáng tỏ, nghe đức Thế Tôn dạy thì có thể kính tin. Tôn giả Xá Lợi Phất muốn lặp lại ý nghĩa đã thưa, nên nói lời chỉnh cú sau đây:

(32) Bạch đức Vô Thượng,
vị vua các pháp!
xin ngài dạy cho
không cần e ngại.
Đại hội các chúng
vô số như vầy,
tất có những người
có thể kính tin.

Đức Thế Tôn lại ngăn tôn giả Xá Lợi Phất, rằng nếu Như Lai nói vấn đề này thì cả thế gian, trong đó có chư thiên, nhân loại và tu la, sẽ cùng kinh sợ, ngờ vực, những vị tỷ kheo tăng thượng mạn sẽ rơi xuống hố lớn. Đức Thế Tôn lặp lại ý ngài bằng lời chỉnh cú sau đây:

(33) Thôi thôi, đừng hỏi!
Pháp của Như Lai
tinh túy, khó biết.
Những kẻ thượng mạn
nghe nói pháp ấy
tất không kính tin.

Tôn giả Xá Lợi Phất lại thưa, bạch đức Thế Tôn, xin đức Thế Tôn dạy cho vấn đề này, vấn đề này xin đức Thế Tôn dạy cho. Nay trong đại hội này, những người như con, và trăm ngàn vạn ức người, đời đời đã từng tiếp nhận sự giáo hóa của đức Thế Tôn; những người như vậy chắc chắn có thể kính tin, ổn định lâu dài và lợi ích lớn lao. Tôn giả Xá Lợi Phất lặp lại ý mình bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(34) Thưa đấng Vô Thượng,
phước trí toàn hảo!
xin ngài dạy cho
cái pháp bậc nhất.
Con là con trưởng
của đức Thế Tôn,
con thỉnh cầu ngài
dạy cho chúng con.
Trong đại hội này
có vô số người
có thể kính tin
về pháp ngài dạy.

(35) Đời đời liên tiếp,
Thế Tôn đã từng
giáo hóa tiếp độ
những người như vầy.
Nay họ chắp tay
đồng nhất tâm nguyện
muốn nghe và nhận
lời Thế Tôn nói.

(36) Những người như con
một ngàn hai trăm,
cùng với các vị
cầu tuệ giác Phật,
xin đức Thế Tôn
vì những người này
rủ lòng thương xót
mà giảng giải cho.
Những người này đây
nghe được pháp này
thì lòng sinh ra
hoan hỷ cùng cực.

Khi ấy đức Thế Tôn bảo tôn giả Xá lợi Phất, tôn giả đã thiết tha thỉnh cầu đến lần thứ ba, nên Như Lai không thể không nói. Vậy tôn giả hãy lắng nghe, hãy khéo nghĩ và khéo nhớ! Như Lai sẽ phân tích giảng giải cho tôn giả. Khi đức Thế Tôn dạy như vậy, trong đại hội có đến năm ngàn tỷ kheo và tỷ kheo ni, ưu bà tắc và ưu bà di, tức thì đứng dậy khỏi chỗ họ ngồi, đảnh lễ đức Thế Tôn mà lui ra. Những người này gốc rễ tội lỗi về tăng thượng mạn thật là sâu nặng, chưa được tự cho đã được, chưa chứng tự cho đã chứng, lầm lẫn đến thế nên họ không ở lại. Đức Thế Tôn cũng yên lặng mà không ngăn cản. Ngài bảo tôn giả Xá lợi Phất, đaị hội này của Như Lai nay không còn trấu lép, mà chỉ toàn là hạt chắc. Xá lợi Phất, tăng thượng mạn như những người kia thì lui ra cũng tốt. Bây giờ tôn giả hãy nghe cho khéo, Như Lai sẽ giảng giải cho tôn giả. Tôn giả Xá lợi Phất thưa, dạ, bạch đức Thế Tôn; chúng con ước nguyện và thích thú muốn nghe.

Đức Thế Tôn bảo tôn giả Xá lợi Phất, cái pháp tinh túy này Như Lai thỉnh thoảng mới nói, như hoa ưu đàm thỉnh thoảng mới xuất hiện một lần. Xá lợi Phất, chư vị hãy tin lời Như Lai nói không trống rỗng, dối trá. Xá lợi Phất, Như Lai tùy nghi thuyết pháp, ý hướng khó hiểu. Tại sao, vì Như Lai hoạt dụng vô số phương tiện, trong đó gồm có các thứ yếu tố, ví dụ và lời chữ, mà diễn đạt về pháp. Pháp ấy không phải tư duy phân tích mà lĩnh hội được. Pháp ấy chỉ có chư Phật Như Lai mới chứng biết.

Sự thể là chư Phật Như Lai chỉ vì lý do duy nhất và trọng đại mà xuất hiện thế gian. Xá lợi Phất, lý do duy nhất và trọng đại mà chư Phật Như Lai xuất hiện thế gian là gì? Là chư Phật Như Lai muốn làm cho chúng sinh khai mở sự thấy biết của Phật được trong sáng nên xuất hiện thế gian, muốn chỉ thị cho chúng sinh sự thấy biết của Phật được trong sáng nên xuất hiện thế gian, muốn làm cho chúng sinh tỉnh ngộ sự thấy biết của Phật được trong sáng nên xuất hiện thế gian, muốn làm cho chúng sinh nhập vào con đường thấy biết của Phật được trong sáng nên xuất hiện thế gian. Xá lợi Phất, như thế đó là lý do duy nhất và trọng đại mà chư Phật Như Lai xuất hiện thế gian. Và Xá lợi Phất, như thế đó tức là chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa bồ tát, nghĩa là làm gì cũng thường vì một việc, ấy là đem sự thấy biết của Phật mà chỉ thị cho chúng sinh tỉnh ngộ.

Xá lợi Phất, Như Lai chỉ đem cỗ xe duy nhất là cỗ xe Phật đà mà thuyết pháp cho chúng sinh, không có cỗ xe nào khác dầu là cỗ xe thứ hai hay là cỗ xe thứ ba. Xá lợi Phất, pháp của chư Phật mười phương cũng là như vậy. Xá lợi Phất, chư Phật quá khứ đã vận dụng vô số phương tiện, trong đó gồm có các thứ yếu tố, ví dụ và lời chữ, mà thuyết pháp cho chúng sinh, pháp ấy toàn là của cỗ xe Phật đà duy nhất, nên chúng sinh nghe pháp nơi chư Phật ấy thì cứu cánh đều được tuệ giác biết tất cả. Chư Phật vị lai sẽ xuất hiện thế gian cũng vận dụng vô số phương tiện, trong đó gồm có các thứ yếu tố, ví dụ và lời chữ, mà thuyết pháp cho chúng sinh, pháp ấy toàn là của cỗ xe Phật đà duy nhất, nên chúng sinh nghe pháp nơi chư Phật ấy thì cứu cánh cũng đều được tuệ giác biết tất cả. Hiện tại, trong vô lượng cõi Phật khắp cả mười phương, chư Phật đang làm lợi ích và yên vui rất nhiều cho chúng sinh, chư Phật như vậy cũng vận dụng vô số phương tiện, trong đó gồm có các thứ yếu tố, ví dụ và lời chữ, mà thuyết pháp cho chúng sinh, pháp ấy toàn là của cỗ xe Phật đà duy nhất, nên chúng sinh nghe pháp nơi chư Phật ấy thì cứu cánh cũng đều được tuệ giác biết tất cả. Xá lợi Phất, chư Phật ba đời trong mười phương làm như vậy là đồng nghĩa với việc chỉ giáo hóa bồ tát: muốn đem sự thấy biết của Phật khai mở cho chúng sinh, muốn đem sự thấy biết của Phật chỉ thị cho chúng sinh, muốn đem sự thấy biết của Phật thức tỉnh cho chúng sinh, muốn dẫn chúng sinh nhập vào con đường thấy biết của Phật. Xá lợi Phất, nay Như Lai cũng làm như vậy. Như Lai biết rõ những thị hiếu và vướng mắc của các loại chúng sinh; tùy bản tính của họ, Như Lai vận dụng các thứ yếu tố, ví dụ và lời chữ, nghĩa là vận dụng năng lực phương tiện, mà thuyết pháp. Xá lợi Phất, Như Lai làm như vậy toàn là để cho họ cùng được tuệ giác biết tất cả của cỗ xe Phật đà duy nhất.

Xá lợi Phất, như vậy là trong mười phương quốc độ, cỗ xe thứ hai còn không có, huống chi có cỗ xe thứ ba. Nhưng, Xá lợi Phất, chư Phật Như Lai xuất hiện trong thời kỳ dữ dội thì đó là thời kỳ đủ cả năm thứ vẩn đục: thời kỳ vẩn đục, tâm lý vẩn đục, con người vẩn đục, kiến thức vẩn đục, mạng sống vẩn đục. Khi thời kỳ vẩn đục loạn lên, thì chúng sinh dơ bẩn dày nặng, keo lẫn, tham lam, ganh ghét, hoàn thành đủ thứ bất thiện, nên chư Phật Như Lai phải vận dụng năng lực phương tiện: chính nơi cỗ xe duy nhất là cỗ xe Phật đà mà giả thiết ra, nói có ba cỗ xe. Do đó, Xá lợi Phất, nếu là đệ tử của Như Lai, tự gọi là La hán, là Duyên giác, mà không nghe không biết đến việc Như Lai chỉ giáo hóa bồ tát như trên, thì những người ấy không phải đệ tử của Như Lai: không phải La hán, không phải Duyên giác. Những vị tỷ kheo và tỷ kheo ni như vậy tự cho đã thành La hán, thân mình là thân cuối cùng, mình cứu cánh niết bàn, rồi không còn có chí mong cầu tuệ giác vô thượng, thì tôn giả nên biết họ toàn là người tăng thượng mạn. Vì lẽ nếu có vị nào thật được thành La hán mà không tin pháp này thì vô lý, trừ ra sau khi Như Lai đã nhập diệt, trước mặt họ không có Như Lai nữa – Sau khi Như Lai nhập diệt, kinh Pháp Hoa này có ai tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, lý giải ý nghĩa…, người ấy thật khó có. Nếu gặp đức Phật khác thì đối với kinh này họ nhận thức được ngay.

Nói tóm, Xá lợi Phất, chư vị hãy nhất tâm mà tin tưởng, lý giải, tiếp nhận và ghi nhớ lời của Như Lai nói. Lời của chư Phật Như Lai nói thì không trống rỗng, dối trá, nói rằng không có cỗ xe nào khác mà chỉ có cỗ xe duy nhất là cỗ xe Phật đà.

Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(37) Chư vị tỷ kheo
và tỷ kheo ni
mà có thượng mạn,
cùng ưu bà tắc
và ưu bà di
mà lòng không tin,
bốn chúng như vậy
số có năm ngàn.

(38) Họ không tự thấy
mình đã khinh suất.
Họ thiếu giới hạnh,
che giấu tỳ vết.
Hạng trí nhỏ ấy
đã lui hết rồi.

(39) Trong đại hội này
họ là cặn bã.
Họ lui là vì
uy thần Như Lai.
Họ là những kẻ
thiếu cả phước đức,
không kham tiếp nhận
diệu pháp như vầy.

(40) Trong đại hội này
nay hết trấu lép,
còn lại chỉ có
toàn là hạt chắc.

(41) Này Xá lợi Phất,
hãy nghe cho khéo
về pháp Như Lai
đã thành tựu được,
và về phương tiện
Như Lai hoạt dụng
để nói pháp ấy
cho các chúng sinh.
*

(42) Quan niệm, đạo hạnh,
thị hiếu, khuynh hướng,
hành vi lành dữ
đời trước đã làm,
tất cả điều này
của các chúng sinh
Như Lai nhận thức
rất là rõ ràng.

(43) Thế rồi Như Lai
sử dụng mọi thứ
yếu tố, ví dụ,
cùng với lời chữ,
nghĩa là dùng đến
năng lực phương tiện,
làm cho chúng sinh
hoan hỷ tất cả.

(44) Cho nên Như Lai
đã nói tản văn,
chỉnh cú độc lập,
việc cũ, đời trước,
việc hiếm, nguyên do,
hoặc nói ví dụ,
chỉnh cú thích ứng,
cùng với thảo luận.

(45) Những kẻ ám độn
chỉ thích pháp nhỏ,
vướng mắc sinh tử;
nơi vô số Phật
họ đã không đi
theo đường tuyệt diệu.
Họ bị đau khổ
dày vò tác loạn.
Như Lai vì họ
mà nói niết bàn.

(46) Như Lai thiết lập
phương tiện như vậy,
chủ ý làm cho
họ được nhập vào
tuệ giác Phật đà,
nhưng chưa hề nói
tất cả các người
đều sẽ thành Phật.

(47) Sở dĩ Như Lai
chưa nói như vậy
là vì chưa đến
thì gian đáng nói.
Nhưng nay là lúc
Như Lai quyết định
nói về giáo pháp
cỗ xe vĩ đại.
*

(48) Giáo pháp ở trong
chín thể loại trên,
là do Như Lai
tùy thuận chúng sinh
mà tuyên thuyết ra,
nhưng mà bản ý
là dẫn họ vào
cỗ xe vĩ đại.
Vì lý do ấy,
ngày nay Như Lai
nói về bản kinh
Diệu Pháp Liên Hoa.

(49) Có những con Phật
tâm trí trong sáng
tánh tình ôn hòa
các căn lanh lợi,
đã từng đi theo
con đường tuyệt diệu
ở nơi vô lượng
chư Phật Như Lai;
chính vì những người
con Phật như vậy
mà nay Như Lai
nói kinh Pháp Hoa,
bản kinh thuộc về
cỗ xe vĩ đại.

(50) Qua đó Như Lai
sẽ thọ ký cho
những con Phật ấy
trong thì vị lai
được thành Phật đà _
Được thành vì họ
đã đem tâm chí
cực kỳ sâu xa
tưởng niệm Phật đà
nghiêm giữ giới pháp.

(51) Những con Phật ấy
nghe được thành Phật
thì nỗi mừng lớn
tràn khắp cơ thể.
Như Lai biết rõ
tâm chí cùng với
đạo hạnh của họ,
nên mới nói cho
bản kinh thuộc về
cỗ xe vĩ đại.

(52) Và là thanh văn
hay là bồ tát,
nghe kinh như vậy
của Như Lai nói,
thì dẫu chỉ được
một bài chỉnh cú,
cũng thành Phật cả,
không nghi gì được.
*

(53) Khắp cả cõi Phật
trong cả mười phương,
chỉ có diệu pháp
cỗ xe duy nhất.
Cỗ xe thứ hai
đã không thực có,
cũng không thực có
cỗ xe thứ ba,
trừ ra Như Lai
phương tiện tuyên thuyết –
là chỉ thiện dụng
những danh từ giả
mà dẫn dắt cho
các loại chúng sinh.

(54) Chính vì công bố
tuệ giác Phật đà,
cho nên Như Lai
xuất hiện thế gian.
Chỉ một việc này
là việc đích thực,
còn hai việc khác
không đích thực đâu.
Như Lai tuyệt đối
không muốn sử dụng
cỗ xe thấp nhỏ
mà chở chúng sinh.

(55) Như Lai tự ngồi
cỗ xe vĩ đại,
cỗ xe được có
những pháp như là
định, tuệ và lực
trang sức huy hoàng,
Như Lai sử dụng
mà chở chúng sinh.

(56) Như Lai tự chứng
tuệ giác vô thượng
là xe vĩ đại
có tính bình đẳng.
Nếu đem hóa độ
bằng xe thấp nhỏ,
thì dẫu hóa độ
một người mà thôi,
Như Lai cũng rơi
vào sự tham lẫn:
ấy là một việc
không chấp nhận được.

(57) Mọi người tín ngưỡng
qui y Như Lai.
Như Lai không hề
lừa dối ai cả,
không cả tâm ý
tham lam ganh ghét,
triệt hết sự xấu
ở trong các pháp.
Cho nên khắp trong
mười phương quốc độ,
chỉ có Như Lai
không e sợ gì.

(58) Với cái thân thể
tướng hảo trang nghiêm,
với cái tuệ giác
soi sáng tất cả,
và được vô lượng
chúng sinh tôn trọng,
Như Lai công bố
ấn tín thật tướng.

(59- Này Xá lợi Phất
60) tôn giả nên biết
Như Lai vốn lập
chí nguyện cao rộng
là muốn làm cho
hết thảy chúng sinh
đều như Như Lai
không khác gì cả.
Đúng như chí nguyện
Như Lai đã lập,
ngày nay Như Lai
thực hiện đầy đủ,
cho nên Như Lai
giáo hóa tất cả,
làm cho vào được
tuệ giác Phật đà.

(61) Nhưng nếu Như Lai
gặp ai cũng đem
tuệ giác Phật đà
mà giáo hóa cho,
thì kẻ vô trí
sẽ bị thác loạn,
mù mờ, lầm lẫn,
không thể tiếp nhận.

(62) Như Lai nhận thức
những kẻ như vậy
chưa từng sửa sang
gốc rễ pháp lành,
dính chắc vào nơi
năm thứ dục lạc,
khổ não vì những
mù quáng, đam mê.

(63) Chính vì nhân tố
năm thứ dục lạc
mà họ sa vào
ba đường độc dữ.
Luân hồi khắp cả
sáu nẻo sống chết,
lãnh chịu đủ hết
khổ sở độc địa.
Hình hài hèn kém
có bởi bào thai,
đời đời liên tiếp
cứ thêm lên mãi.
Họ là những kẻ
mỏng đức thiếu phước,
và bị đủ thứ
khổ não bức bách.

(64) Nên họ lạc vào
rừng rậm tà kiến,
chấp có thế này
chấp không thế khác.
Căn cứ những thứ
tà kiến như vậy,
họ lần đủ cả
sáu hai tà kiến,
đắm sâu vào trong
chủ thuyết hư vọng,
chấp nhận cứng chắc
không thể xả bỏ.

(65) Họ đầy ngã mạn,
tự cao, dua nịnh,
quanh co, xảo trá.
Vạn ức thời kỳ
họ không nghe được
danh từ Phật đà,
chánh pháp Phật đà
càng không nghe thấy.
Những người như vậy
thật khó hóa độ.

(66) Này Xá lợi Phất,
vì những người ấy
cho nên Như Lai
lập chước phương tiện:
nói cho họ biết
con đường diệt khổ,
chỉ cho họ rõ
về sự niết bàn.
Nhưng mà Như Lai
dẫu nói niết bàn,
sự niết bàn đó
chưa thật niết bàn.

(67) Vì vậy Như Lai
khai thị nguyên lý:
các pháp xưa nay
thường tự vắng lặng.
Con Phật đi trọn
đường đi của mình
thì trong tương lai
được thành Phật đà,
như thế mới là
niết bàn đích thực.

(68) Như vậy đủ thấy
do phương tiện lực
mà Như Lai có,
Như Lai khai thị
đủ hết các pháp
của ba cỗ xe;
kỳ thật tất cả
chư Phật Như Lai
đều chỉ nói đến
cỗ xe duy nhất.

(69) Ngày nay đại hội
hãy bỏ nghi hoặc.
Lời chư Phật nói
không khác sự thật:
chỉ có cỗ xe
Phật đà duy nhất,
không hai cỗ xe
thứ hai thứ ba.
*

(70) Vô số thời kỳ
thuộc thì quá khứ,
vô lượng chư Phật
đã nhập niết bàn;
những loại số mục
trăm ngàn vạn ức
không thể đem ra
mà tính cho được.

(71) Chư Phật như vậy
đã dùng đủ thứ
yếu tố, ví dụ
của phương tiện lực,
diễn đạt thật tướng
tất cả các pháp.

(72) Nghĩa là các ngài
cũng nói giáo pháp
cỗ xe duy nhất,
giáo hóa chúng sinh
làm cho vào được
tuệ giác Phật đà.

(73) Chư Phật quá khứ,
những chúa thánh triết,
biết rõ thị hiếu
từ trong thâm tâm
của cả thế gian,
trong đó bao gồm
chư thiên, nhân loại
và bao loài khác,
cho nên sử dụng
phương tiện khác nhau
để giúp phát lộ
chân lý bậc nhất.

(74- Ấy là ai gặp
75) chư Phật quá khứ,
được nghe thuyết pháp
và rồi bố thí,
giữ giới, nhẫn nhục,
cùng với tinh tiến,
thiền định, trí tuệ,
làm đủ các pháp
của cả hai loại
phước đức tuệ giác,
thì những người ấy
đã thành Phật tuệ.

(76) Chư Phật quá khứ
nhập Niết bàn rồi,
ai có tâm lý
tốt đẹp mềm dịu,
thì những người ấy
đã thành Phật tuệ.

(77-78) Chư Phật quá khứ
nhập Niết bàn rồi,
những ai hiến cúng
xá lợi các ngài,
bằng cách xây dựng
vạn ức chùa tháp,
lại đem bạc, vàng,
cùng với pha lê,
xa cừ, mã não,
mai khôi, lưu ly,
trang hoàng quang đãng
trần thiết tráng lệ,
thì những người ấy
đã thành Phật tuệ.

(79-80) Ai dựng chùa tháp
bằng đá cẩm thạch,
bằng những thứ gỗ
đàn hương, trầm hương,
cùng với gỗ mật
và gỗ quý khác;
ai dựng chùa tháp
bằng gạch, đất sét;
hay nơi hoang dã
đắp nổi gò đất
tạo thành chùa tháp
chư Phật quá khứ;

(81) thậm chí trẻ con
vui đùa đắp tháp
mà tưởng tượng rằng
xây dựng tháp Phật,
tất cả người này
đã thành Phật tuệ.

(82) Ai vì chư Phật
trong thì quá khứ
mà tạo hình tượng
chạm trỗ tướng tốt,
thì những người ấy
đã thành Phật tuệ.

(83) Hoặc tạo tượng Phật
bằng bảy chất quý,
bằng các loại đồng
vàng đỏ và trắng,

(84) bằng chì, thiết, sắt,
gỗ với đất sét;
hoặc dùng các thứ
keo, sơn, vải bố,
bồi đắp tô chuốt
mà làm tượng Phật;
tất cả người này
đã thành Phật tuệ.

(85) Hoặc dùng hội họa
vẽ ra tượng Phật
đủ cả các tướng
trăm phước trang nghiêm,
tự mình vẽ ra
hay nói người vẽ,
thì những người ấy
đã thành Phật tuệ.

(86) Đến nỗi trẻ con
dùng cỏ, cây, bút,
ngón tay, móng tay,
vẽ chơi tượng Phật,

(87) thì những trẻ ấy
công đức dồn chứa,
từ bi hoàn hảo,
đã thành Phật tuệ,
và chỉ giáo hóa
chư vị Bồ tát,
cứu độ vô lượng
các loại chúng sinh.

(88) Nếu ai đối với
chùa tháp, hình tượng,
tượng ngọc, tượng vẽ
chư Phật quá khứ,
mà đem bông hoa
các loại hương liệu
tràng phan bảo cái
cung kính hiến cúng;

(89-92) nếu ai tấu nhạc,
đánh trống, thổi còi,
thổi ốc, ống tiêu,
ống sáo, đàn cầm,
đàn hầu, tỳ bà,
chiên nhỏ, bạt đồng,
đem hết âm thanh
nghe hay như vậy
hiến lên chư Phật
trong thì quá khứ;
hoăëc là hoan hỷ
ca hát, ngâm vịnh,
tán dương đức tính
chư Phật quá khứ;
và làm như vậy
dầu một tiếng nhỏ;
tất cả người này
đã thành Phật tuệ.

(93) Những ai trong lòng
tư tưởng xao lãng,
chỉ được mỗi một
bông hoa mà thôi,
và chỉ hiến cúng
tượng vẽ mà thôi,
cũng vẫn dần dần
gặp vô số Phật.

(94) Ai biết lễ bái,
hay chỉ chắp tay,
đến nỗi đưa lên
chỉ một cánh tay,
hoặc chỉ hơi khẽ
cúi đầu mình xuống,
hiến cúng tượng Phật
bằng những cách ấy
cũng đã dần dần
gặp vô lượng Phật,
tự thành tựu được
tuệ giác vô thượng,
hóa độ rộng rãi
vô số các chúng,
và rồi nhập vào
Niết bàn hoàn toàn
tựa như củi hết
thì lửa cũng tắt.

(95) Những kẻ trong lòng
tư tưởng xao lãng,
bước vào chùa tháp
chư Phật quá khứ,
chỉ nói một tiếng
con tôn kính Phật,
thì những người ấy
đã thành Phật tuệ.

(96) Ở nơi chư Phật
quá khứ như vậy,
mà lúc các ngài
đang còn ở đời
hay lúc các ngài
nhập Niết bàn rồi,
những ai nghe danh
của pháp như vầy,
thì những người ấy
đã thành Phật tuệ.

(97) Chư Phật Như Lai
trong thì vị lai
số lượng vô số,
các ngài cũng dùng
mọi cách phương tiện
tuyên thuyết về pháp.

(98) Các ngài cũng dùng
vô số phương tiện
cứu thoát chúng sinh,
dẫn vào tuệ giác
không còn sai sót
của chư Phật đà.

(99) Những người được nghe
pháp các ngài thuyết,
thì không một ai
không thành Phật đà.
Bởi vì các ngài
cũng lập thệ nguyện
nguyện đem trí Phật
mà mình hoàn thành
dìu dắt hết thảy
các loại chúng sinh
cũng được hoàn thành
trí Phật như vậy.

(100) Chư Phật vị lai
dẫu cũng sẽ nói
về các pháp môn
nhiều đến vạn ức,
kỳ thật chỉ vì
cỗ xe duy nhất.

(101) Chư Phật: các đấng
phước tuệ hoàn hảo,
thấy biết các pháp
thường không cố định,
giống Phật cũng phát
từ các yếu tố;
thấy biết như vậy
nên chư Phật đà
tuyên thuyết giáo pháp
cỗ xe duy nhất.

(102) Chính vì vốn là
bản thể an trú,
bản thể nguyên vị,
cho nên thật tướng
của chính thế gian
cũng vẫn thường trú;
tại Bồ đề tràng
các đức Đạo sư
biết rõ như vậy,
nên dùng phương tiện
tuyên thuyết giáo pháp
cỗ xe duy nhất.

(103) Chư Phật hiện tại
ở khắp mười phương,
toàn là những bậc
trời người hiến cúng,
số lượng nhiều như
cát của sông Hằng.
Chư Phật như vậy
xuất hiện thế gian,
vì muốn làm cho
chúng sinh yên vui
nên cũng tuyên thuyết
về diệu pháp này.

(104) Chư Phật như vậy
thấu triệt nguyên lý
vắng lặng bậc nhất,
và rồi áp dụng
năng lực phương tiện,
phô bày đủ hết
các loại chánh pháp;
tuy làm như vậy
mà thật chỉ vì
cỗ xe Phật đà.

(105-106) Tính nết, quan niệm,
việc làm đời trước,
thị hiếu, khuynh hướng,
nổ lực, năng lực,
các căn lanh chậm,
chư Phật biết rõ
tất cả điều này
của các chúng sinh.
Thế rồi các ngài
áp dụng đủ thứ
yếu tố, ví dụ,
cùng với lời chữ,
tùy sự nên nói
phương tiện mà nói.

(107) Ngày nay Như Lai
cũng làm như vậy.
Để làm yên vui
cho các chúng sinh,
Như Lai thiện dụng
các cách huấn dụ,
tuyên thuyết biểu thị
tuệ giác Phật đà.

(108) Với trí tuệ lực,
Như Lai nhận thức
bản tính, thị hiếu
của các chúng sinh,
phương tiện thuyết pháp
làm hoan hỷ cả.

(109) Này Xá Lợi Phất,
tôn giả nên biết,
Như Lai sử dụng
mắt Phật mà nhìn
thì thấy chúng sinh
trong cả sáu đường
đều quánghèo nàn
phước đức tuệ giác,
lạc vào đường hiểm
của chốn sống chết,
cái khổ liên tục
không hề dứt mất.

(110) Họ dính sâu xa
vào năm dục lạc,
như bò đuôi dài
tự cưng đuôi nó.
Tham lam đam mê
tự che phủ lấy,
làm họ đui mù
không thấy gì cả:
không biết tìm Phật
bậc cực hùng mạnh,
không biết cầu pháp
yếu tố dứt khổ.

(111) Họ đi sâu vào
chủ thuyết sai lầm,
sử dụng đau khổ
mong hết đau khổ.
Chính vì bao kẻ
như thế này đây,
Như Lai động lòng
thương xót lớn lao.

(112-113) Trong khi mới ngồi
nơi Bồ Đề tràng,
vừa thành tựu được
tuệ giác vô thượng,
Như Lai nhìn vào
Bồ đề đại thọ,
lại còn kinh hành
quanh đại thọ ấy,
ba tuần liên tiếp
suy nghĩ như vầy:
Tuệ giác Như Lai
đã thành tựu được
thì rất tinh túy
cao tột bậc nhất;
còn như các căn
của bao chúng sinh
thì quá chậm chạp,
lại bị cái ngu
vì ham dục lạc
làm mù tâm trí,
những kẻ như vậy
làm sao hóa độ?

(114-116) Khi ấy các vị
Phạn Vương, Đế Thích,
bốn đại Thiên Vương
hộ vệ thế gian,
Đại Tự Tại Thiên,
cùng các thiên chúng
tùy thuộc của họ
nhiều đến ngàn vạn,
cung kính chắp tay
đảnh lễ thỉnh cầu
Như Lai chuyển đẩy
bánh xe chánh pháp.
Như Lai tức thì
suy nghĩ như vầy:
Nếu chỉ tán dương
cỗ xe Phật đà,
những kẻ chìm ngập
ở trong đau khổ
không thể tin được
về pháp như vậy.
Rồi vì phá hoại
không tin vào pháp,
nên rơi vào lại
trong ba đường dữ.
Như vậy thà là
Như Lai không nói,
mà nên mau chóng
nhập vào Niết bàn.

(117) Nhưng rồi Như Lai
tức thì nhớ đến
chư Phật Như Lai
trong thì quá khứ,
nhớ đến phương tiện
các ngài thi hành,
và nghĩ như vầy:
Tuệ giác vô thượng
mà nay Như Lai
đã thực hiện được,
Như Lai cũng phải
áp dụng phương tiện
mà tuyên thuyết ra
đủ ba cỗ xe.

(118) Ngay khi Như Lai
suy nghĩ như vậy,
chư Phật mười phương
đều hiện trước mắt,
dùng tiếng Phạn thiên
khuyến khích Như Lai,
nói rằng tốt lắm
Thích Ca Thế Tôn!

(119) Ngài là vị thầy
dẫn đạo bậc nhất!
Ngài đã hoàn thành
cái pháp tối thượng,
thì nên thể theo
hết thảy chư Phật
mà cùng dùng đến
nghệ thuật phương tiện.

(120) Chư Phật chúng tôi
cũng hoàn thành được
cái pháp bậc nhất
rất tinh túy ấy,
và vì chúng sinh
các loại khác nhau
nên phải phân ra
nói ba cỗ xe.
Vì kẻ trí nhỏ
chỉ thích pháp nhỏ,
không thể tự tín
mình sẽ làm Phật.

(121) Do vậy chúng tôi
áp dụng phương tiện,
phân nói các loại
tuệ giác ba xe,
và tuy nói cả
tuệ giác ba xe,
kỳ thật chỉ dạy
các vị Bồ tát.

(122) Này Xá Lợi Phất,
tôn giả nên biết,
Như Lai nghe được
tiếng nói tuyệt diệu
trong thanh thâm thúy
của chư Như Lai –
những bậc sư tử
của các thánh triết,
tức thì hoan hỷ
và thốt lên rằng:
Tôi xin tôn kính
chư vị Phật đà!

(123) Như Lai lại nghĩ:
Như Lai xuất hiện
nhằm vào thời kỳ
dữ dội vẩn đục,
thì như lời lẽ
của chư Phật nói,
Như Lai cũng phải
thể theo mà làm.

(124) Như Lai nghĩ rồi
liền đến Lộc Uyển.
Thật tướng các pháp
vốn rất vắng lặng,
không thể diễn tả
bằng những lời chữ,
nhưng mà Như Lai
áp dụng phương tiện
nói pháp ấy ra
cho năm Tỷ kheo.

(125) Như vậy gọi là
quay bánh xe pháp,
thế gian liền có
danh hiệu Niết bàn,
lại còn có cả
danh hiệu La Hán,
có pháp có Tăng
danh hiệu khác biệt.

(126) Từ đó đến nay
Như Lai ca tụng
Niết bàn hết hẳn
cái khổ sống chết.
Như Lai thường xuyên
đã nói như vậy.

(127) Nhưng Xá Lợi Phất,
tôn giả nên biết,
Như Lai lại thấy
có những con Phật
quyết chí cầu được
tuệ giác Phật đà.
Số ấy nhiều đến
vô lượng vạn ức.

(128) Ai cũng cung kính
đến chỗ Như Lai,
vì các đời trước
họ đã từng nghe
pháp mà chư Phật
phương tiện tuyên thuyết.

(129) Như Lai lúc ấy
suy nghĩ như vầy:
Sở dĩ Như Lai
xuất hiện thế gian
là để tuyên thuyết
tuệ giác Phật đà,
thì nay chính là
thì gian tuyên thuyết.

(130) Này Xá Lợi Phất,
tôn giả nên biết,
những kẻ trí nhỏ,
các căn chậm chạp,
chấp trước hình thức,
kiêu căng ngạo mạn,
thì không thể nào
tin được pháp này.
Nhưng mà pháp này
Bồ tát sẽ nghe.

(131) Thế nên ngày nay
Như Lai cảm thấy
hoan hỷ hết sức,
chứ không e ngại.
Ngay giữa đại chúng
chư vị Bồ tát,
Như Lai thẳng thắn
loại bỏ phương tiện,
chỉ còn nói đến
tuệ giác vô thượng.

(132) Chư vị Bồ tát
nghe được pháp này
thì lưới ngờ vực
thoát bỏ được cả,
mà ngàn hai trăm
chư vị La hán
ai nấy cũng sẽ
được làm Phật đà.

(133-134) Cho nên y như
thể thức thuyết pháp
của chư Phật đà
trong ba thì gian,
ngày nay Như Lai
cũng làm như vậy:
Tuyên thuyết về pháp
không có khác nhau.

(135) Chư Phật xuất thế
là sự khó có,
vì lẽ lâu xa
mới gặp một lần.
Mà dẫu chư Phật
đã xuất thế rồi,
nói về pháp này
là sự khó có.
Vô số thời kỳ
mới nghe pháp này,
nên sự nghe ấy
là sự khó có.
Và rồi những ai
nghe nổi pháp này,
thì người như vậy
là người khó có.

(136) Như hoa Ưu đàm
ai cũng ưa thích,
đến như chư thiên
cũng thấy hiếm có,
vì lẽ thỉnh thoảng
mới trổ một lần.

(137) Những người nghe nổi
pháp như thế này,
nghe rồi hoan hỷ
ca tụng tán dương,
thì dẫu đến nỗi
chỉ pháp một lời,
cũng đã hiến cúng
tam thế chư Phật.
Nên người như vậy
hết sức khó có,
khó có hơn cả
hoa thiêng Ưu đàm.

(138) Tất cả các chúng
các người đừng nghi!
Như Lai là bậc
vua của các pháp,
phổ cáo các người
biết rằng Như Lai
chỉ đem giáo pháp
cỗ xe duy nhất
mà giáo hóa cho
chư vị Bồ tát.
Như Lai không có
đệ tử Thanh văn.

(139) Này Xá Lợi Phất,
tất cả các người,
bất luận Thanh văn
hay là Bồ tát,
đều phải biết rằng
pháp tinh túy này
chính là bí yếu
của chư Phật đà.

(140) Thời kỳ dữ dội
đầy năm vẩn đục,
con người chỉ thích
đắm say dục lạc,
không bao giờ muốn
cầu tuệ giác Phật.

(141) Nên những kẻ ác
trong tương lai ấy
dẫu được nghe đến
cỗ xe duy nhất
của Như Lai nói,
cũng ngu và lầm,
không thể tin tưởng,
không chịu tiếp nhận
phá hoại pháp ấy
và sa đường dữ.

(142) Chỉ có những ai
hổ thẹn, trong sạch,
quyết chí tìm đến
tuệ giác Phật đà,
thì cần phải vì
những người như vậy
tán dương rộng rãi
cỗ xe duy nhất.

(143) Này Xá Lợi Phất,
chư vị phải biết,
nguyên tắc chư Phật
là như thế đó:
Vận dụng phương tiện
tùy nghi thuyết pháp.
Ai không tu học
không thể hiểu thấu.

(144) Đến như chư vị
khi đã biết được
sự thể tùy nghi
phương tiện thuyết pháp
của chư Phật đà,
bậc thầy thế gian,
thì đừng còn nữa
những sự nghi hoặc.
Tất cả chư vị
hãy vui mừng lên,
khi tự biết chắc
mình sẽ làm Phật.


Kết thúc tụng kinh Pháp Hoa, chúng con xin hồi hướng:
Vạn ức thời kỳ
không thể nói được
mới được có lúc
Phật nói Pháp Hoa.
Vạn ức thời kỳ
không thể nói được
mới được có lúc
nghe nói Pháp Hoa.
Chúng con nương nhờ
Phật Pháp Tăng lực
mới được trì tụng
Diệu Pháp Liên Hoa.
Chúng con nguyện đem
công đức như vầy
hiến khắp tất cả
các loại chúng sinh,
cầu cho chúng con
cùng với chúng sinh
đều được thành tựu
tuệ giác chư Phật.

Kính lạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho Bồ tát và được chư Phật giữ gìn. Kính lạy tất cả Pháp bảo trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni, đức Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp Hoa. Kính lạy đức Đa Bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp Hoa toàn là chân thật. Kính lạy đức Di Lạc, đức Phật đương lai đã phát khởi kinh Pháp Hoa và tiếp dẫn những người hành trì Pháp Hoa vãng sinh Đâu Suất tịnh độ. Kính lạy tất cả Phật bảo trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy Bồ tát Văn Thù, vị pháp sư Pháp Hoa. Kính lạy Bồ tát Phổ Hiền, vị khuyến phát Pháp Hoa. Kính lạy Bồ tát Quán Âm, vị đại sĩ toàn diện. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.


 

Lược Dẫn & Cuốn 1 | Cuốn 2 | Cuốn 3 | Cuốn 4 | Cuốn 5 | Cuốn 6 | Cuốn 7 | Phẩm Phổ Hiền | Kinh Pháp Hoa Toát Yếu |



Lược Dẫn & Cuốn 1 | Cuốn 2 | Cuốn 3 | Cuốn 4 | Cuốn 5 | Cuốn 6 | Cuốn 7 | Phẩm Phổ Hiền | Kinh Pháp Hoa Toát Yếu |

[2]

KINH PHÁP HOA
(Hoa Sen Của Chánh Pháp) 
Phần CHÍNH VĂN
Tỷ kheo Thích Trí Quang dịch

CUỐN 2

CUỐN 2
Phẩm 3: Ví dụ
Phẩm 4: Tin hiểu

Ngưỡng bạch Phật Pháp Tăng vô tận tam bảo từ bi chứng minh. Đệ tử chúng con nguyện vì bản thân, vì cha mẹ bà con, vì người thân kẻ thù, vì mọi người và vì chúng sinh, trì tụng kinh đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa.

Mở đầu tụng kinh Pháp Hoa, chúng con xin kính lạy:

Kính lạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho Bồ tát và được Phật giữ gìn. Kính lạy tất cả Pháp bảo trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni, đức Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp Hoa. Kính lạy đức Đa Bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp Hoa toàn là chân thật. Kính lạy đức Di Lạc, đức Phật đương lai, đã phát khởi kinh Pháp Hoa và tiếp dẫn những người hành trì Pháp Hoa vãng sinh Đâu suất tịnh độ. Kính lạy tất cả Phật bảo trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy bồ tát Văn Thù, vị pháp sư Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Phổ Hiền, vị khuyến phát Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Quan âm, vị đại sĩ toàn diện. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

_________

Phẩm 3: Ví dụ

 Lúc ấy tôn giả Xá lợi Phất hoan hỷ phấn chấn, tức thì đứng dậy, chắp tay, chiêm ngưỡng dung nhan đức Thế Tôn mà thưa, bạch đức Thế Tôn, ngày nay, từ đức Thế Tôn, con nghe được tiếng nói của pháp này, trong lòng phấn chấn, được sự chưa từng có. Tại sao, vì ngày trước, cũng từ đức Thế Tôn, con nghe pháp này, thấy chư vị Bồ tát tiếp nhận lời ghi làm Phật mà chúng con không được dự vào việc ấy, nên rất cảm thương cho mình bị loại khỏi sự thấy biết không có giới hạn của đức Thế Tôn. Bạch đức Thế Tôn, con thường ngồi hay đi một mình dưới cây trong rừng, nghĩ rằng chúng con đồng nhập pháp tánh, tại sao đức Thế Tôn cứu độ cho bằng giáo pháp cỗ xe thấp nhỏ? Nhưng đó là lỗi tại chúng con, không phải tại đức Thế Tôn. Bởi lẽ nếu chúng con biết mong đợi đức Thế Tôn nói cho về nhân tố thành tựu tuệ giác vô thượng, thì chắc chắn đã được cứu độ bằng giáo pháp cỗ xe vĩ đại. Nhưng chúng con không nhận thức được sự phương tiện tùy nghi thuyết pháp của đức Thế Tôn; mới nghe đức Thế Tôn thuyết pháp, gặp giáo pháp thấp nhỏ là chúng con tin tưởng, tiếp nhận, tư duy và chứng lấy. Do đó, bạch đức Thế Tôn, hồi nào đến giờ, con thường tự trách suốt ngày suốt đêm. Nhưng ngày nay, từ đức Thế Tôn, con được nghe cái pháp chưa từng có mà trước đây con chưa nghe, nên hết sạch hoài nghi, thân tâm thư thái, hoàn toàn ổn định. Ngày nay con mới biết mình thật con Phật, sinh ra từ sự giáo huấn của Phật, sinh ra từ sự hóa cải của Pháp, hưởng được tài sản về Pháp của Phật. Tôn giả Xá lợi Phất muốn lặp lại ý nghĩa đã thưa, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Nay nghe tiếng nói
của pháp như vầy,
con cảm nhận được
sự chưa từng có,
trong lòng phát sinh
nỗi mừng to lớn,
vì đã phá hết
mạng lưới hoài nghi.
Xưa nay con nhờ
Thế Tôn giáo hóa,
ngày nay không mất
cỗ xe vĩ đại.

(2) Tiếng nói Thế Tôn
thật là hiếm có,
trừ được lo buồn
cho bao chúng sinh.
Con là một người
đã hết phiền não,
mà nghe tiếng ấy
cũng hết lo buồn.

(3) Ở trong hang núi
hay dưới cây rừng,
con ngồi trầm tư
hoặc đi kinh hành,
lòng thường nghĩ đến
sự thể sau đây.

(4) – Sự thể mà con
rất tự thống trách:
tại sao chính mình
tự lừa gạt mình! –
Rằng cũng toàn là
đệ tử Thế Tôn,
cũng đồng nhập được
pháp tánh thuần khiết,
vậy mà chúng con
trong thì vị lai
không thể tuyên thuyết
về pháp vô thượng!

(5) Băm hai tướng quí
toàn màu hoàng kim,
mười đại năng lực
tám sự giải thoát,
chúng con cùng chung
pháp tánh đồng nhất,
vậy mà không được
những thành quả ấy!

(6) Cho đến tám mươi
vẻ đẹp tinh túy,
cùng với mười tám
những sự đặc biệt,
thành quả như vậy
chúng con mất cả!

(7) Mỗi khi con đi
kinh hành một mình,
hồi tưởng Thế Tôn
ở giữa các chúng,
rõ ràng danh ngài
vang động mười phương,
ích lợi rộng lớn
cho bao chúng sinh.
Hồi tưởng như vậy,
con nghĩ phận mình
mất hết thành quả
cao cả đến thế –
Thì ra chính con
đã dối gạt mình!

(8) Con thường ngày đêm
nghĩ sự thể này,
và muốn đem ra
xin hỏi Thế Tôn
như thế thật sự
con mất, không mất?

(9) Mỗi khi được thấy
Thế Tôn ca tụng
chư vị Bồ tát,
thì cả ngày đêm
con suy ngẫm mãi
về sự kiện ấy.

(10) Nay con được nghe
tiếng nói Thế Tôn,
biết ngài tùy nghi
phương tiện thuyết pháp,
cuối cùng thuyết thẳng
về pháp hoàn hảo
ngoài tầm nghĩ bàn,
làm cho các chúng
đều được đến ngồi
nơi Bồ đề tràng.

(11) Phần con thì vốn
vướng mắc tà kiến,
làm thầy các vị
Phạn chí ngoại đạo,
Thế Tôn biết rõ
tâm tính của con,
nhổ cho tà kiến
chỉ cho Niết bàn.

(12) Con loại trừ hết
tư tưởng tà kiến,
nơi nguyên lý Không
con được chứng lấy,
bây giờ lòng con
tự cho là mình
đã được Niết bàn.
Nhưng mà ngày nay
con mới tự biết
chưa thật Niết bàn.

(13) Phải đến lúc nào
con được làm Phật
có đủ tất cả
băm hai tướng qúi,
chư thiên, nhân loại,
tám bộ long thần
ai cũng tôn kính,
bấy giờ mới được
tự xưng đã chứng
Niết bàn hoàn toàn.

(14) Ở giữa đại hội
các chúng như vầy,
đức Thế Tôn nói
con sẽ làm Phật,
con nghe tiếng pháp
ngài nói như vậy
thì sạch hết cả
hoài nghi hối tiếc.

(15) Khi con mới nghe
đức Thế Tôn nói,
trong lòng cả sợ
ngờ vực hết sức:
phải chăng đây là
ma vương làm Phật
để gây rối loạn
tâm trí của con?

(16) Nhưng rồi Thế Tôn
thiện dụng các thứ
yếu tố, ví dụ,
lời chữ tuyệt hảo,
làm cho lòng con
yên như biển cả:
nghe rồi lòng con
sạch hết ngờ vực.

(17) Thế Tôn nói rõ
vô lượng Phật đà
đã nhập Niết bàn
trong thì quá khứ,
với sự xác lập
trong cách phương tiện,
ngài nào cũng nói
về pháp như vầy.

(18) Ngài nói Phật đà
hiện tại vị lai
số lượng nhiều đến
không thể tính kể,
ngài nào cũng dùng
cách thức phương tiện
mà tuyên thuyết đến
pháp như thế này.

(19) Ngài nhắc nay ngài
làm như thế nào
trong sự xuất thế
và sự xuất gia,
trong sự thành tựu
tuệ giác vô thượng,
trong sự chuyển đẩy
bánh xe chánh pháp,
cho thấy chính ngài
cũng là vận dụng
cách thức phương tiện
mà nói pháp này.

(20) Thế Tôn công bố
con đường đích thực,
việc ấy ma vương
không thể làm được.
Vì vậy mà con
biết chắc chắn rằng
không phải ma vương
làm ra đức Phật,
chỉ vì con sa
vào lưới ngờ vực
nên bảo đó là
ma vương làm ra.

(21) Tiếng nói dịu ngọt
của đức Thế Tôn
cực kỳ thâm thúy,
diễn đạt về pháp
cực kỳ trong suốt.
Nghe tiếng nói ấy
lòng con sinh ra
vui mừng hết sức,
vì nó hết hẳn
ngờ vực hối tiếc,
đứng vững ở trong
trí tuệ chắc thật.

(22) Là con biết chắc
mình sẽ làm Phật,
chư thiên nhân loại
ai cũng tôn kính,
chuyển đẩy bánh xe
chánh pháp vô thượng,
giáo hóa khai thị

chư vị Bồ tát.

Khi ấy đức Thế Tôn bảo tôn giả Xá Lợi Phất, ngày nay, ở giữa đại hội chư thiên, nhân loại, sa môn, bà la môn, đại loại các chúng như thế này, Như Lai nói rõ cho tôn giả biết, xưa kia, nơi hai vạn ức đức Phật, Như Lai vì tuệ giác vô thượng mà luôn luôn giáo hóa cho tôn giả, tôn giả cũng mãi mãi theo học Như Lai. Như Lai đem phương tiện mà dắt dẫn tôn giả, nên đời này tôn giả vẫn được tái sinh trong giáo pháp Như Lai. Xá Lợi Phất, xưa kia Như Lai dạy cho tôn giả phát ra chí nguyện mong cầu tuệ giác Phật đà, vậy mà ngày nay tôn giả quên hết, tự cho mình đã thực hiện Niết bàn. Ngày nay Như Lai muốn làm cho tôn giả nhớ lại chí nguyện ban đầu, và đường đi của chí nguyện ấy, nên sẽ nói cho chư vị Thanh văn mà tôn giả là người đứng đầu, về bản kinh Đại thừa này, mang tên Pháp Hoa, bản kinh dạy cho Bồ tát và được Phật giữ gìn.

Xá Lợi Phất, trong thì vị lai, tôn giả trải qua thời kỳ nhiều đến vô lượng, phụng sự nhiều ức đức Phật, kính giữ chánh pháp của các ngài, đi hết đường đi của Bồ tát rồi, sẽ được thành Phật với danh hiệu Hoa Quang, đủ mười đức hiệu: Bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua Niết bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giác hoàn toàn, bậc Tôn cao nhất đời. Quốc độ của đức Hoa Quang tên là Ly Cấu, bằng phẳng, sạch sẽ, đẹp đẽ, yên vui, sung túc, trời người đông đảo. Đất bằng lưu ly, những đường ngã tám được chạy dây vàng mà phân chia lề đường. Lề đường nào cũng có những hàng cây bằng bảy chất liệu quý báu, hoa trái có luôn.

Đức Hoa Quang cũng đem giáo pháp của ba cỗ xe mà giáo hóa chúng sinh. Xá Lợi Phất, khi đức Hoa Quang xuất thế dẫu không phải thời kỳ dữ dội, nhưng vì chí nguyện ban đầu nên ngài tuyên thuyết đủ hết giáo pháp của ba cỗ xe. Thời kỳ của đức Hoa Quang tên là Đại Bảo Trang Nghiêm. Tại sao được gọi như vậy? Vì trong quốc độ của đức Hoa Quang lấy chư vị Bồ tát làm châu ngọc lớn nhất. Chư vị Bồ tát ấy vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn, toán số ví dụ không thể xác định, phi trí lực của Phật thì không ai biết hết. Chư vị Bồ tát ấy muốn đi thì hoa ngọc nâng chân. Chư vị Bồ tát ấy không phải mới phát tâm, mà toàn là lâu đời gieo trồng gốc rễ công đức, và tu hành phạn hạnh một cách trong sáng ở nơi chư Phật nhiều đến vô số vạn ức, thường được chư Phật tán dương, thường xuyên tu tập tuệ giác chư Phật, có đủ thần thông quảng đại, khéo biết hết thảy cửa ngõ chánh pháp, ngay thẳng chứ không dối trá, trí nhớ rất vững. Bồ tát như vậy đầy cả quốc độ.

Xá lợi Phất, đức Hoa Quang sống lâu mười hai thời kỳ bậc nhỏ, trừ thì gian làm vương tử, chưa thành Phật đà. Người trong quốc độ của ngài sống lâu tám thời kỳ bậc nhỏ. Đức Hoa Quang, sau mười hai thời kỳ bậc nhỏ, trao cho Bồ tát Kiên Mãn lời ghi thành tựu tuệ giác vô thượng, bằng cách bảo chư vị tỷ kheo, rằng vị bồ tát Kiên Mãn này sẽ kế tiếp làm Phật với danh hiệu Hoa túc an hành, bậc Đến như chư Phật, bậc Thích Ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp. Quốc độ của vị này cũng y như đã nói ở trên. Xá lợi Phất, đức Hoa Quang nhập diệt rồi, giáo pháp nguyên chất tồn tại ba mươi hai thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp tương tự tồn tại cũng ba mươi hai thời kỳ bậc nhỏ.

Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(23) Này Xá lợi Phất,
trong thì vị lai
tôn giả thành đấng
Tuệ giác khắp cả,
danh hiệu của ngài
tên là Hoa Quang,
sẽ cứu độ cho
vô lượng các chúng.

(24) Tôn giả phụng sự
vô số Phật đà,
thực hành đầy đủ
việc làm bồ tát,
thành tựu bao nhiêu
phẩm chất Phật đà,
trong đó gồm có
mười đại năng lực,
thì thực hiện được
tuệ giác vô thượng.

(25) Vô số thời kỳ
qua rồi thì đến
thời kỳ có tên
Đại Bảo Trang Nghiêm,
quốc độ có tên
Ly Cấu thế giới:
thế giới trong suốt
không một vết dơ.

(26) Đất bằng lưu ly,
dây vàng chia đường,
cây bằng bảy báu
màu sắc xen nhau
mà lại thường xuyên
hoa có trái có.

(27) Chư vị Bồ tát
của cõi Ly Cấu
thì có trí nhớ
luôn luôn vững chắc;
thần thông quảng đại,
ba la mật đa,
các pháp như vậy
có đủ tất cả;
khéo học khéo tu
đường đi Bồ tát
ở nơi chư Phật
nhiều đến vô số.
Bồ tát đại sĩ
đến như thế này
được sự giáo hóa
của đức Hoa Quang.

(28) Đức Phật Hoa Quang
khi làm vương tử
bỏ ngôi quốc chúa
bỏ cuộc vinh hoa,
cái thân cuối cùng
được đem xuất gia
và thành tựu được
tuệ giác Phật đà.

(29) Đức Phật Hoa Quang
sống đến mười hai
thời kỳ bậc nhỏ,
người quốc độ ngài
sống cũng đến số
tám thời kỳ ấy.

(30- Đức Phật Hoa Quang
31) nhập niết bàn rồi,
giáo pháp nguyên chất
tồn tại bâm hai
thời kỳ bậc nhỏ,
hóa độ chúng sinh
một cách rộng rãi.
Giáo pháp nguyên chất
kết thúc xong rồi,
giáo pháp tương tự
tồn taị cũng đến
số bâm hai ấy.
Xá lợi của ngài
phân bủa rộng ra,
nhân loại chư thiên
cùng nhau hiến cúng.

(32) Việc đức Hoa Quang
là như thế đó.
Bậc thánh hoàn hảo
phước đức tuệ giác
cực kỳ siêu việt
tuyệt đối như vậy,
chính là hậu thân
của Xá lợi Phất,
do đó tôn giả
hãy vui mừng lên!

Lúc ấy bốn chúng tám bộ và các chúng khác, nghe thấy tôn giả Xá lợi Phất đối trước đức Thế Tôn tiếp nhận lời ghi được thành tuệ giác vô thượng, thì lòng rất hoan hỷ, phấn chấn vô cùng, người nào cũng cởi những tấm vải thượng thặng đang khoác trên mình mà hiến cúng đức Thế Tôn. Đế Thích, Phạn Vương, cùng vô số thiên nhân, cũng đem vải tuyệt diệu của chư thiên, lại đem hoa quí báu của chư thiên, đại loại như hoa mạn đà và hoa mạn đà lớn, tung rãi mà hiến cúng đức Thế Tôn. Vải tuyệt diệu của chư thiên được tung rải thì tự đứng lại mà xoay chuyển trong không gian. Ở trong không gian còn có trăm ngàn vạn thứ nhạc khí của chư thiên đồng thời hòa tấu, còn có mưa xuống các loại hoa khác nữa cũng của chư thiên. Chư thiên hiến cúng như vậy và thưa, bạch đức Thế Tôn, xưa kia ở Lộc uyển, lần đầu tiên đức Thế Tôn đã chuyển đẩy bánh xe chánh pháp, ngày nay đức Thế Tôn lại chuyển đẩy bánh xe chánh pháp cực đại và tối thượng. Chư thiên muốn lặp lại ý nghĩa đã thưa, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(33) Xưa đức Thế Tôn
ở nơi Lộc uyển
chuyển đẩy bánh xe
pháp bốn chân lý,
phân tích trạng thái
sinh ra diệt đi
ở nơi tất cả
năm phần hợp thể.

(34) Nay đức Thế Tôn
lại còn chuyển đẩy
bánh xe chánh pháp
cực đại tối thượng.
Chánh pháp như vậy
cực kỳ sâu xa,
thế gian ít có
người nào tin nổi.

(35) Từ xưa đến nay
chúng con thường nghe
Thế Tôn tuyên thuyết
bao nhiêu chánh pháp,
nhưng chưa bao giờ
được nghe chánh pháp
tối thượng, tinh túy,
sâu xa như vầy.

(36- Thế Tôn tuyên thuyết
37) chánh pháp như vầy,
tất cả chúng con
xin kính tùy hỷ.
Ngài Xá lợi Phất
bậc đại trí tuệ,
ngày nay tiếp nhận
Thế Tôn thọ ký,
chúng con rồi đây
cũng được như vậy:
cũng sẽ chắc chắn
được làm Phật đà,
bậc tối vô thượng
trong cả thế gian.

(38) Tuệ giác Thế Tôn
trên tầm nghĩ bàn,
Thế Tôn tùy nghi
phương tiện tuyên thuyết.
Bao nhiêu phước đức
chúng con có được
ở trong đời này
hay trong đời trước,
cùng với phước đức
phụng sự Thế Tôn,
chúng con xoay cả
về nơi tuệ giác
của đức Thế Tôn,

nguyện được tuệ ấy.

Lúc ấy tôn giả Xá Lợi Phất thưa, bạch đức Thế Tôn, ngày nay con không còn hoài nghi hối tiếc gì nữa, khi con đích thân đối trước đức Thế Tôn được tiếp nhận lời ngài thọ ký cho con thành tựu tuệ giác vô thượng. Nhưng một ngàn hai trăm vị tâm trí tự tại giải thoát này, mà xưa kia khi ở trong địa vị tu học tiếp tục, đức Thế Tôn thường dạy rằng chánh pháp Như Lai có năng lực thoát ly sinh già bịnh chết, cứu cánh Niết bàn; những vị ấy, và những vị tu học tiếp tục hay tu học hoàn tất, ai cũng đem cái việc thoát ly chấp bản ngã và chấp có không mà cho rằng mình được Niết bàn. Ngày nay, đối trước đức Thế Tôn, các vị nghe đến điều chưa từng nghe, rơi cả vào sự nghi hoăëc. Lành thay đức Thế Tôn, xin ngày giải thích cho cả bốn chúng về nguyên ủy của điều ấy, để cho các vị thoát khỏi mọi sự hoài nghi hối tiếc. Đức Thế Tôn bảo tôn giả Xá Lợi Phất, Như Lai đã chẳng mới nói trước đây hay sao, rằng chư Phật Như Lai đem các thứ yếu tố, ví dụ và lời chữ mà phương tiện thuyết pháp, pháp ấy toàn là vì tuệ giác vô thượng, bởi lẽ pháp ấy toàn là để giáo hóa Bồ tát. Nhưng, Xá Lợi Phất, bây giờ Như Lai lấy một sự ví dụ để nói rõ thêm về ý nghĩa ấy. Những người có trí thì do sự ví dụ mà được lý giải.

Xá Lợi Phất, ví như tại một khu dân cư của một thủ phủ, có một đại trưởng giả, tuổi già, lắm của, nhiều nhà đất và tôi tớ. Ngôi nhà của ông rộng lớn nhưng chỉ có một cửa. Nhiều người, một trăm hai trăm cho đến năm trăm, cùng ở trong đó. Nhưng ngôi nhà ấy, lầu gác nhà chính mà cũng đã hư cũ, tường vách lở rã, chân cột hư mục, rường nhà và đòn nóc đã xiêu nghiêng cả. Và đột nhiên bốn phía cùng lúc dậy lửa, đốt cháy nhà cửa.

Con của đại trưởng giả có đến mười người, hoặc đến ba mươi người, vẫn ở trong ngôi nhà ấy. Đại trưởng giả thấy lửa dữ bốn phiá dậy lên thì hết sức kinh sợ, nghĩ rằng dầu ta có thể do nơi cái cửa của ngôi nhà đang cháy này mà thoát ra một cách an toàn, nhưng các con ta thì ở trong nhà lửa như vầy mà vẫn ham chơi giỡn, không hay không biết, không kinh không sợ. Hơi lửa đã xáp đến nơi mình, nóng rát như cắt mà lòng vẫn không chán không lo, không có ý gì thoát chạy. Đại trưởng giả lại nghĩ, thân mình và cánh tay của ta rất mạnh, ta có thể dùng vạt áo hoặc ghế đẳng, gom các con lại ôm mà chạy ra. Nhưng đại trưởng giả lại nghĩ, ngôi nhà như vầy chỉ có một cửa, cửa ấy lại nhỏ hẹp. Các con nhỏ dại, chưa biết gì hết, lại lưu luyến đam mê chỗ chúng đang chơi, nên có thể có đứa rơi xuống mà bị lửa đốt cháy. Vậy ta nên nói cho các con biết sự thể khủng khiếp, rằng ngôi nhà đã cháy, phải thoát cho mau, đừng để lửa đốt cháy mất. Nghĩ rồi, đại trưởng giả nói hết cho các con nghe những điều mình nghĩ, và dục các con cấp tốc chạy ra. Nhưng, người cha thương xót và khéo bảo, mà những đứa con của ông vẫn ham chơi giỡn, không tin không sợ, không có lòng nào muốn ra, cũng không biết lửa là gì, nhà ra sao, cháy mất là thế nào, chỉ biết chạy qua chạy lại, giỡn cười và nhìn cha mà thôi.

Đại trưởng giả thấy vậy nghĩ rằng, ngôi nhà này đang bị lửa dữ đốt cháy, ta với con ta không thoát gấp thì chắc chắn bị đốt. Ta phải lập chước phương tiện để làm cho các con khỏi bị tai họa. Là cha nên đại trưởng giả biết trước đây tâm lý các con mỗi đứa có một sở thích. Những đồ chơi quý, đẹp và lạ, ý chúng chắc chắn rất ham. Ông bảo, cha có những đồ chơi mà các con rất thích. Những đồ ấy hiếm có, khó được, các con không lấy thì sau tất hối tiếc. Những đồ ấy là các cỗ xe dê, các cỗ xe hươu và các cỗ xe bò, hiện cha để cả ở ngoài cửa, các con có thể ra lấy mà chơi. Hãy chạy ra khỏi ngôi nhà lửa này tức khắc, các con muốn chơi thứ nào cha cũng cho cả. Các con nghe cha nói đến đồ chơi vừa quý vừa đẹp thì trúng ý của chúng, nên đứa nào cũng đâm ra hăng hái, xô nhau, đẩy nhau, đua nhau mà chạy, giành nhau mà thoát khỏi nhà lửa.

Khi đại trưởng giả thấy các con ra được an toàn, ngồi cả nơi chỗ đất trống ở giữa ngã tư, không còn gì phải e ngại nữa, thì lòng ông khoan khoái, vui mừng rộn rã. Bấy giờ các con ông cùng thưa, đồ chơi cha hứa, xe dê xe hươu xe bò ở đâu, xin cha cho liền đi. Xá Lợi Phất, khi ấy đại trưởng giả cấp cho các con mỗi đứa một cỗ xe lớn như nhau. Cỗ xe ấy cao mà lại rộng, trang hoàng bằng các thứ ngọc. Lan can bao quanh, chuông nhỏ treo bốn phía. Phần trên thì mui trần được căng riềm màn, và hai thứ này cũng được trang trí bằng những thứ ngọc kỳ lạ, màu sắc xen nhau. Những đường dây kết ngọc thì mắc như đan với nhau, kết thắt dải hoa mà treo rủ xuống. Lại phủ bằng lụa trắng có tua với chỉ xâu hạt ngọc, và đặt những đệm gối màu hồng. Cỗ xe được kéo bằng con bò trắng, da dẻ đầy đặn, sạch sẽ, thân hình đã lớn lại đẹp, gân sức rất mạnh, bước đi bằng phẳng ngay ngắn, và đi mau như gió. Cỗ xe còn có nhiều kẻ thị tùng để hầu hạ và chăm sóc. Đại trưởng giả tài sản giàu có vô lượng, mọi thứ kho tàng đều tràn đầy, nên ông nghĩ, với tài sản ấy, ta không nên cho các con những cỗ xe xấu nhỏ. Những đứa bé này toàn là con ta, ta thương đồng đều. Những cỗ xe lớn làm bằng bảy chất liệu quý báu như trên, ta có vô số. Ta nên đồng đều mà cho các con, không nên đối xử sai biệt. Tài sản của ta chu cấp cả nước còn không thiếu, huống chi các con. Bấy giờ các con của đại trưởng giả cùng ngồi những cỗ xe lớn, được sự chưa từng có, ngoài lòng mong ước.

Xá Lợi Phất, tôn giả nghĩ thế nào, đại trưởng lão đồng đều cấp cho các con những cỗ xe lớn quý báu như vậy, có dối trá không? Tôn giả Xá lợi Phất thưa, không, bạch đức Thế Tôn. Đại trưởng giả ấy chỉ cốt làm cho các con ông thoát được hỏa hoạn, toàn vẹn tính mạng, nên không phải dối trá. Tính mạng toàn vẹn là kể như đã được đồ chơi đẹp và thích rồi, huống chi đây chỉ là chước phương tiện của ông cứu các con ông thoát khỏi nhà lửa. Bạch đức Thế Tôn, đại trưởng giả ấy đến nỗi không cho một cỗ xe nhỏ nhất, cũng không phải là dối trá, vì ông vốn nghĩ ta lập chước phương tiện để làm cho các con thoát ra. Vì nghĩ như vậy nên ông đâu có dối trá. Huống chi ông còn biết mình giàu có vô lượng, muốn lợi cho các con nên đồng đều cấp cho những cỗ xe lớn.

Đức Thế Tôn bảo tôn giả Xá lợi Phất, tốt lắm, đúng như lời tôn giả nói. Xá lợi Phất, Như Lai cũng như đại trưởng giả ấy. Như Lai là từ phụ của cả thế gian. Như Lai không còn một cách hoàn toàn những sự kinh khủng, suy biến, lo buồn, những sự đen tối che phủ của vô minh. Như Lai thành tựu một cách đầy đủ sự thấy biết không có giới hạn mà nội dung gồm có đại năng lực và sự không sợ, có sức mạnh đại thần thông và sức mạnh đại tuệ giác, có phương tiện toàn hảo và trí tuệ toàn hảo, lòng hiền từ bao la và lòng thương xót bao la thì vĩnh viễn không còn biết chán biết mệt. Rồi vì thường xuyên tìm kiếm những việc tốt lành mà làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, nên Như Lai sinh vào nhà lửa ba cõi vừa lửa vừa mục để cứu vớt chúng sinh vượt qua lửa dữ của sinh già bịnh chết, của lo buồn đau khổ, của ba độc tố vô minh, dục vọng và hận thù, giáo hóa cho họ đạt được tuệ giác vô thượng.

Như Lai thấy chúng sinh bị nung nấu thiêu đốt bởi sinh già bịnh chết, bởi lo buồn đau khổ. Lại vì năm thứ dục lạc, vì tiền tài danh lợi mà chịu đủ khổ sở. Ham hố đeo đuổi những thứ ấy nên hiện tại đã chịu đau khổ đủ cách, mai sau còn bị sa vào địa ngục ngạ quỉ súc sinh. Giả sử sinh lên chư thiên hay sinh trong nhân loại thì bần cùng khốn khổ, khổ vì ân ái mà biệt ly, khổ vì thù ghét mà chạm mặt. Cùng loại như vậy còn có bao nhiêu đau khổ khác nữa, chúng sinh chìm ngập trong đó mà vẫn vui thích, chơi giỡn, không hay không biết, không kinh không sợ, không hề phát chán, không mong thoát ly. Trong nhà lửa ba cõi, chúng sinh bôn ba qua lại, gặp phải khổ lớn mà không cho là tai họa. Xá lợi Phất, Như Lai thấy như vậy nên nghĩ rằng Như Lai là từ phụ của chúng sinh, Như Lai phải cứu vớt khổ nạn cho họ, cho họ vô lượng vô biên cái vui của tuệ giác Phật đà để họ được vui chơi trong đó.

Nhưng mà, Xá lợi Phất, Như Lai nghĩ tiếp, nếu Như Lai chỉ dùng sức mạnh thần thông và sức mạnh tuệ giác, bỏ cách nói phương tiện, chỉ tán dương thẳng cho chúng sinh nghe về sự thấy biết của Phật đà mà nội dung gồm đủ các phẩm chất đại loại như mười đại năng lực và bốn sự không sợ, thì chúng sinh không thể nhờ vậy mà được giải thoát. Vì sao, vì chúng sinh chưa khỏi sinh già bịnh chết, lo buồn đau khổ; họ đang bị nung đốt trong nhà lửa ba cõi thì còn làm sao lĩnh hội được tuệ giác Phật đà. Xá lợi Phất, như đại trưởng giả có sức mạnh của thân hình và cánh tay mà không dùng được, chỉ dùng được phương tiện thiết tha khuyên bảo, cứu các con thoát khỏi cái họa nhà lửa, rồi sau đó cho mỗi đứa một cỗ xe lớn quý báu. Như Lai cũng vậy, dẫu có mười đại năng lực và bốn sự không sợ mà không dùng được, dùng được chỉ có phương tiện của tuệ giác: ở trong nhà lửa ba cõi, vì cứu thoát chúng sinh nên nói cho họ về ba cỗ xe là cỗ xe Thanh văn, cỗ xe Duyên giác và cỗ xe Phật đà, khuyến cáo rằng các người đừng ham ở trong nhà lửa ba cõi, đừng ham năm thứ hình sắc, âm thanh, hơi hướng, mùi vị và tiếp xúc, loại thô xấu tồi tệ. Tham thì ái, và như vậy là bị thiêu đốt. Các người hãy cấp tốc thoát khỏi ba cõi thì sẽ được ba cỗ xe: cỗ xe Thanh văn, cỗ xe Duyên giác và cỗ xe Phật đà. Như Lai bảo đảm việc ấy, không dối gạt chút nào. Các người hãy nỗ lực mà tinh tiến. Như Lai thiện dụng phương tiện như vậy mà dẫn dụ chúng sinh tiến lên, lại bảo, các người phải biết ba cỗ xe này toàn là những giáo pháp được các vị thánh trí tán tụng, tự tại chứ không lệ thuộc, không nương tựa cầu hồ. Ngồi ba cỗ xe này thì vui thú với bao phẩm chất thuần khiết đại loại như năm căn bản, năm năng lực, bảy thành phần tuệ giác, tám thành phần đường chánh, bốn thiền, bốn định, tám sự giải thoát, ba pháp tam muội, thể hiện vô lượng yên vui.

Xá lợi Phất, nếu người nào bản thân có khả năng tuệ giác, theo Phật nghe pháp mà tin tưởng tiếp nhận, thiết tha tinh tiến, nhưng ước muốn cấp tốc thoát ra ba cõi nên cầu tự Niết bàn, đó là theo cỗ xe Thanh văn, như những người con nào của đại trưởng giả vì được cỗ xe dê mà chạy khỏi nhà lửa. Nếu người nào theo Phật nghe pháp mà tin tưởng tiếp nhận, thiết tha tinh tiến, nhưng cầu tuệ giác tự nhiên, thích đơn độc, khéo vắng lặng, biết sâu nguyên lý duyên khởi của các pháp, đó là theo cỗ xe Duyên giác, như những người con nào của đại trưởng giả vì được cỗ xe hươu mà khỏi nhà lửa. Nếu người nào theo Phật nghe pháp mà tin tưởng tiếp nhận, thiết tha tinh tiến, nhưng cầu tuệ giác hoàn toàn là tuệ giác Phật đà, tuệ giác tự nhiên, tuệ giác không thầy, nói tóm là cầu sự thấy biết của Phật đà mà nội dung có đủ các phẩm chất như mười đại năng lực, bốn sự không sợ, và cầu như vậy là vì thương tưởng, muốn đem lại yên vui cho vô số chúng sinh, ích lợi cho tất cả chư thiên nhân loại, cứu độ cho hết thảy đều được giải thoát, đó là theo cỗ xe vĩ đại, Bồ tát cầu xe vĩ đại ấy nên gọi là người vĩ đại, như những người con nào của đại trưởng giả vì được cỗ xe bò mà chạy khỏi nhà lửa.

Xá Lợi Phất, như đại trưởng giả thấy các con thoát khỏi nhà lửa một cách an toàn, đến chỗ không còn sợ hãi rồi, tự biết tài sản vô lượng nên, một cách đồng đều, chỉ đem những cỗ xe lớn mà cho các con. Như Lai cũng vậy. Là Từ ï phụ của chúng sinh, nên Như Lai thấy vô số con số ức ngàn chúng sinh do cái cửa giáo pháp của Như Lai mà thoát khỏi cái khổ, cái chỗ nguy hiểm khủng khiếp là ba cõi, được Niết bàn yên vui rồi, liền nghĩ, Như Lai có tuệ giác vô giới hạn là kho tàng đầy các phẩm chất Phật đà mà đại loại như mười đại năng lực, bốn sự không sợ; các loại chúng sinh vừa nói đều là con của Như Lai, Như Lai phải đồng đều đem cỗ xe vĩ đại mà cho họ. Như Lai không để cho có ai chỉ được Niết bàn riêng biệt; người nào Như Lai cũng đem Niết bàn của Như Lai mà làm cho họ Niết bàn. Các loại chúng sinh đã thoát khỏi ba cõi như trên, người nào Như Lai cũng cho chính những yếu tố vui thú của Như Lai là đại loại như bốn thiền, bốn định, tám sự giải thoát… Yếu tố như vậy toàn một sắc thái và một phẩm chất, ấy là được chư vị thánh trí ca tụng và có năng lực phát sinh cái vui trong suốt, tinh túy và bậc nhất.

Xá Lợi Phất, như đại trưởng giả ban đầu đem cả ba loại xe mà dẫn dụ các con, nhưng sau đó chỉ cho những cỗ xe cao lớn, những cỗ xe trang hoàng bảo vật và an toàn bậc nhất. Cho như vậy mà đại trưởng giả không có cái lỗi dối trá. Như Lai cũng vậy, không dối trá gì cả trong cái việc ban đầu nói ba cỗ xe để dẫn dụ chúng sinh, nhưng sau đó chỉ đem cỗ xe Vĩ đại mà đưa họ đến Niết bàn hoàn toàn. Như Lai làm như vậy vì Như Lai có tuệ giác vô giới hạn là kho tàng đầy các phẩm chất Phật đà mà đại loại như mười đại năng lực và bốn sự không sợ, có thể ban cho hết thảy chúng sinh bằng giáo pháp cỗ xe Vĩ đại – Có điều không phải ai cũng có khả năng tiếp nhận được cả.

Xá Lợi Phất, với nguyên ủy đã nói trên đây, chư vị phải hiểu Như Lai do phương tiện lực nên chỉ có một loại xe Phật đà mà nói ra ba loại xe khác nhau.

Đức Thế Tôn muốn lập lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(39-42) Như đại trưởng giả
có ngôi nhà lớn.
Ngôi nhà đã cũ
mà lại hư rã.
Ngay cái nhà chính
đã cao lại nguy:
Cột với chân cột
thì đã mục gãy.
Rường và đòn nóc
đều xiêu nghiêng cả.
Nền nhà thềm nhà
sụp lở hư hỏng.
Tường vách đổ nát
vôi hồ đổ rơi.
Mái lợp thủng lỗ
rơi đổ loạn xạ.
Đòn tay xà ngang
trật khớp sẩy ra.
Đây đó khắp nơi
bị chận bị lấp,
quanh co gồ ghề,
tràn trề dơ bẩn.
Đang ở trong đó
có năm trăm người.
Vậy mà trong đó
có những chim dữ:
cú mèo, chim kiêu,
chim cắt, chim thứu,
cùng với quạ, khách,
tu hú, bồ câu…

(43) Lại còn các loại
bò sát thú dữ:
hổ mang, rắn độc,
rắn phúc, bò cạp,
rít với du diên,
cọp vách, sâu chiếu;
chồn dứu, chồn cầy,
chuột nhắt, loại chuột.

(44) Sâu bọ độc dữ
dọc ngang chen nhau.
Phân với nước tiểu
hôi thối cùng cực,
đủ thứ dơ bẩn
chảy ra lan tràn,
bọ hung, sâu giòi
tập trung trên đó.
Cáo, sói, dã can
nhai gặm dẫm đạp,
cắn xé thây chết
xương thịt bừa bãi.

(45-46) Do đó bầy chó
đua nhau vồ chụp.
Chúng đói cuồng cuồng
xục xạo tìm ăn,
tranh giành móc kéo,
gừ cắn rống tru.
Ngôi nhà kinh khủng
đến như thế đó.

(47-48) Khắp mọi nơi chỗ
đều có yêu quái,
ác quỷ dạ xoa
chuyên ăn thịt người.
Bò sát độc điạ
chim muông hung hãn
sinh sản ấp nuôi
đều cố cất giữ,
vẫn bị dạ xoa
giành nhau bắt ăn.

(49) Ăn no nê rồi
bản chất hung dữ
lại càng hăng lên,
những tiếng của chúng
đánh nhau giành nhau
thật là rùng rợn.

(50) Lại còn lũ quỷ
tên Cưu bàn trà,
ngồi xoạc đất bằng
ngồi xổm đất cục,
có khi cách đất
một vài thước ngắn
lướt qua rảo lại
nghênh ngang đùa giỡn.

(51) Chúng túm chân chó
vật cho thất thanh,
lấy chân chắn cổ
khủng bố mà chơi.

(52) Lại có những quỷ
thân hình cao lớn
trần truồng đen ốm
thường ở nhà này,
phát tiếng dữ lớn
thét gào tìm ăn.

(53) Lại có những quỷ
cổ nhỏ như kim,
lại có những quỷ
đầu như đầu bò,
giành nhau tìm ăn
thịt người thịt chó,
đầu tóc bù rối
tàn bạo hung dữ,
đói khát thúc bách
vừa gào vừa chạy.

(54) Dạ xoa, quỷ đói,
chim muông độc dữ,
đói khát hành hạ
loạn chạy bốn phía,
rình rập lén dòm
qua các cửa sổ.

(55) Ngôi nhà nguy hiểm
khủng khiếp vô cùng,
mà lại cũ kỹ
mục nát như vậy,
là nơi thuộc về
một đại trưởng giả.

(56) Ông mới đi ra
chưa được bao lâu,
sau đó ngôi nhà
bỗng nhiên dậy lửa,
bốn phiá cùng lúc
lửa ngọn bùng lên.

(57) Đòn nóc, rường nhà,
đòn tay, trụ cột,
tách nổ vang động
gãy ngã sa rớt,
cả tường với vách
đổ nhào xuống hết.
Những loại quỷ quái
hét lên kêu gào.

(58) Những thứ chim dữ
loại như cắt, thứu,
những thứ quỷ dữ
loại như Bàn trà,
kinh hãi bàng hoàng
không tự thoát được.
Thú dữ trùng độc
chui núp hang lỗ.

(59) Quỷ Tỳ xá xà
cũng kẹt trong đó,
vì mỏng phước đức
nên bị lửa cháy
chúng càng tàn bạo
sát hại lẫn nhau,
giành nhau ăn thịt
uống máu lẫn nhau.

(60) Loại như dã can
đã chết trước cả,
những thứ dữ lớn
giành nhau ăn nuốt,
những gì còn lại
thì bị đốt cháy,
khói hôi ngùn ngụt
phủ nghẹt bốn mặt.

(61) Rít với du diên,
các loại rắn độc,
bị lửa nung đốt
giành tuôn khỏi huyệt,
thì quỷ Bàn trà
bắt lấy mà ăn.
Còn các quỷ đói
lửa cháy trên đầu,
đói khát nóng rát
kinh hoàng sảng chạy.

(62) Ngôi nhà đang bị
ở trong tình trạng
cực kỳ khủng khiếp,
độc hại, hỏa hoạn,
lắm nạn như vậy,
thì lúc bấy giờ
vị đại trưởng giả
đứng ở ngoài cửa.

(63) Ông nghe người nói
rằng các con ông
vì ham vui chơi
đã vào nhà ấy,
nhỏ dại ngu ngơ
chỉ biết đùa giỡn.

(64) Ông nghe biết thế
trong lòng kinh sợ,
cấp tốc vào lại
trong ngôi nhà lửa,
tìm cách cứu con
cho khỏi chết cháy.

(65) Ông nói cho chúng
biết mọi tai họa:
quỷ dữ, trùng độc,
cùng với lửa lớn,
khổ nạn như vậy
nối nhau không ngừng.

(66) Rắn độc, hổ mang,
cùng với rắn phúc,
lại còn những quỷ
Dạ xoa, Bàn trà,
dã can, chồn cáo,
và các loài chó,
chim cắt, chim thứu,
cú mèo, chim kiêu,
những thứ cùng loại
với giống sâu chiếu,
tất cả đều đang
đói khát nóng rát,
khiến chúng thành ra
cùng cực đáng sợ.

(67) Ngôi nhà dẫy đầy
tai họa như vậy,
huống chi còn bị
lửa dữ đang đốt.

(68) Các con ngu ngơ
dẫu nghe cha nói,
vẫn cứ say sưa
chơi giỡn không ngừng.

(69) Trưởng giả lúc ấy
nghĩ như thế này:
Các con như vậy
làm ta càng lo.
Ngôi nhà bây giờ
có gì vui đâu,
vậy mà các con
vẫn mê chơi giỡn,
không chịu nghe lời
của ta nói cho,
và chúng sắp sửa
bị lửa đốt cháy.

(70) Ông liền nghĩ ngay
một chước phương tiện.

(71) Ông bảo: Các con,
cha có đủ thứ
đồ chơi quý báu,
là những cỗ xe
vừa đẹp vừa tốt
trang trí vàng ngọc:
xe dê, xe hươu
xe bò to lớn.

(72) Những cỗ xe ấy
hiện ở ngoài cửa.
Tất cả các con
hãy chạy ra gấp!
Cha vì các con
mà đã làm ra
những cỗ xe ấy.
Tùy ý các con
ưa thích thứ nào
ra lấy mà chơi.

(73) Các con nghe nói
những xe như vậy,
tức thì đua nhau
chạy mau mà ra,
đến nơi đất trống
hết mọi khổ nạn.

(74) Trưởng giả thấy con
thoát khỏi nhà lửa
đến chỗ ngã tư,
thì ông ngồi trên
chỗ ngồi sư tử,
mà tự mừng rằng
bây giờ lòng ta
đã vui thích rồi!

(75) Những đứa con này
sinh dưỡng rất khó,
nhỏ dại ngu ngơ
mà vào nhà hiểm,
nơi đầy thú vật
quỷ quái đáng sợ.

(76) Lửa lớn ngọn dữ
bốn phía bùng lên,
mà các con ta
vẫn ham chơi giỡn.
Nay đã cứu được
cho chúng thoát nạn,
nên trong giờ này
lòng ta vui thỏa.

(77) Các con biết cha
đã ngồi yên rồi,
cùng nhau bước đến
mà thưa với cha,
xin cho chúng con
ba thứ xe quý.

(78) Như cha đã hứa
các con thoát ra
thì cho ba xe
tùy theo ý muốn,
nay đã đến lúc,
xin cha cấp cho.

(79) Trưởng giả giàu lớn
kho tàng quá nhiều
bạc, vàng, lưu ly,
xa cừ, mã não…

(80) Ông đem của ấy
làm những xe lớn,
trang trí huy hoàng:
lan can bao quanh,
chuông treo bốn phía,
dây vàng đan nhau,
mạng lưới kết ngọc
trương phủ trên xe.

(81) Những dải hoa đẹp
kết hoa vàng thật,
chỗ nào cũng được
treo mắc rủ xuống.
Đủ thứ lụa là
đầy các màu sắc,
trang trí xen vào
khắp cả quanh xe.

(82) Lụa dày bông tơ
đem ra làm nệm.
Và vải bạch điệp
loại thượng hảo hạng,
giá đáng cả ngàn
cả ức tiền bạc,
tươi trắng sạch sẽ,
đem phủ lên trên.

(83) Những con bò trắng
mập mạnh nhiều sức
thân hình lớn đẹp,
kéo những xe ấy.
Cỗ xe còn có
nhiều người thị tùng
để lo công việc
phục dịch hộ vệ.

(84) Trưởng giả đem những
cỗ xe báu ấy
đồng đều mà cấp
cho các con ông.
Bấy giờ con ông
vui mừng rộn rã,
ngồi xe báu này
dạo cả bốn phương,
vui chơi thích thú
tự tại vô ngại.

(85) Này Xá Lợi Phất,
Như Lai cũng vậy:
là bậc cực tôn
trong các bậc thánh,
là từ bi phụ
của cả thế gian.
Hết thảy chúng sinh
toàn con Như Lai,
đắm sâu thú vui
thế giới ba cõi
mà không hề có
tâm thức sáng suốt.

(86) Ba cõi không yên
in như nhà lửa,
khổ não tràn đầy
thật đáng khiếp sợ:
Sinh già bịnh chết
cùng với lo buồn,
những ngọn lửa ấy
thường xuyên bùng lên.

(87) Như Lai đã rời
nhà lửa ba cõi,
vắng bặt ở yên
rừng thanh nội tĩnh.
Nhưng ba cõi này
toàn thuộc Như Lai,
chúng sinh trong đó
con Như Lai cả.

(88) Ba cõi như vậy
tai họa quá nhiều,
và chỉ Như Lai
mới cứu giúp được.
Nhưng dẫu Như Lai
nói cho đủ hết,
mà chúng sinh ấy
vẫn không tin nhận.
Như vậy là vì
chúng sinh tham trước
sâu nặng quá lắm
vào những dục lạc.

(89) Do đó Như Lai
phải dùng phương tiện:
thuyết cho chúng sinh
cả ba cỗ xe,
chỉ cho chúng sinh
biết khổ ba cõi,
và dạy cho họ
phương cách thoát ra.

(90) Các loại chúng sinh
con của Như Lai
có người đạt được
tuệ tâm quyết định,
đủ ba minh trí
với sáu thần thông;
có người đạt đến
tuệ giác Duyên giác;
có người thành bậc
Bồ tát bất thoái.

(91) Này Xá Lợi Phất,
Như Lai đưa ra
ví dụ như vầy
là để nói cho
tất cả các người
về cỗ xe Phật.
Các người tin nhận
lời Như Lai nói,
thì ai cũng sẽ
được thành Phật đà.

(92) Cỗ xe Phật ấy
đẹp sạch bậc nhất,
cả thế gian này
không gì hơn nữa.
Xe ấy Như Lai
đẹp dạ chấp thuận,
hết thảy chúng sinh
đều nên hiến cúng
ca tụng tán dương
một lòng kính lạy.

(93) Xe ấy đủ hết
vô số ức ngàn
các đại năng lực
các sự giải thoát
các thiền các định
cùng với tuệ giác,
bao phẩm chất khác
của chư Phật đà.

(94-95) Được xe như vậy
chúng sinh các con
suốt cả ngày đêm,
suốt hết cho đến
vô số thời kỳ,
thường được dạo chơi;
cùng chư Bồ tát
và chư Thanh văn
ngồi trên cỗ xe
quý báu như vậy
mà đi thẳng đến
nơi Bồ đề tràng.

(96) Vì lý do ấy,
tìm kỹ mười phương
không thấy còn có
cỗ xe nào khác,
trừ ra Như Lai
phương tiện thiết lập.

(97) Này Xá Lợi Phất,
tất cả các người
toàn con Như Lai,
Như Lai là cha.
Đã lắm thời kỳ
các người bị đốt
vì bao đau khổ,
Như Lai giải cứu
làm cho các người
thoát ra ba cõi.

(98) Như Lai trước đây
dầu nói các người
đã được Niết bàn,
nhưng mà thật ra
chỉ hết sống chết
chưa thật Niết bàn.
Cho nên mọi việc
ngày nay phải làm
là chỉ hướng vào
tuệ giác Phật đà.

(99) Vị Bồ tát nào
trong đại hội này
cũng có khả năng
chuyên chú lắng nghe
về pháp thật ấy
của Như Lai dạy,
rằng dẫu Như Lai
áp dụng phương tiện,
nhưng người được dạy
toàn là Bồ tát.

(100) Những ai trí nhỏ
đắm sâu ái dục,
Như Lai vì họ
nói chân lý khổ;
họ mừng vì được
sự chưa từng có,
khi họ biết rõ
khổ ấy thật khổ,
không thể làm cho
khác đi vui lên.

(101) Nếu có người nào
không biết nhân khổ,
vướng sâu nhân ấy
tạm thoát không nổi,
Như Lai vì họ
phương tiện giải thích,
cho họ tỉnh ngộ
ý thức trọn vẹn
nguyên nhân đau khổ
gốc ở ái dục.

(102) Ái dục diệt trừ,
không còn chỗ dựa
thì khổ tận diệt,
như vậy gọi là
chân lý diệt khổ.
Vì chân lý ấy
mà tu chân lý
về đường diệt khổ,
thoát khổ ràng buộc
là được giải thoát.

(103) Nhưng được giải thoát
đối với cái gì?
Thì chỉ là vì
thoát ly hư ảo
mà được gọi là
giải thoát mà thôi,
kỳ thật chưa được
giải thoát hoàn toàn.

(104) Như Lai nói rằng
những người như vậy
chưa thật Niết bàn,
vì những người ấy
thoát mà chưa được
tuệ giác vô thượng.
Ý của Như Lai
là như thế đó:
Không muốn đưa đến
Niết bàn như vậy.
Như Lai là vua
của tất cả pháp,
tự tại tuyên bố
đối với mọi sự;
và muốn đem lại
yên vui hoàn toàn
cho bao chúng sinh,
cho nên Như Lai
đã xuất hiện ra
trong thế gian này.

(105) Này Xá Lợi Phất,
ấn tín về pháp
của Như Lai đây,
Như Lai vì muốn
ích lợi cho đời
nên công bố ra.
Chư vị cần phải
truyền bá khắp nơi,
mặc dầu đến đâu
chư vị cũng vẫn
không được tuyên truyền
một cách bừa bãi.

(106) Ai nghe pháp này
tùy hỷ, kính nhận,
thì biết người ấy
là bậc bất thoái.

(107) Nếu ai tin được
pháp của Pháp Hoa,
thì biết người ấy
từng gặp chư Phật
trong thì quá khứ,
cung kính phụng sự
và cũng từng nghe
về pháp như vầy.

(108) Những ai tin nổi
về pháp như vầy
do tôn giả nói,
thì những người ấy
thấy được Như Lai
thấy được tôn giả
thấy tỷ kheo Tăng
và Bồ tát chúng.

(109) Bản kinh Pháp Hoa
như thế này đây
là nói cho người
trí tuệ sâu xa,
còn người biết cạn
mà nghe kinh này
thì tất bối rối
không thể lý giải.
Trí lực các vị
Thanh văn Duyên giác
mà còn bất cập
đối với kinh này.

(110) Ngay như tôn giả
đối với kinh này
còn nhờ đức tin
mới bước vào được,
huống chư Thanh văn
khác ngoài tôn giả.
Chư Thanh văn ấy
vì tin vào lời
của Như Lai nói
mà theo kinh này,
không phải trí họ
có thể tự theo.

(111) Nên Xá Lợi Phất,
đối với những kẻ
kiêu căng biếng nhác
chấp trước bản ngã
thì đừng nói cho
về bản kinh này.
Những kẻ phàm phu
trí thức nông nổi,
dính cứng vào trong
năm thứ dục lạc,
dẫu nghe kinh này
cũng không hiểu được,
thì cũng đừng nói
cho họ kinh này.

(112) Những ai phỉ báng
không tin kinh này,
làm cho tuyệt mất
giống Phật trong đời,
những ai nhăn mặt
hoài nghi kinh này,
thì bao tội báo
của những kẻ ấy,
tôn giả hãy nghe
Như Lai nói đến.

(113) Như Lai tồn tại
hay nhập diệt rồi,
những ai phỉ báng
kinh Pháp Hoa này,
nghe thấy có người
đọc tụng sao chép
kính giữ Pháp Hoa
mà khinh và ghét
mà lòng oán hận,
thì tội báo họ
tôn giả hãy nghe
Như Lai nói đến.

(114) Những người như vậy
sau khi chết rồi
sa vào Vô gián
trọn một thời kỳ.
Sau thời kỳ ấy
lại sa tiếp tục,
triển chuyển cho đến
vô số thời kỳ.

(115) Ra khỏi địa ngục
thì làm súc sinh:
làm chó, dã can,
mình mẩy ốm gầy
đen đủi ghẻ lác
ai cũng hành hạ.

(116) Và vì mọi người
ai cũng gớm ghiếc,
nên thường đói khát
xương thịt khô khan.

(117) Sống với khốn khổ
chết vì ngói đá:
làm mất giống Phật
nên chịu tội ấy.

(118) Nếu làm lạc đà
hoặc làm giống lừa,
thì thường chở nặng
lại bị đánh đập,
chỉ nghĩ cỏ nước
không biết gì hơn:
phỉ báng kinh này
nên bị tội ấy.

(119) Nếu làm dã can
lẩn vào làng xóm,
mình mẩy ghẻ lác
lại mất một mắt,
bị những trẻ con
đánh đập quăng ném,
chịu đủ đau đớn
có khi đến chết.

(120-121) Chết các thân trên
thì làm mãn xà,
mình lớn mà dài
năm trăm do tuần,
điếc, chậm, không chân,
uốn bò bằng bụng,
bị những sâu kiến
xúm lại rỉa ăn,
khốn khổ ngày đêm
không khi nào ngừng:
phỉ báng kinh này
nên bị tội ấy.

(122) Hết làm súc sinh
nếu may làm người
thì các giác quan
u mê đần độn,
thân lùn tướng xấu
tay cong chân quẹo
mắt đui tai điếc
mình cong lưng gù.

(123) Nói ra điều gì
người cũng không tin;
hơi miệng hôi thối
quỷ quái phụ nhập.

(124) Bần cùng, hèn hạ,
bị người sai khiến;
bịnh tật gầy ốm,
không nơi nương tựa.

(125) Làm thân với người
người không đếm xỉa.
Biết được điều gì
cũng liền quên mất.

(126) Nếu học làm thuốc
trị bịnh đúng phép,
mà người thêm bịnh
có khi đến chết.
Nếu mình bị bịnh
không ai cứu chữa,
tuy dùng thuốc hay
bịnh càng thêm dữ.

(127) Người khác phản loạn,
cướp giật trộm cắp,
những tội như vậy
mình bị họa lây.

(128) Tội nhân như vậy
trong thì gian dài
không thấy được Phật –
vua của thánh triết
tuyên thuyết chánh pháp
giáo hóa cho người.

(129) Tội nhân như vậy
thường sinh những chỗ
đủ thứ tai nạn,
điên cuồng điếc lác
tâm trí thác loạn,
trong thì gian dài
không hề nghe được
chánh pháp Như Lai.

(130) Hằng sa thời kỳ,
sinh ra là đã
điếc lác câm ngọng
giác quan không đủ.

(131) Họ ở địa ngục
như dạo vườn hoa,
ở chỗ dữ khác
như ở nhà mình,
lạc đà và lừa
và heo với chó
những loài như vậy
là chỗ họ sinh:
phỉ báng kinh này
nên bị tội ấy.

(132) Nếu được làm người
thì tự trang sức
bằng điếc với mù
bằng câm với ngọng
bằng nghèo với hèn
bằng bao suy biến.

(133) Lại tự trang phục
bằng các thứ bịnh
đại loại như là
thủng nước, khô nóng,
lở lói, phong hủi,
và ung thư da.
Thân họ thường xuyên
là chỗ hôi thối,
tập hợp biết bao
những thứ dơ bẩn.

(134) Nắm cứng bản ngã
bồi thêm sân hận,
dục tình hừng hực
chẳng kể cầm thú:
phỉ báng kinh này
bị tội như vậy.

(135) Này Xá Lợi Phất,
tội báo những kẻ
phỉ báng không tin
kinh Pháp Hoa này,
nói hết thời kỳ
cũng không hết được.

(136) Như Lai vì vậy
cố răn chư vị
đừng nói Pháp Hoa
cho kẻ vô trí.

(137) Những ai có được
các căn lanh lợi,
trí tuệ thông minh
nghe nhiều nhớ mạnh,
quyết tâm cầu được
tuệ giác Phật đà,
những người như vậy
mới được nói cho

(138) Nếu ai từng gặp
ức ngàn đức Phật,
trồng các gốc lành,
tâm nguyện sâu vững,
những người như vậy
mới được nói cho.

(139) Nếu ai tinh tiến
thường làm từ tâm,
không tiếc thân mạng,
mới được nói cho.

(140) Ai biết kính nhau
không có ẩn ý,
xa kẻ phàm phu
riêng ở núi chằm,
những người như vậy
mới được nói cho.

(141) Này Xá Lợi Phất,
nếu thấy có ai
biết tránh bạn xấu
biết thân bạn đạo,
những người như vậy
mới được nói cho.

(142) Nếu thấy con Phật
giữ giới trong sạch
như ngọc trong suốt,
cầu kinh Đại thừa,
những người như vậy
mới được nói cho.

(143) Ai không giận dữ,
ngay thẳng, ôn hòa,
thương xót tất cả,
trọng kính chư Phật,
những người như vậy
mới được nói cho.

(144) Nếu có con Phật
ở giữa công chúng
đem tâm trong sáng
dùng những yếu tố,
ví dụ, lời chữ,
thuyết pháp thông suốt,
những người như vậy
mới được nói cho.

(145) Nếu có tỷ kheo
vì được toàn giác,
cầu pháp bốn phương
chắp tay kính nhận;

(146) chỉ thích kính nhận
kinh điển Đại thừa,
chứ không tiếp nhận
kinh điển nào khác
dầu chỉ một bài
chỉnh cú mà thôi,
những người như vậy
mới được nói cho. 

(147) Như người thiết tha
tìm cầu cho được
xá lợi của Phật,
những người tìm cầu
Pháp Hoa cũng vậy,
được rồi kính nhận;

(148) người ấy không cầu
kinh sách nào khác,
càng không nghĩ đến
sách vở ngoại đạo,
những người như vậy
mới được nói cho.

(149) Này Xá Lợi Phất,
Như Lai nói đến
sắc thái những người
cầu tuệ giác Phật,
nói hết thời kỳ
cũng không hết được.
Và những người ấy
mới tin hiểu được;
chư vị nên nói
cho họ được nghe
về kinh Đại thừa
Diệu Pháp Liên Hoa.

 

Phẩm 4: Tin hiểu

Lúc ấy Tu Bồ Đề, vị tôn giả lấy tuệ giác làm sinh mạng, cùng các tôn giả Ca Chiên Diên, Đại Ca Diếp và Mục Kiền Liên, từ nơi đức Thế Tôn nghe được điều chưa từng có, là nghe đức Thế Tôn trao cho tôn giả Xá Lợi Phất lời ghi thành tựu tuệ giác vô thượng, thì thấy thật là hiếm có, nên hoan hỷ, phấn chấn, tức thì từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa pháp y, trần vai phải, đầu gối bên phải quỳ xuống chấm đất, chuyên nhất tâm trí mà chắp tay chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, rồi cúi mình, cung kính thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, chúng con ở vào địa vị đứng đầu chư Tăng, tuổi cũng già cả, ai cũng tự cho đã được Niết bàn, không kham làm gì được nữa, không thể bước tới mà cầu tuệ giác vô thượng. Trước đây, mỗi khi đức Thế Tôn thuyết pháp lâu, thì chúng con lúc ấy cũng ngồi tại chỗ nghe pháp, nhưng cơ thể mệt mỏi, chỉ nghĩ nhớ về không, không sắc tướng và không ưa thích. Còn đối với pháp Bồ tát, như thần thông du hóa mà làm sạch thế giới làm nên chúng sinh, thì chúng con không có ý gì thích thú. Như vậy là vì đức Thế Tôn đã làm cho chúng con thoát ba cõi, chứng Niết bàn, thêm nữa tuổi chúng con đã già cả, nên đối với tuệ giác vô thượng mà đức Thế Tôn dạy cho Bồ tát, chúng con không có một ý niệm ham thích. Ngày nay, đối trước đức Thế Tôn, chúng con được nghe ngài trao cho Thanh văn lời ghi thành tựu tuệ giác vô thượng thì lòng quá hoan hỷ, được sự chưa từng có. Chúng con không ngờ ngày nay bỗng nhiên nghe được điều hiếm có ấy. Chúng con tự mừng một cách sâu xa vì được ích lợi vĩ đại, vô số ngọc báu chúng con không cầu mà tự được cả.

Bạch đức Thế Tôn, bây giờ chúng con thích thú mà trình bày một sự ví dụ để thưa rõ ý nghĩa như vậy. Ví như có người tuổi đã nhỏ dại mà lại bỏ cha trốn đến xứ khác, ở lâu mười năm, hai mươi năm, cho đến năm mươi năm. Khi tuổi lớn rồi, lại thêm nghèo khốn, người ấy bôn ba khắp nơi để kiếm cơm áo, lần hồi đến nhằm đô thành cha ở. Còn người cha thì từ trước đến giờ tìm con mà không được, nên dừng lại mà ở tại đô thành ấy. Ông rất giàu có. Tài sản và bảo vật, đại loại như bạc vàng, lưu ly, san hô, hổ phách, pha lê và chân châu thì vô số. Mọi kho tàng đều tràn đầy. Có lắm phụ tá, môn lại và tôi tớ. Voi ngựa, xe cộ và bò dê thì vô số kể. Lợi tức thu chi khắp cả các nước. Thương khách rất đông đảo.

Người con nghèo khốn đi qua các vùng dân cư, hết xứ lớn đến xứ nhỏ, và rồi đến nhằm đô thành cha ở. Người cha vẫn thường nhớ con. Xa con hơn năm mươi năm mà ông chưa bao giờ nói việc ấy với ai, chỉ nghĩ riêng mà buồn tiếc. Ông lo già cả, nhiều của, vàng bạc kho tàng tràn đầy mà không có con cháu, một mai chết đi thì của ấy tiêu tan vì không có người để giao phó. Lo nghĩ như vậy nên ông thường tha thiết nhớ con. Ông nghĩ nếu gặp con để giao của thì hết lo hết nghĩ, vui thích biết mấy.

Bạch đức Thế Tôn, người con nghèo khốn làm thuê làm mướn, lần hồi đến nhằm lâu đài người cha, đứng lại bên cửa, xa thấy người cha ngồi trên ngai sư tử mà ghế đẩu nâng chân cũng trang hoàng vàng ngọc. Bà la môn, sát lợi và cư sĩ thì kính cẩn bao quanh. Thân ông trang sức bằng chuỗi ngọc chân châu giá trị ngàn vạn tiền vàng. Môn lại và tôi tớ thì cầm quạt lông trắng đứng hầu hai bên. Trên đầu thì che trướng đính ngọc và treo rủ xuống là những dải phan kết hoa. Dưới đất thì được rưới nước thơm và rải những thứ hoa danh tiếng. Bảo vật thì la liệt và đang được thu chi. Đủ thứ hoa mỹ và đặc biệt tôn nghiêm như vậy. Người con nghèo khốn thấy người cha tư thế lớn lao đến thế thì sợ hãi, hối tiếc đến nhằm chỗ này. Nghĩ thầm đây là vua hoặc ngang với vua, không phải chỗ mình làm mướn kiếm ăn. Chẳng bằng đi đến xóm nghèo, có chỗ bán sức, cơm áo dễ kiếm hơn. Ta đứng mãi ở đây thì có thể bị cưỡng bách làm việc. Nghĩ vậy nên bỏ chạy thật mau. Người cha, vị trưởng giả giàu có ấy, ngồi trên ngai sư tử nhưng thấy con thì nhận biết được liền, lòng rất vui mừng, nghĩ rằng bảo vật kho tàng của ta nay đã có người để giao phó rồi. Ta nhớ mãi đứa con này, không làm sao gặp được mà nay nó bỗng nhiên tự đến, rất hợp nguyện ước của ta. Ta già rồi mà vẫn ham con tiếc của! Tức thì sai phái viên cấp tốc chạy theo dẫn về. Phái viên chạy mau đến bắt. Người con nghèo khốn kinh hãi, lớn tiếng kêu oan, tôi đâu có xúc phạm gì đến các người, tại sao các người bắt tôi? Phái viên bắt càng gấp, kéo bừa dẫn về. Người con nghèo khốn tự nghĩ vô tội mà bị bắt như bắt tù thì chắc phải chết. Càng nghĩ càng sợ nên ngất đi mà ngã xuống đất. Người cha từ xa thấy vậy thì bảo phái viên, ta không cần người này nữa; đừng dẫn người này về theo cách cưỡng bách như thế. Hãy lấy nước lạnh rưới mặt cho người này tỉnh lại, nhưng đừng nói gì với người này nữa. Người cha bảo như vậy vì biết con mình ý chí thấp hèn. Ông tự biết chính sự cao sang của mình làm cho con mình khiếp sợ. Biết đích là con trai của mình, nhưng người cha áp dụng phương tiện, không nói với ai rằng người này là con tôi. Ông bảo phái viên nói với con mình, rằng ta thả anh, anh đi đâu tùy ý. Người con nghèo khốn mừng như được sự chưa từng có, từ đất đứng dậy, đi đến xóm nghèo để kiếm cơm áo.

Trưởng giả muốn dẫn dụ con mình nên lập chước phương tiện. Ông kín đáo sai hai phái viên hình sắc tiều tụy, không oai phong gì, dặn rằng các người đi tìm người nghèo khốn vừa rồi, từ từ nói rằng ở đây ta có việc thuê làm, trả giá gấp đôi. Người ấy chịu thì các người dẫn về cho làm. Người ấy có hỏi muốn thuê làm gì, thì các ngươi bảo thuê quét dọn dơ bẩn, và chúng tôi cùng làm với anh. Hai phái viên tức khắc đi tìm người con nghèo khốn. Tìm được nói rõ mọi việc. Người con nghèo khốn hỏi biết giá thuê, rồi đi liền đến lâu đài người cha mà quét dọn dơ bẩn với hai người kia.

Người cha thấy con như vậy thì vừa thương xót vừa quái lạ. Ngày khác, từ trong cửa sổ, ông xa thấy thân con gầy ốm tiều tụy, phân đất bụi bặm làm bẩn cả người. Tức khắc ông cởi chuỗi ngọc, cởi áo mềm mịn thượng hạng và bao nhiêu đồ trang sức khác, thay vào, ông mặc chiếc áo thô rách cáu bẩn, lại làm cho bụi đất lấm lem cả người, rồi tay phải cầm dụng cụ quét dọn dơ bẩn, bộ dáng có vẻ ghê sợ đồ dơ, đến bảo những người làm thuê: Các người hãy làm cho siêng, đừng nhác đừng nghỉ. Với cách phương tiện ấy ông mới gần được con ông. Sau đó lại bảo: Chàng trai này, hãy làm luôn ở đây, đừng đi đâu nữa. Ta sẽ trả thêm tiền thuê cho anh. Cần gì về thau chậu, gạo bún, muối giấm, thì đừng có e ngại. Có người sai vặt vừa già vừa xấu kia, cần thì ta cấp cho. Anh hãy yên tâm. Ta như cha anh, anh đừng lo nghĩ gì cả. Ta đối xử như vậy là vì ta già cả mà anh trai trẻ, vời lại anh làm việc thường không dối không nhác, không tức giận không oán than. Ta không thấy anh có những tính xấu ấy như các người làm thuê khác. Từ nay về sau anh như con trai của ta sinh ra. Trưởng giả tức thì đặt cho cái tên gọi là con. Người con nghèo khốn, dẫu mừng vì sự đãi ngộ ấy, vẫn tự xưng như cũ, rằng mình là người ngoài, người làm thuê hèn hạ. Do vậy mà trong hai mươi năm trời, vẫn chỉ được bảo quét dọn dơ bẩn. Qua thì gian này rồi lòng mới tin nhau, và người con nghèo khốn ra vào trong lâu đài một cách không e ngại gì nữa. Nhưng chỗ ở thì vẫn thích ở chỗ cũ.

Bạch đức Thế Tôn, bấy giờ trưởng giả bị bịnh, tự biết gần mất, mới bảo người con nghèo khốn, ta có lắm vàng ngọc, kho tàng tràn đầy. Trong đó ø nhiều ít và đáng thu đáng chi thế nào, con phải biết cho rõ. Ý cha như vậy, con phải thể theo. Nay thì cha với con không khác gì cả. Con phải chú ý, đừng để thất thoát. Người con nghèo khốn, khi ấy, tức thì vâng lời, lãnh nhận và biết rõ mọi thứ, từ vàng ngọc cho đến kho tàng. Nhưng không có ý gì mong lấy cho đủ một bữa ăn, và chỗ ở vẫn ở chỗ cũ, tâm lý thấp kém vẫn chưa bỏ được. Phải qua ít lâu nữa, cha biết con tâm trí đã thênh thang, chí lớn đã thành đạt, đã biết tự khinh bỉ tâm lý ngày trước của mình, nên lúc sắp chết, ông gọi con và triệu tập họ hàng, quốc vương, đại thần, sát lợi, cư sĩ. Mọi người tập họp cả rồi, ông tự tuyên bố, rằng xin các vị biết cho, người này là con trai của tôi, do tôi sinh ra. Trước đây, tại đô thành cũ, con tôi đã bỏ tôi mà trốn chạy, lưu lạc khổ sở hơn năm mươi năm. Con tôi vốn tên như vậy, tôi tên như vậy. Ngày xưa, tại đô thành ấy tôi lo lắng tìm kiếm mà không được, ngày nay, tại đô thành này bỗng nhiên tôi gặp được con tôi. Nó thật con tôi, tôi thật cha nó. Ngày nay, hết thảy tài sản bảo vật của tôi đều là của con tôi, và trước đây thu chi thế nào, con tôi đã biết rõ cả. Bạch đức Thế Tôn, khi người con nghèo khốn nghe lời ấy của người cha trưởng giả thì cùng cực vui mừng, được sự chưa từng có, nghĩ rằng mình vốn không có lòng nào mong cầu, vậy mà ngày nay kho báu tự đến.

Bạch đức Thế Tôn, người cha, vị trưởng giả giàu có ấy là đức Thế Tôn. Chúng con chỉ như chư Phật, nhưng đức Thế Tôn vẫn thường gọi chúng con là con Phật. Bạch đức Thế Tôn, chúng con vì ba sự đau khổ mà chịu bao nhiêu nóng rát phiền bực trong chốn sống chết, đời này vẫn ngu và lầm, không biết nhận thức gì hết nên ưa thích giáo pháp thấp nhỏ. Đức Thế Tôn phải bảo chúng con vận dụng tư duy tu mà quét dọn cho sạch hý luận dơ bẩn đối với các pháp. Trong huấn dụ ấy, chúng con nổ lực tinh tiến, đạt được Niết bàn như cái giá một ngày làm thuê. Đạt được như vậy mà lòng chúng con rất mừng, tự cho đầy đủ, và tự bảo, ở trong giáo pháp của đức Thế Tôn, chúng con nhờ nổ lực tinh tiến mà đã nhận được rất nhiều. Nhưng đức Thế Tôn biết tâm lý chúng con vốn đắm say dục lạc thô tệ, bị khổ vì thế mà thành ra ưa thích giáo pháp thấp nhỏ, nên tạm thời buông thả, bỏ đó mà chưa phán bảo rằng các người cũng có phần nhận được kho tàng tuệ giác của Như Lai, măëc dầu đức Thế Tôn đã khéo léo nói cho chúng con biết về kho tàng tuệ giác ấy. Chúng con, từ đức Thế Tôn, nhận được Niết bàn chỉ như cái giá làm thuê một ngày mà lại cho là đã được lớn lao, còn đối với cỗ xe vĩ đại thì chúng con không có chí nguyện gì mong cầu. Chúng con cũng dựa vào tuệ giác của đức Thế Tôn mà diễn giảng tuệ giác ấy cho chư vị Bồ tát, nhưng tự mình thì không có chí mong ước. Như vậy là vì đức Thế Tôn biết tâm lý chúng con ưa thích giáo pháp thấp nhỏ nên áp dụng phương tiện mà thuyết pháp theo tâm lý chúng con, và chúng con không hề biết mình là thật con Phật. Ngày nay chúng con mới biết đức Thế Tôn không tiếc lẩn gì về tuệ giác của ngài; chỉ vì chúng con tuy xưa nay vẫn là thật con Phật mà lại ưa thích thấp nhỏ, nếu biết ưa thích vĩ đại thì ngài đã dạy cho giáo pháp vĩ đại. Ngày nay, qua kinh Pháp Hoa này, đức Thế Tôn tuyên bố chỉ có cỗ xe Phật đà duy nhất, như vậy ngày trước, trước mặt chư vị Bồ tát, ngài chê Thanh văn chúng con ưa thích giáo pháp thấp nhỏ là, sự thật, ngài chỉ muốn đem giáo pháp vĩ đại mà giáo hóa chúng con. Do vậy nên chúng con nói chúng con vốn không có tâm nguyện gì mong cầu mà ngày nay kho báu vĩ đại của đấng Pháp vương tự đến với chúng con: con Phật đáng nhận được gì thì chúng con đã nhận được cả.

Lúc ấy tôn giả Đại Ca Diếp muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Nay chúng con nghe
tiếng nói Thế Tôn,
lòng mừng rộn rã
được chưa từng có.

(2) Đức Thế Tôn nói
chư vị Thanh văn
sẽ được làm Phật
như vậy có nghĩa
đống ngọc tối thượng
của đức Thế Tôn,
chúng con không cầu
mà tự nhận được.

(3) Như đứa bé trai
nhỏ dại ngu ngơ,
bỏ cha trốn đi
đến xứ xa lạ.

(4) Lang thang các xứ
hơn năm mươi năm.
Người cha lo nhớ
tìm kiếm khắp nơi.

(5) Tìm kiếm quá mệt
dừng một đô thành,
tạo lập lâu đài
vui với ngũ dục.

(6- Ông rất giàu sang
8) có lắm bạc vàng
xa cừ mã não
chân châu lưu ly,
voi ngựa dê bò,
xe liễn xe dư
và xe thuyền khác;
có lắm ruộng đất
lắm người phục dịch
và nhiều môn lại.
Lợi tức thu chi
khắp cả các nước,
thương khách buôn bán
ở đâu cũng có.
Có vạn ức người
kính trọng hướng về.
Thường được vua chúa
quí mến quan tâm,
quan quyền thân hào
ai cũng tôn trọng.
Vì nhiều duyên cớ
đông người qua lại.

(9- Giàu sang đến thế
10) thế lực lại lớn,
nhưng mà tuổi già
nên càng nhớ con,
ngày đêm lo nghĩ.
Rằng chết sắp đến,
con dại bỏ ta
hơn năm mươi năm,
kho tàng bảo vật
rồi làm sao đây.

(11) Người con nghèo khốn
vì kiếm cơm áo
từ xứ nhỏ này
đến xứ nhỏ khác,
từ xứ lớn khác
đến xứ lớn này.

(12) Chỗ thì cũng có,
chỗ không có gì,
đói khát gầy ốm
mình sinh ghẻ chốc.

(13) Lần hồi đi đến
nhằm ngay đô thành
của người cha ở,
làm thuê làm mướn
và rồi đến nhằm
lâu đài người cha.

(14) Trưởng giả lúc ấy
ngồi ở trong cửa,
chăng trướng báu lớn
ngồi ngai sư tử.
Tùy thuộc bao quanh
lắm kẻ phục dịch.

(15) Lại có những người
kế toán vàng ngọc,
thu chi tiền của,
ghi chép giấy tờ.

(16) Người nghèo thấy cha
sang cả tôn nghiêm
thì cho là vua
hoặc ngang với vua,
sợ và tự quái
đến chi chốn này!

(17) Lại nghĩ nếu ta
đứng mãi ở đây,
có thể bị ép
bắt buộc làm việc.
Nghĩ suy như thế
người nghèo bỏ chạy
để hỏi xóm nghèo
mà đến làm thuê.

(18) Trưởng giả lúc ấy
ngồi ngai sư tử,
xa thấy con mình
biết mà không nói,
sai ngay phái viên
đuổi bắt đem về.

(19) Người nghèo kêu hoảng
ngất xỉu xuống đất,
vì nghĩ người này
bắt mình chắc giết.
Vị gì cơm áo
đến nhằm chỗ này!

(20) Trưởng giả biết con
u mê hèn kém,
chắc chắn không tin
ta nói là cha.

(21) Ông liền phương tiện
đổi sai vài người
chột mắt, lùn xấu,
không chút oai phong,
rằng hãy tìm bảo
muốn thuê mướn nó,

(22) quét dọn dơ bẩn
trả giá gấp đôi.

(23) Người nghèo nghe nói
vui vẻ đi theo
đến dọn dơ bẩn
làm sạch phòng nhà.

(24) Nhìn qua cửa sổ
trưởng giả thường xuyên
quan sát con mình,
nghĩ rằng con mình
ngu muội thấp kém
thích làm việc hèn.

(25) Do đó trưởng giả
đổi mặc áo dơ
cầm đồ dọn bẩn
đi đến chỗ con,
phương tiện gần gũi
bảo hãy siêng làm.

(26) Ta thêm tiền công
cho dầu xoa chân
ăn uống đầy đủ
đệm chiếu dày ấm.

(27) Trưởng giả la mắng
anh làm cho siêng,
lại dịu dàng bảo
anh như con ta.

(28) Trưởng giả khéo léo,
lần hồi sai bảo
ra vào lâu đài.
Sau hai mươi năm,
bảo nắm mọi việc
trong lâu đài ấy.

(29) Ông chỉ cho biết
tất cả vàng ngọc,
tài sản thu chi
cũng cho biết cả.

(30) Được đãi như vậy
nhưng người nghèo khốn
vẫn ở ngoài cửa
nương náu chòi tranh,
tự nghĩ mình nghèo
đâu có của đó.

(31- Thêm ít lâu nữa
33) trưởng giả biết con
tâm chí dần dần
đã lớn rộng ra.
Muốn giao tài sản,
ông họp họ hàng
quốc vương đại thần
sát lợi cư sĩ.
Trước những người ấy
ông nói người này
là con trai tôi,
bỏ tôi mà trốn
đi đến xứ khác
đến năm mươi năm.
Từ khi gặp lại
cho đến ngày nay
cũng đã trải qua
hai mươi năm nữa.
Xưa nơi thành ấy
mất người con này,
tôi tìm khắp nơi
mới đến ở đây.

(34) Ngày nay tất cả
tài sản tôi có,
kể cả lâu đài
và bao gia nhân
đều giao con tôi
mặc ý sử dụng.

(35) Người nghèo khi ấy
tự nghĩ xưa kia
mình quá nghèo khốn
tâm chí thấp hèn,
nay từ nơi cha
cả được vàng ngọc
được luôn lâu đài
được hết tài sản,
nên rất vui mừng
như chưa từng có.
*

(36) Thế Tôn cũng vậy.
Biết rõ chúng con
chí thích thấp nhỏ,
nên ngài chưa hề
tuyên bố chúng con
cũng được làm Phật,
chỉ nói chúng con
đạt được một ít
thành quả thuần khiết
và thành những vị
đệ tử Thanh văn
trong cỗ xe nhỏ.

(37) Thế Tôn sắc bảo
chúng con giảng nói
đường lối tối thượng,
đường lối mà ai
tu tập trọn vẹn
đều sẽ thành Phật.

(38) Vâng lời Thế Tôn
chúng con cũng đã
vận dụng những thứ
yếu tố ví dụ
cùng bao lời chữ
mà giảng nói về
đường lối tối thượng
cho đại bồ tát.

(39) Những con Phật ấy
từ nơi chúng con
nghe đường lối này,
ngày đêm tư duy
nỗ lực tu tập,
bấy giờ Thế Tôn
cùng với chư Phật
liền thọ ký cho,
rằng trong vị lai
sẽ được làm Phật.

(40) Do vậy chúng con
từng nghĩ lầm rằng
kho tàng bí yếu
của Phật Thế Tôn
chỉ có bồ tát
mới được nói cho,
chúng con không được
nói cho pháp ấy.
Ngày nay chúng con
tự biết in như
kẻ nghèo khốn kia
dầu được gần cha
và biết bảo vật
mà không mong lấy;

(41) chúng con giảng nói
kho báu chánh pháp
của Phật Thế Tôn,
mà tự chúng con
không chí muốn có
thì cũng như vậy.

(42) Chúng con mới được
niết bàn nội tại
mà lại tự cho
đã là đầy đủ,
chỉ biết sự ấy
không biết gì hơn.
Chúng con nếu được
nghe nói những việc
làm sạch thế giới
làm nên chúng sinh
thì không cảm thấy
thích thú chút nào.

(43) Tại sao như vậy,
bởi vì toàn thể
các pháp đều không:
không sinh không diệt
không lớn không nhỏ
đã không phiền não
cũng không khử trừ,
tư duy như vậy
cho nên chúng con
không còn thích gì.

(44) Với tuệ giác Phật
chúng con trường kỳ
không ham không mê
không chí ưa thích,
trong khi đối với
niết bàn của mình
thì lại tự cho
đã là cứu cánh.

(45) Chúng con trường kỳ
tu tập về Không,
thoát được cái họa
khổ não ba cõi,
làm cho thân này
thành thân cuối cùng,
và thực hiện được
niết bàn chưa toàn;
thế là đối với
giáo huấn Thế Tôn
chúng con tự cho
đã thực hiện được
một cách chắc chắn,
và cho thế là
đã báo đáp được
hồng ân Thế Tôn.

(46) Cho dẫu chúng con
nói pháp bồ tát
cho các con Phật
để họ cầu được
tuệ giác Phật đà,
nhưng chính chúng con
đối với pháp ấy
không thích bao giờ.

(47) Đức Đại đạo sư
bỏ qua chúng con
chính vì xét thấy
tâm lý như vậy.
Và chưa bao giờ
ngài khuyên chúng con
tinh tiến bước tới
bằng cách nói rõ
bước tới thì có
ích lợi chân thật.

(48) Như trưởng giả giàu
biết con chí kém
nên dùng phương tiện
khắc phục lòng con,
rồi sau mới giao
tất cả tài sản.

(49) Thế Tôn cũng vậy,
làm việc hiếm có:
biết rằng chúng con
chí thích thấp nhỏ
nên đức Thế Tôn
dùng phương tiện lực
trước hết thuần hóa
tâm trí chúng con,
sau đó mới dạy
tuệ giác vĩ đại.
*

(50) Ngày nay chúng con
được chưa từng được,
vốn không hy vọng
nay tự được cả,
như người nghèo khốn
được bao của báu.

(51) Bạch đức Thế Tôn,
ngày nay chúng con
mới được tuệ giác
và được thành quả:
được mắt trong suốt
thấy pháp thuần khiết.
Chúng con trường kỳ
nghiêm trì tịnh giới,
ngày nay bắt đầu
nhận được thành quả.

(52) Ở trong giáo pháp
của đức Pháp vương,
chúng con lâu ngày
thực hành phạn hạnh,
ngày nay nhận được
thành quả vĩ đại
đã rất thuần khiết
lại không gì hơn.

(53) Chúng con ngày nay
mới thật Thanh văn:
đem cái tiếng nói
của tuệ giác Phật
mà phát lộ ra
cho mọi người nghe.

(54) Chúng con ngày nay
cũng thật La hán:
khắp trong thế gian
bao gồm tất cả
chư thiên nhân loại
ma vương phạn thiên,
chúng con ứng thọ
cho họ hiến cúng.

*

(55) Hồng ân Thế Tôn
thật là cao cả:
ngài đã vận dụng
mọi cách hiếm có
thương xót giáo hóa
ích lợi chúng con.
Nên dẫu trải qua
vô số thời kỳ,
ai mà trả được
hồng ân như vậy.

(56) Tay chân phục dịch
đầu đỉnh lễ kính,
cúng hiến tất cả
cũng không trả được.
Đội bằng đỉnh đầu
vác với hai vai,
hằng sa thời kỳ
tôn kính hết lòng;

(57-lại hiến cỗ bàn
58) cực kỳ mỹ vị,
hay dâng vải quí
nhiều đến vô lượng,
đồ nằm thuốc thang
cúng hiến đủ cả;
đem gỗ đàn hương
và những vàng ngọc
mà dựng bảo tháp
và cất tự viện,
rồi dùng vải quí
mà trải mặt đất;
với những cách ấy
hiến cúng Thế Tôn
hằng sa thời kỳ
cũng không trả được.

(59) Thế Tôn là bậc
cực kỳ hiếm có,
lại có đủ cả
vô lượng vô biên
đại thần thông lực
ngoài tầm nghĩ bàn;
ngài không sai sót
lại không xao động,
làm một vị vua
thống lãnh các pháp,
vậy mà có thể
vì kẻ thấp kém,
ngài nhẫn chịu được
mọi sự thấp kém.

(60) Đối với bao kẻ
phàm phu cố chấp,
ngài vẫn tùy nghi
mà thuyết pháp cho,
bởi vì đối với
tất cả các pháp
Thế Tôn đã được
sự rất tự tại.

(61) Thế Tôn biết hết
thị hiếu, sở thích,
chí hướng, năng lực
của các chúng sinh,
tùy sức của họ
kham nhiệm được gì
thì dùng vô lượng
những sự ví dụ
mà thuyết cho họ
giáo pháp phong phú.

(62) Lại tùy căn lành
mà chúng sinh có
từ các đời trước,
và biết rất rõ
ai đã thuần hóa
ai chưa thuần hóa;
xét đủ mọi mặt
biết rành tất cả,
rồi chính ở nơi
cỗ xe duy nhất,
Thế Tôn tuỳ nghi
nói ba cỗ xe.
_________
Kết thúc tụng kinh Pháp Hoa, chúng con xin hồi hướng:

Vạn ức thời kỳ
không thể nói được
mới được có lúc
Phật nói Pháp Hoa.
Vạn ức thời kỳ
không thể nói được
mới được có lúc
nghe nói Pháp Hoa.
Chúng con nương nhờ
Phật Pháp Tăng lực
mới được trì tụng
Diệu Pháp Liên Hoa.
Chúng con nguyện đem
công đức như vầy
hiến khắp tất cả
các loaị chúng sinh,
cầu cho chúng con
cùng với chúng sinh
đều được thành tựu
tuệ giác chư Phật.

Kính lạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Kính lạy tất cả Pháp bảo trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni, đức Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp Hoa. Kính lạy đức Đa Bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp Hoa toàn là chân thật. Kính lạy đức Di Lạc, đức Phật đương lai, đã phát khởi kinh Pháp Hoa và tiếp dẫn những người hành trì Pháp Hoa vãõng sinh Đâu suất tịnh độ. Kính lạy tất cả Phật bảo trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy bồ tát Văn Thù, vị pháp sư Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Phổ Hiền, vị khuyến phát Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Quan Âm, vị đại sĩ toàn diện. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Lược Dẫn & Cuốn 1 | Cuốn 2 | Cuốn 3 | Cuốn 4 | Cuốn 5 | Cuốn 6 | Cuốn 7 | Phẩm Phổ Hiền | Kinh Pháp Hoa Toát Yếu |



Lược Dẫn & Cuốn 1 | Cuốn 2 | Cuốn 3 | Cuốn 4 | Cuốn 5 | Cuốn 6 | Cốn 7 | Phẩm Phổ Hiền | Kinh Pháp Hoa Toát Yếu |

[3]

KINH PHÁP HOA
(Hoa Sen Của Chánh Pháp) 
Phần CHÍNH VĂN
Tỷ kheo Thích Trí Quang dịch

CUỐN 3

CUỐN  3
Phẩm 5: Cây Cỏ
Phẩm 6: Thọ ký
Phẩm 7: Tương Quan Xa Xưa

Ngưỡng bạch Phật, Pháp, Tăng vô tận Tam Bảo từ bi chứng minh. Đệ tử chúng con nguyện vì bản thân, vì cha mẹ bà con, vì người thân kẻ thù, vì mọi người và vì chúng sinh, trì tụng kinh Đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa.

Mở đầu tụng kinh Pháp Hoa, chúng con xin kính lạy:

Kính lạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho Bồ tát và được Phật giữ gìn. Kính lạy Pháp bảo trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni, đức Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp Hoa. Kính lạy đức Đa Bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp Hoa toàn là chân thật. Kính lạy đức Di Lạc, đức Phật đương lai, đã phát khởi kinh Pháp Hoa và tiếp dẫn những người hành trì Pháp Hoa vãng sinh Đâu Suất tịnh độ. Kính lạy tất cả Phật bảo trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy Bồ tát Văn Thù, vị pháp sư Pháp Hoa. Kính lạy Bồ tát Phổ Hiền, vị khuyến phát Pháp Hoa. Kính lạy Bồ tát Quan Âm, vị đại sĩ toàn diện. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

__________________

Phẩm 5: Cây Cỏ

Khi ấy đức Thế Tôn bảo tôn giả Đại Ca Diếp, và các vị đại đệ tử của ngài, rằng tốt lắm Đại Ca Diếp, tôn giả đã nói rất khéo về công đức thật của Như Lai. Thật đúng như lời tôn giả đã nói. Đại Ca Diếp, Như Lai còn có vô biên công đức mà các vị nói đến vạn ức thời kỳ cũng không thể hết được.

Đại Ca Diếp, tôn giả nên biết, Như Lai là vua của các pháp, nói ra điều nào cũng không trống rỗng. Đối với các pháp, Như Lai đem phương tiện của tuệ giác Như Lai mà tuyên thuyết, và pháp được tuyên thuyết toàn là để đạt đến địa vị tuệ giác hoàn toàn. Như Lai xét biết ý nghĩa của các pháp, biết đạo hạnh của chúng sinh, biết một cách thông suốt, vô ngại, và bằng sự xét biết tường tận như vậy mà Như Lai khai thị cho chúng sinh về tuệ giác hoàn toàn.

Đại Ca Diếp, ví như toàn cõi đại thiên thế giới, núi đồi hang rãnh và ruộng đất mọc lên cây cối và cỏ thuốc, với bao nhiêu là chủng loại mà tên gọi và màu sắc không giống với nhau. Nhưng mây dày nổi lên và dăng bủa khắp cả đại thiên thế giới ấy, mưa xuống một cách đồng thời và đồng đều, thì nước mưa thấm khắp tất cả. Tất cả cây cối và cỏ thuốc, rễ nhỏ thân nhỏ nhánh nhỏ lá nhỏ, rễ vừa thân vừa nhánh vừa lá vừa, rễ lớn thân lớn nhánh lớn lá lớn, cây cối thì tùy chủng loại lớn nhỏ và cỏ thuốc thì tùy tính chất tốt vừa kém mà hấp thụ đủ cả. Một loại mây đổ mưa xuống, xứng hết với các mầm, nên thứ nào cũng được sinh ra, lớn lên, trổ hoa, ra trái và kết hạt. Cùng một đất mọc lên, một mưa thấm xuống, nhưng các cây cối và cỏ thuốc vẫn có khác nhau.

Đại Ca Diếp, Như Lai cũng vậy. Như Lai xuất hiện thế gian in như mây lớn nổi lên. Rồi in như mây bủa khắp đại thiên thế giới, Như Lai xuất ra âm thanh rất lớn, vang khắp thế giới chúng sinh, trong đó có chư thiên, nhân loại và tu la, phổ cáo tất cả các chúng, rằng Như Lai là bậc đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua Niết bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giác hoàn toàn: bậc Tôn cao nhất đời. Ai chưa vượt đến bờ bến Như Lai làm cho vượt đến, ai chưa cởi mở ràng buộc Như Lai làm cho cởi mở, ai chưa yên ổn Như Lai làm cho yên ổn, ai chưa Niết bàn Như Lai làm cho Niết bàn. Đời này đời sau, Như Lai biết đúng như sự thật. Như Lai là người biết tất cả, người thấy tất cả, người biết đường, người mở đường, người chỉ đường. Tất cả các chúng hãy nên đến Như Lai, đến để nghe pháp. Bấy giờ vô số vạn ức chủng loại chúng sinh đều đến chỗ Như Lai mà nghe pháp. Như Lai lúc ấy xét chúng sinh này các căn lanh chậm thế nào, siêng nhác ra sao, rồi tùy năng lực của họ mà thuyết pháp đủ cách, làm cho ai cũng hoan hỷ, thích thú vì được lợi lành. Họ nghe pháp rồi thì đời này yên vui, đời sau sinh chỗ hiền lành, đem đạo lý mà hưởng thụ hạnh phúc, và được nghe pháp thêm nữa. Nghe rồi thoát được mọi sự trở ngại, đối với pháp được nghe thì năng lực làm được, nên dần dần vào được tuệ giác Như Lai. Sự thể ví như mây lớn đổ mưa xuống tất cả cây cối và cỏ thuốc, xứng các mầm nên thứ nào cũng thấm nhuần mà sinh trưởng được cả. Như Lai thuyết pháp cũng vậy. Pháp ấy chỉ có màu sắc và mùi vị đồng nhất, là màu sắc mùi vị giải thoát, tách rời và hủy diệt dục vọng, cứu cánh đạt đến tuệ giác Biết tất cả. Lại nữa, sự thể cũng như cây cối và cỏ thuốc không thứ nào tự biết chủng loại lớn nhỏ và tính chất tốt vừa kém, chúng sinh nào nghe pháp của Như Lai mà ghi nhớ, đọc tụng và thực hành như lời được nghe, thì thành quả họ đạt được họ không thể tự biết. Chỉ có Như Lai thấy biết chủng loại và tính chất của những chúng sinh ấy nhớ việc gì nghĩ việc gì tu việc gì, nhớ thế nào nghĩ thế nào tu thế nào, đem pháp gì mà nhớ đem pháp gì mà nghĩ đem pháp gì mà tu, bằng pháp nào thì được pháp nào và ở vị trí nào, chỉ có Như Lai thấy biết đúng như sự thật, thấy biết thấu suốt, vô ngại.

Như Lai biết về pháp có màu sắc mùi vị đồng nhất là màu sắc mùi vị giải thoát, tách rời và hủy diệt dục vọng, cứu cánh Niết bàn theo như bản thể thường tự vắng lặng, kết cục quy về nơi Không. Biết về pháp ấy rồi, Như Lai quán sát tâm tính và thị hiếu của chúng sinh mà tế nhị nâng đỡ cho họ, nên không đột ngột nói ngay cho họ về tuệ giác Biết tất cả. Đại Ca Diếp, chư vị thật hiếm có, biết được Như Lai tùy nghi thuyết pháp, tin được nhận được. Như Lai tán dương như vậy, vì sự tùy nghi thuyết pháp của chư Phật Như Lai thì khó hiểu khó biết.

Khi ấy đức Thế Tôn muốn lăëp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Là vị Pháp vương
phá hủy ba cõi,
Như Lai xuất hiện
trong thế gian này,
tùy theo thị hiếu
của các chúng sinh
mà thuyết pháp cho
bằng đủ mọi cách.

(2) Như Lai cao trọng,
tuệ giác sâu xa,
từ lâu yên lặng
không ham vội vã
nói về cái pháp
bí yếu như vầy.

(3) Vì người có trí
nghe thì tin hiểu,
không trí đột nhiên
nghe thì ngờ vực,
và như thế thì
lầm lạc lâu dài.

(4) Vì vậy Ca Diếp,
Như Lai tùy theo
năng lực chúng sinh
mới nói cho họ,
bằng cách vận dụng
mọi thứ yếu tố,
làm họ đạt được
thấy biết của Phật.
*

(5) Ca Diếp nên biết
ví như mây lớn
nổi trong không gian,
bủa khắp tất cả.

(6) Mây tuệ giác ấy
chứa nước thấm mát,
điện chớp sáng lóa
sấm nổ vang xa,
làm cho vạn vật
thức tỉnh vui đẹp.

(7) Mặt trời bị khuất
mặt đất mát mẻ,
mây bủa thấp xuống
như với nắm được,
và mưa đồng đều
khắp nơi cùng đổ.

(8- Trút nước vô số
11) mặt đất thấm cả.
Núi đồi hang rãnh
sâu mấy mà có
cây cối, cỏ thuốc,
các cây lớn nhỏ,
các giống lúa má,
và mía với nho,
trận mưa thấm cho
đầy đủ hết thảy.
Đất khô thấm đều,
thuốc, cây cùng tốt.

(12) Mây lớn đổ xuống
nước mưa một vị,
các loại cỏ cây
tùy phần thấm nhuần.

(13) Tất cả cỏ cây
tốt vừa kém gì
cũng xứng lớn nhỏ
mà được sinh trưởng.

(14) Rễ thân nhánh lá
hoa trái màu sắc,
một mưa khắp hết
nên tươi tốt cả.

(15) Đúng như tính chất
tốt vừa và kém,
xứng với chủng loại
lớn cũng như nhỏ,
thấm nhuần là một
cùng tốt tươi riêng.

*

(16) Như Lai cũng vậy,
xuất hiện thế gian
là như mây lớn
bủa khắp hết thảy.
Sau khi xuất hiện,
Như Lai tuyên thuyết
chân lý các pháp
cho bao chúng sinh.

(17) Như Lai đại giác
tuyên cáo các chúng
chư thiên nhân loại
mà nói như vầy:
Ta là Như Lai
phước tuệ cao cả,
xuất hiện thế gian
in như mây lớn.

(18) Ta mưa thấm hết
chúng sinh khô cằn,
làm cho hết khổ
được vui yên ổn
là vui thế gian
và vui niết bàn.

(19) Chư thiên, nhân loại,
hãy nghe Như Lai!
hãy nên đến đây
ngắm đức Vô thượng!
Như Lai là đấng
tôn cao nhất đời,
tất cả thế gian
không ai sánh bằng,
muốn làm chúng sinh
được yên vui cả
cho nên xuất hiện
trong thế giới này.

(20) Chính vì vô số
các loại chúng sinh,
Như Lai tuyên thuyết
về pháp cam lộ
tinh khiết trong suốt,
chỉ một mùi vị
ấy là mùi vị
giải thoát niết bàn.

(21) Chỉ dùng âm thanh
nhiệm mầu duy nhất,
Như Lai diễn đạt
về pháp như vậy,
thường tạo yếu tố
bước tới đại thừa.
Nhìn khắp chúng sinh
coi rất bình đẳng,
cho nên Như Lai
không có tâm lý
phân chia riêng rẽ
người này kẻ kia,
kẻ đáng thương mến
người nên ghét bỏ.

(22) Như Lai cũng không
có ý tham lam
hay hạn chế gì,
chỉ thường thuyết pháp
cho các chúng sinh
một cách bình đẳng,
như vì một người
thuyết pháp thế nào
thì vì nhiều người
thuyết pháp cũng vậy.

(23) Cho nên Như Lai
thường xuyên thuyết pháp,
bận rộn độc nhất
với sự vụ ấy.
Dầu khi đi lại
hay lúc đứng ngồi,
Như Lai thuyết pháp
không hề chán mệt.

(24) Tựa như nước mưa
thấm nhuần khắp cả,
Như Lai sung mãn
niềm vui cho đời,
bất kể sang hèn,
cao thượng thấp kém,
giữ hay không giữ
giới luật trong suốt.

(25-Uy nghi hoàn hảo
26) hay không hoàn hảo,
kiến thức chính xác
hay là sai lầm,
các căn lanh lợi
hay là chậm chạp,
đối với tất cả
những người như vậy,
Như Lai đồng đều
mưa xuống mưa pháp
mà không bao giờ
biếng nhác mỏi mệt.
*

(27-Hết thảy chúng sinh
28) nghe pháp Như Lai
đều theo sức mình
mà tiếp nhận được,
và được ở vào
những vị trí này:
Ở trong trời người
được ngôi Luân vương,
Phạn vương, Đế thích,
là cỏ thuốc kém.

(29-Thấu pháp thuần khiết
30) được sự niết bàn,
được sáu thần thông
và ba minh trí,
nghĩa là những vị
được tuệ Thanh văn;
riêng ở núi rừng
thường hành thiền định
được tuệ Duyên giác,
là cỏ thuốc vừa.

(31) Cầu chỗ Như Lai,
biết sẽ làm Phật,
tinh tiến kiên định,
là cỏ thuốc tốt.

(32) Những người con Phật
chuyên tâm hạnh Phật,
thường hành từ bi
tự biết làm Phật,
quyết định, không nghi,
đó là cây nhỏ.

(33) Vận dụng năng lực
thần thông quảng đại,
chuyển đẩy bánh xe
không còn thoái chuyển,
cứu độ vô số
ức ngàn chúng sinh,
Bồ tát như vậy
gọi là cây lớn.

(34) Như Lai thuyết pháp
một cách bình đẳng
y như nước mưa
chỉ một mùi vị,
chúng sinh tùy tính
tiếp nhận không đồng
in như cây cỏ
hấp thụ khác cả.
*

(35) Như Lai giả thiết
ví dụ như vầy
là để phương tiện
khai thị cho biết:
bao nhiêu lời chữ
đều để tuyên thuyết
về pháp đồng nhất,
và với trí Phật
chỉ như giọt nước
xuất từ biển cả.

(36) Như Lai mưa xuống
nước mưa chánh pháp
tràn đầy cho cả
chúng sinh thế gian.
Đối với chánh pháp
một mùi vị ấy,
họ tùy sức họ
mà tu hành theo.

(37) Sự thể in như
các thứ cỏ thuốc
cùng các cây cối
tùy loại lớn nhỏ,
nhưng cùng thấm nhuần
nước mưa một vị
và cùng lớn dần
hoa quả tốt tươi.

(38) Chánh pháp Như Lai
thường đem một vị
làm cho chúng sinh
tiếp nhận đủ hết,
và tu tập dần
mà được đạo quả:

(39) Thanh văn, Duyên giác
ở chốn núi rừng
bằng thân cuối cùng
nghe pháp được đạo,
đó là cỏ thuốc
cùng được lớn lên.

(40) Còn chư Bồ tát
trí tuệ vững chắc,
thấu triệt ba cõi,
cầu xe tối thượng,
đó là cây nhỏ
cùng được lớn lên.

(41) Lại có Bồ tát
ở trong thiền định
được sức thần thông,
nghe đạo lý Không
của tất cả pháp
lòng rất hoan hỷ,
phóng ra vô số
ánh sáng mầu nhiệm,
hóa độ vô số
các loại chúng sinh,
đó là cây lớn
cùng được lớn lên.

(42) Như vậy Ca Diếp,
Như Lai thuyết pháp
in như mây lớn
đổ mưa một vị
thấm khắp hoa người
kết trái hạt cả.
*

(43) Ca Diếp nên biết,
đem các yếu tố
và mọi ví dụ
để mà chỉ dạy
tuệ giác Phật đà
cho cả chúng sinh,
đó là phương tiện
của Như Lai đây
và của tất cả
chư vị Phật đà.

(44) Như Lai nay nói
sự rất thật này:
chư vị Thanh văn
chưa thật niết bàn;
tất cả chư vị
toàn là đi theo
đường đi bồ tát,
cho nên chư vị
tu học dần dần
sẽ thành Phật đà.

Phẩm 6: Thọ ký

 Nói những lời chỉnh cú trên đây rồi, đức Thế Tôn tuyên cáo với toàn thể đại hội các chúng: Đại đệ tử của Như Lai là tôn giả Đại Ca Diếp đây, trong thì vị lai, sẽ được phụng sự ba trăm vạn ức chư Phật Như Lai, hiến cúng cung kính tôn trọng tán dương, tuyên thuyết rộng rãi vô số chánh pháp vĩ đại của các ngài, rồi thân cuối cùng thành đức Phật đà danh hiệu Quang Minh Như Lai, đủ mười đức hiệu. Quốc độ tên Quang Đức, thời kỳ tên Đại trang nghiêm. Quang Minh Như Lai sống lâu mười hai thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp nguyên chất tồn tại thế gian hai mươi thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp tương tự cũng tồn tại hai mươi thời kỳ bậc nhỏ. Quốc độ huy hoàng, không có những thứ dơ và xấu như ngói sỏi gai góc và đại tiểu tiện lợi. Quốc độ ấy lại bằng thẳng, không có cao thấp, hầm hố gò đống. Đất bằng lưu ly, cây ngọc thành hàng, dây hoàng kim phân chia lề đường. Rải các hoa quí, đâu cũng sạch sẽ. Trong quốc độ ấy chúng bồ tát vô số ngàn ức, chúng thanh văn cũng vô lượng như vậy. Không có việc ma; vua ma và dân ma tuy có, nhưng toàn là những kẻ hộ trì Phật pháp. Đức Thế Tôn lặp lại ý nghĩa đã nói bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Này chư tỷ kheo,
Như Lai sử dụng
con mắt Phật đà
nhìn thấy tôn giả
Đại Ca Diếp đây
trong thì vị lai
vô số thời kỳ
sẽ thành Phật đà.

(2) Vị lai tôn giả
phụng sự hiến cúng
ba trăm vạn ức
chư Phật Như Lai,
vì tuệ giác Phật
mà tu phạn hạnh.

(3) Sau khi phụng sự
chư Phật Như Lai
phước tuệ tối thượng
biết khắp tất cả,
thì thân cuối cùng
được thành đức Phật.

(4- Quốc độ sạch sẽ,
6) lưu ly làm đất.
Có lắm cây ngọc
hàng lối bên đường.
Dây vàng chia đường
ai thấy cũng thích.
Cây phát hương thơm,
rải xuống hoa quí
đủ loại đẹp lạ,
sử dụng trang hoàng.
Đất ấy bằng thẳng,
không có hố đồi.

(7) Chúng chư bồ tát
thì hết tính toán,
tâm trí thuần hóa
được đại thần lực,
kính giữ kinh pháp
đại thừa của Phật.

(8) Chúng chư thanh văn
toàn thân cuối cùng,
không còn phiền não,
làm con Pháp vương,
số lượng các ngài
cũng khó tính toán,
dùng mắt chư thiên
đếm cũng không nổi.

(9) Quang Minh Như Lai
sống lâu mười hai
thời kỳ bậc nhỏ,
giáo pháp nguyên chất
tồn tại hai mươi
thời kỳ bậc nhỏ,
giáo pháp tương tự
tồn tại cũng vậy.
Quang Minh Như Lai
việc ngài như thế.

Bấy giờ tôn giả Mục kiền Liên, tôn giả Tu bồ Đề và tôn giả Ca chiên Diên, đều chấn động cả người, chuyên chú mà chắp tay chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, mắt không rời ngài một thoáng, và đồng thanh thưa ngài bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(10) Bạch đức Thế Tôn
bậc đại hùng lực!
thưa đấng Pháp vương
dòng họ Thích Ca!
xin ngài thương xót
hết thảy chúng con,
ban cho chúng con
tiếng nói của Phật.

(11) Thế Tôn nếu biết
thâm tâm chúng con,
trao cho chúng con
lời ghi làm Phật,
thì như rưới nước
cam lộ mát ngọt
làm cho chúng con
hết nóng được mát.

(12) Y như những kẻ
đến từ nước đói,
bỗng gặp cỗ bàn
của đức vua lớn,
nhưng còn nghi sợ
chưa dám dùng liền,
nếu được vua bảo
mới dám ăn dùng.

(13) Chúng con cũng vậy,
thường nghĩ nhược điểm
của pháp thấp nhỏ,
không biết làm sao
sẽ được tuệ giác
vô thượng của Phật.

(14) Dẫu chúng con nghe
Thế Tôn đã nói
chúng con rồi ra
sẽ làm Phật cả,
nhưng còn lo sợ
chưa dám dùng ngay.

(15) Nếu được đội ơn
Thế Tôn thọ ký,
chúng con mới được
yên vui hoàn toàn.

(16) Bạch đức Thế Tôn,
đấng đại hùng lực
thường muốn yên vui
cho cả thế giới!
xin ngài ban cho
lời ghi làm Phật,
như kẻ đang đói
cần bảo dùng đi!

Đức Thế Tôn biết lòng mong ước của các vị đại đệ tử, nên bảo chư vị tỷ kheo, vị tôn giả Tu bồ Đề này trong thì vị lai, phụng sự nhiều lần trăm triệu chư Phật Như Lai, hiến cúng cung kính tôn trọng tán dương, thường tu phạn hạnh, đi trọn đường đi bồ tát, và thân cuối cùng được thành Phật đà, danh hiệu là Danh Tướng Như Lai, đủ mười đức hiệu. Thời kỳ của ngài tên là Hữu bảo, quốc độ của ngài tên là Bảo sinh. Quốc độ ấy bằng thẳng, đất là pha lê, cây ngọc tráng lệ, không có núi đồi, hầm hố, cát sỏi, gai góc, tiện lợi dơ bẩn. Hoa quí phủ đất, đâu cũng sạch sẽ. Người quốc độ ấy đều ở đài ngọc và lầu ngọc. Đệ tử của đức Danh Tướng Như Lai thuộc chúng thanh văn thì vô lượng vô biên, toán số ví dụ không thể xác định; thuộc chúng bồ tát thì nhiều lần trăm triệu. Danh Tướng Như Lai sống lâu mười hai thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp nguyên chất tồn tại thế gian hai mươi thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp tương tự cũng tồn tại hai mươi thời kỳ bậc nhỏ. Danh Tướng Như Lai thường đứng trong không gian mà thuyết pháp cho các chúng, hóa độ vô lượng bồ tát và thanh văn. Đức Thế Tôn lặp lại ý nghĩa đã nói bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(17) Này chư tỷ kheo,
nay bảo chư vị
hãy cùng nhất tâm
nghe Như Lai nói.
Vị đại đệ tử
Tu bồ Đề này
sẽ thành Phật đà
hiệu là Danh Tướng.

(18) Sau khi phụng sự
vô số chư Phật,
đi theo đường hướng
chư Phật đã đi,
dần dần hoàn chỉnh
tuệ giác vĩ đại;

(19) thì thân cuối cùng
đủ bâm hai tướng,
trang nghiêm tráng lệ
tựa như núi ngọc.

(20) Quốc độ của đức
Danh Tướng Như Lai
đẹp sạch bậc nhất
ai thấy cũng thích.
Ngài ở trong không
của quốc độ ấy
thuyết pháp hóa độ
vô lượng các chúng.

(21) Trong giáo pháp ngài
có nhiều bồ tát,
toàn là những bậc
các căn lanh lợi,
chuyển đẩy bánh xe
pháp không thoái chuyển.
Quốc độ của ngài
thường lấy các vị
bồ tát như vậy
làm sự trang hoàng.

(22) Chúng chư thanh văn
không thể tính toán,
được ba minh trí
và sáu thần thông,
đặt mình vững vàng
trong tám giải thoát,
vị nào cũng có
uy đức rất lớn.

(23) Danh Tướng Như Lai
thuyết pháp thì hiện
vô lượng thần biến
siêu việt nghĩ bàn,
chư thiên nhân loại
nhiều bằng hằng sa
đều chắp tay lại
nghe nhận lời ngài.

(24) Ngài sống mười hai
thời kỳ bậc nhỏ,
giáo pháp nguyên chất
tồn tại hai mươi
thời kỳ bậc nhỏ,
giáo pháp tương tự
cũng được tồn tại
với thì gian ấy.

Đức Thế Tôn lại bảo chư vị tỷ kheo, Như Lai bây giờ lại tuyên cáo với chư vị, vị tôn giả Ca chiên Diên này, trong thì vị lai, đem những cúng phẩm mà hiến cúng, phụng sự tám ngàn ức chư Phật Như Lai, cung kính, tôn trọng. Sau khi các ngài nhập diệt, đối với ngài nào tôn giả Ca chiên Diên cũng xây dựng bảo tháp cao một ngàn do tuần, và chu vi năm trăm do tuần, toàn đem bạc, vàng, lưu ly, xa cừ, mã não, chân châu và mai khôi, bảy chất liệu quí báu như vậy hợp lại tạo thành. Lại hiến cúng các bảo tháp ấy bằng các loại hoa, vòng hoa, các hương liệu, lọng dù và tràng phan. Sau đó tôn giả Ca chiên Diên còn phụng sự hai vạn ức chư Phật Như Lai nữa, cũng với sự hiến cúng như trên. Phụng sự chư Phật Như Lai, đi trọn đường đi bồ tát rồi, tôn giả Ca chiên Diên sẽ thành đức Phật đà với danh hiệu là Diêm Phù Na Đề Kim Quang Như Lai, đủ mười đức hiệu. Quốc độ của ngài bằng thẳng và đất là pha lê, cây ngọc tráng lệ, dây hoàng kim phân chia lề đường, hoa đẹp phủ đất, khắp nơi sạch sẽ, ai nhìn cũng thích. Không có bốn đường dữ là địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh và tu la, mà lại có nhiều chư thiên và nhân loại. Còn thanh văn chúng và bồ tát chúng thì vô số vạn ức, trang hoàng cho quốc độ ấy. Diêm Phù Na Đề Kim Quang Như Lai sống lâu mười hai thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp nguyên chất tồn tại thế gian hai mươi thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp tương tự cũng tồn tại hai mươi thời kỳ bậc nhỏ. Đức Thế Tôn lặp lại ý nghĩa đã nói bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(25) Chư vị tỷ kheo,
nhất tâm mà nghe!
Như Lai lại nói
lời không sai lầm.

(26) Đại Ca chiên Diên
sẽ đem bao nhiêu
cúng phẩm tốt đẹp
hiến cúng chư Phật.
Chư Phật nhập diệt,
dựng tháp bảy báu
và đem hoa hương
hiến cúng xá lợi.

(27-Nên thân cuối cùng
28) được tuệ giác Phật,
trở thành một đấng
Biết đúng và khắp,
với một quốc độ
cực kỳ sạch sẽ,
hóa độ vô số
vạn ức chúng sinh,
lại được mười phương
ai cũng hiến cúng.
Ánh sáng của ngài
không ai hơn được
nên được danh hiệu
Diêm Phù Kim Quang.

(29) Bồ tát thanh văn
đã cắt buộc ràng
vào cõi sống chết
thì nhiều vô số,
làm cho trang nghiêm
quốc độ của ngài.

Đức Thế Tôn lại bảo đại hội các chúng, bây giờ Như Lai lại tuyên cáo với chư vị, vị tôn giả Mục Kiền Liên này, trong thì vị lai, đem những cúng phẩm mà hiến cúng tám ngàn chư Phật Như Lai, cung kính, tôn trọng. Sau khi các ngài nhập diệt, đối với ngài nào tôn giả Mục Kiền Liên cũng xây dựng bảo tháp cao đến một ngàn do tuần và chu vi rộng đến năm trăm do tuần, toàn đem bảy chất liệu qúy báu hợp lại tạo thành. Lại đem các loại hoa, vòng hoa, các hương liệu, lọng dù và tràng phan mà hiến cúng bảo tháp ấy. Sau đó tôn giả phụng sự hai trăm vạn ức chư Phật Như Lai nữa, cũng với sự hiến cúng như trên, rồi thành đức Phật đà với danh hiệu Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Như Lai, đủ mười đức hiệu. Thời kỳ của ngài tên là Hỷ Mãn, quốc độ của ngài tên là Ý Lạc. Quốc độ ấy bằng thẳng và đất là pha lê, cây ngọc tráng lệ, rải hoa ngọc chân châu, đâu cũng sạch sẽ, ai thấy cũng thích. Rất nhiều chư thiên và nhân loại. Bồ tát và Thanh văn thì vô lượng vô số. Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Như Lai sống lâu hai mươi bốn thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp nguyên chất tồn tại thế gian bốn mươi thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp tương tự cũng tồn tại bốn mươi thời kỳ bậc nhỏ. Đức Thế tôn lập lại ý nghĩa đã nói bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(30) Đệ tử Như Lai
Đại Mục Kiền Liên
bỏ thân này rồi
được gặp tám ngàn
hai trăm vạn ức
chư Phật Như Lai.

(31) Để được thực hiện
tuệ giác Phật đà,
tôn giả tôn kính
phụng sự các ngài,
nơi chỗ các ngài
thường tu phạn hạnh.

(32-33) Vô lượng thời kỳ
tôn giả kính giữ
tất cả giáo pháp
của chư Phật ấy.
Và khi các ngài
nhập Niết bàn rồi
tôn giả xây dựng
những tháp bảy báu,
lại dựng trụ vàng
tiêu biểu lâu dài,
rồi đem hoa hương
và tấu nhạc khí
cung kính hiến cúng
những tháp Phật ấy.

(34) Dần dần hoàn bị
đường đi Bồ tát,
tại cõi Ý Lạc
thành Phật với hiệu
Đa Ma La Bạt
Đàn Hương Như Lai.

(35) Đức Như Lai ấy
sống lâu hăm bốn
thời kỳ bậc nhỏ,
thường xuyên tuyên thuyết
giáo pháp Phật đà
cho cả trời người.

(36) Đệ tử Thanh văn
vô số vô lượng
nhiều bằng hằng sa,
đủ ba minh trí
và sáu thần thông
uy đức rất lớn.

(37) Đệ tử Bồ tát
vô lượng vô biên,
trí nhớ cứng chắc
tinh tiến thường trực,
đối với trí Phật
không ai thoái chuyển.

(38) Phật nhập diệt rồi
giáo pháp nguyên chất
tồn tại bốn chục
thời kỳ bậc nhỏ,
giáo pháp tương tự
tồn tại cũng vậy.
Đệ tử Như Lai
uy đức toàn vẹn
số có năm trăm,
sẽ được thọ ký
trong thì vị lai
đều thành Phật đà.
Và sự tương quan
từ thời xa xưa,
liên hệ Như Lai
cùng với chư vị,
Như Lai sắp nói,
chư vị khéo nghe!

Phẩm 7: Tương Quan Xa Xưa

Đức Thế Tôn bảo chư vị Tỷ kheo, trong thì quá khứ, cách nay cực nhiều thời kỳ vô số, bấy giờ có đức Phật danh hiệu Đại Thông Trí Thắng, bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua niết bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giác hoàn toàn: bậc Tôn cao nhất đời. Quốc độ của ngài tên là Hảo thành, thời kỳ của ngài tên là Đại tướng. Chư vị tỷ kheo, ngài nhập diệt cách nay cực kỳ lâu xa. Ví như đất của cả đại thiên thế giới này, giả thiết có người mài ra làm mực, rồi đi qua hết một ngàn quốc độ ở về hướng đông mới chấm một chấm chỉ lớn bằng hạt bụi nhỏ, lại đi qua hết một ngàn quốc độ nữa mới chấm một chấm nữa. Triển chuyển như vậy, chấm hết số mực đã mài hết số đất của cả đại thiên thế giới, thì ý chư vị nghĩ thế nào, bao nhiêu quốc độ mà người ấy đi qua, giáo sư toán học hay học trò của họ có thể tìm thấy giới hạn để biết được số lượng hay không? Không, bạch đức Thế Tôn. Chư vị tỷ kheo, lại giả thiết rằng bao nhiêu quốc độ mà người ấy đi qua, chấm hay không chấm, đều đem nghiền ra làm bụi, mỗi hạt bụi giả thiết là một thời kỳ, thì đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà nhập diệt đến nay còn lâu hơn số ấy đến cực nhiều thời kỳ vô số. Vậy mà Như Lai đem sức mạnh sự thấy biết của Phật nhìn lại sự nhập diệt lâu xa ấy thì thấy như thể mới xảy ra ngày hôm nay. Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Như Lai nhớ lại
trong thì quá khứ
vô lượng vô biên
thời kỳ vô số,
có đức Phật đà
bậc đủ phước tuệ,
danh hiệu ngài là
Đại Thông Trí Thắng.

(2) Ví như có người
tận lực mài hết
đất cõi đại thiên
thành ra mực cả,
rồi đi qua hết
một ngàn quốc độ
mới chấm một chấm
lớn bằng hạt bụi.

(3-5) Chấm lần cho đến
hết sạch mực ấy.
Rồi bao quốc độ
người ấy đi qua
chấm hay không chấm
đều nghiền thành bụi,
mỗi một hạt bụi
là một thời kỳ.
Nhưng mà so sánh
với sốá bụi ấy,
số thời kỳ này
lại còn nhiều hơn.

(6-7) Trí Thắng Phật đà
nhập diệt đến nay
thời kỳ vô lượng
đến như thế ấy.
Vậy mà Như Lai
đem trí vô ngại
biết đức Phật ấy
trước khi thành đạo
đến lúc nhập diệt,
biết cả đệ tử
thanh văn bồ tát,
thấy ngài nhập diệt
rõ như sự ấy
mới xảy hôm nay.
Chư vị tỷ kheo,
nên biết tuệ giác
của Phật Như Lai
trong suốt, tinh túy,
không còn sai sót
không bị ngăn chặn,
thấu suốt thời kỳ
vô biên vô lượng.

Đức Thế Tôn lại bảo, chư vị tỷ kheo, đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà sống lâu cực nhiều trăm triệu thời kỳ. Khi ngài ngồi nơi bồ đề tràng, phá tan quân đội ma vương rồi, sắp được tuệ giác vô thượng của chư Phật, nhưng các pháp của tuệ giác chư Phật ấy vẫn chưa hiện ra như ở trước mắt. Như vậy hết một cho đến mười thời kỳ bậc nhỏ, ngài ngồi xếp bằng, thân thể và tâm trí đều không dao động, nhưng các pháp của tuệ giác chư Phật vẫn chưa hiện ra. Bấy giờ chư thiên Đao lợi sắp trước cho ngài, ở dưới cây bồ đề, một tòa sư tử cao đến một do tuần. Ngài sẽ thực hiện tuệ giác vô thượng của chư Phật ở trên tòa sư tử ấy. Khi ngài mới ngồi trên tòa sư tử thì Phạn vương rưới xuống hoa của chư thiên, khắp diện tích một trăm do tuần. Gió thơm thỉnh thoảng lướt đến thổi hoa héo đi, và Phạn vương rưới thay hoa mới. Liên tục như vậy, suốt mười thời kỳ bậc nhỏ, Phạn vương hiến cúng đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà, và từ đó cho đến lúc ngài nhập diệt, vẫn thường xuyên rưới hoa hiến cúng như thế. Còn bốn vị Thiên vương thì thường xuyên đánh trống chư thiên, và chư thiên khác thì tấu các nhạc khí khác của chư thiên, hiến cúng đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà trọn mười thời kỳ bậc nhỏ, và từ đó liên tục cho đến khi ngài nhập diệt, y như việc rưới hoa. Chư vị tỷ kheo, đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà qua mười thời kỳ bậc nhỏ rồi các pháp của tuệ giác chư Phật mới hiện ra như ở trước mắt, và ngài hoàn thành tuệ giác vô thượng ấy.

*

Đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà, khi chưa xuất gia, đã có mười sáu vương tử mà người đứng đầu tên là Trí Tích. Những vương tử này ai cũng có đủ thứ đồ thưởng ngoạn quí và lạ, nhưng nghe thân phụ hoàn thành tuệ giác vô thượng thì cùng bỏ hết những thứ mình quí, đi đến chỗ ngài. Các bà mẹ khóc, đi theo mà tiễn. Vị luân vương tổ phụ của họ thì có một trăm đại thần và trăm ngàn vạn ức dân chúng bao quanh, cũng theo mà đến bồ đề tràng. Ai cũng muốn đến gần đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà mà hiến cúng, cung kính, tôn trọng và tán dương. Khi đến, ai cũng đem đầu mặt lạy ngang chân ngài, đi vòng quanh ngài, rồi chuyên chú chắp tay mà chiêm ngưỡng, và nói những lời chỉnh cú sau đây mà ca tụng.

(8-9)  Thế Tôn uy đức
vô cùng cao cả,
vì muốn hóa độ
các loại chúng sinh,
nên ngài trải qua
vô số thời kỳ
mới được trở thành
một đức Phật đà,
bao nhiêu đại nguyện
đều trọn vẹn cả:
lành thay là đấng
Cát tường tối thượng!

(10) Thế Tôn là bậc
cực kỳ hiếm có,
một lần ngồi xuống
mà đã trải qua
hết cả mười lần
thời kỳ bậc nhỏ,
thân thể tay chân
lặng yên bất động,
tâm trí thanh tịnh
chưa từng xao lãng,
tuyệt đối vắng bặt
cực kỳ thuần khiết.

(11) Chúng con ngày nay
thấy đức Thế Tôn
yên ổn hoàn thành
tuệ giác chư Phật,
là chúng con được
lợi ích tốt lành,
cho nên khen mừng
lòng rất hoan hỷ.

(12) Các loại chúng sinh
thường xuyên khổ não,
quá ư mù mờ
không thầy dắt dẫn,
không hề biết được
con đường hết khổ,
cũng không tự biết
mong cầu giải thoát.

(13) Trong các loài dữ
thì tăng lên mãi
còn trên chư thiên
ngày càng giảm bớt,
từ chỗã tối tăm
vào chỗ tối tăm,
lâu xa mãi hoài
không nghe danh Phật.

(14) Ngày nay Thế Tôn
đạt được tuệ giác
tối thượng, yên ổn,
không còn sai sót,
chúng con cùng với
chư thiên nhân loại
vì được ích lợi
siêu việt lớn lao
cho nên cùng nhau
cúi đầu kính lạy,
tánh mạng quay về
nơi đấng Vô thượng.

Mười sáu vương tử lúc ấy nói những lời chỉnh cú ca tụng đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà rồi, khuyến thỉnh ngài chuyển đẩy bánh xe chánh pháp.

Ai cũng nói rằng đức Thế Tôn thuyết pháp thì đem lại rất nhiều yên ổn; xin ngài thương xót và ích lợi cho chư thiên, nhân loại. Các vương tử lại nói những lời chỉnh cú sau đây.

(15) Thưa đấng Thế hùng
đấng Không ai bằng,
tự trang hoàng mình
bằng trăm phước đức!
Ngài đã thực hiện
tuệ giác vô thượng,
xin nói cho đời
về tuệ giác ấy.

(16) Xin cứu chúng con
và bao chúng sinh!
Xin phô bày ra
tuệ giác của ngài,
làm cho chúng con
cùng thực hiện được.
Chúng con nếu được
trở thành Phật đà
thì các chúng sinh
cũng được như vậy.

(17) Thế Tôn biết rõ
tất cả quan niệm,
đường lối, trí tuệ,
thị hiếu, phước đức,
hành vi đời trước…
của bao chúng sinh.
Ngài đã thấy biết
tỏ rõ tất cả,
xin hãy chuyển đẩy
pháp luân tối thượng!

Khi ấy đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà yên lặng hứa nhận lời thỉnh cầu ấy.

Đức Thế Tôn lại bảo, chư vị tỷ kheo, khi đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà hoàn thành tuệ giác vô thựơng thì khắp mười khu vức, mỗi khu vức có năm trăm vạn ức cõi Phật đều chấn động đủ hết sáu cách. Những chỗ tối tăm giữa các cõi Phật ấy, ánh sáng sáng nhất của mặt trời mặt trăng không thể soi đến, khi ấy cũng rất sáng tỏ. Chúng sinh trong những chỗ ấy cùng được thấy nhau, và cùng thốt lên: sao lại có chúng sinh khác xuất hiện ở đây! Trong các cõi Phật nói trên, cung điện chư thiên, từ dưới lên đến Phạn thiên, cũng chấn động đủ cả sáu cách, và được chiếu soi bằng ánh sáng vĩ đại, sáng tỏa khắp cả và sáng hơn ánh sáng của chư thiên ấy. Bao nhiêu cung điện Phạn thiên khắp trong năm trăm vạn ức cõi Phật thuộc khu vức chính đông đều sáng lên rực rỡ, gấp đôi ngày thường. Các vị Phạn vương đều nghĩ rằng, cung điện chúng ta hôm nay sáng lên một cách trước đây chưa bao giờ có; vì lý do nào mà có cảnh tượng này? Các vị Phạn vương liền đến suy luận với nhau về sự thể ấy. Trong chúng Phạn vương này có Đại phạn vương tên là Cứu nhất Thế, nói với cả chúng lời chỉnh cú sau đây.

(18- 20) Cung điện chúng ta
sáng hơn trước đây;
vì lý do gì?
hãy cùng tìm hiểu:
một vị thiên nhân
phước lớn mới sinh?
hay một đức Phật
xuất hiện thế gian,
mà ánh sáng này
chiếu rực khắp cả?

Bấy giờ các vị Phạn vương của năm trăm vạn ức cõi Phật khu vức chính đông, với cung điện theo mình, với túi vải đựng đầy hoa chư thiên, cùng nhau đi về khu vức chính tây, lần theo ánh sáng mà tìm, thấy đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà ngồi trên tòa sư tử dưới cây bồ đề trong bồ đề tràng, có tám bộ và các chúng khác thuộc loài người và không phải loài người, tôn kính bao quanh. Lại thấy mười sáu vị vương tử đang thỉnh cầu ngài chuyển đẩy bánh xe chánh pháp. Các vị Phạn vương tức thì đem đầu mặt lạy ngang chân đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà, đi quanh ngài hàng trăm hàng ngàn vòng, rồi đem hoa chư thiên mà tung rải trên ngài. Hoa ấy như núi Tu di. Các vị Phạn vương cũng dùng hoa ấy mà hiến cúng cây bồ đề của ngài. Cây này cao đến mười do tuần. Hiến hoa rồi, các vị Phạn vương ai cũng đem cung điện của mình dâng lên đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà, thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, xin ngài thương xót mà ích lợi cho chúng con, bằng các rủ lòng chấp nhận và sử dụng cung điện chúng con hiến cúng. Đối trước ngài, các vị Phạn vương nhất tâm, đồng thanh, đem lời chỉnh cú sau đây mà ca tụng.

(21) Thế Tôn hiếm có
rất khó gặp được !
Ngài đủ vô lượng
phẩm chất siêu việt,
và có năng lực
cứu hộ tất cả.
Là thầy cao cả
của cả trời người,
ngài thường thương tưởng
toàn thể thế gian,
mười phương chúng sinh
đều nhờ ích lợi.

(22) Tất cả chúng con
đến đây từ những
quốc độ nhiều đến
năm trăm vạn ức,
và cùng rời bỏ
cái vui thiền định
để được đến đây
hiến cúng Thế Tôn.

(23) Nhờ phước chúng con
làm từ đời trước
nên được cung điện
tráng lệ như vầy,
hôm nay chúng con
tôn kính hiến lên,
xin đức Thế Tôn
từ bi nạp thọ.

Các vị Phạn vương đem lời chỉnh cú ca tụng đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà rồi, vị nào cũng thưa, bạch đức Thế Tôn, xin ngài chuyển đẩy bánh xe chánh pháp: xin ngài giải thoát chúng sinh, xin ngài mở đường niết bàn. Các vị lại nhất tâm đồng thanh mà nói lời chỉnh cú này.

(24-25) Bạch đức Thế hùng
 đủ cả phước tuệ!
xin ngài diễn giảng
chánh pháp tối thượng,
xin đem sức mạnh
của đại từ bi
cứu độ chúng sinh
đang bị khổ não.

Khi ấy đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà yên lặng hứa nhận lời thỉnh cầu ấy.

Chư vị tỷ kheo, các vị Phạn vương ở năm trăm vạn ức cõi Phật thuộc khu vức đông nam, ai cũng tự thấy cung điện của mình sáng rực lên một cách trước đây chưa bao giờ có, nên hoan hỷ, phấn chấn, thấy rất hy hữu, liền đến suy luận với nhau về sự thể ấy. Trong chúng Phạn vương này có vị Đại phạn vương tên là Đại Bi, nói vớùi cả chúng lời chỉnh cú sau đây.

(26) Vì lý do nào
mà có cảnh tượng
cung điện chúng ta
sáng hơn trước đây?

(27-28) Một vị thiên nhân
phước lớn mới sinh?
hay một đức Phật
xuất hiện thế gian?

(29) Trước đây chưa thấy
cảnh tượng như vầy,
nên hãy cùng nhau
nhất tâm mà tìm.

(30) Hãy cùng đi qua
vạn ức quốc độ,
lần theo ánh sáng
mà tìm xuất xứ.
Nhiều phần chắc chắn
đây là Phật đà
xuất hiện cứu độ
chúng sinh đau khổ.

Bấy giờ các vị Phạn vương của năm trăm vạn ức cõi Phật khu vức đông nam, với cung điện theo mình, với túi vải đựng đầy hoa chư thiên, cùng nhau đi về khu vức tây bắc, lần theo ánh sáng mà tìm, thấy đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà ngồi trên tòa sư tử dưới cây bồ đề trong bồ đề tràng, có tám bộ và các chúng khác thuộc loài người và không phải loài người, tôn kính bao quanh. Lại thấy mười sáu vị vương tử đang thỉnh cầu ngài chuyển đẩy bánh xe chánh pháp. Các vị Phạn vương tức thì đem đầu mặt lạy ngang chân đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà, đi quanh ngài hàng trăm hàng ngàn vòng, rồi đem hoa chư thiên mà tung rải trên ngài. Hoa ấy như núi Tu di. Các vị Phạn vương cũng dùng hoa ấy mà hiến cúng cây bồ đề của ngài. Hiến hoa rồi, các vị Phạn vương ai cũng đem cung điện của mình dâng lên đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà, thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, xin ngài thương xót mà ích lợi cho chúng con, bằng cách rủ lòng chấp nhận và sử dụng cung điện chúng con hiến cúng. Đối trước ngài, các vị Phạn vương nhất tâm, đồng thanh, đem lời chỉnh cú sau đây mà ca tụng.

(31) Vị chúa thánh triết,
vị vua chư thiên,
tiếng như tiếng chim
ca lăng tần dà!
Vị thầy thương tưởng
hết thảy chúng sinh!
Hôm nay chúng con
xin cùng kính lạy.

(32-33) Chư Phật Thế Tôn
rất là hiếm có,
thì gian lâu xa
mới hiện một lần.
Đã qua một trăm
tám chục thời kỳ,
cõi này trống rỗng
không có Phật nào;
ba nẻo đường dữ
thì tràn đầy cả,
còn chúng chư thiên
ngày càng giảm bớt.

(34) Ngày nay ngài đã
xuất hiện ra đây!
Ngài là mắt sáng
cho các chúng sinh,
là nơi thế gian
cùng đến nương tựa,
là người cứu vớt
che chở hết thảy,
là từ bi phụ
của cả chúng sinh,
là người xót thương
ích lợi tất cả!
Tất cả chúng con
nhờ phước đời trước,
ngày nay mới được
gặp ngài xuất hiện!

Các vị Phạn vương đem lời chỉnh cú ca tụng đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà rồi, vị nào cũng thưa, bạch đức Thế Tôn, xin ngài thương tưởng tất cả, chuyển đẩy bánh xe chánh pháp mà hóa độ chúng sinh. Các vị lại nhất tâm đồng thanh mà nói lời chỉnh cú này.

(35) Bạch đức Cao cả!
xin ngài chuyển đẩy
bánh xe chánh pháp,
xin ngài phát lộ
thật tướng siêu việt
của tất cả pháp,
cứu độ hết thảy
chúng sinh đau khổ,
cho họ cùng được
niềm vui lớn lao!

(36) Xin cho chúng sinh
được nghe pháp ấy,
để được tuệ giác
hoặc sinh chư thiên,
để bớt nẻo dữ
và thêm người lành.

Khi ấy đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà yên lặng hứa nhận lời thỉnh cầu ấy.

Chư vị tỷ kheo, các vị Phạn vương ở năm trăm vạn ức cõi Phật thuộc khu vức chính nam, ai cũng tự thấy cung điện của mình sáng rực lên một cách trước đây chưa bao giờ có, nên hoan hỷ, phấn chấn, thấy rất hy hữu, liền đến suy luận với nhau về sự thể ấy, rằng vì lý do nào mà cung điện chúng ta có ánh sáng rực rỡ như vầy? Trong chúng Phạn vương này có vị Đại phạn vương tên là Diệu Pháp, nói với cả chúng lời chỉnh cú sau đây.

(37) Cung điện chúng ta
sáng quá rực rỡ,
tất có lý do,
cần nên tìm hiểu.

(38) Qua rồi hàng trăm
hàng ngàn thời kỳ,
mà chưa hề thấy
cảnh tượng như vầy.
Một vị thiên nhân
phước lớn mới sinh?
hay một đức Phật
xuất hiện thế gian?

Bấy giờ các vị Phạn vương của năm trăm vạn ức cõi Phật khu vức chính nam, với cung điện theo mình, với túi vải đựng đầy hoa chư thiên, cùng nhau đi về khu vức chính bắc, lần theo ánh sáng mà tìm, thấy đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà ngồi trên tòa sư tử dưới cây bồ đề trong bồ đề tràng, có tám bộ và các chúng khác thuộc loài người và không phải loài người, tôn kính bao quanh. Lại thấy mười sáu vị vương tử đang thỉnh cầu ngài chuyển đẩy bánh xe chánh pháp. Các vị Phạn vương tức thì đem đầu mặt lạy ngang chân đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà, đi quanh ngài hàng trăm hàng ngàn vòng, rồi đem hoa chư thiên mà tung rải trên ngài. Hoa ấy như núi Tu di. Các vị Phạn vương cũng dùng hoa ấy mà hiến cúng cây bồ đề của ngài. Hiến hoa rồi, các vị Phạn vương ai cũng đem cung điện của mình dâng lên đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà, thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, xin ngài thương xót mà ích lợi cho chúng con, bằng cách rủ lòng chấp nhận và sử dụng cung điện chúng con hiến cúng. Đối trước ngài, các vị Phạn vương nhất tâm, đồng thanh, đem lời chỉnh cú sau đây mà ca tụng.

(39) Thật là hiếm có
được thấy Thế Tôn,
đấng đã hủy diệt
mọi sự phiền nàõo!
Qua hết một trăm
ba mươi thời kỳ,
nay mới một lần
lại được thấy Phật.

(40) Biết bao chúng sinh
đã quá khao khát,
xin đổ mưa pháp
cho sung mãn cả!
Lâu rồi chúng con
chưa được nhìn thấy
đấng có tuệ giác
không có giới hạn;
như hoa ưu đàm,
ngày nay mới thấy!

(41) Bao nhiêu cung điện
của chúng con đây
nhờ ánh sáng ngài
mà càng tráng lệ,
xin ngài thương xót
nhận cho chúng con.

Các vị Phạn vương đem lời chỉnh cú ca tụng đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà rồi, vị nào cũng thưa, bạch đức Thế Tôn, xin ngài chuyển đẩy bánh xe chánh pháp để làm cho toàn thể thế gian bao gồm chư thiên, ma vương, phạn vương, sa môn, bà la môn, ai cũng được yên ổn, được giải thoát. Các vị lại nhất tâm đồng thanh mà nói lời chỉnh cú này.

(42) Đấng tôn cao nhất
chư thiên nhân loaị,
xin chuyển bánh xe
chánh pháp vô thượng!
xin gióng lớn lên
trống pháp vĩ đại!
xin thổi vang lên
loa pháp to lớn!

(43) Xin đổ khắp xuống
mưa pháp cao cả,
quảng độ vô lượng
các loại chúng sinh!
Cùng nhau kính lạy,
chúng con thỉnh cầu
Thế Tôn nói lên
tiếng nói sâu xa.

Khi ấy đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà yên lặng hứa nhận lời thỉnh cầu ấy.

Chư vị tỷ kheo, khu vức tây nam cho đến khu vức thiên để cũng đều như vậy. Và đến các vị Phạn vương ở năm trăm vạn ức cõi Phật thuộc khu vức thiên đỉnh, ai cũng tự thấy cung điện của mình đang ở sáng rực lên một cách trước đây chưa bao giờ có, nên hoan hỷ, phấn chấn, thấy rất hy hữu, liền đến suy luận với nhau về sự thể ấy, rằng vì lý do nào mà cung điện chúng ta có ánh sáng rực rỡ như vầy? Trong chúng Phạn vương ấy có vị Đại phạn vương tên là Thi Khí, nói với cả chúng lời chỉnh cú sau đây.

(44) Vì sao hôm nay
cung điện chúng ta
sáng lên lộng lẫy
huy hoàng khác thường?

(45) Cảnh tượng như vầy
chưa hề thấy nghe.

(46) Một vị thiên nhân
phước lớn mới sinh?
hay một đức Phật
xuất hiện thế gian?

Bấy giờ các vị Phạn vương của năm trăm vạn ức cõi Phật khu vức thiên đỉnh, với cung điện theo mình, với túi vải đựng đầy hoa chư thiên, cùng nhau đi về khu vức thiên để, lần theo ánh sáng mà tìm, thấy đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà ngồi trên tòa sư tử dưới cây bồ đề trong bồ đề tràng, có tám bộ và các chúng khác thuộc loài người và không phải loài người, tôn kính bao quanh. Lại thấy mười sáu vị vương tửû đang thỉnh cầu ngài chuyển đẩy bánh xe chánh pháp. Các vị Phạn vương tức thì đem đầu mặt lạy ngang chân đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà, đi quanh ngài hàng trăm hàng ngàn vòng, rồi đem hoa chư thiên mà tung rải trên ngài. Hoa ấy như núi Tu di. Các vị Phạn vương cũng dùng hoa ấy mà hiến cúng cây bồ đề của ngài. Hiến hoa rồi, các vị Phạn vương ai cũng đem cung điện của mình dâng lên đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà, thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, xin ngài thương xót mà ích lợi cho chúng con, bằng cách rủ lòng chấp nhận và sử dụng cung điện chúng con hiến cúng. Đối trước ngài, các vị Phạn vương nhất tâm, đồng thanh, đem lời chỉnh cú sau đây mà ca tụng.

(47) Lành thay khi được
thấy đấng Toàn giác,
Thánh triết, Cứu đời,
đấng có năng lực
giải cứu chúng sinh
trong ngục ba cõi!

(48) Là Thầy trời người
thấy biết khắp cả,
ngài rất thương xót
bao loại chúng sinh!
Và ngài khai mở
cửa ngỏ bất tử,
làm cho hết thảy
vượt đến bến bờ!

(49) Vô số thời kỳ
đã không có Phật!
Ngài chưa xuất hiện,
mười phương tối tăm:

(50) Ba nẻo đường dữ
mãi hoài thêm lên,
chủng loại tu la
cũng được phồn thịnh;

(51) còn chúng chư thiên
thì bị giảm bớt,
chết thì phần nhiều
rơi vào đường dữ,
vì đã không được
nghe Pháp với Phật,
thường thường hành động
những việc bất thiện.

(52) Sắc đẹp, sức khỏe,
cùng với trí tuệ,
tất cả thứ này
giảm sút đồng đều.
Vì hành động ác
mà mất hạnh phúc,
lại mất đến cả
ý thức hạnh phúc.

(53) Vướng mắc khuôn phép
chủ thuyết tà ngụy,
nên không biết được
qui tắc tốt lành,
không được tiếp nhận
ân Phật giáo hóa,
thường bị rơi vào
các nẻo đường dữ.

(54) Nhưng nay thì ngài,
con mắt của đời,
đã xuất hiện ra
sau thì gian dài!
Nhưng nay thì ngài,
vì thương chúng sinh,
đã xuất hiện ra
giữa thế gian này!

(55) Ngài đã siêu việt,
đạt được tuệ giác
chính xác hoàn hảo:
chúng con rất mừng!
Và bao chúng sinh
ai cũng hoan hỷ
và tán dương ngài
là bậc hiếm có!

(56) Bao nhiêu cung điện
của chúng con đây
nhờ ánh sáng ngài
mà càng tráng lệ,
chúng con phụng hiến
lên đấng Thế Tôn,
xin ngài thương tưởng
mà nạp thọ cho.

(57) Chúng con nguyện đem
công đức như vầy
hiến khắp tất cả
các loại chúng sinh,
cầu cho chúng con
cùng với chúng sinh
đều được thành tựu
tuệ giác chư Phật.

Các vị Phạn vương đem lời chỉnh cú ca tụng đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà rồi, vị nào cũng thưa, bạch đức Thế Tôn, xin ngài chuyển đẩy bánh xe chánh pháp, đem lại rất nhiều sự yên ổn và rất nhiều sự giải thoát. Các vị lại nhất tâm đồng thanh mà nói lời chỉnh cú này.

(58) Kính xin Thế Tôn
chuyển bánh xe pháp!
Xin ngài gióng lên
trống pháp bất tử!
Xin ngài giải cứu
chúng sinh đau khổ,
và mở chỉ ra
đường hướng niết bàn!

(59) Xin ngài nhận lời
chúng con thỉnh cầu,
sử dụng âm thanh
cực kỳ mầu nhiệm,
thương xót chúng con
và bao chúng sinh,
nói ra cái pháp
mà ngài trải qua
vô số thời kỳ
mới tập hợp được!

*

Lúc bấy giờ đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà nhận lời thỉnh cầu của các vị Phạn vương ở khắp mười phương, và của mười sáu vị vương tử, tức thì chuyển đẩy bánh xe chánh pháp bốn chân lý, bằng cách ba lần chuyển đẩy với mười hai phương thức, mà sa môn, bà la môn, hoặc chư thiên, ma vương, phạn vương, hay bất cứ ai còn ở trong phạm vi thế gian, đều không thể chuyển đẩy. Rằng đây là khổ… đây là khổ tập hợp… đây là khổ tiêu diệt… đây là con đường đạt đến khổ tiêu diệt… Bốn chân lý như vậy lại được nói rộng ra thành mười hai duyên khởi: vô minh sinh thì hành sinh, hành sinh thì thức sinh, thức sinh thì danh sắc sinh, danh sắc sinh thì lục nhập sinh, lục nhập sinh thì xúc sinh, xúc sinh thì thọ sinh, thọ sinh thì ái sinh, ái sinh thì thủ sinh, thủ sinh thì hữu sinh, hữu sinh thì sinh sinh, sinh sinh thì già chết lo buồn khổ não sinh; vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì già chết lo buồn khổ não diệt.

Khi đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà ở giữa đại hội các chúng, trong đó có chư thiên và nhân loại, tuyên thuyết chánh pháp trên đây thì có vạn ức lần trăm triệu người, vì không tham đắm các pháp, nên đối với mọi sự sơ hở tâm được giải thoát; bốn thiền, bốn định, ba minh trí, sáu thần thông và tám giải thoát, những pháp sâu xa tinh túy như vậy họ có đủ cả. Rồi lần thứ hai, lần thứ ba và lần thứ tư, đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà tuyên thuyết chánh pháp trên đây thì có hằng sa trăm triệu chúng sinh cũng vì không tham đắm các pháp mà đối với mọi sự sơ hở tâm được giải thoát. Từ đó về sau, riêng chúng thanh văn cũng đã vô lượng vô biên, không thể mô tả hay tính toán.

*

Phần mười sáu vị vương tử thì cùng nhau đem cái tuổi đồng niên mà xuất gia làm sa di, các căn lanh lợi, trí tuệ thấu suốt, vì lẽ ai cũng đã từng phụng sự trăm ngàn vạn ức chư Phật Như Lai, thực hành phạn hạnh một cách trong sáng mà cầu tuệ giác vô thượng. Tất cả mười sáu vị ấy cùng thưa đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà, rằng bạch đức Thế Tôn, vô số trăm ngàn vạn ức chư vị thanh văn đại đức như thế này đã thành thục cả rồi, kính xin đức Thế Tôn nói cho chúng con về pháp của tuệ giác vô thượng. Chúng con nghe được pháp ấy thì ai cũng cùng nhau tu học. Bạch đức Thế Tôn, tâm chí của chúng con là nguyện được sự thấy biết của Phật. Tâm chí như vậy, đức Thế Tôn tự biết cho chúng con. Lúc ấy tám vạn ức người trong số đi theo vị luân vương tổ phụ, thấy mười sáu vị vương tử xuất gia thì cũng cầu xin xuất gia. Vị luân vương ấy cũng chấp thuận tức khắc.

Đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà nhận lời thỉnh cầu của mười sáu vị sa di, nên qua hai vạn thời kỳ rồi, ở giữa đại hội bốn chúng, nói về bản kinh đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Ngài nói kinh ấy rồi, mười sáu vị sa di vì tuệ giác vô thượng mà cùng tiếp nhận, ghi nhớ và đọc tụng một cách thông suốt sắc sảo. Trong khi ngài nói kinh ấy thì mười sáu vị sa di bồ tát, và chúng bồ tát, tin tưởng tiếp nhận được cả. Trong chúng thanh văn cũng có vị tin hiểu. Nhưng người khác, số lượng đến ngàn vạn ức, đều sinh ra nghi hoặc.

Đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà nói kinh Pháp Hoa suốt tám ngàn thời kỳ mà không lúc nào ngưng bỏ. Nói rồi, ngài vào tịnh thất, đặt mình vào sự thiền định đến tám vạn bốn ngàn thời kỳ. Bấy giờ mười sáu vị Sa di Bồ tát biết ngài vào tịnh thất mà vắng lặng thiền định, nên vị nào cũng lên pháp tòa, và cũng trong thời gian tám vạn bốn ngàn thời kỳ ấy vị nào cũng giảng giải một cách phong phú cho cả bốn chúng về kinh Pháp Hoa. Vị nào cũng hóa độ chúng sinh nhiều bằng trăm triệu hằng sa, trình bày, thuyết phục, khuyến khích, tán thưởng, làm cho ai cũng phát tâm tuệ giác vô thượng. Tám vạn bốn ngàn thời kỳ qua rồi, đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà xuất định, bước đến pháp tòa, thung dung mà ngồi, tuyên cáo với cả đại hội các chúng: Mười sáu vị Sa di Bồ tát này thật là hiếm có, các căn lanh lợi, trí tuệ thấu suốt, và vị nào cũng đã phụng sự hàng ức chư Phật Như Lai. Nơi chư Phật Như Lai ấy, các vị thường xuyên thực hành phạn hạnh, nhận được tuệ giác Phật đà, lại dạy cho chúng sinh vào được tuệ giác ấy. Các người hãy luôn luôn thân gần mà phụng sự mười sáu vị ấy. Vì lẽ bất cứ Thanh văn, Duyên giác hay Bồ tát, người nào tin tưởng được kinh pháp do mười sáu vị Sa di Bồ tát này tuyên thuyết, tiếp nhận và ghi nhớ mà không bác bỏ, thì những người ấy ai cũng sẽ được tuệ giác Phật đà là tuệ giác vô thượng.

Khi ấy đức Thế Tôn bảo chư vị Tỷ kheo, mười sáu vị Sa di Bồ tát thường vui thích nói kinh Pháp Hoa. Những số chúng sinh nhiều bằng trăm triệu hằng sa mỗi vị giáo hóa thì đời đời sinh ra ở đâu cũng chung với mỗi vị, theo mỗi vị mà nghe pháp thêm nữa, và nghe thì tin hiểu được cả. Do vậy mà số chúng sinh ấy gặp được bốn vạn ức chư Phật Như Lai, và việc ấy đến nay vẫn chưa chấm dứt.

Chư vị Tỷ kheo, nay Như Lai nói để chư vị biết, mười sáu vị Sa di Bồ tát, đệ tử của đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà, hiện nay cùng thành tựu tuệ giác vô thượng và đang thuyết pháp giáo hóa ở khắp cả mười phương quốc độ. Vị nào cũng có vô số trăm ngàn vạn ức Bồ tát và Thanh văn làm người tùy thuộc. Hai vị thành Phật ở chính đông là A Súc Như Lai tại quốc độ Hoan Hỷ và Tu Di Đảnh Như Lai. Hai vị thành Phật ở đông nam là Sư Tử Âm Như Lai và Sư Tử Tướng Như Lai. Hai vị thành Phật ở chính nam là Hư Không Trú Như Lai và Thường Diệt Như Lai. Hai vị thành Phật ở tây nam là Đế Tướng Như Lai và Phạn Tướng Như Lai. Hai vị thành Phật ở chính tây là A Di Đà Như Lai và Độ Nhất Thế Thế Gian Khổ Não Như Lai. Hai vị thành Phật ở tây bắc là Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Thần Thông Như Lai và Tu Di Tướng Như Lai. Hai vị thành Phật ở chính bắc là Vân Tự Tại Như Lai và Vân Tự Tại Vương Như Lai. Một vị thành Phật ở đông bắc là Hoại Nhất Thế Thế Gian Bố Úy Như Lai. Còn vị thứ mười sáu là ta, Thích Ca Mâu Ni Như Lai, thành tựu tuệ giác vô thượng ở quốc độ Kham nhẫn này.

Chư vị Tỷ kheo, như trên đã nói, khi chúng ta làm Sa di Bồ tát thì nào cũng giáo hóa chúng sinh nhiều bằng trăm triệu hằng sa. Những số chúng sinh này vì tuệ giác vô thượng mà vẫn theo nghe pháp với chúng ta. Trong các số chúng sinh ấy, cho đến ngày nay có những người vẫn còn ở vị trí Thanh văn, thì chúng ta vẫn thường giáo hóa cho những người này bằng pháp của tuệ giác vô thượng. Những người này vẫn phải được đưa lần vào tuệ giác Phật đà bằng pháp ấy, vì tuệ giác Phật đà thì thật khó tin khó hiểu.

Những người này, mà thuộc về số hằng sa chúng sinh phần Như Lai giáo hóa từ lúc Như Lai còn làm Sa di Bồ tát, thì chính là chư vị, và chư vị đệ tử Thanh văn trong thì vị lai sau khi Như Lai nhập diệt. Chư vị đệ tử Thanh văn sau khi Như Lai nhập diệt cũng có những người không nghe kinh này, không hay không biết gì về đường đi của Bồ tát, và đối với thành quả của mình thì phát sinh ý tưởng nhập được Niết bàn. Như Lai bấy giờ làm đức Phật giáo chủ ở quốc độ khác, thay đổi danh hiệu khác; những người tuy phát sinh ý tưởng nhập được Niết bàn như vậy, nhưng ở quốc độ khác mà Như Lai đang làm đức Phật giáo chủ thì họ lại cầu tuệ giác Phật đà, được nghe kinh này và biết rằng chỉ Niết bàn bằng cỗ xe Phật đà chứ không bằng cỗ xe nào khác, ngoại trừ Như Lai phương tiện thuyết pháp.

Chư vị Tỷ kheo, bất cứ ở quốc độ nào, khi Như Lai tự biết thì giờ nhập diệt sắp đến, chư Tăng lại thanh tịnh, sự tin hiểu cũng vững chắc, ai cũng thấu triệt về Không, vào sâu tư duy tu, thì Như Lai chiêu tập chúng Bồ tát và chúng Thanh văn mà nói cho kinh Pháp Hoa này, minh xác rằng thế gian không có cỗ xe thứ hai và cỗ xe thứ ba đưa đến Niết bàn, mà chỉ có cỗ xe Phật đà duy nhất đưa đến Niết bàn mà thôi.

Chư vị Tỷ kheo, nên biết Như Lai đủ mọi phương tiện, lại đi sâu vào bản tính chúng sinh, biết chí nguyện của chúng sinh ưa thích giáo pháp thấp nhỏ là vì vốn đã đắm sâu vào trong năm thứ dục lạc; vì những người như vậy mà Như Lai nói đến niết bàn, và họ nghe thì tin hiểu được. Sự thể ví như con đường hiểm ác dài đến năm trăm do tuần, nằm trong chốn hoang vắng và ghê rợn. Một đoàn nhiều người muốn vượt qua con đường ấy để đến chỗ vàng ngọc. Có một vị hướng dẫn rất thông minh, lại biết rõ con đường hiểm ác này chỗ nào thông chỗ nào nghẽn. Vị ấy dẫn đoàn người vượt qua con đường này. Nhưng đoàn người nửa đường đổ nhác, muốn lui, thưa với vị hướng dẫn, rằng chúng tôi quá mệt mà lại ghê sợ, không còn đi tới được nữa. Đường trước còn xa, chúng tôi muốn lui về. Vị hướng dẫn có lắm chước phương tiện, nghĩ rằng đoàn người này thật đáng thương, sao lại bỏ vàng ngọc to lớn mà muốn trở về. Nghĩ rồi, vị ấy sử dụng phương tiện lực, ngay nơi đoạn giữa của con đường hiểm ác, chỗ đã qua ba trăm do tuần, biến hóa một thành quách to lớn, và bảo họ, các người đừng sợ, đừng về. Thành quách to lớn kia các người có thể vào nghỉ, và muốn gì tùy ý: muốn ở luôn trong ấy thì yên ổn thích thú, muốn đi tới để đến chỗ vàng ngọc thì cũng đi được. Đoàn người mỏi mệt, lúc đó, lòng rất vui mừng, khen là sự thể chưa từng có, rằng chúng ta bây giờ thoát khỏi con đường hiểm ác và được an toàn rồi. Rồi cả đoàn bước tới mà vào trong thành biến hóa, sinh ra ý tưởng đã vượt qua, ý tưởng đã an toàn. Nhưng vị hướng dẫn, khi biết đoàn người nghỉ ngơi hết mệt, tức thì diệt mất cái thành biến hóa đi, bảo đoàn người hãy nên đi tới: chỗ vàng ngọc đã gần đây. Cái thành to lớn vừa rồi chỉ do ta hóa ra cho các người dừng nghỉ mà thôi.

Chư vị tỷ kheo, Như Lai cũng vậy. Như Lai làm đại đạo sư cho chư vị. Như Lai biết rõ đường dữ sống chết phiền não là con đường đầy hiểm nạn mà lại xa dài, ai cũng phải rời bỏ, phải vượt qua. Nhưng nếu chư vị chỉ nghe cỗ xe Phật đà duy nhất thì sẽ không thích gặp Như Lai, không muốn thân gần, vì nghĩ rằng tuệ giác Phật đà quá dài quá xa, siêng khó lâu lắm mới được thành đạt. Như Lai biết rõ tâm lý khiếp nhược hèn kém ấy nên dùng phương tiện lực, nói ra niết bàn của thanh văn và duyên giác để cho chư vị dừng nghỉ giữa đường. Khi chư vị đã đứng ở vị trí của thanh văn và duyên giác rồi, Như Lai liền nói cho chư vị biết việc làm của chư vị chưa được hoàn tất. Nhưng vị trí của chư vị đang đứng thì đã gần đến tuệ giác Phật đà. Chư vị hãy suy xét về niết bàn mà chư vị thực hiện: niết bàn ấy không thật đâu. Niết bàn ấy chỉ do phương tiện lực của Như Lai, nơi cỗ xe Phật đà duy nhất mà phân ra nói có ba cỗ xe, tựa như vị hướng dẫn hóa ra thành quách to lớn cho đoàn người dừng nghỉ. Dừng nghỉ rồi thì nói cho họ biết chỗ vàng ngọc gần đây, còn thành biến hóa này không thật, chỉ do ta biến hóa ra mà thôi.

Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(60) Đại Thông Trí Thắng,
đức Phật đà ấy
qua mười thời kỳ
ngồi bồ đề tràng
mà pháp chư Phật
vẫn chưa hiện ra,
chưa được thành tựu
tuệ giác chư Phật.

(61) Chư thiên, long vương,
cùng các bộ chúng
thường rưới thiên hoa
để hiến cúng ngài.

(62) Chư thiên lại đánh
trống của chư thiên
và hòa tấu lên
các nhạc khí khác.
Gió thơm lướt đến
thổi mất hoa héo,
chư thiên rưới thay
hoa mới và tốt.

(63) Hết mười thời kỳ,
Trí Thắng Phật đà
mới được thành tựu
tuệ giác chư Phật.
Chư thiên nhân loại
lòng rất vui mừng.
*

(64) Mười sáu vương tử
cùng vớùi tùy thuộc
cả ngàn vạn ức
cùng đến chỗ Phật.

(65) Họ đem đầu mặt
lạy ngang chân ngài,
thỉnh cầu chuyển đẩy
bánh xe chánh pháp,
rằng bậc Sư tử
của các thánh triết,
xin ngài đổ xuống
nước mưa chánh pháp
sung túc chúng con
cùng với tất cả!

(66) Thế Tôn là bậc
cực kỳ khó gặp,
sau thì gian dài
ngài mới xuất hiện;
và muốn thức tỉnh
các loại chúng sinh,
ngài làm chấn động
tất cả quốc độ.

(67) Trong các quốc độ
ở hướng chính đông
số lượng có đến
năm trăm vạn ức,
cung điện Phạn vương
sáng lên lộng lẫy,
điều mà từ xưa
họ chưa từng thấy.

(68) Các vị Phạn vương
thấy cảnh tượng ấy,
lần theo ánh sáng
tìm đến chỗ ngài,
cùng rải thiên hoa
tôn kính hiến cúng,
lại còn hiến dâng
cung điện của mình.

(69) Rồi thỉnh cầu ngài
chuyển đẩy pháp luân,
lấy lời chỉnh cú
mà ca tụng ngài.
Và ngài biết rõ
thì gian chưa đến,
nên nhận lời họ
mà ngồi yên lặng.

(70) Ở ba hướng khác
cùng với bốn góc
và trên với dưới
cũng đều như vậy:

(71) Cũng rải thiên hoa
cũng hiến cung điện
và thỉnh cầu ngài
chuyển đẩy pháp luân.

(72) Rằng thưa Thế Tôn,
đấng Rất khó gặp,
xin ngài đem lòng
từ bi cao cả
mà mở cho rộng
cửa ngõ bất tử,
bằng cách chuyển đẩy
pháp luân tối thượng!

(73) Trí Thắng Phật đà
tuệ giác vô lượng,
nhận lời thỉnh cầu
của các vị ấy,
tuyên thuyết cho họ
những pháp phong phú,
là bốn chân lý
mười hai duyên khởi.

(74) Ngài nói vô minh
cho đến già chết,
toàn là do sinh,
tai họa như vậy
các người phải biết.

(75) Khi thuyết pháp này
có vạn ức lần
trăm triệu người nghe,
hủy diệt cùng tận
biên cương khổ não
mà thành La hán.

(76) Thuyết lần thứ hai,
ngàn vạn hằng sa
các loại chúng sinh
đối với các pháp
không còn tham đắm,
cũng thành La hán.

(77) Từ đó về sau
những người đắc đạo
số đến vô số,
vạn ức thời kỳ
tính cũng không biết
giới hạn số ấy.

*

(78) Mười sáu vương tử
lúc ấy xuất gia
cùng làm sa di,
và rồi cùng nhau
thỉnh cầu đức Phật
Đại Thông Trí Thắng,
rằng xin Thế Tôn
thuyết pháp đại thừa,

(79) để cho chúng con
cùng với tùy thuộc
đều sẽ thành tựu
tuệ giác Phật đà,
ước nguyện cùng được
y như Thế Tôn
đấng có mắt tuệ
trong sáng bậc nhất!

(80-Biết rõ tâm lý
81) các vương tử trẻ,
lại biết đạo hạnh
đời trước của họ,
ngài dùng vô số
yếu tố, ví dụ,
mà nói sáu pháp
ba la mật đa,
cùng với những sự
thần thông diệu dụng,
phân tích giảng giải
về pháp chân thật _
nghĩa là giảng giải
đường đi bồ tát,

(82) bằng cách nói về
Diệu pháp Liên hoa,
với những bài kệ
nhiều bằng hằng sa.

*

(83) Trí Thắng Phật đà
nói kinh ấy rồi,
vào trong tịnh thất
mà nhập thiền định,
một lòng mà ngồi
ngồi nơi một chỗ
ngồi tám vạn tư
thời kỳ bậc nhỏ.

(84) Bấy giờ mười sáu
sa di bồ tát
biết đức Trí Thắng
chưa xuất thiền định,
nên cùng diễn giảng
tuệ giác vô thượng
cho vô số ức
các loại chúng sinh.

(85) Mỗi vị sa di
ngồi một pháp tòa,
và cùng diễn giảng
về kinh Pháp Hoa,
góp sức vào việc
đem pháp giáo hóa,
trong suốt thì gian
ngài nhập thiền định.

(86) Cả mười sáu vị
mỗi vị hóa độ
chúng sinh nhiều bằng
trăm triệu hằng sa.

(87) Trí Thắng Phật đà
nhập niết bàn rồi,
những người nghe pháp
mười sáu vị này,
tại các cõi Phật
thường sinh với thầy.

(88) Mười sáu vị ấy
đã đi trọn vẹn
đường đi của Phật,
hiện ở mười phương
cùng thành các đấng
Tuệ giác chính xác.

(89) Những người nghe pháp
vào lúc bấy giờ,
nay ở tại chỗ
các đức Phật ấy;
trong đó có người
còn là thanh văn,
vẫn được dạy lần
bằng tuệ giác Phật.
*

(90) Như Lai là một
trong số mười sáu,
xa xưa đã từng
dạy bảo chư vị.
Nên nay Như Lai
vận dụng phương tiện
dẫn dắt chư vị
đến mau Phật tuệ.

(91) Do sự tương quan
xa xưa như trên,
Như Lai ngày nay
tuyên thuyết Pháp Hoa,
làm cho chư vị
nhập vào Phật tuệ.
Chư vị thận trọng,
đừng có kinh hãi!

(92) Ví như con đường
rất là hiểm ác
trong chốn hoang vu,
có lắm thú độc,
không cả cỏ nước,
ai cũng khiếp sợ.

(93) Một đoàn nhiều người
vô số ngàn vạn
muốn vượt đường ấy,
con đường hiểm ác
mà lại xa đến
năm trăm do tuần.

(94) Một vị hướng dẫn
có trí, nhớ kỹ,
sáng suốt, quả quyết;
trong đường hiểm ác,
vị ấy hướng dẫn
đoàn người vượt qua.

(95) Giữa đường mới qua
ba trăm do tuần
thì họ mệt nhọc,
thưa vị hướng dẫn
chúng tôi kiệt lực
ngang đây muốn về.

(96) Vị hướng dẫn nghĩ
họ thật đáng thương:
tại sao lại muốn
trở lui mà về,
mất phần lấy được
vàng ngọc rất quí.

(97) Vị ấy liền nghĩ
một cách phương tiện:
ông dùng sức thần
hoá thành quách lớn,
trang trí đủ hết
nhà cửa tráng lệ,

(98) vườn rừng bao quanh,
sông đào, ao tắm,
cửa chồng, lầu cao,
nam nữ đông đầy.

(99) Hóa như vậy rồi
an ủi đoàn người
đừng sợ gì cả,
các người hãy vào
trong thành quách này
tùy ý vui thích.

(100) Đoàn người vào thành
lòng rất vui vẻ,
ai cũng sinh ra
ý tưởng yên ổn,
lại còn tự cho
đã được vượt qua.

(101) Vị hướng dẫn biết
họ nghỉ khoẻ rồi,
tập hợp mà bảo
tất cả các người
hãy nên đi tới,
còn đây chỉ là
cái thành do ta
hóa ra mà thôi.

(102) Thấy các người mệt
giữa đường muốn lui,
nên ta phương tiện
hóa ra thành này.
Các người bây giờ
hãy siêng đi tới,
để cùng được đến
chỗ vàng ngọc lớn.

*

(103) Như Lai cũng vậy
làm đại đạo sư,
thấy người cầu đạo
nửa đường nhác bỏ,
không thể vượt qua
một cách hoàn toàn
con đường hiểm ác
sống chết phiền não.

(104) Do đó Như Lai
thiện dụng phương tiện:
nói ra niết bàn
cho họ dừng nghỉ,
bằng cách tuyên bố
chư vị hết khổ,
những việc phải làm
đã làm hoàn tất.

(105) Như Lai khi biết
chư vị đã đến
niết bàn như vậy
và thành La hán,
thì họp chư vị
nói pháp chân thật.

(106) Nên chư Như Lai
đem sự phương tiện
nói ba cỗ xe,
mà thật chỉ có
cỗ xe Phật đà
cỗ xe duy nhất,
còn hai cỗ xe
thanh văn duyên giác
nói ra chỉ để
làm chỗ dừng nghỉ.

(107) Như Lai ngày nay
nói sự thật này
cho chư vị biết:
cái chư vị được
không phải đã là
niết bàn hoàn toàn.
Để đạt cho được
tuệ giác hoàn toàn
của bậc Toàn giác,
chư vị cần phải
nổi lên tột độ
sự đại tinh tiến!

(108) Khi nào chư vị
đạt được tuệ giác
của bậc Toàn giác,
nội dung gồm hết
phẩm chất Phật đà
đại loại như là
mười đại năng lực,
lại có đủ cả
ba mươi hai tướng
bậc đại trượng phu,
bấy giờ mới thật
niết bàn hoàn toàn.

(109) Nói tóm đây là
sự khéo giáo hóa
của chư Phật đà,
bậc Đại đạo sư:
nói ra niết bàn
để cho dừng nghỉ;
khi biết dừng nghỉ
đã hết mệt rồi
thì dắt bước tới
tuệ giác Phật đà.
_______

Kết thúc tụng kinh Pháp Hoa, chúng con xin hồi hướng:
Vạn ức thời kỳ
không thể nói được
mới được có lúc
Phật nói Pháp Hoa.
Vạn ức thời kỳ
không thể nói được
mới được có lúc
nghe nói Pháp Hoa.
Chúng con nương nhờ
Phật Pháp Tăng lực
mới được trì tụng
Diệu pháp Liên hoa.
Chúng con nguyện đem
công đức như vầy
hiến khắp tất cả
các loại chúng sinh,
cầu cho chúng con
cùng với chúng sinh
đều được thành tựu
tuệ giác chư Phật.

Kính lạy kinh Diệu pháp Liên hoa, bản kinh của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Kính lạy tất cả Pháp bảo trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni, đức Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp Hoa. Kính lạy đức Đa Bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp Hoa toàn là chân thật. Kính lạy đức Di Lạc, đức Phật đương lai, đã phát khởi kinh Pháp Hoa và tiếp dẫn những người hành trì Pháp Hoa vãng sinh Đâu suất tịnh độ. Kính lạy tất cả Phật bảo trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy bồ tát Văn Thù, vị pháp sư Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Phổ Hiền, vị khuyến phát Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Quan Âm, vị đại sĩ toàn diện. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.


 

Lược Dẫn & Cuốn 1 | Cuốn 2 | Cuốn 3 | Cuốn 4 | Cuốn 5 | Cuốn 6 | Cuốn 7 | Phẩm Phổ Hiền | Kinh Pháp Hoa Toát Yếu |



 

Lược Dẫn & Cuốn 1 | Cuốn 2 | Cuốn 3 | Cuốn 4 | Cuốn 5 | Cuốn 6 | Cuốn 7 | Phẩm Phổ Hiền | Kinh Pháp Hoa Toát Yếu |

[4]

KINH PHÁP HOA
(Hoa Sen Của Chánh Pháp) 
Phần CHÍNH VĂN
Tỷ kheo Thích Trí Quang dịch

CUỐN 4

CUỐN  4
Phẩm 8: Năm trăm đệ tử tiếp nhận thọ ký
Phẩm 9: Thọ ký cho các vị tu học tiếp tục và tu học hoàn tất
Phẩm 10: Người diễn giảng Pháp Hoa
Phẩm 11: Bảo tháp xuất hiện
Phẩm 12: Đề Bà Đạt Đa
Phẩm 13: Kính giữ Pháp Hoa

Ngưỡng bạch Phật Pháp Tăng vô tận tam bảo từ bi chứng minh. Đệ tử chúng con nguyện vì bản thân, vì cha mẹ bà con, vì người thân kẻ thù, vì mọi người và vì chúng sinh, trì tụng kinh đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa.

Mở đầu kinh Pháp Hoa, chúng con xin kính lạy:

Kính lạy kinh Diệu pháp Liên hoa, bản kinh của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho Bồ tát và được Phật giữ gìn. Kính lạy tất cả Pháp bảo trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni, đức Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp Hoa. Kính lạy đức Đa Bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp Hoa toàn là chân thật. Kính lạy đức Di Lạc, đức Phật đương lai, đã phát khởi kinh Pháp Hoa và tiếp dẫn những người hành trì Pháp Hoa vãng sinh Đâu suất tịnh độ. Kính lạy tất cả Phật bảo trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy bồ tát Văn Thù, vị pháp sư Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Phổ Hiền, vị khuyến phát Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Quan Âm, vị đại sĩ toàn diện. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ. 

Phẩm 8:  Năm trăm đệ tử tiếp nhận thọ ký

Lúc ấy tôn giả Phú lâu Na, từ nơi đức Thế Tôn, được nghe sự tùy nghi thuyết pháp của tuệ giác và phương tiện, nghe trao cho chư vị đại đệ tử lời ghi thành tựu tuệ giác vô thượng, nghe sự tương quan từ bao đời trước, nghe thần lực đại tự tại của đức Thế Tôn, nên được sự chưa từng có, tâm trí trong sáng, phấn chấn, tức thì đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, bước đến trước đức Thế Tôn, đầu mặt lạy ngang chân ngài, rồi đứng lui một khoảng, chiêm ngưỡng dung nhan của ngài mà mắt không tạm thời rời ra, trong lòng nghĩ rằng đức Thế Tôn rất kỳ lạ, việc ngài làm thật hiếm có. Ngài thích ứng với bao nhiêu thành phần của thế gian, sử dụng tuệ giác và phương tiện mà thuyết pháp cho họ, kéo họ ra khỏi mọi chỗ tham đắm vướng mắc. Đối với đức tính của đức Thế Tôn, lời nói chúng ta không thể nói hết. Chỉ có đức Thế Tôn mới biết ước nguyện căn bản trong tâm lý sâu xa của chúng ta.

Vào lúc ấy đức Thế Tôn bảo, chư vị tỷ kheo, chư vị thấy tôn giả Phú lâu Na đây không? Như Lai thường ca tụng tôn giả là người bậc nhất trong những người thuyết pháp, lại thường tán dương công đức của tôn giả tinh tiến duy trì và góp sức tuyên dương đối với chánh pháp của Như Lai: có năng lực ở trong bốn chúng mà trình bày, thuyết phục, khuyến khích và tán thưởng cho họ, giải thích phong phú chánh pháp của Như Lai mà ích lợi lớn lao cho những người đồng hành phạn hạnh. Ngoại trừ Như Lai, không ai cùng tận được sự biện thuyết của tôn giả. Chư vị đừng nói tôn giả Phú lâu Na chỉ có năng lực duy trì và tuyên dương chánh pháp của Như Lai mà thôi. Nơi chín mươi ức chư Phật quá khứ, tôn giả cũng đã duy trì và tuyên dương chánh pháp của các ngài. Trong những người thuyết pháp của các ngài, tôn giả cũng đứng bậc nhất. Tôn giả rõ ràng thấu suốt về Không mà chư Phật ấy nói, được bốn trí thông suốt, thường xuyên thuyết pháp một cách xác tín, trong sạch, không còn nghi hoặc. Tôn giả có đủ thần lực bồ tát, và sống lâu bao nhiêu thì thực hành phạn hạnh bấy nhiêu. Người của mọi thời kỳ chư Phật ấy ai cũng nói vị này thật là thanh văn, và tôn giả cũng đem phương tiện như vậy mà ích lợi vô số trăm ngàn chúng sinh. Tôn giả lại giáo hóa vô lượng vô số chúng sinh, làm cho họ đứng trong tuệ giác vô thượng. Nói tóm, vì mục đích tịnh hóa quốc độ mà tôn giả thường làm việc Phật làm là giáo hóa chúng sinh. Chư vị tỷ kheo, trong thời kỳ bảy đức Phật, tôn giả Phú lâu Na cũng là người đứng bậc nhất trong những người thuyết pháp. Thời kỳ chư Phật đương lai trong Hiền kiếp này, tôn giả cũng vẫn là người bậc nhất trong những người thuyết pháp, cũng vẫn duy trì và tuyên dương chánh pháp của chư Phật ấy. Thời kỳ vị lai sau đó nữa, tôn giả cũng duy trì và tuyên dương chánh pháp của vô lượng vô biên chư Phật, cũng giáo hóa ích lợi vô số chúng sinh cho họ đứng trong tuệ giác vô thượng, cũng vì mục đích tịnh hóa quốc độ mà thường xuyên tinh tiến giáo hóa chúng sinh.

Khi hoàn bị dần dần về đường đi như vậy của bồ tát, qua vô lượng thời kỳ vô số rồi, tôn giả Phú lâu Na sẽ ở chính nơi quốc độ này mà thành tựu tuệ giác vô thượng, danh hiệu là Pháp Minh Như Lai, đủ mười đức hiệu. Pháp Minh Như Lai lấy những đại thiên thế giới nhiều bằng cát sông Hằng mà làm một cõi Phật của mình, đất là bảy chất liệu quí báu, bằng phẳng như bàn tay, không có núi gò, khe suối, ngòi lạch, hang hóc. Lầu đài bằng bảy chất liệu quí báu thì tràn đầy cõi Phật ấy. Cung điện chư thiên thì ở gần trong không gian, nên người với trời giao tiếp, hai bên thấy nhau được cả. Cõi Phật ấy không có đường dữ, nữ nhân cũng không. Mọi người đều sinh ra bằng sự biến hóa, không có dâm dục. Ai cũng có thần thông quảng đại, thân phát ánh sáng, bay đi tự tại, trí nhớ vững chắc, tinh tiến, trí tuệ. Thân người nào cũng màu hoàng kim, tự trang hoàng bằng ba mươi hai tướng tốt. Cả cõi Phật ấy ai cũng thường ăn bằng hai sự ăn: ăn bằng cái vui chánh pháp và ăn bằng cái vui thiền định. Có chúng chư bồ tát nhiều đến hàng ức trăm triệu, đều được thần thông quảng đại và bốn trí thông suốt, khéo léo giáo hóa các loại chúng sinh. Còn chúng chư thanh văn thì toán số không thể xác định, vị nào cũng trọn vẹn sáu thần thông, ba minh trí và tám giải thoát. Cõi Phật của đức Pháp Minh Như Lai sẽ có vô lượng thành quả trang nghiêm như vậy. Thời kỳ của ngài tên là Bảo Minh, cõi Phật của ngài tên là Thiện tịnh, và ngài sống lâu đến vô lượng thời kỳ vô số, giáo pháp tồn tại cũng cực kỳ lâu dài. Ngài nhập diệt rồi, những ngôi tháp bằng bảy chất liệu quí báu được xây dựng lên khắp cả cõi Phật.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Chư vị tỷ kheo,
hãy nghe cho kỹ:
con Phật hoàn thành
đường đi của mình
với những phương tiện
đã khéo học tập,
cho nên khó thể
nghĩ bàn về họ.

(2) Thấu hiểu chúng sinh
thích giáo pháp nhỏ
và rất e sợ
tuệ giác vĩ đại,
nên các vị ấy
chính là bồ tát
mà làm thanh văn
hay làm duyên giác.

(3) Áp dụng vô số
cách thức phương tiện,
các vị giáo hóa
đủ loại chúng sinh,
trong khi tự xưng
mình là thanh văn
cách biệt xa vời
tuệ giác của Phật.

(4) Các vị hóa độ
vô lượng các chúng,
làm cho ai nấy
đều được thành thục:
dẫu ai lúc đầu
ưa thích thấp nhỏ
và hơi biếng nhác,
nhưng rồi các vị
dần dần làm cho
sẽ thành Phật cả.

(5) Ở trong cất chứa
phẩm chất bồ tát
bề ngoài hiện ra
hình dáng thanh văn,
các vị tỏ ra
ít sự ham muốn
chán sự sống chết,
nhưng thật các vị
tựï làm trong sạch
cõi Phật của mình.

(6) Lại còn tỏ ra
có tham sân si,
tỏ ra thích nghi
hình thức tà kiến.

(7) Đệ tử Như Lai
làm đến như vậy
để mà phương tiện
hóa độ chúng sinh.
Như Lai nói hết
những sự biểu hiện
giáo hóa như vậy,
chúng sinh nghe đến
tất có những người
hoài nghi lầm lẫn.

(8-Ngày nay tôn giả
9) Phú lâu Na đây,
nơi ngàn ức Phật
trong thì quá khứ
đã siêng thực hiện
đường đi của mình:
tuyên dương duy trì
chánh pháp chư Phật
để cầu đạt được
tuệ giác vô thượng.
Nên tôn giả đã
ở nơi chư Phật
làm người đứng đầu
trong hàng đệ tử
về sự đa văn
cùng với trí tuệ,
thuyết pháp một cách
không có e sợ,
có thể làm cho
các chúng hoan hỷ.
Tôn giả chưa từng
chán nản mỏi mệt
trong sự hổ trợ
việc làm của Phật.

(10) Tôn giả vượt đến
thần thông rộng lớn,
lại có đủ cả
bốn trí thông suốt,
biết rõ mọi người
trình độ lanh chậm,
rồi thường tuyên thuyết
về pháp trong sáng.

(11) Phô bày thích thú
nghĩa của pháp ấy,
giáo hóa chúng sinh
nhiều ngàn vạn ức
cho họ ngồi vào
cỗ xe vĩ đại,
và bằng cách ấy
mà tôn giả này
tự làm trong sạch
cõi Phật của mình.

(12) Trong thì vị lai
tôn giả lại còn
phụng sự vô số
chư Phật Như Lai,
duy trì tuyên dương
chánh pháp các ngài,
cũng để tịnh hóa
cõi Phật của mình.

(13) Thường xuyên vận dụng
các cách phương tiện,
tôn giả thuyết pháp
không sợ gì cả,
hóa độ các chúng
không thể tính kể
cho họ thành đạt
tuệ giác hoàn toàn.

(14) Phụng sự chư Phật
bằng cách kính giữ
kho tàng chánh pháp
quí báu bậc nhất,
sau đó tôn giả
được thành Phật đà
với danh hiệu là
Pháp Minh Như Lai.

(15-Cõi Phật của ngài
16) tên là Thiện tịnh
do bảy chất quí
kết hợp mà thành.
Thời kỳ của ngài
tên là Bảo minh.
Chúng chư bồ tát
rất là đông nhiều,
số lượng đạt đến
vô số vạn ức,
toàn đã đạt được
thần thông quảng đại,
uy đức năng lực
hoàn bị đầy đủ,
những vị như vậy
đầy cõi của ngài.

(17) Chúng chư thanh văn
cũng là vô lượng,
đủ ba minh trí
và tám giải thoát,
lại còn có được
bốn trí thông suốt,
những vị như vậy
lấy làm Tăng bảo.

(18) Toàn cõi Thiện tịnh
tất cả mọi người
đã đoạn trừ hết
những cách dâm dục,
thuần nhất như nhau
sinh bằng biến hóa,
ba mươi hai tướng
trang hoàng thân thể.

(19) Vui đẹp về pháp
vui đẹp về định,
người Thiện tịnh ăn
bằng hai sự ấy,
không còn tưởng đến
những cách ăn khác.
Cõi Phật như vậy
không có nữ nhân,
các nẽo đường dữ
cũng không còn có.

(20) Vị đại tỷ kheo
Phú lâu Na này,
mọi phẩm chất Phật
thành mãn cả rồi
sẽ được cõi Phật
trong sạch như vậy.
Nơi đó rất nhiều
chư vị hiền thánh
và vô lượng việc
cùng loại như thế,
nay đây Như Lai
chỉ nói sơ lược.

Lúc ấy một ngàn hai trăm vị La hán, những bậc tâm đã tự tại, đều nghĩ rằng chúng ta rất hoan hỷ, được sự chưa từng có. Nếu chúng ta được đức Thế Tôn thọ ký cho như các vị đại đệ tử của ngài thì thật thích thú. Đức Thế Tôn biết rõ ý nghĩ trong lòng của chư vị ấy nên bảo tôn giả Đại ca Diếp, một ngàn hai trăm vị La hán này, Như Lai nay tuần tự trao cho họ lời ghi thành tựu tuệ giác vô thượng.

Đại ca Diếp, trong chúng La hán này, đại đệ tử của Như Lai là tỷ kheo Kiều trần Như sẽ phụng sự sáu vạn hai ngàn ức chư Phật, sau đó thành Phật với danh hiệu Phổ Minh Như Lai, đủ mười đức hiệu. Năm trăm vị trong số một ngàn hai trăm vị La hán, đại loại như các tôn giả Tần loa ca Diếp, Già da ca Diếp, Na đề ca Diếp, Ca lưu đà Di, Ưu đà Di, A nâu lâu Đà, Ly bà Đa, Kiếp tân Na, Bạc câu La, Châu Đà, Sa già Đà, đều sẽ được tuệ giác vô thượng và cùng một danh hiệu Phổ Minh Như Lai.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(21-22) Vị đại tỷ kheo
Kiều trần Như này
sẽ gặp vô lượng
chư Phật Như Lai,
trải qua thời kỳ
nhiều đến vô số
mới thành một bậc
Biết khắp và đúng.

(23) Thường xuyên phóng ra
ánh sáng rất lớn,
đầy đủ hết thảy
các thần thông lực,
danh tiếng vang động
khắp cả mười phương,
hết thảy chúng sinh
ai cũng tôn kính,
và thường tuyên thuyết
tuệ giác vô thượng,
vì vậy mà được
danh hiệu Phổ Minh.

(24-Quốc độ trong sạch,
25) bồ tát dũng mãnh,
ai cũng lên ngự
lầu đài đẹp đẽ,
bay dạo khắp cả
mười phương quốc độ,
đem những cúng phẩm
giá trị tối thượng
cung kính hiến lên
chư Phật Như Lai.

(26) Hiến cúng thế rồi
lòng rất hoan hỷ,
giây lát về lại
quốc độ của mình:
thần lực họ có
đến như thế ấy.

(27) Phổ Minh Như Lai
sống lâu đến số
sáu vạn thời kỳ,
giáo pháp nguyên chất
tồn tại gấp đôi
thì gian sống lâu.

(28) Giáo pháp tương tự
lại tồn tại đến
gấp đôi thì gian
giáo pháp nguyên chất.
Và khi giáo pháp
ẩn mất không còn
thì cả trời người
đều rất lo buồn.
*

(29) Còn năm trăm vị
tỷ kheo khác nữa
đều sẽ tuần tự
mà thành Phật đà,
và cùng danh hiệu
Phổ Minh Như Lai.

(30) Chư Phật như vậy
triển chuyển tuần tự
thọ ký cho nhau,
rằng khi Như Lai
nhập niết bàn rồi,
vị này kế vị
làm Phật giáo chủ,
giáo hóa thế gian
y như Như Lai
giáo hóa hiện giờ.

(31-Đến như quốc độ
32) đẹp sạch ra sao,
năng lực thần thông
quảng đại thế nào,
thanh văn bồ tát
nhiều đến bao nhiêu,
giáo pháp nguyên chất
giáo pháp tương tự
cùng với đời sống
nhiều ít thế nào,
hết thảy đều như
ở trên đã nói.

(33) Này Đại ca Diếp,
tôn giả đã biết
về năm trăm vị
Tâm tự tại rồi,
còn các vị khác
trong chúng thanh văn
tất cả cũng được
thọ ký như vậy.
Vị nào vắng mặt
trong đại hội này,
tôn giả truyền đạt
cho vị ấy biết.

Năm trăm vị La hán đối trước đức Thế Tôn được thọ ký rồi, hoan hỷ, phấn chấn, tức thì đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, đến trước đức Thế Tôn, đầu mặt lạy ngang chân ngài, hối lỗi, tự trách, bằng cách thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, chúng con thường có ý nghĩ tự cho đã được niết bàn cuối cùng. Ngày nay mới biết ý nghĩ ấy thật như một kẻ vô trí. Tại sao, vì chúng con phải được tuệ giác của Phật, vậy mà tự cho tuệ giác nhỏ mọn đã là đầy đủ.

Bạch đức Thế Tôn, ví như có kẻ đến nhà bạn thân, say rượu nằm ngủ. Bấy giờ người bạn sắp đi việc công, nên đem viên ngọc vô giá buộc vào áo trong của người ấy. Cho như vậy rồi đi. Người ấy ngủ say, không hay biết gì cả. Tỉnh dậy thì lang thang đến xứ khác. Vì cơm áo mà ra sức làm lụng rất cực nhọc. Và kiếm được chút ít thì tự cho đã đủ. Về sau người bạn thân gặp lại, thấy mà phải kêu lên, quái lạ cho một kẻ nam nhi, sao lại vì cơm áo mà đến nông nỗi này! Trước đây, tôi muốn làm cho anh yên vui sung sướng, mặc ý hưởng thụ năm thứ dục lạc, nên ngày tháng năm ấy, tôi đã đem viên ngọc vô giá buộc vào áo trong của anh. Nay đang còn kia. Sao anh không biết, để phải khó nhọc, lo lắng kiếm cách mới sống. Anh thật khờ dại. Bây giờ anh hãy đem viên ngọc ấy đổi lấy những thứ cần dùng, thì luôn luôn vừa ý, không còn thiếu thốn gì nữa.

Đức Thế Tôn cũng vậy. Khi ngài làm bồ tát, đã giáo hóa chúng con phát ra chí nguyện mong cầu tuệ giác của bậc Toàn giác, nhưng chúng con quên ngay, không hay biết gì hết. Được đạo quả La hán là tự cho đã niết bàn, như kẻ kiếm sống cực nhọc nên chỉ được chút ít mà tự cho đã đủ. Trong khi đó chí nguyện về tuệ giác của bậc Toàn giác vẫn còn y nguyên, không mất đi đâu cả. Ngày nay đức Thế Tôn thức tỉnh chúng con, bằng cách dạy rằng, chư vị tỷ kheo, cái mà chư vị được chưa phải niết bàn cuối cùng. Như Lai từ xưa đã dạy cho chư vị gieo trồng gốc rễ điều lành của Phật; chỉ vì phương tiện nên Như Lai nói cái chư vị được là niết bàn, vậy mà chư vị lại cho là thật được niết bàn. Bạch đức Thế Tôn, ngày nay chúng con mới biết mình thật là bồ tát, được nhận lời ghi về tuệ giác vô thượng. Do vậy mà chúng con cùng cực hoan hỷ, được sự chưa từng có.

Tôn giả Kiều trần Như, và các vị đồng đẳng, lặp lại ý nghĩa đã thưa bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(34) Chúng con nghe được
âm thanh tối thượng
của đức Thế Tôn
an ủi thọ ký,
lòng rất vui mừng
được chưa từng có.
Chúng con chí thành
kính lạy Thế Tôn,
một bậc Tuệ giác
không có giới hạn!

(35) Ngày nay chúng con
đối trước Thế Tôn
xin tự sám hối
lầm lỗi ngày xưa.
Vàng ngọc Thế Tôn
thật là vô lượng,
chúng con chỉ được
ít phần niết bàn,
mà đã in như
một kẻ vô trí
tự cho mình được
đầy đủ cả rồi.

(36) Như kẻ nghèo nàn
đến nhà bạn thân.
Bạn giàu có lớn
đãi đủ cỗ bàn;

(37) đem ngọc vô giá
buộc vào áo trong,
yên lặng biếu cho
để đó mà đi,
trong khi người nghèo
say ngủ không biết.

(38) Người nghèo thức dậy
lang thang xứ khác,
tìm kiếm cơm áo
để tự nuôi mình.
Kiếm sống như vậy
rất là cực nhọc.

(39) Và được chút ít
đã hài lòng rồi,
không còn ước nguyện
ưa thích gì nữa.
Không biết áo trong
có ngọc vô giá.

(40) Người bạn cho ngọc
sau gặp người nghèo,
trách mắng nghiêm khắc
rồi chỉ cho anh
viên ngọc vô giá
đã buộc áo trong.

(41) Người nghèo được ngọc
lòng rất vui thích.
Viên ngọc làm anh
giàu có của cải,
năm thứ dục lạc
mặc sức thụ hưởng.

(42) Chúng con cũng vậy.
Thế Tôn từ xưa
đã từng thương tưởng
giáo hóa chỉ dạy,
gieo vào chúng con
chí nguyện tối thượng.

(43) Chúng con vô trí
không hay không biết;
chỉ mới đạt được
ít phần niết bàn,
đã tự thỏa mãn
không cầu gì nữa.

(44) Ngày nay Thế Tôn
thức tỉnh chúng con:
cái chúng con được
chưa thật niết bàn;
đạt được tuệ giác
vô thượng của Phật,
bấy giờ mới là
niết bàn chân thật.

(45) Ngày nay chúng con
từ đức Thế Tôn
nghe sự huy hoàng
ngài thọ ký cho,
nghe sẽ tuần tự
thọ ký cho nhau,
thì cả thân tâm
tràn đầy hoan hỉ.

Phẩm 9: Thọ ký cho các vị tu học tiếp tục  và tu học hoàn tất

Lúc ấy các tôn giả A nan Đà và La hầu La đều nghĩ, chúng ta tự xét nếu được đức Thế Tôn trao cho lời ghi thành tựu tuệ giác vô thượng thì thích thú biết bao. Các tôn giả ấy liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước đức Thế Tôn, đầu mặt lạy ngang chân ngài và cùng thưa, bạch đức Thế Tôn, trong việc thọ ký chúng con cũng đáng có phần, chỉ có đức Thế Tôn là đấng chúng con nương tựa. Chúng con được thế giới này, kể cả chư thiên, nhân loại và tu la, ai cũng biết đến. Họ biết A nan Đà con đây thường làm thị giả của đức Thế Tôn, coi giữ kho tàng chánh pháp của ngài; còn La hầu La con đây là con trai của đức Thế Tôn khi ngài chưa xuất gia. Nếu đức Thế Tôn trao cho chúng con lời ghi thành tựu tuệ giác vô thượng, thì ước nguyện của chúng con đã đạt mà ước vọng của các chúng cũng thỏa. Bấy giờ hai ngàn vị đệ tử thanh văn của đức Thế Tôn mà sự tu học đang tiếp tục hay đã hoàn tất, cũng đều đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, vai bên phải trần pháp y, cùng đến trước đức Thế Tôn, chuyên chú mà chắp tay chiêm ngưỡng, cùng biểu lộ sự ước nguyện như ước nguyện của các tôn giả A nan Đà và La hầu La, rồi đứng cách một khoảng.

Khi ấy đức Thế Tôn bảo tôn giả A nan Đà, trong thì vị lai, tôn giả sẽ được thành Phật với danh hiệu Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai, đủ mười đức hiệu. Tôn giả sẽ phụng sự sáu mươi hai ức chư Phật, coi giữ kho tàng chánh pháp của các ngài, sau đó thực hiện tuệ giác vô thượng, giáo hóa bồ tát nhiều bằng nhiều ức hằng sa, làm cho thành thục tuệ giác vô thượng. Quốc độ tên là Ngọn cờ siêu việt thường dựng cao lên, toàn cõi trong sạch, đất bằng lưu ly. Thời kỳ tên là Âm thanh tinh túy vang dội khắp cả. Sơn hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai sống lâu vô số thời kỳ vô số, giả sử có ai tính kể trong ngàn vạn ức thời kỳ vô số cũng không biết được. Giáo pháp nguyên chất tồn tại thế giới gấp đôi thì gian sống lâu, giáo pháp tương tự tồn tại thế giới gấp đôi giáo pháp nguyên chất. A nan Đà, Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai được nhiều ức hằng sa chư Phật ở khắp mười phương cùng nhau ca tụng tán dương thành quả của ngài.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Như Lai ngày nay
nói giữa chư Tăng,
rằng A nan Đà
người giữ chánh pháp,
tương lai phụng sự
chư vị Phật đà,
rồi thành một bậc
Biết đúng và khắp.

(2) Bậc ấy tên là
Sơn Hải Tuệ Vương.
Quốc độ trong sạch
và có tên là
Ngọn cờ Siêu việt
thường dựng cao lên.

(3) Ngài giáo hóa cho
chư vị bồ tát
số lượng nhiều bằng
cát của sông Hằng.
Uy đức ngài có
vô cùng lớn lao,
danh tiếng vang động
khắp cả mười phương.

(4) Vì thương chúng sinh,
ngài sống vô lượng.
Giáo pháp nguyên chất
gấp đôi sống lâu,
giáo pháp tương tự
gấp đôi nguyên chất.

(5) Hằng hà sa số
vô lượng chúng sinh
ở trong giáo pháp
của đức Phật ấy
gieo trồng nhân tố
tuệ giác Phật đà.

Bấy giờ trong đại hội, bồ tát mới phát tâm có tám ngàn vị cùng nghĩ rằng, đến như chư vị đại bồ tát mà chúng ta cũng không nghe thấy được thọ ký như vầy, vì nguyên nhân nào mà chư vị thanh văn lại được phán quyết như vậy? Đức Thế Tôn biết ý nghĩ ấy của các vị bồ tát mới phát tâm nên bảo, chư thiện nam tử, Như Lai cùng với tôn giả A nan Đà, và các vị đồng hàng với tôn giả ấy, đã từng ở nơi đức Không Vương Như Lai, đồng thời phát ra tâm chí mong cầu tuệ giác vô thượng. Nhưng tôn giả A nan Đà thường thích đa văn, còn Như Lai thường siêng tinh tiến, nên Như Lai thành tựu tuệ giác vô thượng mà tôn giả A nan Đà coi giữ kho tàng chánh pháp của Như Lai. Tôn giả ấy cũng coi giữ kho tàng chánh pháp của chư Phật vị lai, giáo hóa tác thành chư vị bồ tát. Bản nguyện tôn giả ấy là như vậy nên được thọ ký như trên.

Tôn giả A nan Đà đối diện đức Thế Tôn, đích thân nghe được lời ghi nhận của ngài trao cho, nghe được sự huy hoàng của quốc độ tương lai của mình, thì ước nguyện thỏa mãn, lòng rất hoan hỷ, được sự chưa từng có, tức khắc nhớ được kho tàng chánh pháp của nhiều ức chư Phật quá khứ, thông suốt vô ngại như thể hiện tại mới nghe, lại nhớ được cả bản nguyện của mình. Tôn giả thưa đức Thế Tôn với lời chỉnh cú sau đây.

(6) Thế Tôn quả thực
cực kỳ hiếm có:
làm con nhớ lại
kho tàng chánh pháp
của vô số Phật
thuộc thì quá khứ,
tựa như mới nghe
trong ngày hôm nay.

(7) Nay con không còn
nghi hoặc gì nữa;
đứng vững ở trong
tuệ giác Phật đà,
phương tiện mà làm
một vị thị giả
để được coi giữ
chánh pháp chư Phật.

Khi ấy đức Thế Tôn bảo tôn giả La hầu La, trong thì vị lai, tôn giả sẽ được thành Phật với danh hiệu Đạp Thất Bảo Hoa Như Lai, đủ mười đức hiệu. Tôn giả sẽ phụng sự chư Phật bằng số vi trần của mười thế giới và, y như đời này, tôn giả thường làm trưởng tử của các ngài. Sự huy hoàng của quốc độ, số lượng thời kỳ của sự sống lâu, đệ tử được giáo hóa, giáo pháp nguyên chất và tương tự, tất cả điều này của đức Đạp Thất Bảo Hoa Như Lai đều giống như của đức Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai, không khác gì cả. Tôn giả cũng sẽ làm trưởng tử của ngài, và qua thì gian ấy rồi sẽ được tuệ giác vô thượng. Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(8) Thì gian Như Lai
còn làm thái tử
thì La Hầu La
là vị trưởng tử,
Như Lai thành Phật
thì La Hầu La
tiếp nhận chánh pháp
mà làm pháp tử.

(9) Trong thì vị lai
tôn giả gặp được
vô số ức Phật,
cũng làm trưởng tử
chuyên tâm mà cầu
tuệ giác Phật đà.

(10) Hạnh nguyện kín đáo
của La Hầu La,
chỉ có Như Lai
mới thấu hiểu được,
thị hiện mà làm
trưởng tử Như Lai
là để khải thị
cho bao chúng sinh.

(11) La Hầu La đây
có vô số lượng
vạn ức công đức
không thể tính kể.
Tôn giả sống trong
chánh pháp Như Lai
để cầu đạt được
tuệ giác vô thượng.

Đức Thế Tôn lại thấy hai ngàn vị tu học tiếp tục và tu học hoàn tất tâm ý của họ mềm dịu, vắng lặng, trong suốt, chuyên chú nhìn ngài, nên ngài bảo tôn giả A nan Đà, tôn giả thấy hai ngàn vị còn học và học xong này chăng? Con thấy, bạch đức Thế Tôn. A nan Đà, các vị này sẽ phụng sự chư Phật nhiều bằng vi trần của năm chục thế giới, cung kính, tôn trọng, coi giữ kho tàng chánh pháp của các ngài, và cuối cùng thì đồng thời thành Phật ở khắp mười phương quốc độ, với danh hiệu đồng nhất là Bảo Tướng Như Lai, đủ mười đức hiệu. Lại cùng sống lâu một thời kỳ. Sự tráng lệ của quốc độ, chúng thanh văn và chúng bồ tát, giáo pháp nguyên chất và tương tự, tất cả cũng đồng đẳng. Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(12) Hai ngàn thanh văn
trước Như Lai đây,
Như Lai phán quyết
vị lai thành Phật.

(13) Chư Phật Như Lai
mà các vị ấy
sẽ được phụng sự
thì như vi trần
mà Như Lai đã
so sánh ở trên.
Các vị coi giữ
kho tàng chánh pháp
của chư Phật ấy,
và rồi cuối cùng
được thành một bậc
Biết đúng và khắp.

(14) Tại các quốc độ
khắp cả mười phương,
tất cả các vị
đồng một danh hiệu,
đồng thời cùng ngồi
nơi bồ đề tràng,
để cùng thành tựu
tuệ giác vôthượng.

(15-Danh hiệu Bảo Tướng,
16) quốc độ, đệ tử,
giáo pháp nguyên chất,
giáo pháp tương tự,
tất cả điều này
đồng đẳng không khác.
Lại cũng đồng đẳng
sử dụng thần lực
giáo hóa cứu độ
mười phương chúng sinh,
danh tiếng vang dội
lan tràn khắp cả,
và rồi dần dần
cùng lúc nhập diệt.

Bấy giờ hai ngàn vị tu học tiếp tục và tu học hoàn tất nghe đức Thế Tôn thọ ký cho như vậy, ai cũng hoan hỷ, phấn chấn, cùng nói lời chỉnh cú sau đây.

(17-Thưa đức Thế Tôn,
18) Ánh sáng đèn tuệ!
Chúng con nghe được
tiếng ngài thọ ký,
tâm thức chúng con
tràn ngập hoan hỷ,
y như được rưới
với nước cam lộ.

 Phẩm 10:  Người diễn giảng Pháp Hoa

Khi ấy đức Thế Tôn qua bồ tát Dược Vương mà nói với tám vạn đại sĩ, Dược Vương, đại sĩ hãy nhìn, đại hội này có vô lượng tám bộ, bốn chúng, những người cầu tuệ giác Thanh văn, cầu tuệ giác Duyên giác hay cầu tuệ giác Phật đà. Các chúng như thế này hiện ở trước Như Lai mà nghe kinh Pháp Hoa, thì dẫu chỉ nghe được một bài chỉnh cú, một câu đủ nghĩa, hay đến nỗi chỉ có được một ý niệm tùy hỷ mà thôi, Như Lai cũng thọ ký cho tất cả sẽ được tuệ giác vô thượng. Dược Vương, sau khi Như Lai nhập diệt, nếu có người nào nghe kinh Pháp Hoa, thì dẫu chỉ nghe được một bài chỉnh cú, một câu đủ nghĩa, hay đến nỗi chỉ chỉ có được một ý niệm tùy hỷ mà thôi, Như Lai cũng thọ ký cho tất cả sẽ được tuệ giác vô thượng.

Nếu có người nào đối với kinh Pháp Hoa, dẫu chỉ một bài chỉnh cú mà thôi, mà biết tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng nói cho người, hay sao chép ấn hành…; hoặc đối với cuốn kinh Pháp Hoa mà thôi mà biết kính và nhìn như kính và nhìn Như Lai, hiến cúng bằng các loại hoa, vòng hoa, các hương liệu, lọng dù, tràng phan, vải lụa bao bọc, kịch nhạc, hay đến nỗi chỉ chắp tay tôn kính, thì Dược Vương, hãy coi những người này như đã phụng sự mười vạn ức chư Phật và thành tựu đại nguyện nơi chỗ các ngài, nguyện thương chúng sinh mà sinh trong loài người này. Dược Vương, nếu ai hỏi người nào vị lai làm Phật, thì nên nói cho họ biết những người này vị lai quyết định làm Phật. Tại sao, vì nếu thiện nam hay thiện nữ nào đối với kinh Pháp Hoa, dầu chỉ một câu đủ nghĩa mà thôi, mà biết tiếp nhận ghi nhớ cho đến sao chép ấn hành…., biết hiến cúng cuốn kinh ấy bằng các loại hoa cho đến chắp tay tôn kính, thì người này tất cả thế gian nên chiêm ngưỡng tôn thờ, nên đem đồ hiến cúng Như Lai mà hiến cúng. Hãy coi người này như là vị đại bồ tát đang hoàn thành tuệ giác vô thượng, vì thương chúng sinh, nguyện sinh trong loài người này mà diễn giảng rộng rãi về kinh Pháp Hoa. Người tiếp nhận ghi nhớ cho đến sao chép ấn hành chỉ một câu kinh Pháp Hoa, hay chỉ hiến cúng cuốn kinh ấy mà đã như vậy, huống chi người tiếp nhận ghi nhớ cho đến sao chép ấn hành được cả bộ kinh ấy và hiến cúng đủ cả. Dược Vương, hãy coi người này như là người tự bỏ cái chỗ kết quả hành vi trong sạch của mình để, sau khi Như Lai nhập diệt, vì thương chúng sinh mà sinh trong thời kỳ dữ dội, diễn giảng rộng rãi về kinh Pháp Hoa. Lại nữa, sau khi Như Lai nhập diệt, thiện nam hay thiện nữ trên đây nếu có thể kín đáo nói cho một người về kinh Pháp Hoa, thì dầu chỉ nói được một câu đủ nghĩa mà thôi, cũng nên coi người ấy là sứ giả của Như Lai, được Như Lai phái đến để làm công việc của Như Lai. Kín đáo nói kinh Pháp Hoa cho một người và chỉ nói được một câu mà còn như vậy, huống chi có thể công khai ở giữa công chúng mà nói cho mọi người một cách rộng rãi về kinh ấy.

Dược Vương, nếu có kẻ độc ác đem tâm độc ác, suốt một thời kỳ đối diện xúc phạm Như Lai mãi, tội của kẻ ấy vẫn nhẹ. Nếu có kẻ đem một lời độc ác mà thôi mà phỉ báng người đọc xét văn nghĩa hay tụng được thuộc lòng kinh Pháp Hoa, thì không kể người đọc tụng ấy tại gia hay xuất gia, tội của kẻ này mới rất nặng. Dược Vương, ai đọc xét văn nghĩa hay tụng được thuộc lòng kinh Pháp Hoa thì nên coi người ấy đem trang phục của Như Lai mà trang sức cho mình. Người ấy được Như Lai đem vai mang vác. Người ấy đến đâu thì nên hướng theo mà thi lễ, nên chuyên chú chắp tay mà cung kính hiến cúng tôn trọng tán dương, nên đem các loại hoa, vòng hoa, các hương liệu, lọng dù, tràng phan, y phục, cỗ bàn, diễn tấu kịch nhạc, nói tóm, nên đem đồ hiến cúng thượng hạng trong loài người mà hiến cúng; nên đem ngọc của chư thiên mà tung rải, cả đống ngọc thượng hạng của chư thiên cũng nên đem ra mà phụng hiến. Tại sao, vì người ấy hoan hỷ diễn giảng Pháp Hoa thì nghe trong chốc lát cũng mau được trọn vẹn tuệ giác vô thượng.

Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây:

(1) Muốn đặt mình vào
đường đi của Phật
để được thành đạt
tuệ giác tự nhiên
thì phải thường xuyên
nỗ lực hiến cúng
những người tiếp nhận
kính giữ Pháp Hoa.

(2) Những ai ước muốn
mau chóng đạt được
tuệ Biết tất cả
thì phải tiếp nhận
ghi nhớ Pháp Hoa,
và nên hiến cúng
những người tiếp nhận
kính giữ kinh ấy.

(3) Người nào có thể
tiếp nhận kính giữ
kinh Pháp Hoa này,
thì hãy nên coi
người ấy chính là
Như Lai phái đến,
vì thương chúng sinh
mà giảng kinh này.

(4) Người nào có thể
tiếp nhận kính giữ
kinh Pháp Hoa này,
thì hãy coi là
người tự rời bỏ
quốc độ trong sạch,
vì thương chúng sinh
mà sinh ở đây.

(5) Thì hãy nên coi
người ấy là người
đã được tự tại
chỗ họ muốn sinh,
có thể sinh trong
thời kỳ dữ dội
mà nói rộng rãi
Pháp Hoa tối thượng.

(6) Nên đem hoa hương
cùng với y phục
của hàng chư thiên,
lại đem cả đống
ngọc đẹp thượng hạng
cũng của chư thiên,
mà hiến cho người
diễn giảng Pháp Hoa.

(7) Sau khi Như Lai
nhập niết bàn rồi,
trong thời dữ dội
người nào có thể
tiếp nhận kính giữ
kinh Pháp Hoa này,
thì ai cũng nên
chắp tay kính lạy,
in như tôn kính
đối với Như Lai.

(8) Cỗ bàn thượng hạng
vật thực cam mỹ
y phục đủ loại
đều đem hiến cúng
con Phật như vậy,
và mong chốc lát
được nghe người ấy
diễn giảng Pháp Hoa.

(9) Thời dữ sau này
ai có năng lực
tiếp nhận kính giữ
kinh Pháp Hoa này,
người ấy là người
Như Lai phái đến
trong loài người này
làm việc Như Lai.

(10) Suốt một thời kỳ
thường mang ác ý
xúc phạm Như Lai
thì tội vô lượng.

(11) Nhưng có người nào
đọc xét văn nghĩa
tụng được thuộc lòng
kính giữ Pháp Hoa,
mà trong chốc lát
đem lời độc ác
đổ vào người ấy,
thì tội kẻ này
hơn cả kẻ ác
xúc phạm Như Lai.

(12) Có người cầu mong
tuệ giác Phật đà,
cho nên trải qua
trọn một thời kỳ,
đứng trước Như Lai
chắp tay tán dương
bằng vô số lượng
bài văn chỉnh cú.

(13) Tán dương như vậy
được phước vô cùng,
nhưng ai tán thưởng
người giữ Pháp Hoa,
thì phước họ được
hơn cả người kia.

(14-15) Trải qua thời kỳ
 đến tám mươi ức,
đem cả sắc thanh
hương vị và xúc
loại quí trọng nhất,
hiến cúng cho người
kính giữ Pháp Hoa,
và hiến cúng rồi
được nghe chốc lát
người ấy diễn giảng
kinh Pháp Hoa này,
thì nên tự mừng
rằng mình nhận được
ích lợi lớn lao.
Dược Vương đại sĩ,
ngày nay Như Lai
tuyên cáo rõ ràng
để chư vị biết:
bao nhiêu kinh pháp
Như Lai tuyên thuyết,
trong kinh pháp ấy
Pháp Hoa hơn cả.

Khi ấy đức Thế Tôn lại bảo Dược Vương đại sĩ, bao nhiêu kinh pháp của Như Lai tuyên thuyết, đã tuyên thuyết đang tuyên thuyết và sẽ tuyên thuyết, có đến hàng vạn hàng ức. Nhưng trong tất cả kinh pháp ấy, kinh Pháp Hoa này rất khó tin khó hiểu. Dược Vương, kinh này là kho tàng bí yếu của chư Phật, không thể bủa ra mà trao cho người một cách bừa bãi. Kinh này chư Phật giữ gìn, từ trước đến nay Như Lai chưa hề nói đến một cách minh bạch. Như Lai đang còn mà kinh này vẫn bị nhiều kẻ oán ghét, huống chi sau khi Như Lai nhập diệt. Cho nên Dược Vương, đại sĩ nên biết, sau khi Như Lai nhập diệt, đối với kinh Pháp Hoa, ai có năng lực sao chép ấn hành, tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, tôn kính hiến cúng, giảng nói cho người…, thì người ấy được Như Lai đem pháp y mà che phủ, lại được chư Phật hiện tại ở các quốc độ khác cùng giữ gìn cho, nên người ấy có được sức mạnh của đức tin vĩ đại, sức mạnh của chí nguyện, và sức mạnh của các gốc rễ pháp lành. Nên biết người ấy cư ngụ cùng tăng xá với Như Lai, được Như Lai đưa tay xoa đầu.

Dược Vương, bất cứ chỗ nào có diễn giảng, có đọc tụng, có sao chép đối với kinh Pháp Hoa, có đặt để cuốn kinh ấy, thì những chỗ như vậy nên xây dựng ngôi tháp bằng bảy chất liệu quí báu rất cao, rộng và đẹp, mà không cần tôn trí xá lợi vào trong ngôi tháp ấy, vì trong ngôi tháp ấy đã có toàn thân của Như Lai. Ngôi tháp ấy nên đem các loại hoa, vòng hoa, hương liệu, lọng dù, tràng phan, kịch nhạc và thi ca mà hiến cúng, cung kính, tôn trọng và tán dương. Ai thấy ngôi tháp ấy mà biết lễ bái hiến cúng, thì người này phải được coi là đến gần tuệ giác vô thượng.

Dược Vương, nhiều người, tại gia có xuất gia có, đi theo đường đi của bồ tát mà không được thấy nghe, đọc tụng, sao chép, ghi nhớ và hiến cúng kinh Pháp Hoa, thì nên biết những người ấy chưa khéo đi theo đường đi của bồ tát. Nếu được thấy nghe cho đến hiến cúng kinh này mới là khéo đi theo đường đi của bồ tát. Những người cầu tuệ giác Phật đà mà thấy nghe kinh Pháp Hoa, thấy nghe rồi tin tưởng, lý giải, tiếp nhận, ghi nhớ, thì nên biết những người ấy đã được đến gần tuệ giác vô thượng. Dược Vương, ví như có người đang khát, cần nước, nên ở chỗ cao nguyên đào đất mà tìm. Đào mà còn thấy đất khô thì biết nước còn xa. Ra công liên tục, dần dần thấy đất ướt rồi thấy đất bùn, thì lòng họ biết chắc đã gần đến nước. Bồ tát cũng vậy, chưa nghe, chưa hiểu, chưa được tu tập Pháp Hoa, thì nên biết người này còn cách xa tuệ giác vô thượng; nếu nghe, hiểu, tư duy và tu tập được Pháp Hoa, thì nên biết chắc chắn đã đến gần tuệ giác vô thượng. Tại sao, vì tuệ giác vô thượng của hết thảy bồ tát tìm cầu đều ở trong Pháp Hoa. Pháp Hoa mở cửa phương tiện mà chỉ tính chân thật. Kho tàng Pháp Hoa sâu, chắc, kín và xa, không ai thấu được. Như Lai ngày nay vì giáo hóa tác thành cho các vị bồ tát mới mở ra, chỉ cho. Dược Vương, nếu bồ tát nghe Pháp Hoa mà kinh sợ ngờ vực, thì nên biết đó là bồ tát mới phát tâm chí; còn thanh văn nghe Pháp Hoa mà kinh sợ ngờ vực, thì nên biết đó là kẻ tăng thượng mạn.

Dược Vương, sau khi Như Lai nhập diệt, thiện nam hay thiện nữ nào muốn diễn giảng Pháp Hoa cho bốn chúng, thì phải làm sao mới nên diễn giảng? Dược Vương, thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà của Như Lai, mặc áo của Như Lai và ngồi chỗ của Như Lai; phải như vậy mới nên diễn giảng Pháp Hoa cho bốn chúng một cách phong phú. Nhà của Như Lai là lòng đại từ bi đối với hết thảy chúng sinh. Áo của Như Lai là đức tính ôn hòa nhẫn nhục. Chỗ của Như Lai là nguyên lý Không của tất cả các pháp. Đặt mình vững vàng vào trong ba pháp như vậy, sau đó mới đem sự không biếng nhác mà diễn giảng một cách phong phú về Pháp Hoa cho chư vị bồ tát và tất cả bốn chúng. Dược Vương, Như Lai dẫu ở thế giới khác, vẫn phái những vị biến hóa tập hợp thính chúng cho người ấy, lại phái bốn chúng biến hóa đến nghe người ấy diễn giảng Pháp Hoa. Bốn chúng biến hóa này nghe Pháp Hoa của người ấy diễn giảng thì tin nhận, thích ứng, chứ không chống nghịch. Người ấy ở chỗ trống vắng, thì Như Lai phái đông đảo tám bộ đến nghe người ấy diễn giảng Pháp Hoa. Như Lai tuy ở thế giới khác mà thường thường làm cho người ấy được thấy thân Như Lai. Đối với Pháp Hoa, người ấy quên mất câu nào đoạn nào, thì Như Lai nói cho nhớ lại hoàn hảo.

Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(16) Hãy bỏ biếng nhác
mà nghe Pháp Hoa.
Pháp Hoa khó có
cơ hội được nghe,
nghe mà tin nhận
cũng là khó có.

(17-        Như khát cần nước,
18) đào đất cao nguyên.
Đào thấy đất khô
biết nước còn xa.

(19) Đào tiếp thấy được
đất ướt rồi bùn,
thì biết chắc chắn
nước đã gần đến.

(20) Dược Vương đại sĩ,
ví dụ như vậy
để biết những người
không nghe Pháp Hoa
thì còn cách xa
tuệ giác Phật đà.

(21) Người nào nghe được
kinh sâu xa này
—bản kinh xác quyết
cho các thanh văn,
bản kinh chúa tể
của các kinh pháp _
nghe rồi tư duy
một cách chắc chắn;

(22) đại sĩ nên biết
người như thế này
đã được đến gần
tuệ giác Phật đà.

(23) Người nào chí nguyện
diễn giảng Pháp Hoa,
người ấy cần phải
vào nhà Như Lai
mặc áo Như Lai
ngồi chỗ Như Lai,
thì giữa công chúng
không sợ gì nữa,
phân tích rộng rãi
cho họ kinh này.

(24) Nhà của Như Lai
là đại từ bi,
áo của Như Lai
là đức nhẫn nhục,
chỗ của Như Lai
là các pháp Không.
Hãy đặt mình vào
trong ba pháp ấy
mà nói Pháp Hoa
cho cả mọi người.

(25) Khi nói Pháp Hoa,
nếu có những kẻ
độc miệng mắng nhiếc
dao chém gậy đánh
ngói ném đá liệng,
thì người ấy nên
nghĩ đến Như Lai
và cần nhẫn nhịn.

(26) Như Lai ở tại
vạn ức quốc độ,
biểu hiện cái thân
trong suốt cứng chắc,
trải qua vô số
vạn ức thời kỳ,
tuyên thuyết chánh pháp
cho các chúng sinh.

(27-28)  Tại quốc độ này,
sau khi Như Lai
nhập niết bàn rồi,
ai có năng lực
diễn giảng Pháp Hoa,
thì Như Lai phái
bốn chúng biến hóa
là các tỷ kheo
và tỷ kheo ni
cùng với nam nữ
đức tin trong sáng,
cùng đến hiến cúng
người diễn giảng ấy,
lại còn hướng dẫn
bao nhiêu người khác
đến nghe Pháp Hoa.

(29) Kẻ nào muốn hại
người giảng Pháp Hoa,
sử dụng dao gậy
cùng với ngói đá,
thì Như Lai phái
những vị biến hóa
làm người hộ vệ
hộ vệ người ấy.

(30) Người ấy một mình
ở chỗ trống vắng
không có tiếng người,
đọc xét văn nghĩa
tụng được thuộc lòng
về kinh Pháp Hoa,

(31) Như Lai bấy giờ
hiện thân trong sáng;
người ấy nếu quên
câu nào đoạn nào,
Như Lai nói cho
được thông suốt cả.

(32) Người ấy đủ hết
ba pháp nói trên,
thì giảng Pháp Hoa
cho cả bốn chúng,
hay ở chỗ vắng
đọc tụng Pháp Hoa,
đều được nhìn thấy
thân thể Như Lai.

(33) Và khi người ấy
ở chỗ trống vắng,
thì Như Lai phái
chư thiên long vương
cùng với dạ xoa
và các bộ khác
đến với người ấy
làm người nghe pháp.

(34) Người ấy thích thú
diễn giảng Pháp Hoa,
phân tích rành rẽ
không có vướng mắc,
là vì thường được
chư Phật giữ gìn,
cho nên làm cho
các chúng hoan hỷ.

(35) Những ai gần gũi
pháp sư như vậy
thì chóng trở thành
những vị bồ tát,
tùy thuận mà học
pháp sư như vậy
thì sẽ gặp được
hằng sa Phật đà.

Phẩm 11: Bảo tháp xuất hiện

Vào lúc bấy giờ, trước đức Thế Tôn, một ngôi bảo tháp bằng bảy chất liệu quí báu, cao năm trăm do tuần, chu vi hai trăm năm chục do tuần, từ đất vọt lên, đứng trong không gian. Bảo tháp được trang hoàng bằng đủ thứ bảo vật. Có năm ngàn lan can và hàng ngàn hàng vạn khám thất. Trang hoàng bằng vô số cờ phan, và mắc rũ xuống là những vòng hoa ngọc. Chuông nhỏ quí báu thì có cả vạn ức, cũng được treo lên. Mọi phía bảo tháp đều phát ra hơi thơm đàn hương, tỏa khắp thế giới này. Bảo cái có mắc phan phướn thì do bạc, vàng, lưu ly, xa cừ, mã não, chân châu và mai khôi, bảy chất liệu quí báu như vậy kết hợp tạo thành, và cao đến cung trời Tứ thiên vương.Chư thiên của tầng trời Đao lợi thì rưới hoa mạn đà của chư thiên mà hiến cúng bảo tháp. Tám bộ và ngàn ức chúng khác cũng hiến cúng, cung kính, tôn trọng và tán dương bảo tháp bằng các loại hoa, hương liệu, vòng hoa, cờ phan, lọng dù và kịch nhạc.

Từ trong bảo tháp xuất ra âm thanh rất lớn, tán dương rằng tốt lắm, thưa đức Thích Ca Thế Tôn, ngài có thể tuyên thuyết cho đại hội các chúng như thế này về kinh Pháp Hoa của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Thật đúng như vậy, thưa đức Thích Ca Thế Tôn; những điều ngài tuyên thuyết toàn là chân thật.

Bấy giờ bốn chúng đã thấy bảo tháp vĩ đại đứng trong không gian, lại nghe âm thanh xuất ra từ bảo tháp ấy, thì ai cũng được sự vui đẹp về chánh pháp, và ngạc nhiên thấy là sự chưa từng có, nên cùng đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, cung kính chắp tay mà đứng mãi với một tư thế ấy. Lúc này có vị đại sĩ danh hiệu là Đại lạc Thuyết, biết sự hoài nghi của chư thiên, nhân loại, tu la, và bao chúng khác trong thế giới này, nên thưa đức Thích Ca Thế Tôn, rằng bạch ngài, vì lý do nào mà ngôi bảo tháp như vầy từ đất vọt lên, và trong đó phát ra âm thanh vừa rồi? Đức Thế Tôn bảo, Đại lạc Thuyết, trong ngôi bảo tháp này có toàn thân của một đức Phật đà. Thì quá khứ, ở phương dưới, trong nhiều con số vô số quốc độ, có một quốc độ tên là Bảo tịnh. Quốc độ ấy có đức Phật giáo chủ danh hiệu là Đa Bảo Phật đà. Khi còn đi trên đường đi của bồ tát, đức Đa Bảo Phật đà có phát lời nguyện trọng đại, nguyện rằng nếu được trở thành Phật đà thì sau khi nhập diệt, trong mười phương quốc độ, chỗ nào có Phật nói kinh Pháp Hoa, bảo tháp của Như Lai cũng sẽ xuất hiện trước chỗ ấy để nghe kinh ấy, và làm chứng cho kinh ấy bằng cách tán dương rằng tốt lắm. Khi thành Phật đà rồi, lúc sắp nhập diệt, đức Đa Bảo Phật đà ở giữa đại hội chư thiên nhân loại mà tuyên cáo chư vị tỷ kheo, rằng khi Như Lai nhập diệt rồi, ai muốn hiến cúng toàn thân của Như Lai thì nên chung nhau xây dựng một ngôi bảo tháp cho vĩ đại. Rồi đức Đa Bảo Phật đà vận dụng sức mạnh thần thông và sức mạnh đại nguyện, bất cứ chỗ nào trong mười phương quốc độ có Phật tuyên thuyết Pháp Hoa, bảo tháp của ngài cũng vọt lên, xuất hiện ở trước, và toàn thân của ngài ở trong bảo tháp tán dương rằng tốt lắm. Đại lạc Thuyết, hôm nay đức Đa Bảo Phật đà nghe Như Lai tuyên thuyết Pháp Hoa, nên bảo tháp của ngài từ đất vọt lên mà tán dương rằng tốt lắm.

Đại lạc Thuyết đại sĩ, lúc ấy, do thần lực của đức Thế Tôn nên thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, chúng con ước muốn được nhìn thấy toàn thân của đức Đa Bảo Phật đà. Đức Thế Tôn bảo, Đại lạc Thuyết, đức Đa Bảo Phật đà còn có lời nguyện sâu xa và trọng đại nữa, nguyện rằng khi bảo tháp của Như Lai xuất hiện trước các đức Phật để nghe Pháp Hoa, nếu đức Phật nào muốn đem toàn thân của Như Lai chỉ cho bốn chúng, thì chư Phật phân thân của đức Phật ấy đang thuyết pháp giáo hóa ở khắp mười phương quốc độ đều qui tụ lại một chỗ, bấy giờ toàn thân của Như Lai mới xuất hiện. Đại lạc Thuyết, chư Phật phân thân của Như Lai hiện đang thuyết pháp giáo hóa ở mười phương quốc độ, hôm nay Như Lai cũng nên chiêu tập. Đại lạc Thuyết đại sĩ thưa, bạch đức Thế Tôn, chúng con cũng ước muốn được nhìn thấy chư Phật phân thân của đức Thế Tôn để lễ bái, hiến cúng.

Khi ấy đức Thế Tôn liền phóng một đường ánh sáng của tướng lông trắng, chiếu qua hướng đông. Cả đại hội tức thì thấy được chư Phật của cực nhiều hằng sa quốc độ ở hướng ấy. Các quốc độ này toàn là đất bằng pha lê, với những cây ngọc được trang hoàng bằng những dải vải đẹp. Vô số ngàn vạn ức bồ tát tràn đầy trong mỗi quốc độ, và được giăng khắp lên trên là những màn và lưới đính kết các thứ ngọc. Cả đại hội ai cũng nghe thấy chư Phật ở các quốc độ ấy thuyết pháp bằng âm thanh cực kỳ tinh túy, nghe thấy vô số ngàn vạn ức bồ tát khắp trong mỗi quốc độ cũng thuyết pháp cho các chúng. Hướng đông như vậy thì các hướng tây nam bắc, bốn góc và trên dưới, hướng nào ánh sáng của tướng lông trắng cũng chiếu đến, và cả đại hội ai cũng nghe thấy như đã nghe thấy về hướng đông.

Chư Phật phân thân ở mười phương hướng đều bảo các vị bồ tát, chư thiện nam tử, Như Lai nay nên đến quốc độ Kham nhẫn, chỗ đức Thích Ca Thế

Tôn, để hiến cúng ngài và hiến cúng bảo tháp của đức Đa Bảo Phật đà. Bấy giờ quốc độ Kham nhẫn tức thì biến thành sạch sẽ, đất bằng lưu ly, cây ngọc trang trí, hoàng kim làm dây phân ranh tất cả đường sá thành những đường ngã tám. Không có thôn xóm, làng mạc, thành phố, thị trấn, sông biển, khe suối, núi non, rừng rú. Đốt lên hương liệu rất quí, và hoa mạn đà bủa khắp mặt đất. Màn lưới đính kết các thứ ngọc thì dăng che ở trên, và mắc vào đó còn có những cái chuông nhỏ quí báu. Chỉ để lại đại hội các chúng này, còn bao nhiêu nhân loại và chư thiên đều dời để ở quốc độ khác.

Bấy giờ chư Phật phân thân ngài nào cũng đem theo một vị đại bồ tát mà làm thị giả, cùng đến quốc độ Kham nhẫn này, và bước đến dưới các cây ngọc. Mỗi cây ngọc cao năm trăm do tuần, nhánh lá hoa quả đều có thứ tự và rất đẹp. Dưới mỗi cây ngọc đều có một tòa sư tử, cao năm do tuần và trang sức bằng ngọc lớn. Chư Phật phân thân mỗi ngài ngồi xếp bằng trên một tòa sư tử ấy. Lần lượt như vậy, đầy cả đại thiên thế giới này mà chư Phật phân thân tại một phương hướng của đức Thích Ca thế tôn vẫn chưa hết.

Đức Thích Ca Thế Tôn muốn đủ chỗ ngồi cho chư Phật phân thân, nên cả tám phương hướng, mỗi phương hướng biến hai trăm vạn ức trăm triệu quốc độ thành quốc độ sạch sẽ, không có địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh và tu la. Nhân loại và chư thiên cũng được dời để ở quốc độ khác. Tất cả quốc độ đã biến thành quốc độ sạch sẽ này cũng lấy lưu ly làm đất và trang trí bằng cây ngọc. Cây ngọc cũng cao năm trăm do tuần, nhánh lá hoa quả cũng có thứ tự và rất đẹp. Dưới mỗi cây ngọc cũng có một tòa sư tử cao năm do tuần, trang trí bằng các thứ ngọc. Cũng không có sông biển, không có núi Mục chân và Đại mục chân, núi Thiết vi và Đại thiết vi, núi Tu di và những núi lớn cùng loại. Suốt cả một ngàn sáu trăm vạn ức trăm triệu quốc độ ấy thành một cõi Phật, đất ngọc bằng thẳng. Che khắp lên trên là những màn được đính kết các thứ ngọc một cách xen nhau và bủa ra. Bảo cái có phan phướn được treo lên. Đốt lên hương liệu rất quí. Các loại hoa quí của chư thiên rải khắp mặt đất.

Để đủ chỗ ngồi cho chư Phật phân thân sẽ đến nữa, nên cả tám phương hướng, mỗi phương hướng đức Thích Ca Thế Tôn lại biến thêm hai trăm vạn ức trăm triệu quốc độ nữa, cũng thành quốc độ sạch sẽ, cũng không có địa ngục ngạ quỉ súc sinh và tu la. Bao nhiêu nhân loại và chư thiên cũng được dời để ở quốc độ khác. Tất cả quốc độ đã biến thành quốc độ sạch sẽ lần này cũng lấy lưu ly làm đất, cũng trang trí bằng cây ngọc. Cây ngọc cũng cao năm trăm do tuần, nhánh lá hoa quả cũng có thứ tự và rất đẹp. Dưới mỗi cây ngọc cũng có một tòa sư tử cao năm do tuần, trang trí bằng ngọc lớn. Cũng không có sông biển, không có núi Mục chân và Đại mục chân, núi Thiết vi và Đại thiết vi, núi Tu di và những núi lớn cùng loại. Suốt cả một ngàn sáu trăm vạn ức trăm triệu quốc độ này, cùng với số ấy ở trước, thành một cõi Phật, đất ngọc bằng thẳng. Che khắp lên trên cũng là những màn được đính kết các thứ ngọc một cách xen nhau và bủa ra. Bảo cái có phan phướn cũng được treo lên. Cũng đốt lên hương liệu rất quí. Và các loại hoa quí của chư thiên cũng được rải khắp mặt đất.

Lúc ấy phân thân của đức Thích Ca Thế Tôn ở hướng đông, tức chư Phật giáo chủ tại các quốc độ nhiều bằng cực nhiều hằng sa thuộc hướng ấy, ngài nào cũng hiện đang thuyết pháp giáo hóa ở quốc độ của mình, và bấy giờ cùng đến qui tụ ở quốc độ Kham nhẫn này. Lần lượt như vậy, chư Phật phân thân ở mười phương hướng đều đến qui tụ, ngồi vào tám phương hướng. Tám phương hướng này, bấy giờ mỗi phương hướng có đến bốn trăm vạn ức trăm triệu quốc độ, và chư Phật phân thân ngồi đầy trong đó. Ngài nào cũng ngồi trên tòa sư tử ở dưới cây ngọc, cùng phái vị đại bồ tát thị giả đến vấn an đức Thích Ca Thế Tôn. Các ngài cầm mà đưa hoa ngọc cho các vị ấy bưng đầy hai tay, bảo rằng Thiện nam tử, hãy đến Linh sơn, chỗ đức Thích Ca Thế Tôn, thưa với ngài đúng như lời của Như Lai, rằng đức Thế Tôn ít bịnh ít phiền, khí lực yên vui chăng, các chúng thanh văn và bồ tát yên ổn cả chăng. Hãy rải hoa ngọc này mà hiến cúng ngài, và bạch rằng đức Thế Tôn của con danh hiệu như vậy, muốn được cùng đức Thế Tôn mở cửa bảo tháp của đức Đa Bảo Phật đà. Tất cả chư Phật phân thân cũng phái vị đại bồ tát với phong cách như vậy.

Khi ấy đức Thích Ca Thế Tôn thấy chư Phật phân thân đã qui tụ, cùng ngồi trên tòa sư tử, lại nghe chư Phật ấy muốn được cùng mở cửa bảo tháp, nên ngài đứng dậy, rời khỏi pháp tòa, đứng trong không gian. Tất cả bốn chúng, vốn đã đứng lên và chắp tay, bây giờ chăm chú mà nhìn đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn liền dùng ngón tay bên phải mở cửa bảo tháp làm bằng bảy chất liệu quí báu, làm phát ra âm thanh lớn như cửa thành lớn được tháo khóa chốt mà mở ra. Tức thì toàn thể đại hội các chúng đều được thấy đức Đa Bảo Phật đà ngồi trong bảo tháp, trên tòa sư tử, toàn thân không rã, y như đang nhập thiền định. Cả đại hội lại được nghe lời của đức Đa Bảo Phật đà nói, rằng tốt lắm, thưa đức Thích Ca Thế Tôn, ngài đã tuyên thuyết một cách thích thú về kinh Pháp Hoa. Tôi đến đây là để nghe kinh ấy.

Bốn chúng cùng bao bộ chúng khác, nghe thấy đức Phật nhập diệt hàng ức thời kỳ rồi mà nói như vậy thì ai cũng ca tụng là sự chưa từng có. Cả khối hoa quí của chư thiên được họ đem tung rải trên đức Đa Bảo Phật đà và đức Thích Ca Thế Tôn. Còn đức Đa Bảo Phật đà thì ở trong bảo tháp để một nửa pháp tòa của mình nhường cho đức Thích Ca Thế Tôn mà nói rằng thưa ngài, mời ngài đến ngồi ở đây. Tức thì đức Thích Ca Thế Tôn vào trong bảo tháp, ngồi trên một nửa pháp tòa, cũng theo cách ngồi xếp bằng. Cả đại hội các chúng thấy hai ngài cùng ngồi xếp bằng trên pháp tòa sư tử ở trong bảo tháp, thì nghĩ rằng hai ngài ngồi cao xa quá, xin đức Thế Tôn dùng sức mạnh thần thông mà làm cho chúng con cũng được lên ở trên không gian. Tức thì đức Thích Ca Thế Tôn dùng sức mạnh thần thông mà tiếp cả đại hội các chúng cùng lên ở trên không gian, rồi đem âm thanh vĩ đại mà phổ cáo bốn chúng, rằng ai là người có thể ở trong quốc độ Kham nhẫn này mà giảng nói rộng rãi về kinh Pháp Hoa, thì bây giờ chính là lúc nên nói ra. Như Lai không bao lâu nữa sẽ nhập niết bàn. Như Lai muốn có người để phó thác kinh Pháp Hoa này.

Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Đa Bảo Phật đà,
vị chúa thánh triết
nhập diệt từ lâu,
thân ở trong tháp,
mà vì chánh pháp
còn hiện đến đây.
Như vậy các người
bởi lý do gì
không vì chánh pháp
mà cố nỗ lực?

(2) Đa Bảo Phật đà
nhập diệt đến nay
thì gian đã có
vô số thời kỳ,
còn hiện khắp chỗ
để nghe Pháp Hoa,
như thế là vì
Pháp Hoa khó gặp.

(3) Ngài vốn phát nguyện:
nhập niết bàn rồi,
Như Lai vẫn đến
tất cả mọi chỗ
để được thường xuyên
nghe nói Pháp Hoa.

(4) Và vô số Phật
nhiều bằng hằng sa,
vốn do Như Lai
phân thân biểu hiện,
cũng đến nơi này
để nghe Pháp Hoa
và để yết kiến
Đa Bảo Phật đà.

(5) Các ngài rời bỏ
quốc độ tốt đẹp,
các chúng đệ tử,
tám bộ thiên long,
bao sự hiến cúng,
muốn làm chánh pháp
tồn tại lâu dài
nên cùng đến đây.

(6) Để có đủ chỗ
chư Phật ngự tọa,
Như Lai vận dụng
sức mạnh thần thông,
di chuyển vô lượng
các loại chúng sinh,
biến quốc độ này
sạch sẽ rộng lớn.

(7) Chư Phật đi đến
dưới mỗi cây ngọc,
trông như hoa sen
làm đẹp hồ sạch.

(8) Những tòa sư tử
dưới mỗi cây ngọc,
chư Phật ngự tọa
thì sáng đẹp ra,
tựa như đêm tối
đuốc lớn đốt lên.

(9) Thân của chư Phật
phát ra hương thơm
tỏa khắp quốc độ
trong cả mười phương,
làm cho chúng sinh
cùng được xông cả,
và lòng say sưa
không tự chủ nổi,
như nhánh cây nhỏ
được thổi gió lớn.
Bao nhiêu phong cách
phương tiện như vậy
để làm chánh pháp
tồn tại lâu dài.

*

(10) Như Lai phổ cáo
toàn thể các chúng,
rằng khi Như Lai
nhập niết bàn rồi,
những ai có thể
kính giữ Pháp Hoa
bằng mọi pháp hạnh,
trong đó gồm có
nghiên cứu, diễn giảng….,
thì ngày hôm nay
đối trước Như Lai
hãy tự phát nguyện.

(11) Đa Bảo Phật đà
tuy đã nhập diệt
từ lâu lắm rồi,
mà do đại nguyện
vẫn phát âm thanh
như sư tử gầm,
chứng minh ca tụng
Diệu pháp Liên hoa.

(12) Đức Đa Bảo ấy,
cùng với Như Lai,
chư Phật phân thân
sẽ cùng chứng biết
cho ý nguyện ấy
của những con Phật.
Vậy những con Phật
ai kính giữ được
Diệu pháp Liên hoa,
hãy phát đại nguyện
nguyện làm pháp ấy
tồn tại lâu dài.

(13) Ai có năng lực
kính giữ Pháp Hoa
thì thế là đã
hiến cúng Như Lai;
cùng với hiến cúng
Đa Bảo Phật đà_
một đức Phật đà
ở trong tháp rồi
vẫn đến mười phương
chỉ vì Pháp Hoa.

(14) Cũng là hiến cúng
chư Phật phân thân _
những đấng làm cho
tráng lệ huy hoàng
hết thảy quốc độ
khắp cả mười phương.

(15) Ai có năng lực
diễn giảng Pháp Hoa,
thì thế tức là
thấy được Như Lai,
thấy đức Đa Bảo
thấy Phật phân thân.

(16) Chư thiện nam tử,
hãy suy nghĩ kỹ.
Đây là trách vụ
rất là khó khăn
mà các người nên
phát nguyện đảm nhận.

*

(17) Hằng sa kinh điển
ngoài kinh Pháp Hoa,
diễn giảng hết cả
chưa đủ là khó;

(18) đón núi Tu di
ném qua vô số
thế giới hướng khác
cũng chưa đủ khó;

(19) chỉ dùng ngón chân
mà hất đại thiên
văng xa cõi khác
cũng chưa đủ khó;

(20) trên đỉnh hiện hữu
đứng đó nói cho
tất cả bộ chúng
về các kinh khác
nhiều đến vô lượng
cũng chưa đủ khó;

(21) sau khi Như Lai
nhập niết bàn rồi,
ở trong thời kỳ
dữ dội đáng sợ,
nói được Pháp Hoa
như vậy mới khó.

(22) Giả sử có người
nắm được hư không
mà đem đi dạo
cũng chưa đủ khó;

(23) sau khi Như Lai
nhập niết bàn rồi,
sao chép ấn hành
giữ cho còn mãi
Diệu pháp Liên hoa,
và khuyên người khác
cũng làm tương tự,
như vậy mới khó.

(24-25) Đem cả địa cầu
để trên móng chân
vọt lên Phạn thiên
cũng chưa đủ khó;

(26) sau khi Như Lai
nhập niết bàn rồi,
trong thời kỳ dữ
học được một lúc
kinh Pháp Hoa này,
như vậy mới khó.

(27) Gánh vác cỏ khô
vào lửa hoại kiếp
mà không bị cháy
cũng chưa đủ khó;

(28) sau khi Như Lai
nhập niết bàn rồi,
ai giữ Pháp Hoa
kín đáo giảng được
cho một người thôi,
như vậy mới khó.

(29) Kho tàng chánh pháp
đến tám vạn tư,
và bao kinh pháp
mười hai thể loại,
nếu ghi nhớ hết
và giảng cho người,

(30) làm cho người nghe
được sáu thần thông,
dẫu là như vậy
cũng chưa đủ khó;

(31) sau khi Như Lai
nhập niết bàn rồi,
đối với Pháp Hoa
nếu có năng lực
lắng nghe, tiếp nhận,
hỏi thấu nghĩa ý,
giảng nói cho người,
như vậy mới khó.

(32) Có ai thuyết pháp
làm cho vạn ức
vô số vô lượng
hằng sa chúng sinh
được thành La hán
đủ sáu thần thông,
ích lợi đến vậy
cũng chưa đủ khó;

(33) sau khi Như Lai
nhập niết bàn rồi,
ai có năng lực
diễn giảng kính giữ
Diệu pháp Liên hoa
như vậy mới khó.

(34) Vì cho chúng sinh
được tuệ giác Phật,
Như Lai ở trong
vô lượng quốc độ,
từ lúc mở đầu
cho đến hiện nay,
tuyên thuyết phong phú
bao nhiêu kinh pháp.

(35) Trong kinh pháp ấy
Pháp Hoa bậc nhất:
nếu có năng lực
giữ được Pháp Hoa,
tức là giữ được
toàn thân Như Lai.

(36) Chư thiện nam tử,
sau khi Như Lai
nhập niết bàn rồi,
ai có năng lực
tiếp nhận kính giữ
Diệu pháp Liên hoa
bằng mọi pháp hạnh
trong đó gồm có
đọc xét văn nghĩa,
tụng được thuộc lòng…,
nay trước Như Lai
hãy tự phát nguyện.

(37) Diệu pháp liên hoa
khó mà giữ nổi;
những ai giữ nổi
ít thì gian thôi,
Như Lai hài lòng,
chư Phật cũng vậy.

(38) Những ai giữ nổi
Pháp Hoa như vậy
thì thế là được
chư Phật tán dương,
thế là dũng mãnh,
thế là tinh tiến,
thế là giữ giới,
tu hạnh đầu đà,
thế là chóng được
tuệ giác vô thượng.

(39) Thời ác sau này
những ai có thể
học hỏi kính giữ
Diệu pháp Liên hoa,
người ấy chính là
con Phật đích thực,
đứng vào ở nơi
vị trí Thuần thiện,
sau khi Như Lai
nhập niết bàn rồi
vẫn lý giải được
nghĩa ý Pháp Hoa.

(40-41) Người ấy chính là
mắt của thế gian
trong đó có cả
chư thiên nhân loại.
Ở trong thời kỳ
khủng bố khiếp sợ,
người ấy nói được
Diệu pháp Liên hoa,
dầu chỉ có thể
nói trong chốc lát,
hết thảy trời người
đều nên hiến cúng.

Phẩm 12: Đề Bà Đạt Đa

Khi ấy đức Thế Tôn bảo chư vị bồ tát, bốn chúng và các chúng nhân loại chư thiên, rằng trong thì quá khứ, Như Lai đã cầu Pháp Hoa trong vô lượng thời kỳ, không biếng nhác, không mỏi mệt. Trong nhiều thời kỳ, Như Lai thường làm quốc vương, phát nguyện cầu tuệ giác vô thượng, lòng không thoái lui hay lệch khỏi mục đích ấy. Để hoàn thiện sáu pháp ba la mật nên quốc vương nỗ lực bố thí, lòng không tiếc lẫn gì hết về voi ngựa, bảy thứ quí báu, về quốc thành, thê tử, về tôi tớ, tùy tùng, về đầu mắt, tủy não, thân thịt, tay chân; tính mạng cũng không nuối tiếc. Bấy giờ dân chúng sống lâu vô lượng. Quốc vương vì cầu chánh pháp nên bỏ ngôi vua, ủy thác chính sự cho thái tử, rồi đánh trống truyền lịnh mà cầu chánh pháp khắp nơi, rằng ai có khả năng nói cho ta về pháp đại thừa thì ta sẽ cung phụng phục dịch suốt đời. Bấy giờ có một vị tiên đến tâu, tôi biết bản kinh đại thừa tên là Pháp Hoa. Quốc vương không trái ý tôi thì tôi sẽ dạy cho. Quốc vương nghe vị tiên nói, vui mừng rộn rã, tức thì đi theo vị ấy, cung phụng mọi sự vị ấy cần đến. Những việc hái trái, múc nước, nhặt củi, dọn ăn, đến nỗi đem thân làm giường làm ghế cũng không mỏi mệt cơ thể hay tâm trí. Quốc vương lúc ấy phụng sự như vậy đến cả ngàn năm, vì chánh pháp mà siêng năng một cách tinh chuyên, cung đốn hầu hạ không thiếu sót điều gì. Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(42) Như Lai nhớ lại
trong thì quá khứ,
vì cầu cho được
chánh pháp vĩ đại,
nên dẫu làm vua
của cả một nước,
vẫn không đam mê
năm thứ dục lạc.

(43) Đánh chuông gióng trống
tuyên cáo khắp nơi,
rằng ai biết được
chánh pháp vĩ đại
mà đem giảng giải
thuyết trình cho ta,
thì ta đích thân
làm kẻ tôi tớ.
Bấy giờ vị tiên
tên là Vô Tỷ
đến tâu với vua
rằng tôi có biết
chánh pháp tinh túy
hiếm nhất thế gian.

(44) Vua thực hành được
thì tôi dạy cho.
Nghe vị tiên nói
vua rất vui đẹp,
tức thì đi theo
cung phụng cần dùng.
Ngay việc nhặt củi
kiếm trái hái rau
cũng vẫn kính cẩn
cung phụng đúng lúc.

(45) Dồn hết tâm tình
vào pháp tinh túy,
nên cả thân tâm
không nhác không mệt.
Khắp vì tất cả
bao loại chúng sinh
mà cố nỗ lực
cầu pháp vĩ đại,
chứ không vị gì
bản thân của mình,
cũng không cầu hồ
thú vui ngũ dục.

(46) Như Lai cố ý
làm đại quốc vương
siêng cầu cho được
chánh pháp vĩ đại,
do đó mà được
thành đức Phật đà,
và bây giờ đây
cố đem chánh pháp
vĩ đại như vậy
nói cho các người.

Đức Thế Tôn bảo chư vị tỷ kheo, quốc vương lúc ấy nay là Như Lai, còn vị tiên lúc ấy nay là Đề bà đạt Đa mà làm cho Như Lai hoàn bị sáu pháp ba la mật, bốn tâm vô hạn, ba mươi hai tướng quí, tám mươi vẻ đẹp, thân màu hoàng kim, mười đại năng lực, bốn sự không sợ, bốn sự nhiếp hóa, mười tám sự đặc biệt, sức mạnh thần thông, sức mạnh tuệ giác, trở thành bậc Biết khắp và đúng, hóa độ sâu rộng các loại chúng sinh, toàn là do người bạn tốt Đề bà đạt Đa.

Như Lai nay tuyên cáo với tất cả bốn chúng, Đề bà đạt Đa sau này qua vô lượng thời kỳ rồi, sẽ được thành Phật danh hiệu là Thiên Vương Như Lai, đủ mười đức hiệu. Quốc độ của ngài tên là Thiên Đạo. Ngài tồn tại hai mươi thời kỳ bậc giữa, tuyên thuyết cho chúng sinh một cách rộng rãi về chánh pháp tinh túy, làm cho hằng sa chúng sinh được tuệ giác La hán, vô lượng chúng sinh phát tâm Duyên giác, hằng sa chúng sinh phát tâm Tuệ giác vô thượng, thực hiện tuệ giác Không sinh, đạt đến địa vị Không thối chuyển. Thiên Vương Như Lai nhập niết bàn rồi, giáo pháp nguyên chất tồn tại hai mươi thời kỳ bậc giữa, xá lợi toàn thân được xây dựng tôn thờ trong ngôi tháp bằng bảy chất liệu quí báu, cao sáu chục do tuần, chu vi bốn chục do tuần. Chư thiên, nhân loại, ai cũng đem bông hoa đa dạng, các hương liệu, vải vóc, vòng hoa, tràng phan, bảo cái, kịch nhạc, ca khúc và thi thơ mà lễ bái và hiến cúng bảo tháp tuyệt diệu như vậy, và sự lễ bái hiến cúng này làm cho vô lượng chúng sinh được tuệ giác La hán, vô lượng chúng sinh được tuệ giác Duyên giác, không thể nghĩ bàn chúng sinh phát Tâm tuệ giác vô thượng, đến bậc Không thoái chuyển.

Chư vị tỷ kheo, trong thì vị lai, thiện nam hay thiện nữ nào nghe được phẩm Đề bà đạt Đa này của kinh Pháp Hoa mà lòng trong sáng, tin kính cẩn, không ngờ vực, không lầm lẫn, thì người ấy không sa vào địa ngục ngạ quỉ súc sinh, mà lại sinh trong nhân loại chư thiên, hay sinh trước chư Phật ở bất cứ phương hướng nào. Và sinh ở đâu cũng thường được nghe kinh Pháp Hoa. Sinh trong nhân loại hay chư thiên thì hưởng thụ sự yên vui tuyệt diệu và hơn hết, còn sinh trước chư Phật thì hóa sinh bằng hoa sen.

*

Bấy giờ Trí Tích, vị bồ tát thị tùng đức Đa Bảo Phật đà, vốn ở phương dưới, bạch với ngài hãy trở về quốc độ của mình. Đức Thích Ca Thế Tôn bảo bồ tát Trí Tích, thiện nam tử, hãy chờ một lát. Quốc độ này có vị bồ tát tên là Văn Thù, các vị đáng gặp nhau, luận thuyết chánh pháp tinh túy rồi về. Lúc bấy giờ bồ tát Văn Thù ngồi trên hoa sen có cả ngàn cánh, lớn như bánh xe, các vị bồ tát tùy tùng cũng ngồi trên hoa sen quí báu, từ Diêm hải long cung trong biển cả, đột nhiên vọt lên, lên cao trong không gian, lướt đến Linh sơn, bước xuống hoa sen, lại chỗ đức Thích Ca Thế Tôn và đức Đa Bảo Phật đà, đem đầu mặt kính lạy ngang chân hai ngài. Làm sự tôn kính như vậy rồi, bồ tát Văn Thù bước qua chỗ bồ tát Trí Tích, hỏi thăm nhau và ngồi một bên. Bồ tát Trí Tích hỏi bồ tát Văn Thù, nhân giả đến long cung giáo hóa chúng sinh số lượng được mấy? Bồ tát Văn Thù nói, số lượng ấy vô lượng, không thể tính kể, không thể miệng nói hay trí lường mà biết được. Xin nhân giả đợi một chút, sẽ tự có chứng cứ. Nói chưa xong thì vô số bồ tát cũng ngồi hoa sen quí báu, từ biển vọt lên, lướt đến Linh sơn, ở trong không gian. Các vị bồ tát này toàn do bồ tát Văn Thù hóa độ, hoàn bị phong cách bồ tát, và cùng luận thuyết sáu pháp ba la mật. Gốc của các vị này là thanh văn, ở trong không gian mà nói về việc làm thanh văn, nhưng nay thì ai cũng thực hành nguyên lý Không của đại thừa. Bồ tát Văn Thù nói với bồ tát Trí Tích, sự giáo hóa của tôi ở trong biển cả là như vậy. Bồ tát Trí Tích liền dùng những lời chỉnh cú sau đây vừa tán dương vừa hỏi bồ tát Văn Thù.

(47) Bậc đại trí đức
dũng mãnh tinh tiến!
bằng chánh pháp nào
ngài giáo hóa được
vô lượng bồ tát
mà đại hội này
và chính tôi đây
đã thấy như kia?

(48) Ngài giảng thật tướng,
thuyết minh thế nào
đối với giáo pháp
cỗ xe duy nhất,
hướng dẫn đầy đủ
các vị như vầy
làm cho chóng được
tuệ giác vô thượng?

Bồ tát Văn Thù nói, trong biển cả tôi chỉ thường xuyên tuyên thuyết Pháp Hoa. Bồ tát Trí Tích hỏi, kinh ấy cực kỳ sâu xa tinh túy, quí báu nhất trong các kinh, thế giới hiếm có; trong biển cả có hay không có người nỗ lực tinh tiến, thực hành được kinh ấy và thành Phật được một cách mau chóng? Bồ tát Văn Thù nói, có. Long Nữ của Diêm Hải long vương mới tám tuổi mà trí tuệ, lợi căn, khéo biết trình độ và hành vi của chúng sinh. Được pháp tổng trì, tiếp nhận và ghi nhớ đủ hết kho tàng bí yếu sâu xa của chư Phật tuyên thuyết. Vào sâu thiền định, thấu suốt các pháp. Trong khoảng đơn vị ngắn nhất của thì gian mà phát lộ Tuệ giác vô thượng, thành bậc Không cò thoái chuyển. Đủ các tài hùng biện. Thương chúng sinh y như thương con đỏ. Công đức hoàn hảo. Lòng nghĩ, miệng nói, toàn là tinh túy cao cả. Từ bi, khiêm nhượng, chí ý hòa nhã. Long Nữ ấy có đủ năng lực đạt đến Tuệ giác vô thượng. Bồ tát Trí Tích nói, tôi thấy đức Thích Ca Thế Tôn trải qua vô lượng thời kỳ, làm những khổ hạnh khó làm, chứa công dồn đức, cầu tuệ giác vô thượng không lúc nào ngừng nghỉ. Quan sát cả đại thiên thế giới này thì thấy không có chỗ nào, dầu chỉ bằng hạt cải mà thôi, mà không phải là chỗ ngài xả bỏ thân mạng vì chúng sinh, sau đó mới được thành tựu tuệ giác vô thượng. Tôi không tin Long Nữ nào đó chỉ trong khoảnh khắc mà thành được một bậc Biết đúng và khắp. Nói bàn chưa xong, Long Nữ đột nhiên xuất hiện trước mắt, đem cả đầu mặt lễ bái tôn kính đức Thế Tôn rồi đứng lui một khoảng, dùng lời chỉnh cú sau đây mà tán dương ngài.

(49) Thế Tôn thấu suốt
thật tướng tội phước,
ánh sáng của ngài
soi khắp mười phương.
Thân ngài: pháp thân,
tinh túy, trong suốt,
đủ ba mươi hai
tướng đại trượng phu.

(50) Pháp thân như vậy
còn được trang hoàng
bằng cả tám chục
vẻ đẹp tùy thuộc.
Nhân loại, chư thiên,
long vương, thiện thần,
ai cũng kính ngưỡng,
tất cả chúng sinh
ai cũng tôn thờ
như bậc đồng tông.

(51) Nghe đức Văn Thù
nói con chóng thành
tuệ giác vô thượng,
việc ấy chỉ có
Thế Tôn đại giác
chứng biết cho con;
con sẽ tuyên dương
chánh pháp đại thừa,
hóa độ giải thoát
chúng sinh đau khổ.

Lúc ấy tôn giả Xá lợi Phất nói với Long Nữ, thiện nữ nói thành đạt mau chóng tuệ giác vô thượng, việc ấy thật khó tin. Tại sao, vì thân thể nữ nhân dơ bẩn, không phải là vật dụng chứa đựng chánh pháp, thiện nữ làm sao mà thành được tuệ giác vô thượng—Trong khi tuệ giác vô thượng của Phật thì xa xôi, mênh mông, trải qua vô số thời kỳ, siêng và khổ mà tích lũy công hạnh, thực hành đủ hết các pháp ba la mật, sau đó mới hoàn thành. Huống chi thân thể nữ nhân còn có năm sự bị cản trở, ấy là không được làm Phạn vương, Đế thích, Ma vương, Luân vương và Phật thân. Như vậy thân thể thiện nữ làm sao thành Phật, mà lại thành Phật mau chóng? Long Nữ có một viên ngọc quí, giá bằng cả đại thiên thế giới. Bấy giờ Long Nữ hai tay nâng viên ngọc ấy hiến lên đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn nhận liền. Long nữ thưa bồ tát Trí Tích và tôn giả Xá lợi Phất, con hiến ngọc quí, đức Thế Tôn nhận cho con, việc này mau chóng không? Rất mau chóng; hai ngài trả lời như vậy. Long Nữ thưa, đem thần lực của các ngài nhìn sự thành Phật của con, thì sự ấy còn mau hơn việc này. Tức thì toàn thể đại hội các chúng lúc ấy cùng thấy, trong khoảnh khắc đột nhiên, Long Nữ biến thành nam tử, đầy đủ phong cách bồ tát, lướt qua thế giới hệ Vô cấu ở hướng nam, ngồi trên đài sen quí báu, thành bậc Biết đúng và khắp, với cái thân đủ hết ba mươi hai tướng quí và tám mươi vẻ đẹp, tuyên thuyết chánh pháp tinh túy cho chúng sinh mười phương. Tại quốc độ Kham nhẫn này, các vị bồ tát, các vị thanh văn, tám bộ thiên long, tất cả nhân loại và loài khác, từ xa thấy sự thành Phật và thuyết pháp của Long Nữ thì tâm thần người nào cũng rất hoan hỷ, vọng xa mà lạy. Thế giới hệ Vô cấu thì vô lượng chúng sinh nghe pháp đều lý giải, tỏ ngộ, được sự không thoái chuyển, vô lượng chúng sinh nữa được nhận sự thọ ký về tuệ giác vô thượng, và thế giới hệ ấy chấn động đủ cả sáu cách. Thế giới hệ Kham nhẫn thì ba ngàn người đứng vào vị trí không thoái chuyển, ba ngàn người nữa phát triển tuệ giác vô thượng và được nhận sự thọ ký về tuệ giác ấy. Bồ tát Trí Tích, tôn giả Xá lợi Phất, và cả đại hội các chúng, đều yên lặng mà tin nhận.

 Phẩm 13: Kính giữ Pháp Hoa

Lúc ấy Dược Vương đại sĩ, Đại lạc Thuyết đại sĩ, và hai vạn bồ tát tùy thuộc, cùng đối trước đức Thế Tôn mà phát nguyện như vầy: Kính xin đức Thế Tôn đừng lo nghĩ. Sau khi đức Thế Tôn nhập niết bàn, chúng con nguyện kính giữ Pháp Hoa bằng cách đọc tụng, giảng giải… Con người trong thời kỳ dữ dội sau này gốc rễ điều lành thì ít dần, sự tăng thượng mạn thì nhiều lên, ham hố danh lợi và sự hiến cúng, tăng thêm bất thiện, tách xa giải thoát. Tuy khó giáo hóa, chúng con vẫn nổi dậy sức mạnh của sự ẩn nhẫn lớn lao mà kính giữ Pháp Hoa bằng cách đọc tụng, giảng giải, sao chép, hiến cúng…. Chúng con không tiếc nuối thân mạng của chúng con trong việc kính giữ Pháp Hoa.

Trong đại hội, năm trăm vị La hán đã được thọ ký, lúc ấy cũng thưa, bạch đức Thế Tôn, chúng con cũng tự nguyện ở trong các quốc độ khác mà diễn giảng rộng rãi về kinh Pháp Hoa. Tám ngàn vị tu học tiếp tục và tu học hoàn tất đã được thọ ký cũng từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về đức Thế Tôn, thệ nguyện như vầy: Bạch đức Thế Tôn, chúng con cũng sẽ ở tại các quốc độ khác mà diễn giảng rộng rãi về kinh Pháp Hoa. Tại sao, vì trong quốc độ Kham nhẫn này con người phần nhiều tàn tệ độc ác, thượng mạn đầy lòng, công đức mỏng mảnh, giận ghét, dua nịnh, tâm không chắc thật.

Lúc ấy di mẫu của đức Thế Tôn là tỷ kheo ni Đại thắng sinh Chủ, cùng sáu ngàn vị tỷ kheo ni tu học tiếp tục và tu học hoàn tất, cũng đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, chuyên chú chắp tay mà chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, mắt không rời ngài một thoáng. Đức Thế Tôn bảo, Đại thắng sinh Chủ, tại sao bà nhìn Như Lai với vẻ ưu tư? Bà nghĩ rằng Như Lai không gọi tên bà mà trao cho lời ghi về tuệ giác vô thượng chăng? Đại thắng sinh Chủ, trước đây Như Lai đã nói tổng quát, rằng hết thảy thanh văn đều được thọ ký. Nay bà muốn biết sự thọ ký ấy thì, vị lai, trong chánh pháp của rất nhiều ức đức Phật, bà sẽ làm nhà diễn giảng vĩ đại, sáu ngàn vị tỷ kheo ni tu học tiếp tục và tu học hoàn tất cũng làm những nhà diễn giảng, và bằng cách này mà bà hoàn thiện một cách đều đặn đường đi của bồ tát, trở thành một đức Phật đà với danh hiệu Nhất thế chúng sinh hỷ kiến Như Lai, đủ mười đức hiệu. Đại thắng sinh Chủ, đức Nhất thế chúng sinh hỷ kiến Như Lai sẽ cùng sáu ngàn bồ tát tuần tự thọ ký cho nhau mà thành tựu tuệ giác vô thượng.

Bấy giờ thân mẫu của tôn giả La hầu La là tỷ kheo ni Trì Dự, nghĩ rằng, trong sự thọ ký này đức Thế Tôn đặc biệt không đề cập đến ta. Biết rõ ý nghĩ ấy nên đức Thế Tôn bảo, Trì Dự, vị lai, bà sẽ ở trong chánh pháp của rất nhiều ức đức Phật mà làm việc làm của bồ tát, bằng cách cũng làm nhà diễn giảng vĩ đại, đều đặn và hoàn tất đường đi của Phật, rồi được thành Phật tại cõi Thiện quốc, với danh hiệu Cụ túc thiên vạn quang tướng Như Lai, đủ mười đức hiệu, sống lâu đến vô lượng thời kỳ vô số.

Tỷ kheo ni Đại thắng sinh Chủ, tỷ kheo ni Trì Dự, cùng những người tùy thuộc, bấy giờ ai cũng hoan hỉ cùng cực, có được sự chưa từng có, tức thì đối trước đức Thế Tôn mà thưa ngài với lời chỉnh cú này.

(1) Bạch đức Thế Tôn,
bậc thầy lãnh đạo
đem lại an ủi
cho cả trời người!
Chúng con được nghe
lời ghi làm Phật,
trong lòng ổn định
thỏa mãn hoàn toàn.

Chư vị tỷ kheo ni thưa lời chỉnh cú ấy rồi lại nói, bạch đức Thế Tôn, chúng con cũng có thể ở các quốc độ khác mà tuyên thuyết rộng rãi về kinh Pháp Hoa.

Khi ấy đức Thế Tôn nhìn vào nhiều ức trăm triệu bồ tát đại sĩ. Các vị này toàn là những bậc Không thoái chuyển, có thể chuyển đẩy bánh xe chánh pháp Không thoái chuyển bằng các pháp tổng trì mà các vị đã được hoàn thiện. Khi đức Thế Tôn nhìn vào, các vị liền đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, đến trước ngài, tập trung tâm trí, chắp hai tay lại, suy nghĩ như vầy: Nếu đức Thế Tôn phán bảo chúng ta duy trì và công bố Pháp Hoa, thì chúng ta sẽ làm đúng như lời ngài mà tuyên thuyết phong phú về kinh pháp ấy. Các vị lại nghĩ: Nhưng đức Thế Tôn yên lặng mà không phán bảo, vậy chúng ta phải làm gì? Kính thuận tình ý của đức Thế Tôn, lại muốn viên mãn tâm niệm của mình, nên các vị đối trước ngài, cất tiếng nói uy dũng như tiếng sư tử gầm mà phát nguyện như vầy: Bạch đức Thế Tôn, sau khi ngài nhập diệt, chúng con sẽ qua lại mười phương thế giới, đem hết năng lực mà làm cho chúng sinh, đối với kinh Pháp Hoa, biết sao chép ấn hành, tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng giải ý nghĩa, làm đúng kinh dạy, nhớ nghĩ chính xác… Chúng con làm được như vậy toàn là nhờ uy lực của đức Thế Tôn. Kính xin đức Thế Tôn dẫu ở quốc độ khác cũng vẫn chăm sóc che chở cho chúng con. Các vị đồng thanh mà nói những lời chỉnh cú sau đây.

(2) Kính xin Thế Tôn
khỏi phải lo nghĩ.
Sau khi Thế Tôn
nhập niết bàn rồi,
ở trong thời kỳ
khủng bố tàn ác,
chúng con thệ nguyện
sẽ cùng tuyên thuyết
một cách phong phú
về kinh Pháp Hoa.

(3) Những kẻ vô trí
độc miệng chưởi mắng,
sử dụng dao gậy
hành hung chúng con,
chúng con cũng nguyện
ẩn nhẫn hết thảy.

(4) Thời ác có kẻ
tự xưng tỷ kheo,
nhưng trí thì lầm
mà tâm lại dối,
chưa thật được gì
tự bảo là được,
cả người tràn ngập
tâm lý ngã mạn.

(5) Hoặc xưng lan nhã
quấn tấm vải vá
ở chỗ trống vắng,
tự cho mình làm
đạo hạnh chân thật,
khinh thị nhân gian.

(6) Hoặc vì tham lam
quan tâm lợi lộc,
họ bày thuyết pháp
cho người trần thế,
được người trần thế
kính như tôn kính
một vị La hán
đủ sáu thần thông.

(7) Những người như vậy
ôm giữ lòng ác,
thường xuyên nghĩ đến
những việc trần tục,
giả danh là kẻ
tu hạnh lan nhã
mà chỉ ưa thích
chỉ trích chúng con.

(8) Họ tuyên ngôn rằng
những tỷ kheo này
vì ham lợi lộc
nói thuyết ngoại đạo.

(9) Ngụy tạo kinh sách,
họ lừa thế nhân.
Và vì danh lợi,
họ cũng bày ra
diễn giảng Pháp Hoa,
ở giữa công chúng
thường chê chúng con
lấy thuyết của họ.

(10) Họ lại đi đến
quốc vương, đại thần,
đến bà la môn,
đến các cư sĩ
và tỷ kheo khác,
phỉ báng chúng con.

(11) Họ bảo chúng con
là kẻ tà kiến
diễn giảng lý thuyết
các phái ngoại đạo.
Kính thuận Thế Tôn,
cho nên chúng con
ẩn nhẫn tất cả
tệ ác như vậy.

(12) Bị họ mai mỉa
bằng cách nói rằng
các người toàn là
Phật đà cả đó!
Khinh ngạo đến thế
chúng con cũng nhẫn.

(13) Thời kỳ khủng khiếp
lắm kẻ đáng sợ,
quỉ dữ nhập vào
thân tâm của họ,
nên họ thóa mạ
hạ nhục chúng con.

(14) Thế nhưng chúng con
kính tin Thế Tôn,
nên mặc áo giáp
của sự nhẫn nhục,
nhẫn hết bao nhiêu
khó khăn tai nạn
để mà tuyên thuyết
Diệu Pháp Liên Hoa.

(15) Chúng con không tiếc
tính mạng chúng con,
chúng con chỉ tiếc
đạo pháp vô thượng.
Nên chúng con nguyện
trong thì vị lai
kính giữ Pháp Hoa
Thế Tôn ký thác.

(16) Như đức Thế Tôn
tự biết quá rõ,
trong thời vẩn đục
tỷ kheo bất hảo
đâu có thấu hiểu
về cách phương tiện
tùy nghi thuyết pháp
của đức Thế Tôn.

(17) Miệng dữ, mặt cáu,
họ đuổi chúng con
ra khỏi chùa chiền:
tàn tệ đến thế.

(18) Chúng con nhớ lời
Thế Tôn phán dạy,
ẩn nhẫn tất cả
sự tình như vậy.

(19) Thôn xóm thị thành
có ai cầu pháp,
chúng con cũng đến
mà nói cho họ
cái pháp Thế Tôn
đã đem ký thác.

(20) Là những sứ giả
của đức Thế Tôn,
chúng con không sợ
ở giữa công chúng.
Chúng con sẽ khéo
tuyên thuyết Pháp Hoa,
và cùng thỉnh nguyện
Thế Tôn yên tâm.

(21) Trước đức Thế Tôn
trước đức Đa Bảo
và chư Phật đà
đến từ mười phương,
chúng con ngày nay
thệ nguyện như vậy,
nguyện xin các ngài
biết cho chúng con.

_______

Kết thúc tụng kinh Pháp Hoa, chúng con xin hồi hướng:

Vạn ức thời kỳ
không thể nói được
mới được có lúc
Phật nói Pháp Hoa.
Vạn ức thời kỳ
không thể nói được
mới được có lúc
nghe nói Pháp Hoa.
Chúng con nương nhờ
Phật Pháp Tăng lực
mới được trì tụng
Diệu Pháp Liên Hoa.
Chúng con nguyện đem
công đức như vầy
hiến khắp tất cả
các loại chúng sinh,
cầu cho chúng con
cùng với chúng sinh
đều được thành tựu
tuệ giác chư Phật.

Kính lạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Kính lạy tất cả Pháp bảo trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni, đức Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp Hoa. Kính lạy đức Đa Bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp Hoa toàn là chân thật. Kính lạy đức Di Lạc, đức Phật đương lai, đã phát khởi kinh Pháp Hoa và tiếp dẫn những người hành trì Pháp Hoa vãng sinh Đâu suất tịnh độ. Kính lạy tất cả Phật bảo trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy bồ tát Văn Thù, vị pháp sư Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Phổ Hiền, vị khuyến phát Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Quan Âm, vị đại sĩ toàn diện. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.


Lược Dẫn & Cuốn 1 | Cuốn 2 | Cuốn 3 | Cuốn 4 | Cuốn 5 | Cuốn 6 | Cuốn 7 | Phẩm Phổ Hiền | Kinh Pháp Hoa Toát Yếu |



Lược Dẫn & Cuốn 1 | Cuốn 2 | Cuốn 3 | Cuốn 4 | Cuốn 5 | Cuốn 6 | Cuốn 7 | Phẩm Phổ Hiền | Kinh Pháp Hoa Toát Yếu |

[5]

KINH PHÁP HOA
(Hoa Sen Của Chánh Pháp) 
Phần CHÍNH VĂN
Tỷ kheo Thích Trí Quang dịch

CUỐN 5

CUỐN 5
Phẩm 14: Sống yên vui
Phẩm 15: Từ đất xuất hiện
Phẩm 16: Sự sống lâu của đức Thế Tôn
Phẩm 17: Phân tích thành quả

Ngưỡng bạch Phật Pháp Tăng vô tận tam bảo từ bi chứng minh. Đệ tử chúng con nguyện vì bản thân, vì cha mẹ bà con, vì người thân kẻ thù, vì mọi người và vì chúng sinh, trì tụng kinh đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa.

Mở đầu tụng kinh Pháp Hoa, chúng con xin kính lạy:

Kính lạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho Bồ tát và được Phật giữ gìn. Kính lạy tất cả Pháp bảo trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni, đức Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp Hoa. Kính lạy đức Đa Bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp Hoa toàn là chân thật. Kính lạy đức Di Lạc, đức Phật đương lai, đã phát khởi kinh Pháp Hoa và tiếp dẫn những người hành trì Pháp Hoa vãng sinh Đâu suất tịnh độ. Kính lạy tất cả Phật bảo trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy bồ tát Văn Thù, vị pháp sư Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Phổ Hiền, vị khuyến phát Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Quan Âm, vị đại sĩ toàn diện. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

________

Phẩm 14: Sống yên vui

 Vào lúc bấy giờ, Văn Thù đại sĩ, vị thái tử của đức Pháp vương, thưa với ngài rằng, bạch đức Thế Tôn, các vị bồ tát này thật hiếm có. Các vị kính thuận đức Thế Tôn nên phát ra thệ nguyện cao cả, nguyện ở trong thời kỳ dữ dội sau này mà kính giữ Pháp Hoa bằng cách đọc tụng diễn giảng kinh ấy. Nhưng bạch đức Thế Tôn, bồ tát đại sĩ ở trong thời kỳ dữ dội sau này, làm thế nào để diễn giảng Pháp Hoa? Đức Thế Tôn dạy, Văn Thù, bồ tát đại sĩ ở trong thời kỳ dữ dội sau này, muốn diễn giảng Pháp Hoa thì phải đặt mình vững chắc vào trong bốn cách sống yên vui.

Cách sống yên vui thứ nhất là đặt mình vững chắc vào phạm vi đi và phạm vi thân của bồ tát, mới có năng lực diễn giảng Pháp Hoa cho mọi người.

Văn Thù, phạm vi đi của bồ tát là gì? Là bồ tát đi trong đường đất nhẫn nhục, ôn hòa, khéo thuận, không thô bạo, không kinh hoảng. Hơn nữa, đối với các pháp thì không đi theo pháp nào mà chỉ nhìn thật tướng của các pháp ấy, cũng không đi theo sự không nhận thức các pháp. Như vậy gọi là phạm vi đi của bồ tát.

Phạm vi thân của bồ tát là gì? Là bồ tát không thân gần quốc vương, vương tử, đại thần, quan trưởng. Không thân gần tu sĩ ngoại đạo, Ni kiền tử. Không thân gần những kẻ tạo ra văn bút, thi ca và tác phẩm trần tục. Không thân gần những kẻ theo chủ thuyết xuôi với đời hay chủ thuyết ngược với đời. Cũng không thân gần những kẻ chơi những trò chơi hung hãn như đâm nhau, vật nhau; những kẻ hóa trang, ảo thuật. Không thân gần chiên đà la và những kẻ ác luật nghi như nuôi heo dê gà chó, săn bắn chài lưới. Tất cả những kẻ trên đây có khi đến với bồ tát, thì bồ tát nên thuyết pháp cho họ mà không ước vọng gì về danh lợi. Lại không thân gần bốn chúng cầu niết bàn của thanh văn, không hỏi thăm, không ở chung trong phòng, chỗ kinh hành hay trong giảng đường. Các vị ấy có khi đến với bồ tát thì bồ tát tùy nghi thuyết pháp mà không ước vọng gì về danh lợi. Văn Thù, đối với thân thể nữ nhân, bồ tát không vì những hình dáng phát sinh tư tưởng về dục mà thuyết pháp cho họ, cũng không ham gặp. Đến nhà người, đừng nói chuyện với thiếu nữ, xử nữ, quả phụ… Đừng gần mà thân thiết với năm loại người phi nam. Đừng một mình đến nhà người; có lý do phải đến một mình thì chuyên tâm nghĩ nhớ đến Phật. Thuyết pháp cho nữ nhân thì không cười bày răng, không để hở ngực, và đến nỗi vì chánh pháp cũng không thân thiết với nữ nhân, huống chi vì gì khác. Không thích nuôi đệ tử sa di nhỏû tuổi, trẻ con, cũng không thích cùng thầy với họ. Thường ưa ngồi thiền, ở chỗ không bị quấy nhiễu, tập trung mà sửa chữa tâm mình. Văn Thù, như vậy gọi là phạm vi thân thứ nhất của bồ tát. Bồ tát lại xét thấy các pháp là Không—thấy thật tướng các pháp: không thác loạn, không dao động, không suy thoái, không chuyển biến ; thấy như hư không: không phải những sự sở hữu của tư duy, không phải những sự mô tả của ngôn ngữ, không phát sinh, không xuất hiện, không nổi dậy, không danh từ, không khái niệm; thấy thật là không thật: không số lượng, không giới hạn, không trở ngại, không ngăn cách_ chỉ do sự tương quan mà có, và từ sự nhận thức thác loạn mà phát sinh và diễn tả. Thường thích quán sát về thật tướng như vậy. Đó là phạm vi thân thứ hai của bồ tát.

Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đãï nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Thời ác sau này,
vị bồ tát nào
không có e sợ,
muốn nói Pháp Hoa,

(2) thì phải vào nơi
chỗ đi chỗ thân.
Thường xa quốc vương,
cùng với vương tử,

(3) đại thần, quan trưởng,
kẻ chơi hung hãn,
kẻ làm ảo thuật,
kẻ chiên đà la,
và những tu sĩ
các phái ngoại đạo.

(4) Cũng không thân gần
người tăng thượng mạn,
học giả thuộc cả
ba tạng tiểu thừa,
tỷ kheo phá giới,
La hán giả danh.

(5-Những tỷ kheo ni
6) ưa thích cười giỡn,
những nữ tín đồ
quá ham ngũ dục,
với những người ấy
đều chớ thân gần.
Và sự thể này
nên coi như là
tìm kiếm niết bàn
ngay trong hiện tại.

(7) Những người trên đây
bằng tâm lý tốt
đến chỗ bồ tát
để được nghe nói
về tuệ giác Phật,
bồ tát phải đem
sự không khiếp sợ,
và không ẩn ý
ước vọng danh lợi,
mà thuyết pháp cho.

(8) Quả phụ, xử nữ,
và những phi nam,
đừng nên gần gũi
làm người thân thiết.

(9-12) Cũng đừng thân gần
thầy trò thợ thịt.
Săn bắn chài lưới
vụ lợi sát hại,
sinh sống bằng nghề
buôn bán thịt cá,
ma cô tú bà
buôn bán nữ sắc,
những kẻ như vậy
cũng đừng thân gần.

(13) Đô vật hung hãn,
các loại trò chơi,
cũng như dâm nữ
đều không thân gần.
Đừng ngồi chỗ khuất
và ngồi một mình
mà thuyết chánh pháp
cho các nữ nhân,
khi thuyết chánh pháp
thì đừng đùa giỡn.

(14) Đi vào khất thực
nơi chỗ dân cư
thì phải đi với
một vị tỷ kheo,
nếu không có được
vị tỷ kheo ấy
thì phải chuyên tâm
nghĩ nhớ đến Phật.

(15) Như vậy gọi là
chỗ đi chỗ thân;
nhờ hai chỗ ấy
thuyết pháp yên vui.

(16) Lại không đi theo
pháp cao vừa thấp,
hữu vi vô vi,
thật với không thật.

(17) Cũng không phân biệt
này đây là nam
này đây là nữ,
không biết không thấy
không tìm ra được
các pháp là thật.

(18) Như vậy gọi là
chỗ bồ tát đi.

(19) Tất cả các pháp
không phải thật có:
không phải thường còn
không phải sinh diệt,
đó là chỗ thân
của bậc có trí.

(20) Nhận thức thác loạn
nên thấy các pháp
có không, thật giả,
và sinh với diệt.

(21) Ở chỗ trống vắng
tập trung tâm trí,
an nhiên bất động
như núi Tu di,
mà xét các pháp
thì thấy là Không.

(22) Tựa như hư không
không gì cố định:
không là phát sinh
cũng không xuất hiện,
không là suy thoái
cũng không dao động,
vĩnh viễn nhất quán,
ấy là chỗ thân.

(23) Sau khi Như Lai
nhập niết bàn rồi,
bấy giờ nếu có
tỷ kheo bồ tát
nhập vào chỗ đi
và chỗ thân này,
thì nói Pháp Hoa
không có khiếp nhược.

(24-25) Có lúc vị ấy
vào trong tịnh thất,
ghi nhớ chính xác
xét pháp theo nghĩa,
rồi xuất thiền định
mà giảng Pháp Hoa;
diễn giảng khai thị
cho hàng quốc vương,
vương tử, thần dân,
và bà la môn,
mà tâm an nhiên
không có khiếp nhược.
Văn Thù đại sĩ,
như vậy gọi là
bồ tát đứng vững
nơi cách thứ nhất,
có thể ở trong
thời ác sau này
tuyên thuyết phong phú
Diệu Pháp Liên Hoa.

Văn Thù, sau khi Như Lai nhập diệt, trong thời kỳ giáo pháp cuối cùng, ai muốn diễn giảng Pháp Hoa thì phải đặt mình vững chắc vào trong cách sống yên vui thứ hai. Là miệng chỉ diễn giảng hay đọc tụng kinh điển, không thích nói nhược điểm của người, của kinh điển. Không khinh ngạo các vị diễn giảng khác. Không nói những sự tốt xấu giỏi dở của mọi người. Đối với thanh văn, không đem tên ra mà nói xấu hay khen tốt. Tâm lý oán ghét hiềm khích không hề nổi dậy, là vì khéo tu cái tâm yên vui. Ai muốn nghe pháp cũng không nghịch ý họ. Họ hỏi gì thì không trả lời bằng giáo pháp cỗ xe thấp nhỏ, chỉ đem giáo pháp cỗ xe vĩ đại mà giảng giải, làm cho họ đạt được tuệ giác Biết tất cả. Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(26-30) Bồ tát là người
luôn luôn thư thái
yên vui thuyết pháp.
Một cái pháp tòa
được sắp đặt cho
nơi chỗ sạch sẽ.
Trước đó tắm rửa
sạch hết dơ bẩn,
lấy dầu xoa mình,
mặc áo sạch mới.
Trong ngoài sạch rồi
đến ngồi pháp tòa,
tùy người thưa hỏi
mà giảng nói cho.
Đối diện tỷ kheo
và tỷ kheo ni,
hoặc ưu bà tắc
với ưu bà di,
quốc vương vương tử
quần thần sĩ dân,
đều đem nghĩa lý
tinh túy sâu xa
mà nói cho họ
với mặt hiền hòa.

(31) Có ai gạn hỏi,
đáp theo nghĩa lý;
yếu tố, ví dụ,
diễn giảng, phân tích,
dùng những cách này
làm họ phát tâm
tăng dần lợi ích
vào tuệ giác Phật.

(32) Loại bỏ biếng nhác,
tách xa bực dọc,
đem tâm từ bi
mà thuyết chánh pháp.

(33) Ngày đêm thường thuyết
chánh pháp vô thượng,
đem mọi yếu tố
và lắm ví dụ
khai thị cho người
làm ai cũng vui.

(34) Đồ mặc đồ nằm
đồ ăn đồ uống
cùng với thuốc thang,
đối với tất cả
những thứ như vậy
không mong ước gì.

(35) Chỉ một tâm nguyện
nguyện nhờ thuyết pháp
mà mình với người
cùng được thành Phật,
và đó chính là
những sự ích lợi,
lạc thú, hiến cúng
vô cùng lớn lao.

(36) Sau khi Như Lai
nhập niết bàn rồi,
bấy giờ nếu có
tỷ kheo bồ tát
có thể diễn giảng
Diệu Pháp Liên Hoa,
thì lòng không còn
ganh tị, tức bực,
không bị quấy phá
không gặp trở ngại,
không còn lo rầu
không ai thóa mạ,

(37) không bị khủng bố,
hành hung, xua đuổi,
vì đã đứng vững
trong sự ẩn nhẫn.

(38) Người có trí tuệ
khéo tu tâm mình
bằng cách sống theo
cách sống yên vui
mà ở trên đây
Như Lai đã dạy,
thì bao hiệu quả
mà người ấy có,
vạn ức thời kỳ
áp dụng toán số
hay sự ví dụ
nói cũng không hết.

Văn Thù, cách sống yên vui thứ ba là, sau này, trong thời kỳ cuối cùng, khi giáo pháp sắp ẩn mất, những người kính giữ Pháp Hoa thì đừng ôm giữ tâm lý ganh ghét, dua nịnh và dối trá. Đừng khinh khi thóa mạ những người học tập tuệ giác của Phật, đừng tìm kiếm điều hay cái dở của những người ấy. Đối với bốn chúng tỷ kheo, tỷ kheo ni, ưu bà tắc,ưu bà di, đối với các vị cầu cỗ xe thanh văn, cỗ xe duyên giác, cỗ xe bồ tát, thì đừng quấy rối, làm cho họ thắc mắc, hối tiếc, bằng cách nói rằng các người cách xa tuệ giác của Phật, không bao giờ thực hiện được tuệ giác Biết tất cả, vì lẽ các người là những kẻ bất thường, biếng nhác đối với tuệ giác ấy. Đừng bàn chơi các pháp, cãi cọ lẫn nhau. Đối với chúng sinh thì nghĩ đến đại bi, đối với Phật đà thì nghĩ là từ phụ, đối với bồ tát thì nghĩ là đại sư. Đối với bồ tát mười phương thì tôn kính sâu xa, đối với chúng sinh đủ loại thì thuyết pháp bình đẳng. Nhưng thuận với chánh pháp nên không nói nhiều cũng không nói ít, thậm chí đối với những người ưa thích chánh pháp một cách sâu xa cũng không vì họ mà nói nhiều. Văn Thù, sau này, trong thời kỳ cuối cùng, khi giáo pháp sắp ẩn mất, các vị bồ tát có ai thành tựu cách sống yên vui thứ ba này thì lúc diễn giảng Pháp Hoa không ai quấy phá được. Người ấy còn được đồng học rất tốt, chung nhau đọc tụng Pháp Hoa; được các chúng đến nghe mà nghe rồi nhớ được, nhớ rồi tụng được, tụng rồi giảng được, giảng rồi tự mình sao chép hay khuyên người sao chép, và hiến cúng cung kính tôn trọng tán dương đối với cuốn kinh ấy. Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(39) Muốn giảng Pháp Hoa,
phải bỏ tâm lý
ganh tức, ngạo mạn,
dua nịnh, tà ngụy,
mà thường tu sửa
đức tính chất trực.

(40) Đừng khinh miệt người,
cũng đừng bàn chơi
đối với các pháp,
đừng làm người khác
thắc mắc hối tiếc
bằng cách nói rằng
các người không thể
thành đức Phật đà.

(41) Con Phật như vậy
diễn giảng Pháp Hoa
thường xuyên ôn hòa
và hay ẩn nhẫn,
từ bi giáo hóa
tất cả các chúng,
không hề sinh ra
tâm tư biếng nhác.

(42) Chư đại bồ tát
ở mười phương hướng,
vì thương chúng sinh
du hóa khắp cả;
thì với các ngài
phải nên tôn kính,
rằng đó là bậc
đại sư của tôi.

(43) Đối với chư vị
Đại giác Thế Tôn
thì thờ làm bậc
từ phụ tối thượng.
Dẹp bỏ tất cả
tâm lý kiêu căng,
nên thuyết chánh pháp
không gặp trở ngại.

(44) Cách sống thứ ba
là như thế ấy,
người có trí tuệ
phải giữ cho đúng.
Đồng nhất tâm mình
với cách sống vui,
thì được vô lượng
các chúng tôn kính.

Văn Thù, cách sống yên vui thứ tư là, sau này, trong thời kỳ cuối cùng, khi giáo pháp sắp ẩn mất, bồ tát có vị nào kính giữ Pháp Hoa thì đối với những người tại gia và xuất gia phải có lòng lành, đối với những người không phải bồ tát phải có lòng thương; nên nghĩ như vầy: những người ấy mất mát rất lớn nếu không nghe không biết không hay, không hỏi không tin không hiểu gì về sự phương tiện tùy nghi thuyết pháp của đức Thế Tôn, nghĩa là không hỏi không tin không hiểu gì về Pháp Hoa. Dầu vậy, ta vẫn nguyện rằng khi được tuệ giác vô thượng rồi, tùy những người này ở vào bất cứ vị trí nào, ta cũng đem thần thông lực và trí tuệ lực mà dẫn dắt cho họ được đứng vào trong Pháp Hoa. Văn Thù, sau khi Như Lai nhập diệt, bồ tát có ai thành tựu cách sống yên vui thứ tư này thì diễn giảng Pháp Hoa không có lầm lỗi, thường được bốn chúng, được quốc vương, vương tử, đại thần, dân chúng, bà la môn, cư sĩ, và mọi thành phần khác, cùng hiến cúng cung kính tôn trọng tán dương. Chư thiên ở trong không gian, vì nghe pháp nên cũng thường xuyên theo hầu. Khi vị ấy ở những nơi thôn xóm thành thị, hoặc ở những chỗ núi rừng thanh vắng, có ai đến muốn gạn hỏi, thì chư thiên ngày đêm thường vì pháp mà hộ vệ vị ấy, làm cho người nghe ai cũng hoan hỷ. Tại sao, vì Pháp Hoa là bản kinh được sự giữ gìn của thần lực chư Phật quá khứ vị lai cùng với hiện tại. Văn Thù, trong vô lượng quốc độ, kinh Pháp Hoa này đến nỗi cái tên còn khó được nghe đến, huống chi được nhìn thấy, thọ trì đọc tụng đối với kinh ấy.

Văn Thù, ví như vị luân vương hùng cường, muốn sử dụng uy thế làm cho các nước thần phục. Nhưng các quốc vương không tuân lịnh. Luân vương phải động binh chinh phạt. Và thấy tướng sĩ chiến đấu ai có công thì luân vương mừng, tùy công mà thưởng bằng cách hoặc cho ruộng đất, nhà cửa, thôn xóm, thành thị, hoặc cho y phục và những đồ trang sức thân thể, hoặc cho những thứ quí báu như bạc, vàng, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, hoặc cho voi ngựa, xe thuyền, tôi tớ, dân chúng. Chỉ viên ngọc sáng trong bối tóc thì không đem cho, vì chỉ trên đỉnh đầu của luân vương mới nên có viên ngọc sáng ấy. Nếu đem cho thì tướng sĩ của luân vương tất hết sức kinh dị. Văn Thù, Như Lai cũng vậy, nhờ định lực và tuệ lực mà có quốc gia chánh pháp, ngự trị ba cõi. Nhưng chúa tể các loại ma không chịu khuất phục. Tướng sĩ hiền thánh của Như Lai phải chiến đấu với chúa tể các loại ma ấy. Và ai có công thì Như Lai hoan hỷ, ở giữa bốn chúng mà nói cho họ các kinh pháp để họ đẹp dạ, thưởng cho họ bao nhiêu là tài sản chánh pháp đại loại như thiền định, giải thoát, căn bản và năng lực thuần khiết, lại ban cho họ đô thành niết bàn, tuyên ngôn họ được niết bàn để dẫn đạo cho lòng họ hoan hỷ. Nhưng không nói cho họ kinh Pháp Hoa này.

Văn Thù, vị luân vương thấy tướng sĩ ai có công lớn mới rất mừng, và đem viên ngọc sáng, một viên ngọc khó có ai tin nổi giá trị của nó, từ lâu luân vương để trong bối tóc, không bừa bãi cho ai mà nay thưởng cho. Như Lai cũng vậy, làm vị pháp vương vĩ đại trong cả ba cõi, đem chánh pháp giáo hóa hết thảy chúng sinh, thấy tướng sĩ hiền thánh chiến đấu với ma hợp thể, ma phiền não và ma chết chóc mà ai có công lớn diệt ba độc, vượt ba cõi, phá lưới ma, thì bấy giờ Như Lai rất hoan hỷ, và đem kinh Pháp Hoa, bản kinh có năng lực làm cho chúng sinh đạt đến tuệ giác của bậc Toàn giác, hết thảy thế gian phần nhiều oán ghét khó tin, trước đây chưa nói bao giờ mà nay nói cho. Văn Thù, Pháp Hoa là pháp thoại bậc nhất của chư Phật. Trong các pháp thoại, Pháp Hoa sâu xa hơn hết, nên cuối cùng Như Lai mới nói mà ban cho, như vị luân vương hùng cường giữ mãi viên ngọc sáng, ngày nay mới đem ban thưởng. Văn Thù, Pháp Hoa là kho tàng bí mật của chư Phật, ở trên hết trong các kinh pháp, Như Lai giữ gìn từ lâu, không nói bừa bãi, ngày nay mới đem phát lộ cho chư vị.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(45) Thường xuyên nhẫn nhục,
xót thương tất cả,
mới diễn giảng được
kinh Phật tán dương.

(46) Trong thời cuối cùng,
kính giữ Pháp Hoa,
thì với những vị
tại gia xuất gia
cùng với những vị
không phải bồ tát,
phải có từ bi
thương người không nghe
không tin Pháp Hoa
là rất mất mát.

(47) Nguyện rằng khi được
tuệ giác Phật đà
thì dùng phương tiện
nói cho Pháp Hoa,
để làm cho họ
đứng trong pháp ấy.

*

(48) Ví như luân vương
năng lực hùng cường,
thấy các tướng sĩ
chiến đấu có công,
thì đem tưởng thưởng
đủ cả mọi vật:
voi ngựa xe thuyền,
đồ trang sức mình,
cùng với nhà đất,
thôn xóm thị thành.

(49) Hoặc cho y phục,
các thứ vàng ngọc,
tôi tớ tài sản
vui vẻ cho cả.

(50) Nhưng ai mạnh nhất
làm việc khó làm,
mới mở bối tóc
lấy cho ngọc sáng.

(51) Như Lai cũng vậy:
làm vua các pháp,
có sức mạnh lớn
là sức nhẫn nhục,
có kho báu lớn
là kho tuệ giác,
vận dụng đại từ
cùng với đại bi
giáo hóa thế giới
một cách đúng cách.

(52) Là thấy mọi người
chịu bao khổ não,
muốn thoát khổ não
nên chiến với ma;
Như Lai vì họ
nói các chánh pháp,
đem phương tiện khéo
nói bao khế kinh.

(53) Khi biết mọi người
đắc lực cả rồi,
cuối cùng nói cho
kinh Pháp Hoa này;
tựa như luân vương
lấy viên ngọc sáng
để trong bối tóc
đem ra ban thưởng.

(54) Pháp Hoa tôn quí
trên hết các kinh,
Như Lai giữ gìn
không nói bừa bãi.
Nay mới đúng lúc
nói cho chư vị.

(55) Sau khi Như Lai
nhập niết bàn rồi,
những ai tìm kiếm
tuệ giác Phật đà,
muốn được yên vui
giảng nói Pháp Hoa
thì phải thân gần
bốn cách sống vui.

*

(56) Đọc tụng Pháp Hoa
thì không lo bực,
cũng không đau ốm,
sắc tướng sáng tươi;
không sinh hay sống
ở trong những chỗ
nghèo nàn khốn cùng
thấp hèn xấu xí.

(57) Ai cũng thích nhìn
như mến hiền thánh.
Đồng tử chư thiên
làm người phục dịch.

(58) Dao gậy vô phương,
độc tố hết phép.
Ai muốn mắng chưởi
miệng lưỡi tắc nghẽn.

(59) Như sư tử chúa
đi đâu chẳng sợ.
Trí tuệ chiếu sáng
như mặt trời chiếu.

(60) Trong mộng thì thấy
toàn việc tốt đẹp.
Được thấy Như Lai
ngồi tòa sư tử,
đang thuyết pháp cho
tỷ kheo bao quanh.

(61) Được thấy tám bộ
chư thiên thiện thần
nhiều bằng hằng sa
cung kính chắp tay,
và thấy chính mình
thuyết pháp cho họ.

(62) Được thấy Như Lai
thân đầy tướng quí
toàn màu hoàng kim,
phóng ra vô số
các tia ánh sáng
chiếu soi khắp cả,
lại còn sử dụng
âm thanh Phạn thiên
tuyên thuyết diễn giảng
các loại chánh pháp.

(63) Lại thấy Như Lai
nói pháp tối thượng
cho cả bốn chúng,
và thấy bản thân
ở trong bốn chúng
chắp tay ca tụng,

(64) nghe pháp, hoan hỷ,
và hiến cúng ngài,
được pháp tổng trì
thành trí bất thoái.

(65) Và thấy Như Lai
biết mình vào sâu
tuệ giác Phật đà
nên thọ ký cho
sẽ thành một đấng
Biết rất chính xác,
bằng cách nói rằng
này thiện nam tử,
sau này ông được
cái trí vô lượng
là trí vĩ đại
của chư Phật đà,

(66) với một quốc độ
tráng lệ sạch sẽ
và lớn đến nỗi
không cõi nào bằng;
trong quốc độ ấy
cũng có bốn chúng
chắp tay lắng nghe
chánh pháp tối thượng.

(67) Lại thấy bản thân
ở trong núi rừng,
tu tập thiện pháp
thấu suốt thật tướng,
vào sâu thiền định
thấy chư Như Lai.

(68) Thấy thân Như Lai
toàn màu hoàng kim,
tướng quí trăm phước
cực kỳ trang nghiêm;
thấy mình nghe pháp
Như Lai tuyên thuyết,
và đem pháp ấy
nói lại cho người.
Những người đọc tụng
Diệu Pháp Liên Hoa
thì thường được có
mộng đẹp như vậy.

(69) Lại mộng thấy mình
làm vị quốc vương,
rời bỏ cung điện
cùng với hoàng gia,
bỏ cả năm thứ
dục lạc thượng thặng,
và rồi đi đến
nơi bồ đề tràng;

(70) ngồi tòa sư tử
dưới cây bồ đề,
và qua bảy ngày
suy tầm tuệ giác
là được hoàn thành
tuệ giác của Phật;

(71) sau khi hoàn thành
tuệ giác vô thượng,
đứng lên chuyển đẩy
bánh xe chánh pháp,
giảng diễn chánh pháp
cho cả bốn chúng
trải qua đến cả
vạn ức thời kỳ;

(72) giảng diễn chánh pháp
thuần khiết tinh túy,
giáo hóa cứu độ
vô lượng chúng sinh,
sau đó nhập vào
niết bàn hoàn toàn,
tựa như đèn tắt
khói cũng không còn.

(73) Chính trong thời kỳ
dữ dội sau này,
ai diễn giảng được
cái pháp bậc nhất,
thì người như vậy
được đại lợi ích
là những hiệu quả
đã nói trên đây.

Phẩm 15: Từ đất xuất hiện

 Lúc ấy các vị bồ tát đại sĩ từ các quốc độ khác đến quốc độ này, nhiều hơn tám hằng sa, đứng dậy trong đại hội, chắp tay đảnh lễ mà thưa, bạch đức Thế Tôn, nếu ngài cho phép chúng con, sau khi ngài nhập diệt, ở tại quốc độ Kham nhẫn này, nỗ lực tinh tiến mà kính giữ Pháp Hoa, thì chúng con nguyện ở tại đây mà diễn giảng kinh ấy một cách phong phú. Đức Thế Tôn bảo các vị bồ tát đại sĩ, hãy thôi, chư thiện nam tử, khỏi phiền chư vị kính giữ Pháp Hoa tại quốc độ này. Quốc độ này của Như Lai tự có sáu vạn hằng sa bồ tát đại sĩ, mỗi vị lại có sáu vạn hằng sa tùy thuộc. Thầy trò các vị này có thể, sau khi Như Lai nhập diệt, kính giữ Pháp Hoa bằng cách đọc tụng, công bố rộng rãi…

Khi đức Thế Tôn nói như vậy thì đất của toàn thể đại thiên quốc độ Kham nhẫn đều chấn động mà nứt ra, và từ đó có vô số bồ tát đại sĩ cùng lúc vọt lên. Các vị ấy thân toàn màu hoàng kim, đủ cả ba mươi hai tướng quí, và ánh sáng thì vô số lượng. Các vị cùng ở trong không gian phía dưới quốc độ Kham nhẫn này, nghe tiếng đức Thế Tôn nói như trên nên từ đó dũng xuất. Các vị toàn là những bậc đạo sư, dẫn theo đại chúng bồ tát tùy thuộc: Nhiều vị, mỗi vị dẫn theo sáu vạn hằng sa tùy thuộc; nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ dẫn theo năm vạn, bốn vạn, ba vạn, hai vạn hay một vạn hằng sa tùy thuộc; nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ dẫn theo một hằng sa, một phần nửa của một hằng sa, một phần tư của một hằng sa, cho đến một phần ngàn vạn ức trăm triệu của một hằng sa tùy thuộc. Nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ dẫn theo ngàn vạn ức trăm triệu tùy thuộc; nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ dẫn theo ức vạn tùy thuộc; nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ dẫn theo ngàn vạn, trăm vạn cho đến một vạn tùy thuộc; nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ dẫn theo một ngàn, một trăm cho đến một chục tùy thuộc; nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ dẫn theo năm, bốn, ba, hai hay một tùy thuộc. Và nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ đến đơn độc, vì thích sống tách rời. Thầy trò các vị bồ tát đại sĩ như thế này thật vô lượng vô biên, toán số ví dụ cũng không thể xác định.

Thầy trò các vị từ đất xuất hiện rồi, cùng đến chỗ đức Đa Bảo và đức Thích Ca, nơi ngôi tháp do bảy chất liệu quí báu kết hợp, ở trong không gian. Đến rồi, các vị hướng về hai ngài mà đem đầu mặt lạy ngang chân. Các vị lại đến chỗ chư Phật phân thân ngồi trên tòa sư tử ở dưới các cây ngọc, làm lễ cũng như vậy. Theo chiều bên phải, các vị đi quanh chư Phật phân thân mỗi ngài ba vòng, chắp tay, cung kính, đem những cách thức tán dương của bồ tát mà tán dương các ngài. Rồi đứng lại một phía, các vị hân hoan chiêm ngưỡng đức Đa Bảo và đức Thích Ca. Thì gian các vị mới xuất hiện cho đến tán dương xong, trải qua hết năm chục thời kỳ bậc nhỏ. Trong thì gian ấy, đức Thế Tôn ngồi yên lặng. Bốn chúng cũng yên lặng trong năm chục thời kỳ bậc nhỏ ấy. Nhưng do thần lực của đức Thế Tôn nên làm cho cả đại hội coi như nửa ngày mà thôi.

Lại nhờ thần lực của đức Thế Tôn mà bốn chúng thấy các vị bồ tát đại sĩ như thế này đầy khắp không gian của quốc độ Kham nhẫn mà, lúc bấy giờ, quang cảnh tựa như không gian của vô lượng quốc độ. Rồi bốn vị trong số các vị đạo sư, thứ nhất danh hiệu Thượng Hạnh, thứ hai danh hiệu Vô biên Hạnh, thứ ba danh hiệu Tịnh Hạnh, thứ tư danh hiệu An lập Hạnh, là bốn vị đạo sư thượng thủ, cùng đứng trước đại chúng bồ tát ấy, chắp hai tay lại, nhìn đức Thích Ca mà vấn an, rằng bạch đức Thế Tôn, ngài ít bịnh, ít phiền, sống yên vui chăng? Những người đáng được ngài hóa độ, họ có tiếp nhận sự hóa độ ấy một cách dễ dàng để làm cho ngài khỏi phải mệt nhọc chăng? Bốn vị cùng lặp lại sự vấn an của mình bằng lời chỉnh cú sau đây.

(1) Thế Tôn yên vui
ít bịnh ít phiền,
hóa độ chúng sinh
không mệt nhọc chăng?

(2) Chúng sinh dễ dàng
tiếp nhận hóa độ
để làm cho ngài
khỏi mệt nhọc chăng?

Khi ấy đức Thế Tôn bảo đại chúng bồ tát, đúng như vậy, chư thiện nam tử; Như Lai yên vui, ít bịnh ít phiền, những người đáng được hóa độ cũng dễ hóa độ, không mệt nhọc gì. Những người này bao đời đến nay thường tiếp nhận sự giáo hóa của Như Lai, lại hiến cúng tôn trọng mà gieo trồng thiện căn ở nơi chư Phật quá khứ. Những người này mới thấy thân Như Lai, mới nghe lời Như Lai, là tức thì tin tưởng chấp nhận, nhập vào tuệ giác Như Lai. Ngoại trừ những người trước đây tu học theo giáo pháp cỗ xe thấp nhỏ; những người như vậy ngày nay Như Lai cũng làm cho nghe được Pháp Hoa mà nhập được Phật tuệ. Nghe đức Thế Tôn dạy như vậy, bốn đại bồ tát lại nói lời chỉnh cú sau đây.

(3) Tốt thay, lành thay,
Thế Tôn đại hùng!
bao nhiêu chúng sinh
hóa độ dễ dàng!

(4) Họ có thể hỏi
về tuệ giác Phật
cực kỳ sâu xa,
hỏi rồi nghe được
nghe rồi tin được
tin rồi làm được.
Tất cả chúng con
kính xin tùy hỷ.

Đức Thế Tôn tán dương bốn vị đại bồ tát thượng thủ, tốt lắm, chư thiện nam tử, các vị có thể có sự tùy hỷ như vậy đối với Như Lai.

Vào lúc bấy giờ, đức Di Lạc cùng chúng chư bồ tát nhiều đến tám ngàn hằng sa, đều nghĩ rằng, từ trước đến nay, chúng ta không thấy không nghe chúng đại bồ tát như vầy, từ đất dũng xuất, đang đứng trước đức Thế Tôn mà chắp tay hiến cúng và vấn an. Đức Di Lạc biết ý nghĩ trong lòng tám ngàn hằng sa bồ tát, lại muốn giải trừ nghi hoặc của mình, nên chắp tay hướng về đức Thế Tôn mà thưa hỏi bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(5) Đại chúng bồ tát
vô lượng vạn ức
như thế này đây
con chưa từng thấy.
Thưa đấng hoàn hảo
phước đức tuệ giác!
xin ngài dạy cho
chúng con được rõ.

(6-7) Các vị như vầy
từ đâu đến đây?
vì lý do nào
mà qui tụ lại?
Thân thể cao lớn,
thần thông quảng đại,
trí tuệ khó lường,
trí nhớ vững chắc,
nhẫn lực vĩ đại,
ai cũng thích nhìn:
các vị như vậy
từ đâu đến đây?

(8) Mỗi vị đại sư
dẫn theo đệ tử
số lượng vô số
tính theo hằng sa.

(9) Có những đại sư
dẫn theo đệ tử
số lượng nhiều bằng
sáu vạn hằng sa,
mà con xem ra
đệ tử như vậy
ai cũng nhất tâm
cầu tuệ giác Phật.

(10) Những đại sư này
đã nhiều bằng số
sáu vạn hằng sa,
cùng nhau đến đây
để được hiến cúng
đối với Thế Tôn,
và được coi giữ
kinh Pháp Hoa này.

(11-22) Còn các đại sư
dẫntheo đệ tử
năm vạn hằng sa,
số đại sư này
lại càng nhiều hơn
số đại sư trên.
Các vị dẫn theo
bốn vạn ba vạn
hai vạn một vạn
một ngàn một trăm
đến một hằng sa,
phần nửa phần ba
cùng với phần tư,
cho đến một phần
vạn ức trăm triệu
của một hằng sa,
số đại sư này
càng nhiều hơn trên.
Các vị dẫn theo
vạn ức trăm triệu,
dẫn theo vạn ức,
cho đến nửa ức,
số đại sư này
càng nhiều hơn trên.
Các vị đại sư
dẫn theo trăm vạn,
cho đến một vạn,
một ngàn một trăm
năm chục một chục
đến ba hai một;
và các đại sư
chỉ đến đơn độc,
vì thích đơn độc
không có đệ tử.
Tất cả cùng đến
chỗ Thế Tôn đây,
số lượng tuần tự
càng nhiều hơn trên.

(23) Đại chúng bồ tát
như con vừa nói,
nếu ai phát thẻ
để đếm số lượng,
thì qua thời kỳ
nhiều hơn hằng sa,
cũng vẫn không thể
đếm mà biết hết.

(24) Đại chúng bồ tát
mà cả uy đức
và sự tinh tiến
cùng vĩ đại này,
ai đã thuyết pháp
giáo hóa tác thành?

(25) Họ từ vị nào
bắt đầu phát tâm?
và đã tuyên dương
giáo pháp Phật nào?
đã từng tiếp nhận
thực hành kinh nào?
và từ Phật nào
họ tu Phật tuệ?

(26-27) Đại chúng bồ tát
như thế này đây
thần lực trí lực
thật là vĩ đại:
khắp quốc độ này
đất chấn động cả,
và họ từ đó
mà cùng dũng xuất.

(28) Bạch đức Thế Tôn,
từ trước đến nay
con chưa hề thấy
sự trạng như vầy.
Xin ngài nói cho
danh hiệu quốc độ
mà các vị này
từ đó đến đây.

(29) Con thường du hóa
khắp các quốc độ,
mà chưa hề thấy
các vị như vầy.

(30) Trong các vị này
đến nỗi một người
con cũng không biết.
Các vị bỗng nhiên
từ đất xuất hiện.
Xin đức Thế Tôn
nói rõ nguyên ủy
của các vị ấy.

(31) Trong đại hội đây
chúng chư bồ tát
vô số vạn ức
muốn biết điều này.

(32) Nguyên ủy gốc ngọn
của các vị ấy
là như thế nào,
thưa đấng Thế Tôn
trí đức vô lượng,
xin ngài dạy rõ
để giải ngờ vực
cho cả các chúng.

Chư Phật phân thân của đức Thế Tôn, đến đây từ vô số quốc độ ở mọi phương hướng, hiện vẫn ngồi xếp bằng trên tòa sư tử dưới các cây ngọc khắp cả tám hướng. Các vị thị giả của chư Phật ấy ai cũng thấy đại chúng bồ tát vọt lên từ đất khắp cả đại thiên quốc độ này, và đứng trong không gian. Mỗi vị thị giả thưa với đức Phật của mình, rằng bạch đức Thế Tôn, đại chúng bồ tát vô lượng vô biên vô số này từ đâu đến đây? Chư Phật ngài nào cũng bảo vị thị giả của mình, rằng thiện nam tử, hãy chờ một lát. Vị đại bồ tát danh hiệu Di Lạc, người được đức Thích Ca Thế Tôn thọ ký làm Phật kế ngài, đã hỏi ngài về việc này. Ngài sắp giải đáp, nhân đó các người sẽ được nghe.

Khi ấy đức Thế Tôn bảo, tốt lắm, Di Lạc, đại sĩ có thể hỏi Như Lai về việc quan trọng như vậy. Chư vị hãy cùng nhau tập trung tâm trí, khoác áo giáp tinh tiến, phát ý chí cứng chắc. Như Lai nay muốn phát lộ về tuệ giác của Như Lai, thần thông của Như Lai, khí lực của Như Lai, uy lực của Như Lai. Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(33) Hãy cố nỗ lực
tập trung tâm trí.
Như Lai sắp nói
về sự thể này.
Chư vị đừng có
hoài nghi thắc mắc.
Tuệ giác Như Lai
ngoài tầm lý luận.

(34) Hôm nay chư vị
hãy xuất sức mạnh
của sự tin tưởng,
hãy đứng vững chắc
trong sự nhận định
và sự tế nhị.
Vì lẽ những gì
xưa nay chưa nghe
thì nay chư vị
sẽ được nghe đến.

(35) Như Lai hôm nay
an ủi như vậy,
để cho chư vị
khỏi ngờ khỏi sợ.
Như Lai không có
lời nói không thật,
tuệ giác Như Lai
không thể lường nổi.

(36) Cái pháp bậc nhất
Như Lai thực hiện,
là pháp rất sâu,
trên sự phân tích.
Pháp ấy Như Lai
nay sắp nói đến.
Tất cả chư vị
chú ý lắng nghe.

Nói nói những lời chỉnh cú ấy rồi, đức Thế Tôn bảo đức Di Lạc, hôm nay, giữa đại hội các chúng như vầy, Như Lai tuyên cáo để chư vị biết. Di Lạc, đại chúng bồ tát vô lượng vô số, từ đất dũng xuất và chư vị xưa nay chưa thấy đây, là do Như Lai ở thế giới hệ Kham nhẫn này, thành tựu tuệ giác vô thượng rồi giáo hóa chỉ dẫn cho các vị ấy thuần hóa tính ý, phát tâm tuệ giác. Các vị ấy ở trong không gian phía dưới thế giới hệ này. Đối với kinh pháp, các vị đọc tụng thông suốt, suy xét, phân tích và ghi nhớ chính xác. Di Lạc, các thiện nam tử này không thích ở chỗ đông đảo và nói năng nhiều lời, thường xuyên thích nơi yên tĩnh, nỗ lực tinh tiến, chưa từng dừng nghỉ. Các vị không sống với nhân loại hay chư thiên. Các vị thường ưa thích tuệ giác sâu xa, không bị trở ngại, nghĩa là thường ưa thích giáo pháp chư Phật, chuyên tâm tinh tiến mà cầu đạt cho được tuệ giác vô thượng. Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(37) Di Lạc đại sĩ,
chư vị nên biết,
đại chúng bồ tát
như thế này đây,
vô số thời kỳ
cho đến bây giờ,
thường xuyên tu tập
tuệ giác Phật đà.

(38) Các vị toàn do
Như Lai giáo hóa
làm cho phát ra
tâm đại bồ đề.
Các vị như vầy
là con Như Lai,
và sống ngay nơi
thế giới hệ này.

(39) Thường hành đầu đà
thích nơi yên tĩnh,
tách rời đông đảo
ồn ào náo nhiệt,
không ưa nói bàn
nhiều điều lắm chuyện.
Những con Phật này
học tập về pháp
tuệ giác vô thượng
của Như Lai đây,
ngày đêm thường xuyên
nỗ lực tinh tiến
để cầu đạt được
tuệ giác Phật ấy.

(40-41) Tất cả các vị
cùng nhau ở trong
không gian phía dưới
quốc độ Kham nhẫn.
Trí lực khí lực
đều rất vững chắc,
thường xuyên tinh tiến
cầu tuệ giác Phật.
Các vị tuyên thuyết
đủ loại chánh pháp
mà trong tâm tưởng
không e sợ gì.

(42) Như Lai ngồi dưới
bồ đề đại thọ
gần thành Già da,
thành tựu tuệ giác
tuyệt đối chính xác,
chuyển đẩy bánh xe
chánh pháp tối thượng,
bấy giờ Như Lai
mới giáo hóa cho
các vị như vầy,
làm họ bắt đầu
phát tâm tuệ giác,
đến nay cùng đến
vị trí bất thoái,
và ai cũng sẽ
thành đức Phật đà.

(43) Như Lai hôm nay
nói lời rất thật.
Chư vị một lòng
mà tin Như Lai.
Rằng chính Như Lai
từ lâu đến nay
giáo hóa đại chúng
bồ tát như vầy.

Bấy giờ trong lòng đức Di Lạc và vô số bồ tát lại sinh nghi hoặc, lấy làm quái lạ, cho là một sự chưa từng có mà nghĩ rằng, đức Thế Tôn làm cách nào mà trong một thời gian ít ỏi, đã giáo hóa cho đại bồ tát vô lượng vô số như vầy, làm cho tất cả đều đứng vững ở trong tuệ giác vô thượng? Nghĩ như vậy nên đức Di Lạc thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, ngài làm thái tử, thoát ly hoàng cung họ Thích, cách thành Già da không xa, ngồi nơi bồ đề tràng, thành đạt tuệ giác vô thượng, từ đó đến nay mới hơn bốn mươi năm. Trong thì gian ngắn ngủi như vậy mà tại sao ngài có thể làm được một cách lớn lao việc làm của Phật, ấy là đem khí lực của Phật và dùng đức tính của Phật mà giáo hóa số đại bồ tát như vầy sẽ thành tuệ giác vô thượng—số đại bồ tát mà giả sử có người đếm đến ngàn vạn ức thời kỳ cũng không biết được số lượng, không tìm được giới hạn, số đại bồ tát mà chắc chắn từ lâu xa cho đến bây giờ đã ở nơi chỗ vô biên chư Phật mà gieo trồng gốc rễ pháp lành, thành thục đường đi của bồ tát, thường xuyên tu tập phạn hạnh? Bạch đức Thế Tôn, điều đó quả là cả thế gian đều khó tin. Ví như có kẻ sắc tốt, tóc đen, tuổi mới hai mươi lăm, mà chỉ những người trăm tuổi, nói rằng đây là con ta, những người trăm tuổi cũng chỉ người trẻ tuổi, nói rằng đây là cha, đã sinh ra và nuôi lớn chúng ta, thì đó là việc thật khó tin. Đức Thế Tôn cũng vậy. Từ khi ngài thực hiện tuệ giác vô thượng cho đến ngày nay thực ra chưa lâu, còn đại chúng bồ tát này thì chắc chắn đã trải qua vô lượng thời kỳ, vì tuệ giác Phật đà mà nỗ lực tinh tiến, khéo vào khéo ở và khéo ra đối với vô số chánh định, được đại thần thông, lâu tu phạn hạnh, lại khéo tuần tự tu tập các loại thiện pháp, khéo hỏi khéo đáp, nói tóm, họ là bảo vật trong mọi người, hiếm có nhất thế giới. Vậy mà ngày nay đức Thế Tôn lại bảo ngài thực hiện tuệ giác Phật đà rồi mới làm cho các vị ấy phát tâm đại bồ đề, giáo hóa chỉ dẫn cho các vị ấy hướng đến tuệ giác vô thượng. Nghĩa là đức Thế Tôn trở thành đấng Toàn giác chưa bao lâu mà thực hiện được thành quả vĩ đại như vậy! Dẫu rằng chúng con tin sự tùy nghi thuyết pháp của đức Thế Tôn, tin lời đức Thế Tôn nói chưa bao giờ không thật, tin sự thấy biết của đức Thế Tôn là thấu suốt tất cả, nhưng các vị bồ tát mới phát tâm, sau khi đức Thế Tôn nhập diệt mà nghe thấy những lời này, thì có thể có kẻ không tin tưởng tiếp nhận, sinh ra cái lỗi bài bác chánh pháp. Dạ, chính vì vậy, bạch đức Thế Tôn, con xin ngài giảng dạy, giải trừ nghi hoặc cho chúng con, lại làm cho bao nhiêu thiện nam và thiện nữ trong thì vị lai nghe được việc này cũng không nghi hoặc. Đức Di Lạc muốn lặp lại ý nghĩa đã thỉnh cầu, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(44) Trước đây Thế Tôn
thoát ly hoàng cung
của dòng họ Thích,
đến gần Già da
mà ngồi ở nơi
bồ đề đại thọ.
Từ đó đến nay
chưa được bao lâu.

(45) Vậy mà Thế Tôn
lại có những người
con Phật như vầy
số lượng vô số,
từ lâu đi theo
tuệ giác của Phật,
đã đứng vững vàng
trong thần thông lực,
đã khéo tu học
đường đi bồ tát.

(46) Không hề nhuốm bẩn
theo thói thế gian
y như hoa sen
không dính bùn nước,
những con Phật này
từ đất xuất hiện,
và cùng cung kính
đứng trước Thế Tôn.

(47) Sự thể thế này
thật khó suy luận.
Làm sao tin được
Thế Tôn thành tựu
tuệ giác Phật đà
mới rất gần đây,
lại tác thành cho
rất nhiều bồ tát
đã được nhiều việc
như thế này đây?
Để giải nghi ngờ
cho cả các chúng,
con xin Thế Tôn
chỉ dạy đúng như
sự thực được có
trong vấn đề này.

(48-49) Như người trẻ mạnh
tuổi mới hâm lăm
mà nói với người:
những kẻ trăm tuổi
tóc bạc mặt nhăn
già cả thế kia
là con tôi sinh,
những người thế kia
cũng nói người trẻ
là cha chúng tôi.
Cha trẻ con già,
đời ai tin được.

(50-51) Thế Tôn cũng vậy;
từ khi thực hiện
tuệ giác vô thượng
cho đến ngày nay,
thì gian được có
mới rất gần đây.
Còn các bồ tát
đến như thế này
trí nhớ vững chắc,
không còn khiếp nhược,
vô lượng thời kỳ
cho đến ngày nay
đi theo con đường
của bồ tát đi,
khéo hỏi khéo đáp
tâm không sợ hãi,
ẩn nhẫn cực nhục,
tâm trí quyết đoán,
tướng mạo tuyệt mỹ,
uy đức toàn hảo,
Phật đà mười phương
đều ca tụng cả,
khéo léo phân tích
diễn giảng pháp nghĩa,

(52) không thích ở nơi
những chỗ đông người
mà thường thích thú
ở trong thiền định,
vì cầu tuệ Phật
mà họ cùng nhau
ở trong không gian
dưới quốc độ này.

(53-54) Chúng con trực tiếp
nghe Thế Tôn nói,
nên với việc này
không ngờ vực gì.
Nhưng xin Thế Tôn
vì người tương lai
giải thích việc này
cho họ hiểu rõ.
Vì lẽ nếu ai
ngờ vực không tin
kinh Pháp Hoa này
thì sa đường dữ,
nên con thỉnh cầu
ngài giải thích cho:
Đại chúng bồ tát
vô số như vầy,
tại sao Thế Tôn
trong thì gian ngắn
có thể dạy cho
bắt đầu phát tâm
cho đến đến nơi
vị trí bất thoái?

Phẩm 16: Sự sống lâu của đức Thế Tôn

Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo chư vị bồ tát, và toàn thể các chúng ở trong đại hội, chư thiện nam tử, các người hãy tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai. Một lần nữa, đức Thế Tôn bảo toàn thể đại hội, các người hãy tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai. Lại một lần nữa, đức Thế Tôn bảo toàn thể đại hội, các người hãy tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai. Bấy giờ đại chúng bồ tát mà bậc thượng thủ là đức Di Lạc, chắp tay mà thưa, bạch đức Thế Tôn, xin ngài chỉ dạy, chúng con sẽ tin tưởng tiếp nhận lời ngài. Thấy chư vị bồ tát thỉnh cầu đến ba lần mà không ngưng, nên đức Thế Tôn bảo, chư vị hãy nghe cho kỹ về thần lực bí mật của Như Lai.

Chư thiện nam tử, tất cả thế giới như chư thiên nhân loại và tu la, ai cũng nói đời này đức Thích Ca Thế Tôn rời khỏi hoàng cung họ Thích, cách thành Già da không xa, ngồi nơi bồ đề tràng mà được tuệ giác vô thượng. Nhưng, chư thiện nam tử, Như Lai thật sự trở thành Phật đà thì đến nay đã cực nhiều con số trăm triệu thời kỳ. Ví như hàng ức con số vô số đại thiên quốc độ, giả thiết có người đem nghiền thành bụi nhỏ, rồi đi về hướng đông, qua khỏi hàng ức con số vô số quốc độ mới bỏ xuống một hạt bụi nhỏ ấy. Tuần tự như vậy mà đi về hướng đông và bỏ hết số bụi. Chư thiện nam tử, trong ý chư vị nghĩ thế nào, bao nhiêu quốc độ mà người ấy đi qua, có thể nào nghĩ và tính mà biết được số lượng hay không? Đức Di Lạc và các vị đồng chúng cùng thưa, bạch đức Thế Tôn, quốc độ như vậy vô lượng vô biên, không phải toán số biết được, cũng không phải trí lực biết thấu. Tất cả các vị thanh văn duyên giác vận dụng tuệ giác không còn sơ hở cũng không thể nghĩ mà biết được số lượng ấy. Chúng con là những người đã ở địa vị Không thoái chuyển mà đối với số lượng ấy cũng không thấu suốt. Bạch đức Thế Tôn, quốc độ như vậy thật vô lượng vô biên.

Đức Thế Tôn bảo các vị đại bồ tát, chư thiện nam tử, Như Lai nay tuyên ngôn rõ ràng cho chư vị biết, bao nhiêu quốc độ ấy, được hay không được bỏ bụi xuống, đều đem hết ra mà nghiền làm bụi nữa, rồi mỗi hạt bụi giả thiết một thời kỳ, thì Như Lai thành Phật đến nay, còn hơn số ấy đến cực nhiều con số thời kỳ vô số. Từ đó đến nay, Như Lai thường ở tại quốc độ Kham nhẫn này mà thuyết pháp giáo hóa, lại ở vô số con số vô số quốc độ khác nữa mà dắt dẫn ích lợi cho các loại chúng sinh. Chư thiện nam tử, trong thì gian ấy và trong những quốc độ ấy, Như Lai tự nói là các đức Như Lai khác, đại loại như Nhiên Đăng Như Lai, lại nói đến sự nhập diệt của các đức Như Lai ấy. Như vậy toàn là phương tiện mà nói. Chư thiện nam tử, có ai đến chỗ Như Lai thì Như Lai đem mắt Phật mà nhìn tín tiến niệm định tuệ, các căn ấy của họ lanh hay chậm, rồi tùy sự nên hóa độ như thế nào mà, tại mỗi quốc độ, Như Lai tự nói danh hiệu khác nhau, tuổi tác lớn nhỏ, lại nói sẽ nhập diệt. Như Lai còn dùng đủ cách phương tiện mà nói chánh pháp tinh túy, làm cho chúng sinh ai cũng hoan hỷ. Chư thiện nam tử, Như Lai thấy chúng sinh ưa thích giáo pháp thấp nhỏ, đức mỏng tội nặng, thì vì những người ấy mà nói rằng Như Lai lúc trẻ tuổi đã xuất gia và mới được tuệ giác vô thượng gần đây. Nhưng thật sự Như Lai thành Phật đến nay đã lâu xa như trên đã nói, chỉ vì phương tiện giáo hóa chúng sinh cho họ nhập vào tuệ giác của Phật, nên nói mới thành Phật gần đây.

Chư thiện nam tử, Như Lai thuyết ra kinh pháp toàn là để hóa độ chúng sinh, nên nói mình qua thân mình hay nói mình qua thân khác, nói mình biểu hiện qua thân mình hay nói mình biểu hiện qua thân khác, nói mình biểu hiện qua việc mình hay nói mình biểu hiện qua việc khác, mọi cách nói đều trung thực, không dối trá. Vì lẽ Như Lai đúng như sự thật của ba cõi mà thấy ba cõi không sinh không chết, không lui mất không hiện ra, không tồn tại không nhập diệt, không thật không giả, không như nhau không khác nhau. Không như chúng sinh ba cõi nhìn thấy ba cõi; ba cõi như vậy Như Lai nhìn thấy rõ ràng, không có lầm lẫn. Chỉ vì các loại chúng sinh có đủ thứ cá tính, thị hiếu, hành động và tư tưởng khác nhau, mà Như Lai thì muốn làm cho ai cũng được phát sinh gốc rễ điều thiện, nên đem bao nhiêu yếu tố, ví dụ và lời chữ mà thuyết pháp đủ cách, làm việc Phật làm mà chưa bao giờ tạm thời ngừng bỏ. Như vậy là Như Lai thành Phật đến nay đã cực kỳ lâu xa, sống lâu cực nhiều con số thời kỳ vô số, vĩnh viễn tồn tại mà không có nhập diệt.

Chư thiện nam tử, Như Lai xưa kia đang đi đường đi của bồ tát mà sự sống lâu có được, đến nay vẫn chưa hết, thì gian còn nhiều hơn bội phần số lượng đã nói ở trên; huống chi Như Lai ngày nay đã thành Phật, và sự sống lâu của Như Lai là của một đức Phật? Như Lai nay không thật nhập diệt mà tuyên bố sẽ nhập diệt, là Như Lai dùng phương tiện ấy để giáo hóa chúng sinh. Tại sao, vì nếu Như Lai tồn tại lâu dài thì những kẻ phước đức mỏng mảnh không lo gieo trồng gốc rễ điều lành, y nguyên nghèo nàn hèn hạ, tham đắm năm thứ dục lạc, sa vào mạng lưới tư tưởng sai lầm. Những kẻ ấy nếu thấy Như Lai thường tồn tại mà không nhập diệt thì khinh thường, phóng túng mà nhàm chán, biếng nhác, chứ không có ý tưởng Như Lai khó gặp, không sinh tâm lý tôn kính, vì vậy mà Như Lai phương tiện nói rằng chư vị tỷ kheo, phải biết các đức Như Lai xuất thế rất là khó gặp. Trải qua vô lượng trăm ngàn vạn ức thời kỳ, những kẻ phước đức mỏng mảnh mới thấy Như Lai hoặc vẫn không thấy được, vì sự thể này mà Như Lai nói rằng chư vị tỷ kheo, Như Lai rất là khó gặp. Những kẻ phước đức mỏng mảnh nghe nói như vậy thì tất nghĩ đến sự khó gặp ấy mà trong lòng luyến mộ, khao khát và ngưỡng vọng đối với Như Lai, tự nhiên gieo trồng gốc rễ điều lành, vì vậy nên Như Lai không thật nhập diệt mà tự nói nhập diệt. Chư thiện nam tử, cách thức hóa độ của các đức Như Lai là như vậy, vì hóa độ chúng sinh mà nói, nên nói thế nào cũng trung thực chứ không sai lầm, dối trá.

Ví như một vị lương y trí tuệ thông suốt, chế thuốc hay và chữa bịnh giỏi. Lương y nhiều con, mười người, hai mươi người, cho đến cả trăm. Vì có việc nên lương y đi xa, đến các nước khác. Các con ông, sau khi ông đi, dùng nhằm thuốc độc của kẻ khác. Độc phát nên sảng loạn, lăn lóc mặt đất. Khi ấy người cha trở về. Các con dùng nhằm thuốc độc hoặc mất trí hoặc không mất, nhưng thấy cha từ xa thì cùng mừng mà quì lạy, chào đón, rằng cha về yên lành. Chúng con ngu muội, dùng lầm thuốc độc, xin cha cứu chữa cho chúng con sống còn. Người cha thấy các con đau đớn như vậy thì y theo sách thuốc mà soạn ra một phương thuốc, tìm cây thuốc tốt với sắc hương vị đều tốt, đem quết thật nhuyễn, rây thật mịn, hòa trộn với nhau, rồi đưa cho các con mà bảo, dược phẩm này rất quí, sắc hương vị đều tốt, các con dùng đi, thì mau hết đau đớn, không độc chất nào mà còn được nữa. Trong các con, ai không mất trí, thấy dược phẩm sắc hương vị đều tốt ấy thì dùng liền và bịnh lành hết. Còn những người mất trí thì thấy cha về tuy cũng mừng, cũng chào đón, cũng xin chữa bịnh, nhưng cho thuốc lại không chịu dùng; tại sao, vì độc tố quá sâu, làm cho mất trí, nên dược phẩm sắc hương vị đều tốt mà cho là không tốt. Người cha nghĩ rằng, những đứa con này thật đáng thương, trúng độc đến nỗi loạn trí, tuy thấy ta cũng mừng, cũng xin cứu chữa, nhưng thuốc tốt như vầy lại không chịu dùng. Ta phải lập chước phương tiện làm cho các con chịu dùng thuốc ấy. Ông bảo, các con phải biết ta già rồi, giờ chết đã đến. Dược phẩm tốt này ta để lại ở đây, các con lấy dùng thì khỏi lo không lành. Chỉ dạy như vậy rồi ông lại đến nước khác, cho sứ giả về bảo cha các người chết rồi. Bấy giờ các con nghe nói cha chết, lòng rất lo buồn mà nghĩ, cha còn thì thương mà cứu chữa và bảo vệ chúng ta. Nay cha bỏ chúng ta mà chết xa xôi ở xứ người! Tự nghĩ côi cút, không nơi nương tựa! Nghĩ mãi nên tỉnh trí. Và nhận ra được dược phẩm sắc hương vị đều tốt, tức khắc lấy dùng và bịnh lành liền. Người cha nghe các con lành cả thì về lại cho các con thấy. Chư thiện nam tử, ý chư vị nghĩ thế nào, có người nào chỉ trích được rằng vị lương y như vậy có lỗi dối trá chăng? Không, bạch đức Thế Tôn. Chư thiện nam tử, Như Lai cũng vậy. Như Lai thành Phật đến nay đã cực nhiều con số thời kỳ vô số, chỉ vì cứu độ chúng sinh mà Như Lai phương tiện tuyên bố nhập diệt, nhưng không ai có thể nói đúng cách rằng Như Lai có lỗi nói dối.

Muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên khi ấy đức Thế Tôn nói những lời chỉnh cú sau đây.

(1-2) Như Lai từ khi
thành Phật đến giờ,
trải qua cực nhiều
thời kỳ vô số.
Trong thì gian ấy
Như Lai thường xuyên
thuyết pháp giáo hóa
vô số chúng sinh,
trong đó có số
bồ tát dũng xuất,
đặt họ vào trong
tuệø giác Phật đà
cũng lâu đến số
vô lượng thời kỳ.

(3) Chỉ vì hóa độ
chúng sinh biếng nhác,
Như Lai phương tiện
nói rằng nhập diệt;
nhưng thật Như Lai
không có nhập diệt,
mà thường ở đây
thuyết pháp giáo hóa.

(4) Như Lai thường ở
tại quốc độ này,
nhưng vì thần lực
cực kỳ siêu việt,
vì mọi chúng sinh
ảo giác thác loạn,
Như Lai bên cạnh
mà vẫn không thấy.

(5) Chúng sinh nếu thấy
Như Lai nhập diệt
thì cúng xá lợi
một cách lớn lao,
và cùng cảm thấy
lưu luyến hâm mộ
mà sinh tâm lý
khao khát ngưỡng vọng.

(6) Khi họ tin tưởng,
chân thành, ôn nhu,
thiết tha muốn được
nhìn thấy Như Lai
mà không tiếc nuối
đến cả tính mạng,
bấy giờ Như Lai
cùng với Tăng chúng
đồng xuất hiện ra
tại Linh sơn này.

(7) Và nói với họ
cho biết Như Lai
thường còn tại đây
chứ không nhập diệt.
Nói rằng nhập diệt
rằng không nhập diệt
chỉ do Như Lai
phương tiện mà nói.

(8) Ở quốc độ khác
có những chúng sinh
tôn kính, tin tưởng,
thích thú Như Lai,
Như Lai lại hiện
tại quốc độ ấy,
tuyên thuyết cho họ
chánh pháp tối thượng.
Chư vị không nghe
về sự thể ấy,
chỉ nói Như Lai
đã nhập diệt rồi.

(9) Như Lai nhìn thấy
bao người cam tâm
trầm mình ở trong
mọi sự khổ não,
nên không hiện thân
cho họ nhìn thấy,
để họ sinh ra
khao khát ngưỡng vọng;
và khi lòng họ
lưu luyến hâm mộ,
bấy giờ Như Lai
lại hiện thân ra
tuyên thuyết cho họ
chánh pháp tối thượng.

(10) Thần lực Như Lai
là như thế ấy,
vô số thời kỳ
thường ở Linh sơn
cùng với bao nhiêu
chỗ ở khác nữa.

(11) Chúng sinh nhìn thấy
thì thấy hoại kiếp
lửa dữ đốt cháy
cả quốc độ này.
Nhưng chính lúc ấy
quốc độ Như Lai
vẫn thường yên ổn,
chư thiên nhân loại
vẫn thường tràn đầy
trong quốc độ ấy.

(12) Vườn rừng lầu đài
trang trí vàng ngọc,
cây ngọc sum sê
những hoa và quả,
mọi người thích thú
du ngoạn trong đó.

(13) Chư thiên thì đánh
trống của chư thiên,
lại thường diễn tấu
các thứ nhạc khí
và rưới hoa xuống
loại như mạn đà,
rải trên Như Lai
và cả đại chúng.

(14) Tịnh độ Như Lai
tồn tại như thế,
vậy mà chúng sinh
thấy lửa đốt hết,
thấy bao lo sợ,
kinh hoàng, đau đớn.
Những nỗi khổ ấy
thấy đầy khắp cả.

(15) Bao chúng sinh ấy
vì những nhân tố
hành vi tội ác,
mà bao thời kỳ
danh hiệu Tam bảo
cũng không được nghe,
huống chi được thấy
thân thể Như Lai.

(16) Những ai tu hành,
chân thành, ôn nhu.
thì đều thấy được
thân thể Như Lai
thường ở tại đây
tuyên thuyết chánh pháp.

(17) Vì những người này
mà Như Lai nói
đời sống Như Lai
vô biên vô lượng;
còn ai lâu lắm
mới thấy Như Lai,
Như Lai vì họ
nói Phật khó gặp.

(18) Trí lực Như Lai
là như thế đó.
Ánh sáng trí ấy
chiếu soi vô tận,
đời sống Như Lai
vô số thời kỳ,
là do Như Lai
lâu xa tu tập
hành vi thích đáng
mà thực hiện được.

(19) Tất cả chư vị
là người có trí,
với sự thể này
đừng sinh ngờ vực.
Hãy loại bỏ hết
mọi sự ngờ vực,
vì lời Như Lai
thật chứ không dối.

(20) Ví như lương y
khéo chước phương tiện;
để chữa cho những
đứa con cuồng sảng,
nên thật còn sống
mà nói chết rồi,
nhưng ai nói được
ông ấy dối trá?

(21) Như Lai cũng vậy;
là vị từ phụ
cứu chữa bao kẻ
đau khổ thác loạn:
chính vì cứu chữa
bao kẻ thác loạn
mà thật thường còn
lại nói nhập diệt.

(22) Vì nếu để họ
thường thấy Như Lai
thì họ sinh ra
kiêu căng, mặc ý,
phóng túng tham đắm
năm thứ dục lạc,
và sa vào trong
các nẻo đường dữ.

(23) Như Lai thường xuyên
thấy biết chúng sinh
ai có ai không
đi theo đường chánh,
rồi tùy trường hợp
cần phải hóa độ
cho họ thế nào,
Như Lai nói pháp
với những cách nói
thích ứng cho họ.
Như Lai thường xuyên
nghĩ với ý nghĩ
là làm cách nào
cho các chúng sinh
cùng được nhập vào
tuệ giác vô thượng,
mau chóng thành tựu
thân thể Như Lai.

Phẩm 17: Phân tích thành quả

Khi nghe đức Thế Tôn nói về thời lượng đời sống của ngài bất tận như vậy, đại hội có vô lượng vô số chúng sinh được ích lợi lớn lao. Ngài bảo đức Di Lạc, Như Lai nói về sự bất tận như vậy của đời sống Như Lai thì có chúng sinh nhiều bằng rất nhiều con số trăm triệu hằng sa thực hiện tuệ giác Không sinh. Lại có bồ tát nhiều gấp ngàn lần số ấy được tổng trì Nghe nhớ, có bồ tát nhiều bằng bụi nhỏ nghiền một thế giới hệ được các tài hùng biện mà trong đó có sự Biện thuyết, có bồ tát nhiều bằng bụi nhỏ nghiền một thế giới hệ được tổng trì Xoay chuyển vô số; có bồ tát nhiều bằng bụi nhỏ nghiền một đại thiên quốc độ có thể chuyển đẩy bánh xe chánh pháp Không còn thoái chuyển, có bồ tát nhiều bằng bụi nhỏ nghiền một trung thiên quốc độ có thể chuyển đẩy bánh xe chánh pháp Hào quang trong sáng; có bồ tát nhiều bằng bụi nhỏ nghiền một tiểu thiên quốc độ chỉ tám đời nữa thì được Tuệ giác vô thượng, có bồ tát nhiều bằng bụi nhỏ nghiền bốn lần bốn đại lục nhân loại chỉ bốn đời nữa thì được Tuệ giác vô thượng, có bồ tát nhiều bằng bụi nhỏ nghiền ba lần bốn đại lục nhân loại chỉ ba đời nữa thì được Tuệ giác vô thượng, có bồ tát nhiều bằng bụi nhỏ nghiền hai lần bốn đại lục nhân loại chỉ hai đời nữa thì được Tuệ giác vô thượng, có bồ tát nhiều bằng bụi nhỏ nghiền một lần bốn đại lục nhân loại chỉ một đời nữa thì được Tuệ giác vô thượng. Lại có chúng sinh nhiều bằng bụi nhỏ nghiền tám thế giới hệ đều phát tâm Tuệ giác vô thượng.

Khi đức Thế Tôn phân tích chư vị bồ tát được lợi ích của Pháp vĩ đại như vậy thì trong không gian mưa xuống hoa mạn đà và hoa mạn đà lớn, rải trên chư Phật ngồi trên tòa sư tử ở dưới vô lượng trăm ngàn vạn ức cây ngọc, rải trên đức Thích Ca và trên đức Phật nhập diệt đã lâu là đức Đa Bảo cùng ngồi trên tòa sư tử ở trong bảo tháp, rải trên tất cả bồ tát và bốn chúng. Trong không gian lại mưa xuống phấn của các hương liệu đại loại như đàn hương, trầm thủy. Cũng trong không gian, trống chư thiên tự kêu vang lên, âm thanh tuyệt diệu, nghe xa; lại mưa xuống cả ngàn loại vải chư thiên; và rủ xuống khắp cả chín phương hướng là những chuỗi ngọc đại loại như chuỗi chân châu, chuỗi ma ni, chuỗi như ý. Bao nhiêu là lư hương, làm bằng các thứ ngọc và ở trong đốt hương liệu vô giá, tự chuyển động đến khắp tất cả, hiến cúng toàn thể pháp hội lớn lao. Các bên ở trên mỗi đức Phật, các vị bồ tát cầm bảo cái có mắc phan phướn, tuần tự mà lên đến Phạn thiên; các vị bồ tát ấy còn đêm âm thanh tuyệt diệu, ngâm hát vô số thi ca mà tán dương chư Phật.

Vào lúc ấy, đức Di Lạc từ chỗ ngồi đứng đậy, trần vai bên phải, chắp tay hướng về đức Thế Tôn mà nói những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Pháp Thế Tôn nói
thật là hiếm có!
xưa nay chúng con
chưa từng nghe đến!
Thần lực Thế Tôn
thật là vĩ đại!
Đời sống Thế Tôn
thật là bất tận!

(2) Vô số con Phật
hoan hỷ tràn ngập
khắp cả cơ thể,
khi nghe Thế Tôn
phân tích như sau,
về bao nhiêu người
đạt được lợi ích
của Pháp vĩ đại:

(3) Có số thành bậc
Không còn thoái chuyển,
có số thu hoạch
tổng trì Nghe nhớ,
có số thành tựu
về sự Biện thuyết,
số được tổng trì
Xoay chuyển vô số.

(4-7) Có số bồ tát
nhiều bằng bụi nhỏ
một cõi đại thiên
có thể chuyển đẩy
bánh xe chánh pháp
Không còn thoái chuyển,
có số bồ tát
nhiều bằng bụi nhỏ
một cõi trung thiên
có thể chuyển đẩy
bánh xe chánh pháp
Hào quang trong sáng.
Lại có bồ tát
nhiều bằng bụi nhỏ
một cõi tiểu thiên
chỉ tám đời nữa
thì được thực hiện
Tuệ giác Phật đà,
có số bồ tát
nhiều bằng bụi nhỏ
bốn ba hai lần
bốn châu đại lục
chỉ còn bốn đời
ba đời hai đời
thì được trở thành
một đức Phật đà,
có số bồ tát
nhiều bằng bụi nhỏ
một bốn đại lục
chỉ một đời nữa
thì được Tuệ giác
của đấng Toàn giác.
Các vị như vậy
nghe nói đời sống
bất tận của ngài,
cùng thực hiện được
thành quả trong suốt,
thuần khiết, vô hạn.
Lại còn chúng sinh
nhiều bằng bụi nhỏ
tám thế giới hệ
nghe đức Thế Tôn
nói về đời sống
bất tận của ngài,
ai cũng phát Tâm
tuệ giác vô thượng.

(8) Thế Tôn tuyên thuyết
đời sống bất tận,
thật đúng là Pháp
ngoài tầm nghĩ bàn,
Pháp làm nhiều người
được bao lợi ích,
Pháp như không gian
không có biên cương.

(9) Đế Thích, Phạn Vương,
số lượng nhiều như
cát của sông Hằng,
từ nơi vô số
quốc độ của Phật
cùng nhau đến đây,
rải như mưa xuống
hoa của chư thiên
như hoa mạn đà
và mạn đà lớn.

(10) Họ như chim bay
di chuyển trong không;
phấn các hương liệu
đàn hương, trầm thủy,
được họ rải xuống
hoa mắt như mưa,
hiến cúng các đấng
Tuệ giác hoàn toàn.

(11) Trống của chư thiên
ở trong không gian
tự nhiên gióng lên
âm thanh tuyệt diệu.
Và vải chư thiên
cả ngàn vạn loại
xoay chuyển trong không
mà cùng rủ xuống.

(12) Những lư hương đẹp
và làm bằng ngọc,
ở trong lại đốt
hương liệu vô giá,
tự động di chuyển
đến khắp tất cả,
hiến cúng các đấng
Tôn cao nhất đời.

(13) Chư đại bồ tát
cầm những bảo cái
có mắc phan phướn
và được làm bằng
bảy chất liệu quí,
đã cao lại đẹp,
số lượng nhiều đến
vạn ức chủng loại,
tuần tự lên đến
tầng trời Phạn thiên.

(14) Trước mỗi đức Phật,
các ngài lại dựng
cột cờ cao đẹp,
trên mắc phan đẹp.
Lại đem ngàn vạn
những bài thi ca,
ngâm hát ca tụng
chư Phật Thế Tôn.

(15) Bao nhiêu sự trạng
đến như thế này,
thì gian trước đây
thật chưa từng có,
xuất từ bao người
cực kỳ hoan hỷ
khi nghe Thế Tôn
nói về thời lượng
đời sống vô lượng
của đức Thế Tôn.

(16) Tiếng nói Thế Tôn
vang cả mười phương,
ích lợi rộng lớn
cho bao chúng sinh,
làm cho tất cả
đủ những thiện căn
hỗ trợ phát Tâm
tuệ giác vô thượng.

Đức Thế Tôn bảo đức Di Lạc, người nào nghe đời sống Như Lai bất tận như vầy, thì dẫu đến nỗi chỉ phát sinh được một ý niệm tin hiểu mà thôi, công đức người ấy đã không có hạn lượng. Thiện nam hay thiện nữ nào vì cầu tuệ giác vô thượng mà trải qua rất nhiều trăm triệu thời kỳ, thực hành năm pháp ba la mật là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, ngoại trừ bát nhã, công đức của người này đem sánh với công đức của người trước, thì không bằng một phần trong trăm phần, ngàn phần, trăm ngàn vạn ức phần, cho đến toán số ví dụ cũng không có khả năng đem lại sự xác định. Thiện nam hay thiện nữ nào có công đức trước mà thoái chuyển đối với tuệ giác vô thượng là điều không thể có. Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa này nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(17) Những ai vì cầu
tuệ giác của Phật,
trải qua rất nhiều
trăm triệu thời kỳ
thực hành đủ cả
năm ba la mật –

(18-19) Bằng cách suốt cả
thì gian như vậy,
thực hành bố thí
hiến cho khắp cả,
lại hiến cúng Phật
và đệ tử Phật
là chư thanh văn,
duyên giác, bồ tát,
đồ ăn đồ uống
loại quí và lạ,
đồ nằm đồ mặc
loại thượng hảo hạng.

(20) Đem gỗ đàn hương
mà cất tinh xá,
và lập vườn rừng
mà trang hoàng thêm.

(21) Hiến cúng như vậy
đã nhiều lại tốt,
và trọn thì gian
đã nói ở trên,
rồi đem xoay về
cầu tuệ giác Phật.

(22) Còn giữ tịnh giới
thì rất trong sạch,
không có thiếu sót
không hề lọt mất,
rồi đem xoay về
cầu tuệ vô thượng,
và được chư Phật
ca tụng tán dương.

(23) Thực hành nhẫn nhục
thì đứng vững vàng
ở nơi vị trí
thuần hóa, ôn nhu,
bao nhiêu điều ác
đổ đến nơi mình,
tâm trí người ấy
vẫn không dao động.

(24) Những kẻ tự xưng
là người đắc pháp,
trong lòng ôm giữ
sự tăng thượng mạn;
bị kẻ như vậy
khinh ngạo quấy phá,
sự tồi tệ này
cũng vẫn nhẫn được.

(25) Cần mẫn tinh tiến
thì chính trí nhớ
thường xuyên vững chắc,
vô lượng thời kỳ
chuyên tư duy tu
không hề nhác nghỉ.

(26) Vô số thời kỳ
ở chỗ trống vắng,
hoặc là tọa thiền
hoặc là kinh hành,
dẹp bỏ ngủ nghỉ
tập trung tâm trí.

(27) Nhờ nhân tố này
phát sinh thiền định,
trải qua tám chục
vạn ức thời kỳ,
tâm trí đứng yên
không có loạn động.

(28) Rồi đem cái phước
nhất tâm như vậy
nguyện cầu đạt được
tuệ giác vô thượng,
rằng khi đạt đuợc
sự toàn giác ấy
thì cũng cùng tận
biên cương thiền định.

(29) Người nào trải qua
vạn ức thời kỳ,
làm các pháp trên
mà được công đức,

(30) và người thiện nam
hay thiện nữ nào
nghe Như Lai nói
đời sống Như Lai,
thì dầu chỉ có
một lúc tin hiểu,
công đức người này
vẫn hơn người trên.

(31) Người này hoàn toàn
không có tất cả
những nỗi hoài nghi
những sự hối tiếc,
đem tâm sâu xa
mà tin chốc lát,
vẫn được công đức
đến như thế ấy.

(32) Các vị bồ tát
vô số thời kỳ
thực hành các pháp
đã nói như trên,
thì nghe Như Lai
nói về đời sống
bất tận của Phật
là tin nhận được.

(33) Các vị cúi đầu
kính nhận Pháp Hoa,
và cầu nguyện rằng
trong thì vị lai
con cũng có được
đời sống vô tận
để mà hóa độ
vô tận chúng sinh.

(34) Và như Thế Tôn,
vị Sư tử chúa
của dòng họ Thích,
trong thì hiện tại,
đã đến mà ngồi
nơi bồ đề tràng,
cất tiếng vang lên
như sư tử gầm,
thuyết pháp một cách
không sợ hãi gì;

(35) nguyện con sau này
trong thì vị lai,
cũng được mọi người
ai cũng tôn kính,
cũng đến mà ngồi
nơi bồ đề tràng,
cũng nói đời sống
bất tận của Phật
với một phong cách
y như Thế Tôn.

(36) Ai có tâm trí
sâu xa, trong sáng,
thẳng tắp như vậy,
lại còn nghe nhiều
và nhớ đầy đủ,
và theo nghĩa ý
mà lý giải được
lời Như Lai nói,
những người như vậy
không nghi Pháp này.

Lại nữa, Di Lạc, nếu có người nào chỉ nghe Như Lai nói về sự bất tận của đời sống Như Lai mà hiểu được ý hướng của sự nói như vậy, thì người ấy được công đức vô hạn lượng, có năng lực phát khởi tuệ giác vô thượng của Như Lai; huống chi đối với toàn bộ Pháp Hoa mà tự nghe một cách đầy đủ và khuyên người nghe, tự nhớ và khuyên người nhớ, tự chép và khuyên người chép, tự đem hoa, hương, vòng hoa, cờ, phan, lọng dù bằng lụa dày, đèn dầu thơm và đèn bơ sữa bò mà hiến cúng cuốn kinh ấy, thì công đức người này vô hạn lượng, có năng lực phát sinh tuệ giác Biết tất cả.

Di Lạc, thiện nam hay thiện nữ nào nghe Như Lai nói sự bất tận của đời sống Như Lai mà tin hiểu bằng tâm trí sâu xa, thì như vậy là thấy Như Lai thường ở tại Linh sơn, thuyết pháp cho chư vị bồ tát và thanh văn bao quanh; thấy thế giới hệ Kham nhẫn này đất bằng lưu ly, bằng phẳng ngay thẳng, dây vàng Diêm phù đàn phân ranh tất cả đường sá thành những đường ngã tám, cây ngọc có hàng có lối, lầu đài toàn do vàng ngọc hợp thành và có các bồ tát ở trong đó. Ai quán tưởng thấy được như vậy thì đại sĩ phải biết đó là sắc thái của sự tin hiểu sâu xa.

Thêm nữa, sau khi Như Lai nhập diệt, ai nghe Pháp Hoa mà không phỉ báng, biết tùy hỷ, thì đại sĩ phải biết như thế cũng đã là sắc thái của sự tin hiểu sâu xa; huống chi tùy hỷ rồi còn biết đọc tụng kính giữ kinh ấy, thì như vậy là đỉnh đầu người ấy đã đội Như Lai. Di Lạc, người như vậy, không kể thiện nam hay thiện nữ, đã không cần xây tháp làm chùa cho Như Lai, đã không cần kiến thiết tăng xá và đem bốn sựï mà hiến cúng chư Tăng. Tại sao, vì thiện nam hay thiện nữ ấy đọc tụng kính giữ Pháp Hoa là đã xây dựng chùa tháp mà hiến cúng Như Lai, đã kiến thiết tăng xá mà hiến cúng chư Tăng; là đã hiến cúng Như Lai bằng cách đem xá lợi của Như Lai mà xây tháp bằng bảy chất liệu quí báu, chu vi rất rộng, và vừa cao vừa nhỏ dần cho đến tận tầng trời Phạn thiên, treo những bảo cái mà ở dưới có mắc phan phướn, treo những chuông nhỏ quí báu, dâng các loại hoa, vòng hoa, các hương liệu, đánh các thứ trống và tấu các nhạc khí như ống tiêu ống sáo và đàn hầu, biểu diễn các vũ khúc và hý kịch, ca hát ngâm vịnh mà xưng tụng tán dương bằng âm thanh tuyệt diệu; là đã hiến cúng Như Lai bằng cách này trong vô lượng ngàn vạn ức thời kỳ. Di Lạc, sau khi Như Lai nhập diệt, ai nghe Pháp Hoa mà có thể tiếp nhận kính giữ, tự mình và khuyên người sao chép ấn hành, thì như vậy là đã tạo lập tăng xá bằng cách đem gỗ đàn hương đỏ mà làm ba mươi hai sở cung điện và nhà chính, cao bằng tám cây đa la, rộng rãi, tôn nghiêm và mỹ thuật, trong đó có thể ở đến hàng trăm ngàn tỷ kheo; lại có vườn rừng và hồ tắm, có đường để kinh hành, có động để tọa thiền; có đầy đủ đồ mặc, đồ nằm, đồ uống, đồ ăn, dược phẩm và mọi thứ tiện nghi—đã tạo lập tăng xá như vậy có đến mấy trăm ngàn vạn ức, số lượng vô lượng, mà hiến cúng hiện diện cho Như Lai và tỷ kheo tăng. Do vậy mà Như Lai nói rằng, sau khi Như Lai nhập diệt, đối với Pháp Hoa, có ai tiếp nhận kính giữ, bằng cách đọc tụng, diễn giảng cho người, tự mình và khuyên người sao chép ấn hành, lại còn xây dựng chùa tháp mà hiến cúng Như Lai, còn tạo lập tăng xá mà hiến cúng với sự tán dương Thanh văn tăng, còn đem trăm ngàn vạn ức phong cách tán dương mà tán dương Bồ tát và công đức của Bồ tát, còn vận dụng mọi thứ yếu tố, tùy theo nghĩa ý mà diễn giảng Pháp Hoa cho người, còn giữ giới thanh tịnh, ở chung với những người thuần hóa, còn ẩn nhẩn chứ không giận dữ, trí nhớ vững chắc, thường quí tọa thiền mà thực hiện các định sâu xa, tinh tiến dũng mãnh mà thu thập các pháp lành, lợi căn, trí tuệ, khéo đáp mọi sự gạn hỏi—Di Lạc, sau khi Như Lai nhập diệt, thiện nam hay thiện nữ nào kính giữ Pháp Hoa mà còn có những pháp lành như vậy, thì đại sĩ phải biết những người ấy đã bước mau đến nơi bồ đề tràng, sắp ngồi dưới bồ đề thọ mà hoàn mãn vô thượng giác. Di Lạc, những người ấy đứng ngồi hay kinh hành ở đâu, những chỗ ấy nên xây dựng bảo tháp mà hiến cúng Như Lai, và nhân loại với chư thiên nên hiến cúng bảo tháp này như hiến cúng bảo tháp tôn trí xá lợi của Như Lai.

Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(37) Sau khi Như Lai
nhập niết bàn rồi,
ai có năng lực
kính giữ Pháp Hoa,
thì sự vô lượng
của phước người ấy
là như Như Lai
đã nói ở trên.

(38) Người như thế ấy
là đã làm đủ
mọi sự hiến cúng
đối với Như Lai
bằng cách xây tháp
mà thờ xá lợi,
tháp ấy trang hoàng
bảy thứ quí báu,

(39) trụ vàng tiêu biểu,
chu vi rất rộng,
càng cao càng nhỏ
cao đến Phạn thiên,

(40) chuông nhỏ quí báu
có ngàn vạn ức,
gió động kêu lên
âm thanh tuyệt diệu;

(41-bằng cách trải qua
42) vô lượng thời kỳ,
hiến cúng tháp ấy
với hoa và hương,
các loại vòng hoa,
vải lụa chư thiên,
diễn tấu kịch nhạc,
đốt đèn dầu thơm
và bơ sữa bò
thường sáng quanh tháp.

(43) Thời kỳ dữ dội
mạt vận giáo pháp,
những ai có thể
kính giữ Pháp Hoa,
thì người như vậy
là đã làm đủ
các cách hiến cúng
đã nói trên đây.

(44) Ai kính giữ được
Diệu Pháp Liên Hoa,
thì như Như Lai
khi còn ở đời
họ đem đàn hương
tạo lập tăng xá
hiến cúng Như Lai
và Tỷ kheo tăng.
Tăng xá như vậy
những ngôi nhà chính
mà đã có đến
ba mươi hai sở,
cao bằng tám cây
đa la đại thọ;

(45) thực phẩm hảo hạng,
đồ nằm đồ mặc
toàn loại tinh tế,
đủ mọi tiện nghi
thành nơi cư trú
trăm ngàn chư Tăng;

(46) có vườn có rừng
có những hồ tắm
có đường kinh hành
có động tọa thiền,
tất cả toàn là
tôn nghiêm mỹ thuật.

(47-Đối với Pháp Hoa,
51) những ai tin hiểu
một cách sâu xa,
kính giữ bằng cách
đọc tụng sao chép
khuyên người sao chép,
hiến cúng cuốn kinh
bằng cách dâng lên
các loại bông hoa
các thứ hương liệu,
đem các loại hoa
thích ý, kim sắc,
cùng hoa long thỉ,
ướp dầu mà đốt;
hiến cúng như vậy
được vô lượng phước.

(52) Ví như không gian
vô cùng vô tận,
cái phước như vầy
cũng vô cùng tận.

(53) Những người chỉ có
kính giữ Pháp Hoa
mà đã như vậy,
huống chi những người
kính giữ kinh ấy
mà còn làm cả
bố thí trì giới
nhẫn nhục thiền định;

(54) không có giận dữ
không có ác miệng,
hết lòng tôn kính
chùa tháp thờ Phật,
lại rất khiêm tốn
đối với tỷ kheo,
xa rời tính khí
tự cao tự đại;

(55) thường xuyên tu tập
tư duy, trí tuệ,
có ai gạn hỏi
thì không bực tức
mà lại tùy thuận
giải thích cho họ.

(56) Kính giữ Pháp Hoa
và làm như vậy,
công đức người ấy
không thể lượng định.

(57) Gặp được những người
kính giữ Pháp Hoa,
thành đạt công đức
đến như thế này,

(58) thì nên tung rải
hoa của chư thiên,
đem vải chư thiên
phủ mình người ấy,
đem cả đầu mặt
mà lạy ngang chân,
trong lòng nghĩ tưởng
người ấy như Phật.

(59) Lại nghĩ người ấy
không bao lâu nữa
đến bồ đề tràng
được tuệ giác Phật,
tuệ giác không còn
sơ hở, vọng động,
ích lợi sâu rộng
cho cả trời người.

(60) Và chỗ người ấy
cư trú, kinh hành,
cho đến giảng nói
một bài chỉnh cú,

(61) đều nên xây tháp
tôn nghiêm mỹ thuật
mà hiến Như Lai,
kế đó lại còn
dâng cúng tháp ấy
đủ cả mọi sự.

(62) Vì chỗ con Phật
cư trú như vậy
cũng chính là chỗ
Như Lai sử dụng,
thường xuyên cư trú,
kinh hành, nằm ngồi.
________

Kết thúc tụng kinh Pháp Hoa, chúng con xin hồi hướng:
Vạn ức thời kỳ
không thể nói được
mới được có lúc
Phật nói Pháp Hoa.
Vạn ức thời kỳ
không thể nói được
mới được có lúc
nghe nói Pháp Hoa.
Chúng con nương nhờ
Phật Pháp Tăng lực
mới được trì tụng
Diệu Pháp Liên Hoa.
Chúng con nguyện đem
công đức như vầy
hiến khắp tất cả
các loại chúng sinh,
cầu cho chúng con
cùng với chúng sinh
đều được thành tựu
tuệ giác chư Phật.

Kính lạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Kính lạy tất cả Pháp bảo trong quốc độ này và trong mười phương quôác độ.

Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni, đức Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp Hoa. Kính lạy đức Đa Bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp Hoa toàn là chân thật. Kính lạy đức Di Lạc, đức Phật đương lai, đã phát khởi kinh Pháp Hoa và tiếp dẫn những người hành trì Pháp Hoa vãng sinh Đâu suất tịnh độ. Kính lạy tất cả Phật bảo trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy bồ tát Văn Thù, vị pháp sư Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Phổ Hiền, vị khuyến phát Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Quan Âm, vị đại sĩ toàn diện. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Lược Dẫn & Cuốn 1 | Cuốn 2 | Cuốn 3 | Cuốn 4 | Cuốn 5 | Cuốn 6 | Cuốn 7 | Phẩm Phổ Hiền | Kinh Pháp Hoa Toát Yếu |



Lược Dẫn & Cuốn 1 | Cuốn 2 | Cuốn 3 | Cuốn 4 | Cuốn 5 | Cuốn 6 | Cuốn 7 | Phẩm Phổ Hiền | Kinh Pháp Hoa Toát Yếu |

[6]

KINH PHÁP HOA
(Hoa Sen Của Chánh Pháp) 
Phần CHÍNH VĂN
Tỷ kheo Thích Trí Quang dịch

CUỐN  6

CUỐN  6
Phẩm 18: Thành quả tùy hỷ
Phẩm 19: Thành quả của người diễn giảng Pháp Hoa
Phẩm 20: Bồ tát Thường Bất Khinh
Phẩm 21: Sức thần của đức Thế Tôn
Phẩm 22: Giao phó trọng trách
Phẩm 23: Việc cũ của bồ tát Dược Vương

Ngưỡng bạch Phật Pháp Tăng vô tận tam bảo từ bi chứng minh. Đệ tử chúng con nguyện vì bản thân, vì cha mẹ bà con, vì người thân kẻ thù, vì mọi người và vì chúng sinh, trì tụng kinh đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa.

Mở đầu tụng kinh Pháp Hoa, chúng con xin kính lạy:

Kính lạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Kính lạy tất cả Pháp bảo trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni, đức Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp Hoa. Kính lạy đức Đa Bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp Hoa toàn là chân thật. Kính lạy đức Di Lạc, đức Phật đương lai, đã phát khởi kinh Pháp Hoa và tiếp dẫn những người hành trì Pháp Hoa vãng sinh Đâu suất tịnh độ. Kính lạy tất cả Phật bảo trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy bồ tát Văn Thù, vị pháp sư Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Phổ Hiền, vị khuyến phát Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Quan Âm, vị đại sĩ toàn diện. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

___________ 

Phẩm 18: Thành quả tùy hỷ

Lúc ấy đức Di Lạc lại thưa, bạch đức Thế Tôn, thiện nam hay thiện nữ nào nghe kinh Pháp Hoa mà biết tùy hỷ, thì được bao nhiêu phước đức? Ngài lặp lại bằng lời chỉnh cú sau đây.

(1) Sau khi Thế Tôn
nhập niết bàn rồi,
nếu có người nào
nghe kinh Pháp Hoa
mà biết tùy hỷ
thì phước được mấy?

Đức Thế Tôn bảo đức Di Lạc, sau khi Như Lai nhập diệt, tỷ kheo, tỷ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, và những người có trí khác, hoặc lớn tuổi hoặc nhỏ tuổi, nghe kinh Pháp Hoa mà tùy hỷ, rồi ra khỏi cuộc họp diễn giảng kinh ấy, đi đến chỗ khác như tăng xá, rừng núi, thành thị, hẻm hóc, làng xóm hay cố hương, y như những điều mình được nghe và tùy sức mình mà nói lại cho cha mẹ, họ hàng, bạn tốt hay người quen. Những người này nghe rồi cũng tùy hỷ và đi nói chuyền lại cho những người khác. Những người khác nghe rồi cũng tùy hỷ, cũng nói chuyền. Triển chuyển như vậy cho đến lớp thứ năm mươi. Di Lạc, công đức tùy hỷ của thiện nam hay thiện nữ lớp thứ năm mươi này, nay Như Lai nói đến, đại sĩ hãy khéo nghe.

Sáu loại chúng sinh trong hàng ức thế giới hệ, được sinh bằng bốn cách sinh là sinh ra từ trứng, từ dạ con, từ độ ẩm thích hợp, từ sự biến hình, lại có hay không hình thể, có hay không tư tưởng, không phải có hay không tư tưởng, không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân… Tất cả các bộ thuộc về loại chúng sinh như vậy, có người cầu phước nên họ muốn gì về những thứ vui thú cũng cấp cho cả. Mỗi một chúng sinh được cấp cho những thứ ấy nhiều như sắp đầy cả đại lục Diêm phù, đại loại như bảy thứ quí báu là bạc, vàng, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô và hổ phách, như voi ngựa xe thuyền, như cung điện lầu đài được tạo thành bằng bảy thứ quí báu… Vị đại thí chủ bố thí như vậy trọn tám mươi năm, rồi nghĩ rằng ta đã cho chúng sinh những thứ vui thú theo ý họ muốn, nhưng nay họ đã già yếu, tuổi quá tám mươi, tóc trắng mặt nhăn, sắp chết đến nơi. Ta nên đem pháp hóa của Phật mà chỉ bảo dẫn dắt. Nghĩ vậy nên vị đại thí chủ tức thì chiêu tập họ lại, quảng bá pháp hóa bằng cách trình bày, thuyết phục, khuyến khích, tán thưởng cho họ. Làm cho họ trong một thì gian ai cũng đạt được các đạo quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm và A la hán, sạch hết mọi sự phiền não ở trong ba cõi, tự tại đối với thiền định sâu xa, đầy đủ đối với tám sự giải thoát. Di Lạc, ý đại sĩ nghĩ thế nào, công đức của vị đại thí chủ ấy đạt được có nhiều không? Đức Di Lạc thưa, bạch đức Thế Tôn, công đức vị ấy rất nhiều, vô số lượng, vô giới hạn. Vị ấy chỉ cho chúng sinh những thứ vui thú, công đức cũng đã vô cùng, huống chi còn làm cho họ đạt được cho đến đạo quả A la hán.

Đức Thế Tôn bảo, Di Lạc, Như Lai nay nói rõ ràng cho đại sĩ biết, vị đại thí chủ đem những thứ vui thú cho sáu loại chúng sinh trong hàng ức thế giới hệ, lại làm cho số chúng sinh ấy đạt được cho đến đạo quả A la hán, nhưng công đức được có vẫn không bằng công đức của người thuộc lớp thứ năm mươi chỉ nghe Pháp Hoa qua một bài chỉnh cú của kinh ấy mà sinh tâm tùy hỷ. Trăm phần, ngàn phần, trăm ngàn vạn ức phần của công đức tùy hỷ ấy, công đức bố thí trên không bằng được một phần, cho đến toán số thí dụ cũng không thể xác định. Di Lạc, công đức của người thuộc lớp thứ năm mươi chỉ tùy hỷ khi nghe chuyền Pháp Hoa mà còn vô số lượng vô giới hạn như vậy, huống chi người đầu tiên, ngay nơi cuộc họp diễn giảng Pháp Hoa mà được nghe và tùy hỷ đối với kinh ấy. Phước của người này còn hơn đến vô số con số vô số, không thể đối chiếu được nữa.

Di Lạc, nếu người nào vì Pháp Hoa nên đi đến tăng xá, ngồi hay đứng mà nghe và tiếp nhận, thì dẫu chỉ được chốc lát, công đức này vẫn làm cho người ấy, khi chuyển thân đời này sinh thân đời sau, sinh ra ở đâu cũng được đi bằng xe voi xe ngựa loại thượng hạng, bằng xe liễn xe dư loại vàng ngọc, bằng cung điện chư thiên. Nếu người nào đang ngồi nơi chỗ diễn giảng Pháp Hoa, có ai đến nữa, người ấy mời bảo ngồi nghe, hoặc chia chỗ của mình cho họ ngồi, thì công đức người ấy, khi chuyển thân đời này sinh thân đời sau, sẽ ngồi chỗ Đế Thích ngồi, chỗ Phạn Vương ngồi, chỗ Luân Vương ngồi.

Di Lạc, nếu người nào nói cho người khác biết, rằng có bản kinh tên Pháp Hoa, nên đi nghe với tôi. Người này nhận lời, và đến nỗi chỉ nghe được chốc lát, công đức người ấy, khi chuyển thân đời này sinh thân đời sau, sẽ được sinh cùng chỗ với vị bồ tát đã thành tựu các pháp tổng trì, được lợi căn, trí tuệ, được trăm ngàn vạn đời không bao giờ câm ngọng; hơi miệng không hôi thối; lưỡi không khi nào bị bịnh; miệng cũng không bị bịnh; răng không dơ, không đen, không vàng, không thưa, không mẻ, không rụng, không lệch, không cong; môi không xệ xuống, không rút vào, không thô nhám, không ghẻ lở, không sứt hỏng, không méo vẹo, không dày, không lớn, không thâm, không đen, không có gì đáng ghét; mũi không xẹp, không hóp, không cong, không gãy; mặt thì sắc không đen, hình không hóp lại, dài ra, không lõm xuống, cong gãy, không có hết thảy cái vẻ không thể ưa thích. Trái lại, môi, lưỡi, răng hàm, răng, tất cả đều chỉnh, đẹp; mũi thì dài, lớn, cao, thẳng; mặt và dáng mặt thật hoàn hảo; mày cao mà dài; trán rộng, bằng phẳng, ngay ngắn; nói tóm, tướng tốt loài người, người ấy có đủ tất cả. Đời đời, người ấy sinh ra ở đâu cũng thấy Phật, nghe Pháp, tin tưởng và tiếp nhận giáo huấn. Di Lạc, đại sĩ hãy quan sát điều ấy: khuyến khích một người cho họ đi nghe giảng Pháp Hoa mà thành quả còn như vậy, huống chi chính mình chuyên chú mà nghe giảng, mà đọc tụng, mà phân tích nói lại cho mọi người ở giữa những cuộc họp đông đảo, mà tu hành như lời kinh dạy.

Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(2) Từ chỗ giảng pháp,
ai nghe Pháp Hoa,
dầu chỉ nghe được
một bài chỉnh cú,
nhưng biết tùy hỷ
và nói cho người;
nói chuyền cho đến
lớp thứ năm mươi,
người trong lớp này
được phước thế nào,
nay đây Như Lai
phân tích phước ấy.

(3) Như đại thí chủ
cho vô số người
đến tám mươi năm
những gì họ muốn.

(4) Khi thấy họ già
tóc bạc mặt nhăn,
răng rụng người khô,
nghĩ họ sắp chết,
ta phải chỉ dạy
cho được đạo quả.

(5) Liền tìm cách nói
mà nói niết bàn,
rằng đời toàn là
không phải chắc thật,
khác nào bọt nước,
bóng nước, sóng nắng,
các người phải gấp
nhàm chán thoát ly.

(6) Mọi người nghe được
pháp hóa như vậy,
đều thành La hán
đủ sáu thần thông
và ba minh trí
với tám giải thoát.

(7) Nhưng người sau hết
thuộc lớp năm mươi,
dầu chỉ nghe được
một bài chỉnh cú
của kinh Pháp Hoa
mà lòng tùy hỷ,
phước được vẫn hơn
đại thí chủ trên,
đến nỗi không thể
đối chiếu ví dụ.

(8) Nghe chuyền xa thế
phước còn vô lượng,
huống người đầu tiên
từ chỗ giảng pháp
nghe kinh Pháp Hoa
mà lòng tùy hỷ.

(9) Nếu ai khuyên được
dầu chỉ một người,
dẫn họ đi đến
nghe kinh Pháp Hoa,
bằng cách bảo họ
Pháp Hoa tuyệt diệu,
ngàn vạn thời kỳ
cũng khó gặp được.

(10) Người này theo lời
đi đến mà nghe,
thì dẫu đến nỗi
chỉ nghe chốc lát,
kết quả phước đức
của người khuyên ấy
nay đây Như Lai
phân tích nói đến.

(11-Người ấy đời đời
13) miệng không bị bịnh;
răng không bao giờ
thưa, vàng hay đen;
môi thì không dày,
không rút, không sứt,
không hình dáng nào
có thể ác cảm;
lưỡi cũng không khô,
không đen, không ngắn;
mũi đã cao, lớn,
mà lại dài, thẳng;
còn trán thì rộng,
bằng phẳng, ngay ngắn;
đến mặt và mắt
thì đủ mọi vẻ
đẹp đẽ, trang nghiêm,
ai cũng thích nhìn;
hơi miệng thường xuyên
không mùi hôi thối,
mà hơi hoa sen
thường phát từ đó.

(14) Nếu ai cố tâm
đi đến tăng xá,
muốn nghe cho được
Diệu Pháp Liên Hoa,
dầu nghe chốc lát
mà lòng hoan hỷ,
nay đây Như Lai
nói phước người ấy.

(15-Người ấy đời sau
16) sinh trong trời người
được đi xe voi
xe ngựa hảo hạng,
xe liễn xe dư
trang trí vàng ngọc,
lại được đi bằng
cung điện chư thiên.

(17) Tại chỗ diễn giảng
Diệu Pháp Liên Hoa,
ai biết khuyên mời
người khác ngồi nghe,
thì cái phước này
làm cho người ấy
sẽ được chỗ ngồi
của các ngôi vị
Đế Thích, Phạn Vương,
cùng với Luân Vương.
Huống chi những người
tự mình chuyên tâm
mà nghe diễn giảng
Diệu Pháp Liên Hoa,
nghe rồi giảng lại
nghĩa lý kinh ấy,
lại còn tu hành
như kinh ấy dạy;
phước này không ai
biết được giới hạn.

Phẩm 19: Thành quả của người diễn giảng Pháp Hoa

Vào lúc ấy, đức Thế Tôn bảo đại bồ tát Thường tinh Tiến, thiện nam hay thiện nữ nào đối với Pháp Hoa mà tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng nói cho người và sao chép ấn hành…, thì người ấy sẽ được tám trăm phẩm chất tốt của mắt, một ngàn hai trăm phẩm chất tốt của tai, tám trăm phẩm chất tốt của mũi, một ngàn hai trăm phẩm chất tốt của lưỡi, tám trăm phẩm chất tốt của thân và một ngàn hai trăm phẩm chất tốt của ý. Do những phẩm chất này trang sức mà làm cho sáu căn thông suốt tất cả.

Thiện nam hay thiện nữ ấy, với mắt thịt trong suốt do cha mẹ sinh ra mà thấy cả trong và ngoài đại thiên thế giới: thấy núi rừng sông biển, thấy dưới đến địa ngục Vô gián trên đến trời Hữu đỉnh, trong đó tất cả chúng sinh, hành vi của tất cả chúng sinh ấy, và những chỗ của hành vi ấy kết quả sinh đến, cũng thấy biết hết thảy. Đức Thế Tôn lặp lại ý nghĩa này bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Ở giữa công chúng,
đem sự không sợ
mà giảng Pháp Hoa,
thì Thường tinh Tiến,
đại sĩ hãy nghe
thành quả người ấy.

(2) Người ấy có được
nhãn căn siêu việt,
đầy đủ tám trăm
những phẩm chất tốt.
Do phẩm chất này
trang sức nhãn căn,
nên mắt người ấy
rất là trong suốt.

(3-Chỉ là con mắt
4) do cha mẹ sinh,
mà thấy trong ngoài
đại thiên thế giới:
Di lâu, Tu di,
Thiết vi cùng với
bao nhiêu núi rừng;
tất cả biển cả,
sông lớn cùng với
bao nhiêu dòng nước.

(5) Dưới đến Vô gián
trên đến Hữu đỉnh,
cùng với các loại
chúng sinh trong đó,
người ấy ở đây
mà thấy rõ cả.

(6) Chưa được mắt trời,
chỉ là năng lực
mắt thịt mà thôi
mà đã như vậy.

Thường tinh Tiến, thiện nam hay thiện nữ nào đối với Pháp Hoa mà tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng nói cho người và sao chép ấn hành…, thì được một ngàn hai trăm phẩm chất tốt của tai. Với tai thịt trong suốt ấy mà nghe cả đại thiên thế giới. Dưới đến Vô gián, trên đến Hữu đỉnh, bao nhiêu lời tiếng trong và ngoài: tiếng voi ngựa, tiếng trâu bò, tiếng xe thuyền; tiếng khóc lóc, tiếng than thở; tiếng ốc, tiếng trống, tiếng chuông, tiếng chuông nhỏ; tiếng cười, tiếng nói, tiếng nam, tiếng nữ, tiếng đồng nam, tiếng đồng nữ; tiếng chánh pháp, tiếng phi chánh pháp; tiếng khổ, tiếng vui; tiếng phàm phu, tiếng thánh giả; tiếng đáng ưa, tiếng đáng ghét; tiếng trời, tiếng rồng, tiếng dạ xoa, tiếng càn thát bà, tiếng a tu la, tiếng ca lâu la, tiếng khẩn na la, tiếng ma hầu la dà; tiếng lửa, tiếng nước, tiếng gió, tiếng đất; tiếng địa ngục, tiếng súc sinh, tiếng ngạ quỉ; tiếng tỷ kheo, tiếng tỷ kheo ni; tiếng thanh văn, tiếng duyên giác, tiếng bồ tát, tiếng Phật đà. Nói tổng quát, hết thảy lời và tiếng ở trong và ngoài đại thiên thế giới, tuy chưa được tai trời, chỉ dùng tai thịt trong suốt nhưng bình thường, do cha mẹ sinh ra, mà nghe tất cả. Và phân biệt các loại lời tiếng như vậy mà không hỏng nhĩ căn. Đức Thế Tôn lặp lại ý nghĩa này bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(7) Tai cha mẹ sinh
trong suốt hoàn hảo.
Đem tai thường ấy
mà nghe được hết
các loại lời tiếng
toàn cõi đại thiên.

(8) Các tiếng voi ngựa
trâu bò xe thuyền;
tiếng chuông, chuông nhỏ,
ốc, trống, cầm, sắt,
không hầu, tiêu, sáo,
bao tiếng nhạc khí;

(9) cùng tiếng ca hát
trong thanh tuyệt nhã,
nghe rõ tất cả
mà không đam mê.
Vô số chủng loại
tiếng của loài người,
nghe đủ tất cả
và hiểu rõ ràng.

(10) Tiếng của chư thiên,
tiếng hát tuyệt diệu
của chư thiên ấy,
cũng nghe được cả.
Lại nghe rõ hết
tiếng nam, tiếng nữ,
tiếng của đồng nam,
tiếng của đồng nữ.

(11) Tiếng các loài chim
ở trong núi cao,
nguồn sâu, hang hiểm,
đại khái như là
tần dà, cọng mạng,
cũng nghe được hết.

(12) Mọi tiếng đau đớn
của trong địa ngục;
tiếng kiếm uống ăn
của loài ngạ quỉ;

(13) loài a tu la
ở bờ biển cả
khi nói với nhau
phát tiếng rất lớn.
Người giảng Pháp Hoa
ở vị trí mình
mà xa nghe cả
các tiếng như vậy,
nghe mà không bị
hư hỏng nhĩ căn.

(14) Mười phương thế giới
chim muông kêu nhau,
người giảng Pháp Hoa
ở đây nghe cả.

(15) Lời tiếng chư thiên
ở các Phạn thiên,
Quang âm, Biến tịnh,
đến tận Hữu đỉnh,
người giảng Pháp Hoa
ở đây nghe cả.

(16) Các chúng tỷ kheo
và tỷ kheo ni
đọc tụng kinh pháp
hay giảng cho người,
người giảng Pháp Hoa
ở đây nghe cả.

(17) Và các bồ tát
đọc tụng kinh pháp,
hoặc giảng cho người,
biên tập, giải thích,
các tiếng như vậy
đều nghe được cả.

(18) Chư vị Phật đà_
những đại thánh triết,
những đấng giáo hoá
tất cả chúng sinh,
nói pháp tinh túy
giữa các đại hội,
người giữ Pháp Hoa
cũng nghe được cả.

(19) Mọi tiếng trong ngoài
đại thiên thế giới,
dưới đến Vô gián
trên đến Hữu đỉnh,
nghe hết mà không
hư hỏng nhĩ căn.

(20) Nhĩ căn như vậy
thông suốt bén nhạy,
nên nghe được hết
và biết rành cả.

(21) Những người kính giữ
Diệu Pháp Liên Hoa
tuy rằng chưa được
tai của chư thiên,
chỉ dùng tai thường
do cha mẹ sinh,
mà phẩm chất tốt
đã đến như vậy.

Thường tinh Tiến, thiện nam hay thiện nữ nào đối với Pháp Hoa mà tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng nói cho người và sao chép ấn hành…, thì được tám trăm phẩm chất tốt của mũi. Với mũi thịt trong suốt ấy mà nghe được các hơi trên dưới và trong ngoài đại thiên thế giới, như hơi hoa tu man na, hơi hoa xà đề, hơi hoa mạt lỵ, hơi hoa chiêm bặc, hơi hoa ba la la; hơi hoa sen hồng, hơi hoa sen xanh, hơi hoa sen trắng; hơi các hoa nơi những cây có hoa, hơi các trái nơi những cây có trái; hơi đàn hương, hơi hương trầm thủy, hơi hương đa ma la bạt, hơi hương đa già ra, và hơi của ngàn vạn hương liệu ấy hợp lại thành bột, thành viên, và thành kem. Người kính giữ Pháp Hoa ở đây mà nghe biết rành rẽ cả. Lại nghe biết rành rẽ hơi các loại chúng sinh, đại khái như hơi voi ngựa, hơi bò dê; hơi nam, hơi nữ, hơi đồng nam, hơi đồng nữ. Cỏ cây lùm rừng hoặc xa hoặc gần, có hơi gì cũng nghe được hết, phân biệt không sai. Người kính giữ Pháp Hoa dẫu ở đây mà cũng nghe được các hơi trên chư thiên, như hơi cây ba lỵ chất đa la, hơi cây câu bệ đà ra; hơi hoa mạn đà và đại mạn đà, hơi hoa mạn thù và đại mạn thù; hơi đàn hương, hơi hương trầm thủy, và hơi bột các hương liệu này; hơi các loại hoa xen nhau; và hơi của các loại hơi trên chư thiên này hợp lại phát ra, đều nghe biết cả. Lại nghe hơi thân chư thiên: hơi thân Đế Thích lúc vui thú năm thứ dục lạc nơi Thắng điện, lúc thuyết pháp cho chư thiên Đao lợi nơi Diệu pháp đường, lúc dạo chơi nơi các vườn. Hơi thân nam nữ chư thiên khác cũng xa nghe cả. Tuần tự đến Phạn thế, và lên đến Hữu đỉnh, hơi thân chư thiên các nơi này cũng nghe được cả. Lại nghe hơi các hương liệu được đốt lên của chư thiên. Cho đến hơi các thân thanh văn, thân duyên giác, thân bồ tát và thân Phật đà, cũng xa nghe được, và biết được các thân ấy ở đâu. Tuy nghe hết các hơi như vậy mà tỹ căn không hỏng, và muốn phân tích nói cho người khác thì nhớ không sai. Đức Thế Tôn lặp lại ý nghĩa này bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(22) Người giữ Pháp Hoa
tỹ căn trong suốt,
hơi thơm hơi thối
trong thế giới này,
tất cả các loại
đều ngửi biết cả.

(23) Hơi hoa tu man
và hoa xà đề;
hơi các hương liệu
đa ma la bạt,
đàn hương, trầm thủy,
cùng với hơi quế;
hơi các thứ hoa
và các thứ trái;

(24) hơi bao chúng sinh,
hơi nam, hơi nữ;
người giảng Pháp Hoa
ở xa vẫn nghe
các hơi như vậy
và biết ở đâu.

(25) Các vị luân vương
thế lớn thế nhỏ,
vương tử quần thần
và các cung thân
cũng nghe hơi cả
và biết ở đâu.

(26) Các thứ vàng ngọc
được mang nơi thân,
các kho vàng ngọc
nằm trong lòng đất,
vàng ngọc nơi thân
bảo nữ luân vương,
cũng nghe hơi cả
và biết ở đâu.

(27) Những đồ trang sức
nơi thân mọi người,
như là y phục,
vòng hoa, hương xoa,
cũng nghe hơi cả
và biết thân ấy.

(28) Chư thiên đi, ngồi,
giải trí, biến hoá,
người giữ Pháp Hoa
nghe hơi biết cả.

(29) Hơi hoa, trái, hạt
của các loại cây,
hơi thơm của bơ,
của các thứ dầu,
người giữ Pháp Hoa
ở vị trí mình
cũng nghe biết cả
và biết ở đâu.

(30) Ở trong thung lũng
của bao núi non,
mà cây đàn hương
khi hoa nở ra,
cùng với sinh vật
ở những chỗ ấy,
cũng nghe hơi cả
và biết ở đâu.

(31) Sinh vật ở trong
thiết vi, biển cả,
và cả trong đất,
người giữ Pháp Hoa
cũng nghe hơi cả
và biết ở đâu.

(32) Nam nữ tu la
và thân quyến họ
những khi tranh đấu
hay lúc giải trí,
cũng nghe hơi cả
và biết ở đâu.

(33) Đồng nội mênh mông
núi rừng hiểm trở,
có những loài thú
loại như sư tử
voi, cọp và sói,
bò rừng, trâu rừng,
cũng nghe hơi cả
và biết ở đâu.

(34) Bào thai đang mang
chưa phân nam nữ,
chưa biết đủ thiếu
tất cả bộ phận,
chưa rõ là người
hay không phải người,
cũng đều nghe hơi
và biết rõ cả.

(35) Cũng vì nghe hơi,
biết thai mới có
thành hay không thành,
thành mà yên ổn
sinh ra có phước
hay là trái lại.

(36) Cũng vì nghe hơi
mà biết nam nữ
nghĩ tưởng những gì:
nghĩ đến dục vọng,
si mê, tức giận;
hay nghĩ sửa mình
theo các pháp lành,
cũng nghe biết cả.

(37) Các loại kho báu
ẩn trong lòng đất,
loại như bạc vàng
và bao thứ quí,
cùng đồ kim khí
chứa những thứ ấy,
đều nghe hơi cả
và biết ở đâu.

(38) Đến như tất cả
các thứ chuỗi ngọc,
không ai biết được
giá trị mức nào,
cũng nghe hơi cả
và biết quí không,
biết cả xuất xứ
cùng với chỗ ở.

(39) Tất cả loại hoa
của trên chư thiên,
như hoa mạn đà
như hoa mạn thù
và hoa của cây
ba lỵ chất đa,
cũng đều nghe hơi
và biết rõ cả.

(40) Bao nhiêu cung điện
của trên chư thiên,
cao, thấp, trung bình,
các loại khác nhau,
và bao hoa ngọc
trang hoàng ở đó,
cũng đều nghe hơi
và biết rõ cả.

(41) Vườn rừng chư thiên,
tòa nhà Thắng điện,
cùng với lâu đài
tên Diệu pháp đường,
chúa trời Đế Thích
du ngoạn trong đó,
vui thú ngũ dục,
hay là thuyết pháp,
cũng đều nghe hơi
và biết rõ cả.

(42) Chư thiên nghe pháp
hoặc hưởng ngũ dục,
qua lại đi đứng
hay là nằm ngồi,
cũng đều nghe hơi
và biết rõ cả.

(43) Thiên nữ khoác mặc
những y phục gì,
trang sức hoa đẹp
và hương thơm nào,
du ngoạn giải trí
hay đang ở đâu,
cũng đều nghe hơi
và biết rõ cả.

(44-Tuần tự như vậy
45) từ trời Đao lợi
mà lên cho đến
các trời Phạn thế,
tại đây những ai
vào thiền xuất thiền,
cũng đều nghe hơi
và biết rõ cả.
Quang âm, Biến tịnh,
cho đến Hữu đỉnh,
lúc mới sinh ra
hay lúc thoái đọa,
cũng đều nghe hơi
và biết rõ cả.

(46) Chúng chư tỷ kheo
và các chúng khác
đối với pháp Phật
thường xuyên tinh tiến:
hoặc là tọa thiền
hoặc là kinh hành,
hoặc đọc hoặc tụng
các loại kinh pháp;

(47) hoặc ở núi rừng
dưới gốc cây lớn,
hết lòng tinh chuyên
ngồi tu thiền quán;
những người kính giữ
Diệu Pháp Liên Hoa
cũng đều nghe hơi
và biết chỗ nào.

(48) Chúng chư bồ tát
trí nhớ vững chắc,
ngồi mà thiền quán
mà đọc hoặc tụng,
hay là giảng nói
kinh pháp cho người,
cũng đều nghe hơi
và biết rõ cả.

(49) Khắp mọi quốc độ
chư Phật Như Lai
được bao bộ chúng
tôn kính bao quanh,
các ngài thương tưởng
thuyết pháp cho họ,
cũng được nghe hơi
và biết rõ cả.

(50) Trước chư Phật ấy,
chúng sinh nghe pháp,
vui mừng với pháp,
đúng pháp mà tu,
cũng đều nghe hơi
và biết rõ cả.

(51) Dẫu rằng chưa được
tỹ căn bồ tát _
tỹ căn phát sinh
bởi pháp thuần khiết,
người giữ Pháp Hoa
đã thành tựu trước
những sắc thái này
nơi tỹ căn thường.

Thường tinh Tiến, thiện nam hay thiện nữ nào đối với Pháp Hoa mà tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng nói cho người và sao chép ấn hành…, thì được một ngàn hai trăm phẩm chất tốt của lưỡi. Tốt hay xấu, ngon hay dở, đắng với chát, ở trên lưỡi của người này đều biến thành mùi thượng hạng như mùi cam lộ của chư thiên, không có thứ gì không ngon. Nếu đem lưỡi ấy giảng nói gì ở giữa công chúng đông đảo, thì xuất ra âm thanh sâu xa tuyệt diệu, đi vào con tim, làm cho ai cũng hoan hỷ thích thú. Thiên tử thiên nữ, Đế Thích Phạn Vương, nghe âm thanh sâu xa tuyệt diệu ấy giảng nói rất thứ lớp, nên ai cũng muốn đến làm thính giả; long và long nữ, dạ xoa và dạ xoa nữ, càn thát bà và càn thát bà nữ, a tu la và a tu la nữ, ca lâu la và ca lâu la nữ, khẩn na la và khẩn na la nữ, ma hầu la dà và ma hầu la dà nữ, vì nghe pháp mà tất cả cùng đến thân gần, tôn kính, hiến cúng. Tỷ kheo và tỷ kheo ni, ưu bà tắc và ưu bà di; quốc vương và vương tử, quần thần, tùy thuộc; tiểu luân vương và đại luân vương, những người trong bảy người vật quí báu, ngàn người con và thân quyến nội ngoại của luân vương,cùng đi xa giá như cung điện của mình mà đến nghe pháp. Pháp sư bồ tát này khéo thuyết pháp nên phạn chí, cư sĩ, và dân chúng cả nước, suốt đời theo hầu và hiến cúng. Chư vị thanh văn, duyên giác, bồ tát, và chư vị Phật đà, thường thích thấy vị ấy. Vị ấy ở phương hướng nào thì chư vị Phật đà xoay lại phương hướng này mà thuyết pháp, và vị ấy có năng lực tiếp nhận ghi nhớ hết các pháp của chư Phật như vậy,lại có năng lực xuất ra tiếng nói sâu xa và tuyệt diệu mà tuyên thuyết pháp ấy. Đức Thế Tôn lặp lại ý nghĩa này bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(52) Diễn giảng Pháp Hoa
thì lưỡi trong suốt,
không khi nào bị
mùi vị bất hảo.
Người diễn giảng ấy
ăn uống thứ gì
cũng đều biến thành
mùi vị cam lộ.

(53-Thiện dụng tiếng nói
54) sâu xa tuyệt diệu,
người ấy thuyết pháp
ở giữa các chúng;
với những yếu tố
cùng những ví dụ,
người ấy hướng dẫn
tâm trí chúng sinh,
làm cho người nghe
ai cũng hoan hỷ,
và thiết những cách
hiến cúng cao thượng.

(55) Tất cả tám bộ
chư thiên long thần
đem lòng tôn kính
mà đến nghe pháp.

(56) Người thuyết pháp ấy
muốn tiếng tuyệt diệu
lan khắp thế giới,
thì cũng tùy ý
muốn tiếng đến đâu
là đến được liền.

(57) Luân vương lớn nhỏ,
ngàn con, thân quyến,
chắp tay kính trọng
thường đến nghe pháp.

(58) Chư thiên, long chúng
dạ xoa, la sát,
cả tỳ xá xà,
cũng đều hoan hỷ,
thường xuyên vui thích
đến mà phụng sự;

(59) Phạn vương, Ma vương,
Tự tại thiên tử,
và Đại tự tại,
chư thiên như vậy
càng thường đến chỗ
người thuyết pháp ấy.

(60) Chư vị Phật đà
cùng với đệ tử
nghe tiếng người ấy
diễn giảng diệu pháp,
thì thường thương tưởng
và giữ gìn cho,
có lúc hiện thân
cho người ấy thấy.

Thường tinh Tiến, thiện nam hay thiện nữ nào đối với Pháp Hoa mà tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng nói cho người và sao chép ấn hành…, thì được tám trăm phẩm chất tốt của thân.

Người ấy được cái thân trong suốt như khối lưu ly, chúng sinh ai cũng thích nhìn. Vì thân trong suốt nên chúng sinh cả đại thiên thế giới khi sinh khi chết, bậc cao bậc thấp, hoặc đẹp hoặc xấu, sinh chỗ lành sinh chỗ dữ, tất cả đều hiện nơi thân ấy. Thiết vi và đại thiết vi, di lâu và đại di lâu, những núi như vậy, và sinh vật trong đó, đều hiện nơi thân này. Dưới đến ngục Vô gián, trên đến trời Hữu đỉnh, bao nhiêu chúng sinh và những gì có trong đó, đều hiện trong thân này. Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát và Phật đà thuyết pháp, thì những hình ảnh như vậy cũng hiện nơi thân này. Đức Thế Tôn lặp lại ý nghĩa này bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(61) Người giữ Pháp Hoa
thân rất trong suốt,
như khối lưu ly
cực kỳ trong suốt,
các loại chúng sinh
ai cũng thích nhìn.

(62) Như mặt gương sáng
hiện đủ hình ảnh,
chính nơi thân mình
bồ tát pháp sư
thấy hết những gì
thế giới này có_
mình tự thấy rõ,
người không nhìn ra.

(63) Đại thiên thế giới
hết thảy chúng sinh:
chư thiên nhân loại
cùng với tu la,
địa ngục ngạ quỉ
cùng với súc sinh,
bao hình ảnh này
hiện trong thân ấy.

(64) Cung điện chư thiên
từ tầng dưới hết
sắp lên cho đến
tầng trời Hữu đỉnh;
thiết vi, di lâu,
cùng đại di lâu,
và các đại dương
cùng bao dòng nước,
đều hiện hình ảnh
nơi trong thân ấy.

(65) Chư vị Phật đà
cùng với Thanh văn
và bao con Phật
là các Bồ tát,
mà lúc đơn độc
hay lúc thuyết pháp
ở giữa các chúng,
đều hiện trong đó.

(66) Dẫu rằng chưa được
cái thân mầu nhiệm
là thân pháp tánh
tuyệt đối thuần khiết,
chỉ là cái thân
thường và trong suốt
mà bao hình ảnh
đều hiện trong đó.

Thường tinh Tiến, thiện nam hay thiện nữ nào, sau khi Như Lai nhập diệt, đối với Pháp Hoa mà tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng nói cho người và sao chép ấn hành…, thì được một ngàn hai trăm phẩm chất tốt của ý. Với ý trong suốt như vậy thì đến nỗi chỉ nghe một bài chỉnh cú hay một câu đủ nghĩa cũng thông suốt nghĩa lý vô biên. Thông suốt như vậy rồi lại có khả năng giảng nói một bài chỉnh cú hay một câu đủ nghĩa ấy đến một tháng, bốn tháng, cho đến cả năm, và những gì người này giảng nói thì vì ý nghĩa hướng về thật tướng, nên không trái ngược với thật tướng ấy. Người này nếu phải nói đến học thuyết thế gian, lý thuyết chính trị, công nghiệp dân sinh, và những gì cùng loại, thì cũng biết nói cho hợp với Phật pháp. Cả đại thiên thế giới, sáu loài chúng sinh nghĩ gì, nghĩ để làm gì, nghĩ để bàn gì, người này biết hết. Dẫu chưa được tuệ giác thuần khiết, ý của người này đã trong suốt đến như thế ấy. Người này nghĩ gì, tính gì, và nói gì, cũng đều trung thực với pháp của Như Lai đã dạy chứ không có gì không trung thực, lại cũng trung thực với pháp đã được nói đến trong kinh của các đức Phật trước. Đức Thế Tôn lặp lại ý nghĩa này bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(67) Người giữ Pháp Hoa
thì ý trong suốt,
lanh lợi thông minh
không có vẩn đục.
Chính do cái ý
tuyệt diệu như vậy,
biết hết các pháp
cao, thấp, trung bình.

(68) Đến nỗi chỉ nghe
một bài chỉnh cúù
mà cũng thông đạt
vô lượng nghĩa ý,
lại còn tuần tự
diễãn đạt chính xác
suốt trong một tháng
một mùa, cả năm.

(69) Toàn thể trong ngoài
đại thiên thế giới,
các loại chúng sinh
như trời với người,
dạ xoa, quỉ thần,
và bao loài khác,

(70) tất cả sáu loài
nghĩ tưởng những gì,
thì cái quả báo
người giữ Pháp Hoa
là trong một lúc
mà biết rõ cả.

(71) Vô lượng Phật đà
khắp cả mười phương _
những bậc tướng quí
trăm phước trang nghiêm,
tuyên thuyết diệu pháp
cho bao chúng sinh,
người này nghe, nhận,
và nhớ được cả.

(72) Lại suy nghĩ ra
rất nhiều nghĩa ý
và diễn nói được
trong nhiều thì gian,
nhưng đầu đến cuối
không quên không lầm.
Kính giữ Pháp Hoa
nên được như vậy.

(73) Biết hết chi tiết
của các diệu pháp,
biết theo ý nghĩa
mà thấy thứ tự,
biết rành ngữ văn
và cách diễn đạt,
người ấy diễn giảng
đúng như đã biết.

(74) Người như thế này
diễn giảng những gì,
không những trung thực
với pháp Như Lai,
mà còn trung thực
với pháp Phật trước;
và chính là vì
diễn giảng pháp ấy,
nên giữa các chúng
không e sợ gì.

(75) Người nào kính giữ
Diệu Pháp Liên Hoa
thì được cái ý
trong suốt đến thế,
nên tuy chưa được
tuệ giác thuần khiết
mà đã có trước
những sắc thái trên.

(76) Người này kính giữ
Diệu Pháp Liên Hoa,
thế là đứng nơi
vị trí hiếm có,
được bao chúng sinh
hoan hỷ kính mến,
và có năng lực
vận dụng ngàn vạn
những cách diễn đạt
rất là khéo léo,
phân tích thuyết pháp
cho bao chúng sinh.
Ấy là toàn nhờ
kính giữ Pháp Hoa.

 Phẩm 20: Bồ tát Thường Bất Khinh

Khi ấy đức Thế Tôn bảo đại bồ tát Đại thế Chí, đại sĩ nên biết, trong bốn chúng tỷ kheo và tỷ kheo ni, ưu bà tắc và ưu bà di, những người kính giữ Pháp Hoa mà ai ác miệng phỉ báng thì bị tội nặng như Như Lai đã nói trước kia, còn thành quả của những người ấy thực hiện là tai mắt mũi lưỡi thân ý, sáu căn thông suốt như Như Lai mới nói ở trước.

Đại thế Chí, xưa, xa xưa, cách nay những thời kỳ vô số nhiều đến vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn, có đức Phật danh hiệu Oai âm Vương, bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua niết bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giác hoàn toàn: bậc Tôn cao nhất đời. Thời kỳ của ngài tên là Ly suy, quốc độ của ngài tên là Đại thành. Ngài thuyết pháp cho chư thiên, nhân loại và tu la, bằng cách ai cần Thanh văn thì nói mà đáp ứng cho bằng bốn chân lý để họ vượt qua sinh già bịnh chết, cứu cánh niết bàn; ai cần Duyên giác thì nói mà đáp ứng cho bằng mười hai duyên khởi; còn các vị Bồ tát thì vì tuệ giác vô thượng, nói mà đáp ứng cho bằng sáu ba la mật để họ cứu cánh đạt đến tuệ giác ấy của Phật đà.

Đại thế Chí, đức Oai âm Vương Như Lai sống lâu với những thời kỳ nhiều bằng nhiều lần trăm triệu hằng sa. Giáo pháp nguyên chất của ngài tồn tại thế gian với thời kỳ nhiều bằng bụi nhỏ nghiền một đại lục Diêm phù; giáo pháp tương tự của ngài tồn tại thế gian với thời kỳ nhiều bằng bụi nhỏ nghiền cả bốn đại lục nhân loại. Ngài lợi ích cho chúng sinh rồi nhập diệt. Khi giáo pháp nguyên chất và giáo pháp tương tự của ngài kết thúc thì quốc độ Đại thành lại có đức Phật khác xuất hiện, cũng với tên Oai âm Vương Như Lai và đủ mười đức hiệu. Tuần tự như vậy, có hai vạn ức đức Phật nữa, đều cùng một danh hiệu.

Đức Oai âm Vương Như Lai đầu tiên, sau khi nhập diệt và thời kỳ giáo pháp nguyên chất kết thúc, trong thời kỳ giáo pháp tương tự của ngài, những tỷ kheo tăng thượng mạn có thế lực cực lớn. Chính trong lúc này mà có một vị tỷ kheo bồ tát tên là Thường bất Khinh. Đại thế Chí, vì lý do nào gọi ngài là Thường bất Khinh? Vì thấy ai, bất cứ tỷ kheo hay tỷ kheo ni, ưu bà tắc hay ưu bà di, ngài cũng thi lễ và tán dương mà nói, tôi kính trọng quí vị một cách sâu xa, không dám khinh thường, vì quí vị toàn là những người có thể đi theo đường đi của bồ tát và sẽ được trở thành Phật đà. Tỷ kheo bồ tát Thường bất Khinh không chuyên chú đọc kinh tụng kinh, chỉ thực hành sự thi lễ tán dương như trên. Đến nỗi mỗi khi từ xa thấy bất cứ ai trong bốn chúng, ngài cũng cố đến thi lễ và tán dương mà nói, tôi không dám khinh thường quí vị, quí vị sẽ làm Phật cả. Trong bốn chúng có kẻ nổi giận, tâm lý vẩn đục thì ác miệng mắng nhiếc, rằng tỷ kheo vô trí này, ở đâu đến đây mà tự nói tôi không dám khinh thường quí vị, thọ ký cho chúng ta sẽ được làm Phật? Chúng ta không cần sự thọ ký không thật ấy! Nhưng tỷ kheo bồ tát Thường bất Khinh vẫn làm như vậy trải qua bao nhiêu năm tháng, và luôn luôn bị mắng nhiếc mà không giận dữ, vẫn thường nói rằng quí vị sẽ làm Phật cả. Khi nói lời ấy, mọi người có kẻ lấy gậy lấy cây mà đánh, lấy ngói lấy đá mà ném, ngài tránh chạy, đứng xa, nhưng vẫn lớn tiếng mà nói tôi không dám khinh thường quí vị, quí vị sẽ làm Phật đà. Vì ngài thường xuyên nói như vậy nên những kẻ tăng thượng mạn trong bốn chúng gọi ngài là Thường bất Khinh.

Lúc đời sống sắp kết thúc, từ trong không gian, tỷ kheo bồ tát Thường bất Khinh được nghe đầy đủ về kinh Pháp Hoa mà đức Oai âm Vương Như Lai đã tuyên thuyết, gồm có hai mươi ngàn vạn ức bài kệ mà ngài vẫn tiếp nhận và kính giữ được cả. Và tức thì được mắt tai mũi lưỡi thân ý sáu căn trong suốt như Như Lai mới nói ở trước. Được như vậy rồi, đời sống của tỷ kheo bồ tát Thường bất Khinh tăng lên hai trăm vạn ức trăm triệu năm nữa, diễn giảng cho mọi người một cách phong phú về kinh Pháp Hoa.

Bốn chúng bấy giờ, những kẻ tăng thượng mạn đã khinh khi và đặt cho ngài cái tên Thường bất Khinh, thấy ngài đạt được sức mạnh đại thần thông, sức mạnh đại hùng biện, sức mạnh đại yên lặng, nên nghe ngài diễn giảng ai cũng tin phục và đi theo. Tỷ kheo bồ tát Thường bất Khinh lại giáo hóa cho ngàn vạn ức người, làm cho đứng trong tuệ giác vô thượng.

Sau khi đời sống kết thúc, ngài lại gặp được hai ngàn ức đức Phật cùng một danh hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, trong giáo pháp các đức Phật ấy ngài cũng diễn giảng Pháp Hoa. Vì nhân tố này, ngài gặp được hai ngàn ức đức Phật nữa, cùng một danh hiệu Vân tự tại Đăng vương, và trong giáo pháp của các đức Phật như vậy ngài cũng tiếp nhận kính giữ Pháp Hoa, bằng cách đọc tụng và giảng nói cho bốn chúng về kinh ấy, cũng được sáu căn bình thường mà trong suốt, được sự không e sợ khi diễn giảng giữa bốn chúng. Đại thế Chí, đối với bao nhiêu đức Phật trên đây, đại bồ tát Thường bất Khinh hiến cúng, cung kính, tôn trọng, tán dương, gieo trồng gốc rễ pháp lành. Sau đó ngài còn gặp ngàn vạn ức đức Phật nữa, trong giáo pháp các đức Phật này ngài cũng diễn giảng Pháp Hoa, hoàn thiện công đức, trở thành một đức Phật đà.

Đại thế Chí, ý của đại sĩ nghĩ như thế nào, đại bồ tát Thường bất Khinh lúc ấy có phải ai khác, mà chính là bản thân Như Lai. Nếu đời trước Như Lai không tiếp nhận kính giữ Pháp Hoa bằng cách đọc tụng, diễn giảng cho người…, thì đã không thể mau chóng thành tựu tuệ giác vô thượng. Chính vì từ nơi chư Phật quá khứ, Như Lai đã tiếp nhận kính giữ Pháp Hoa bằng cách đọc tụng, diễn giảng cho người…, nên đã thành tựu tuệ giác vô thượng một cách mau chóng. Đại thế Chí, phần những tỷ kheo và tỷ kheo ni, ưu bà tắc và ưu bà di lúc ấy, vì giận dữ và khinh khi đại bồ tát Thường bất Khinh mà hai trăm ức thời kỳ thường xuyên không gặp Phật không nghe Pháp không thấy Tăng, một ngàn thời kỳ chịu khổ khốc liệt trong Vô gián, nhưng hết tội báo ấy thì được gặp lại đại bồ tát Thường bất Khinh giáo hóa cho về tuệ giác vô thượng. Đại thế Chí, ý của đại sĩ nghĩ thế nào, bốn chúng thường khinh ngạo đại bồ tát Thường bất Khinh lúc ấy có phải ai khác, mà chính là năm trăm bồ tát đứng đầu bởi Hiền Hộ, năm trăm tỷ kheo ni đứng đầu bởi Sư Tử Nguyệt, và năm trăm ưu bà tắc đứng đầu bởi Tư Phật, toàn là những người không còn thoái chuyển tuệ giác vô thượng và nay đang có mặt trong đại hội này.

Đại thế Chí, đại sĩ phải biết, Pháp Hoa ích lợi vĩ đại cho chư vị đại bồ tát, có năng lực làm cho chư vị ấy đạt đến tuệ giác vô thượng. Vì lý do này, sau khi Như Lai nhập diệt, đối với Pháp Hoa, chư vị đại bồ tát hãy liên tục tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng nói cho người, sao chép ấn hành…

Muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên khi ấy đức Thế Tôn nói những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Xưa có đức Phật
hiệu Oai Âm Vương,
thần thông tuệ giác
đều vô hạn lượng,
dẫn dắt hết thảy
các loại chúng sinh,
chư thiên nhân loại
ai cũng phụng sự.

(2) Ngài nhập diệt rồi,
khi pháp sắp hết,
có một bồ tát
tên Thường bất Khinh.

(3) Bốn chúng bấy giờ
vướng mắc các pháp,
bồ tát Bất Khinh
đến chỗ của họ,
nói tôi không dám
khinh thường quí vị;
quí vị có thể
đi đường bồ tát
và ai cũng sẽ
được làm Phật đà.

(4) Họ nghe lời này
thì khinh và mắng,
bồ tát Bất Khinh
nhẫn chịu được cả.

(5) Hết tội tình này
và khi sắp chết,
ngài được nghe đủ
Diệu Pháp Liên Hoa,
và được sáu căn
thường mà trong suốt.
Do thần lực ấy,
ngài sống lâu thêm,
và lại diễn giảng
một cách phong phú
Diệu Pháp Liên Hoa
cho cả mọi người.

(6) Người trong bốn chúng
vướng mắc các pháp
thì được bồ tát
giáo hóa tác thành,
làm cho đứng vững
trong tuệ giác Phật.
Sau khi chết rồi,
bồ tát Bất Khinh
được gặp vô số
chư vị Phật đà.

(7) Chính vì diễn giảng
Diệu Pháp Liên Hoa
mà ngài thực hiện
vô lượng pháp lành,
đủ dần công đức
chóng được Phật tuệ.
Bất Khinh lúc ấy
nay chính Như Lai.

(8-9) Bốn chúng lúc ấy
vướng mắc các pháp
nghe Thường bất Khinh
thọ ký làm Phật,
thì chính nhờ vào
nhân tố này đây
mà họ gặp được
vô lượng Phật đà,
và nay chính là
trong đại hội này
năm trăm bồ tát,
cùng với bốn chúng
bao gồm nam nữ
đức tin trong sáng,
đang cùng nghe pháp
trước Như Lai đây.

(10) Đời trước Như Lai
khuyên những người ấy
nghe và tiếp nhận
Diệu Pháp Liên Hoa
là pháp bậc nhất,
nay họ có thể
chỉ dạy cho người
sống trong niết bàn,
bằng cách đời đời
nhận giữ kinh ấy.

(11) Ức vạn thời kỳ
không thể nói được
mới được có lúc
nghe nói Pháp Hoa,
ức vạn thời kỳ
không thể nói được
mới được có lúc
Phật nói Pháp Hoa.

(12) Do đó sau khi
Như Lai nhập diệt,
những người tu hành
được nghe Pháp Hoa
thì đừng sinh ra
tâm tư nghi hoặc,
mà nên chuyên chú
diễn giảng phong phú
kinh Pháp Hoa ấy,
như vậy đời nào
cũng gặp Phật đà
mau được Phật tuệ.

Phẩm 21: Sức thần của đức Thế Tôn

Lúc bấy giờ các vị đại bồ tát đã từ đất dũng xuất và nhiều bằng bụi nhỏ nghiền một ngàn thế giới hệ, đều đối trước đức Thế Tôn chuyên chú mà chắp tay, chiêm ngưỡng dung nhan của ngài, thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, sau khi ngài nhập diệt, chúng con sẽ ở trong bao nhiêu quốc độ phân thân của ngài đã ở và sẽ nhập diệt mà diễn giảng rộng rãi về kinh Pháp Hoa. Chúng con làm như vậy là vì bản thân chúng con cũng muốn được cái pháp vĩ đại, trong sáng và chân thật ấy để hiến cúng bằng cách tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng nói cho người, sao chép ấn hành…

Khi ấy, trước chúng đại bồ tát nhiều đến vô số trăm ngàn vạn ức và đã ở tại thế giới hệ Kham nhẫn này, đại loại như đại bồ tát Văn Thù; trước bốn chúng tỷ kheo và tỷ kheo ni, ưu bà tắc và ưu bà di; trước tám bộ thiên, long, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la dà, những người mà không phải người; trước tất cả các chúng như vậy, đức Thế Tôn biểu hiện thần lực vĩ đại, bằng cách xuất ra tướng lưỡi rộng dài lên đến tầng trời Phạn thế, hết thảy lỗ lông phóng ra vô lượng vô số ánh sáng có màu sắc và chiếu khắp thế giới hệ cả mười phương. Chư Phật phân thân của ngài ngồi trên các tòa sư tử dưới các cây ngọc cũng biểu hiện như vậy, xuất ra tướng lưỡi rộng dài và phóng ra vô số ánh sáng. Thì gian đức Thế Tôn và chư Phật phân thân của ngài biểu hiện thần lực vĩ đại như vậy hết trọn trăm ngàn năm. Sau đó các ngài thu lại tướnglưỡi rộng dài, rồi cùng một lúc, các ngài dặng hắng và đàn chỉ. Hai âm thanh này vang khắp cõi Phật mười phương. Đất của các cõi Phật ấy chấn động đủ cả sáu cách. Và nhờ thần lực của đức Thế Tôn cùng chư Phật phân thân của ngài mà tại các cõi Phật ấy, tất cả chúng sinh, bao gồm nhân loại và không phải nhân loại, đều nhìn thấy thế giới hệ Kham nhẫn này: thấy chư Phật phân thân ngồi trên các tòa sư tử dưới những cây ngọc nhiều đến vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức, thấy đức Thế Tôn cùng đức Đa Bảo ở trong bảo tháp ngồi chung trên tòa sư tử, thấy bồ tát đại sĩ và bốn chúng nhiều đến vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức cung kính bao quanh đức Thế Tôn. Thấy như vậy nên ai cũng đại hoan hỷ, cảm nhận sự thể chưa từng có. Tức thì chư thiên ở trong không gian của các cõi Phật ấy lớn tiếng mà nói, cách đây những thế giới hệ nhiều đến hàng ức con số vô số, có thế giới hệ tên là Kham nhẫn, trong đó có đức Phật giáo chủ danh hiệu Thích Ca Mâu Ni, hiện nay đang tuyên thuyết cho chư vị bồ tát đại sĩ về bản kinh đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Các người nên tùy hỷ sâu xa, nên lễ bái hiến cúng đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn. Chúng sinh tại các cõi Phật nghe tiếng ấy trong không gian thì cùng chắp tay hướng về phía thế giới hệ Kham nhẫn này mà nói, kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn. Họ đem các loại hoa, vòng hoa, cờ phan, lọng dù, những đồ trang sức thân thể, những vật vàng ngọc quí báu, cùng nhau từ xa tung vào thế giới hệ Kham nhẫn. Bao nhiêu thứ được tung vào đó, từ mười phương tụ lại như mây tụ, biến thành bảo cái bằng hoa, che khắp ở trên chư Phật cả thế giới hệ này. Bấy giờ tất cả thế giới hệ mười phương đều thông suốt với nhau như một cõi Phật.

Khi ấy đức Thế Tôn bảo đại chúng bồ tát mà trong bốn vị thượng thủ có đại bồ tát Thượng Hạnh, rằng thần lực của Như Lai vô lượng vô biên, bất khả tư nghị đến như vậy. Nhưng nếu Như Lai đem thần lực như vậy, vì sự giao phó trọng trách mà nói đến đặc tính của kinh Pháp Hoa, thì nói đến rất nhiều thời kỳ vô số, cũng không thể cùng tận. Nói cốt yếu thì toàn thể những pháp Như Lai có—toàn thể thần lực tự tại của Như Lai, toàn thể kho tàng bí yếu của Như Lai, toàn thể những sự cực kỳ sâu xa của Như Lai, đều nói rõ trong kinh Pháp Hoa. Do vậy mà sau khi Như Lai nhập diệt, đối với kinh Pháp Hoa, chư vị phải một lòng tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng nói cho người, sao chép ấn hành, làm đúng kinh dạy… Tại các thế giới, những chỗ có người tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng nói cho người, sao chép ấn hành, làm đúng kinh dạy…, hay những chỗ tôn trí cuốn kinh ấy, những chỗ như vậy hoặc trong vườn, hoặc trong rừng, hoặc dưới đại thọ, hoặc nơi tăng xá, hoặc nhà thế gian, hoặc tại lâu đài thành thị, hoặc trong hang động hoang vu, bất cứ chỗ nào cũng nên xây chùa tháp mà phụng hiến Như Lai. Tại sao, vì chư vị phải coi những chỗ ấy như là Bồ đề tràng, nơi mà chư Phật ở đó thành tựu tuệ giác vô thượng; như là vườn Lộc uyển, nơi mà chư Phật ở đó chuyển đẩy bánh xe chánh pháp; như là rừng Sa la, nơi mà chư Phật ở đó nhập vào niết bàn hoàn toàn.

Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Là vị toàn giác
cứu độ thế gian,
Như Lai sử dụng
thần thông vĩ đại:
để làm đẹp dạ
tất cả chúng sinh,
Như Lai biểu hiện
thần lực vô hạn.

(2) Tướng lưỡi rộng dài
đến trời Phạn thế,
và thân phóng ra
vô số tia sáng:
chính vì những người
cầu tuệ giác Phật,
Như Lai biểu hiện
sự hiếm có này.

(3) Cái tiếng dặng hắng
và tiếng đàn chỉ
của chư Phật đà
vang khắp mọi nơi
mười phương quốc độ,
làm cho đại địa
những quốc độ ấy
chấn động sáu cách.

(4) Vì lẽ sau khi
Như Lai nhập diệt,
ai có năng lực
kính giữ Pháp Hoa,
thì chư Phật đà
cùng hoan hỷ cả,
nên hiện thần lực
vô lượng như vậy.

(5) Lại vì giao phó
kinh Pháp Hoa ấy,
cho nên trải qua
vô số thời kỳ,
Như Lai ca tụng
vẫn không cùng tận
công đức những người
tiếp nhận kính giữ.

(6) Công đức người này
vô biên vô cùng,
in như không gian
ai biết giới hạn.

(7) Kính giữ Pháp Hoa
là thấy Như Lai,
thấy đức Đa Bảo,
thấy Phật phân thân,
thấy các bồ tát
đang được Như Lai
giảng dạy giáo hóa
trong ngày hôm nay.

(8) Giữ được Pháp Hoa,
như thế đã là
làm cho Như Lai
và Phật phân thân,
làm đức Đa Bảo
_ đức Phật đã nhập
niết bàn hoàn toàn _
cùng hoan hỷ cả.

(9) Chư vị Phật đà
khắp cả mười phương
suốt hết ba đời,
người giữ Pháp Hoa
cũng là thấy được
cũng là hiến cúng
và cũng làm cho
các ngài hoan hỷ.

(10) Cái pháp bí yếu
mà Như Lai được
khi Như Lai ngồi
nơi bồ đề tràng,
ai kính giữ được
kinh Pháp Hoa này
sẽ không bao lâu
cũng được pháp ấy.

(11) Giữ được Pháp Hoa
thì người như vậy
thông suốt các pháp,
thông suốt ý nghĩa
cùng với ngữ văn
của các pháp ấy,
và rồi hoan hỷ
biện thuyết pháp ấy
vô cùng vô tận,
in như làn gió
lộng trong không gian
không gì cản được.

(12) Sau khi Như Lai
nhập niết bàn rồi,
người giữ Pháp Hoa
vẫn hiểu lý do
cùng với thứ tự
của các kinh pháp
do Như Lai nói,
và tùy ý nghĩa
mà giảng nói lại
đúng như sự thật.

(13) Ví như ánh sáng
hai vầng nhật nguyệt
có thể phá tan
mọi sự mờ tối,
người ấy đi khắp
trong cõi đời này,
diệt được mờ tối
cho bao chúng sinh,
giáo hóa bao người
có tánh bồ tát
cùng được ngồi vào
cỗã xe duy nhất.

(14) Vì lý do này,
những người có trí
nghe được ích lợi
đã nói trên đây,
thì khi Như Lai
nhập niết bàn rồi,
phải gắng kính giữ
kinh Pháp Hoa này.
Người ấy đối với
tuệ giác Phật đà
quyết chắc đạt được
không ngờ gì nữa.

Phẩm 22: Giao phó trọng trách

Vào lúc bấy giờ, từ trên pháp tòa, đức Thế Tôn đứng dậy, và biểu hiện thần lực vĩ đại bằng cách đưa cánh tay phải xoa trên đỉnh đầu vô lượng bồ tát đại sĩ mà nói, cái pháp tuệ giác vô thượng rất khó được như thế này, Như Lai trải qua cực nhiều thời kỳ vô số, mới tu hành, thu thập và thực hiện được, ngày nay Như Lai đem giao phó cho quí vị; quí vị nên hết lòng truyền bá pháp ấy, làm cho sự ích lợi của pháp ấy tăng lên một cách rộng rãi. Ba lần như vậy, đức Thế Tôn xoa trên đỉnh đầu chư vị bồ tát đại sĩ mà nói, cái pháp tuệ giác vô thượng rất khó được như thế này, Như Lai trải qua cực nhiều thời kỳ vô số, mới tu hành, thu thập và thực hiện được, ngày nay Như Lai đem giao phó cho quí vị; quí vị hãy tiếp nhận kính giữ bằng cách đọc tụng diễn giảng rộng rãi pháp ấy cho hết thảy chúng sinh đều được nghe biết.

Tại sao Như Lai giao phó như vậy? Vì Như Lai đại từ bi. Như Lai không tiếc lẫn, không e sợ. Như Lai có thể đem cho chúng sinh tuệ giác Phật đà, tuệ giác Như Lai, tuệ giác Tự nhiên. Như Lai là đại thí chủ của chúng sinh. Quí vị cũng phải học tập phong cách ấy của Như Lai mà đừng tiếc lẫn. Trong thì vị lai, thiện nam hay thiện nữ nào tin được tuệ giác Như Lai thì quí vị nên giảng nói Pháp Hoa cho những người này nghe biết, với chủ ý làm cho những người này đạt được tuệ giác Như Lai. Những ai chưa tin được tuệ giác Như Lai thì quí vị nên đem những giáo pháp sâu xa khác của Như Lai mà trình bày, thuyết phục, khuyến khích, tán thưởng cho họ. Làm được như vậy là quí vị đã báo đáp ân đức của chư Phật.

Lúc ấy chư vị bồ tát đại sĩ nghe đức Thế Tôn dạy như vậy thì ai cũng rất hoan hỷ. Nỗi hoan hỷ ấy tràn ngập cơ thể, nên chư vị tăng thêm tôn kính, và cúi mình, thấp đầu, chắp tay hướng về đức Thế Tôn, cùng lên tiếng mà thưa, bạch đức Thế Tôn, chúng con nguyện xin cùng nhau phụng hành đúng như lời đức Thế Tôn huấn dụ. Dạ, đúng như vậy, bạch đức Thế Tôn; xin đức Thế Tôn đừng lo nghĩ. Ba lần như vậy, chư vị bồ tát đại sĩ cùng lên tiếng mà thưa, bạch đức Thế Tôn, chúng con nguyện xin cùng nhau phụng hành đúng như lời đức Thế Tôn huấn dụ. Dạ, đúng như vậy, bạch đức Thế Tôn; xin đức Thế Tôn đừng lo nghĩ.

Khi ấy đức Thế Tôn thỉnh chư Phật phân thân đã từ mười phương đến đây cùng trở về quốc độ các ngài, bằng cách nói rằng kính chúc chư Phật về chỗ nào cũng sống yên vui, kính xin tháp đức Đa Bảo trở về chỗ cũ.

Khi đức Thế Tôn nói như vậy thì mười phương vô lượng chư Phật phân thân ngồi trên các tòa sư tử dưới các cây ngọc, đức Đa Bảo Phật đà, cùng với vô biên vô số đại chúng bồ tát mà trong bốn vị thượng thủ có đại bồ tát Thượng Hạnh, bốn chúng thanh văn mà thượng thủ là tôn giả Xá lợi Phất, và tất cả thế gian mà trong đó bao gồm nhân loại và tám bộ, nghe những điều đức Thế Tôn nói ai cũng đại hoan hỷ.

 Phẩm 23: Việc cũ của bồ tát Dược Vương

Lúc ấy bồ tát Tú vương Hoa thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, bồ tát Dược Vương du hóa như thế nào trong thế giới hệ Kham nhẫn? Vị bồ tát ấy có mấy lần trăm triệu khổ hạnh khó làm? Lành thay đức Thế Tôn, xin ngài nói ra một chút về khổ hạnh ấy. Tám bộ thiên long, chúng chư bồ tát đến từ thế giới hệ khác và chúng chư thanh văn ở thế giới hệ này ai nghe cũng hoan hỷ.

Khi ấy đức Thế Tôn bảo bồ tát Tú vương Hoa, quá khứ cách nay những thời kỳ nhiều bằng vô lượng hằng sa, có đức Phật danh hiệu là Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai, đủ mười đức hiệu. Ngài có chúng đại bồ tát tám mươi ức vị, có chúng đại thanh văn bảy mươi hai hằng sa. Ngài sống lâu bốn vạn hai ngàn thời kỳ. Đời sống của đại bồ tát cũng đồng đẳng. Quốc độ của ngài không có nữ nhân, không có địa ngục ngạ quỉ súc sinh và tu la, không có mọi thứ tai nạn. Đất bằng như bàn tay, do chất lưu ly tạo thành. Cây ngọc tráng lệ, che trên là bảo cái khảm ngọc, và rủ xuống là dải phan kết hoa ngọc. Bình và lư hương ngọc cũng khắp cả quốc độ. Bảy chất liệu quí báu làm đài. Mỗi cây một đài, cây cách đài một đường tên bắn. Dưới những cây ngọc thì có bồ tát và thanh văn ngồi. Trên mỗi đài ngọc thì có trăm ức chư thiên diễn tấu nhạc khí chư thiên và ca hát mà tán dương đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai, hiến cúng ngài như vậy.

Bấy giờ đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai tuyên thuyết Pháp Hoa cho bồ tát Nhất Thế Chúng Sinh Hỷ Kiến và các chúng chư bồ tát chư thanh văn. Nhất Thế Chúng Sinh Hỷ Kiến là vị bồ tát thích tập khổ hạnh. Trong giáo pháp của đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai, vị bồ tát này tinh tiến kinh hành và tư duy để cầu Phật tuệ. Trọn một vạn hai ngàn năm như vậy, vị bồ tát này được định tên Hiện các sắc thân. Được định này rồi, tâm bồ tát Nhất Thế Chúng Sinh Hỷ Kiến rất hoan hỷ, nghĩ rằng, ta được định Hiện các sắc thân toàn là nhờ sức mạnh của sự được nghe Pháp Hoa. Ta nên hiến cúng đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai và kinh Pháp Hoa ấy. Nghĩ vậy nên vị bồ tát này tức thì nhập định Hiện các sắc thân, ở trong không gian rưới hoa mạn đà và đại mạn đà, rưới bột đàn hương kiên hắc đầy cả không gian và như mây đổ xuống, rưới đàn hương hải ngạn – loại hương liệu mà phần tư một lạng giá trị đã bằng cả thế giới hệ Kham nhẫn. Rưới hoa hương như vậy mà hiến cúng đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai.

Hiến cúng cách ấy rồi, bồ tát Nhất Thế Chúng Sinh Hỷ Kiến xuất định, nghĩ rằng, dầu ta vận dụng thần lực mà hiến cúng đức Thế Tôn của ta như vậy vẫn không bằng đem chính thân ta mà hiến cúng. Nghĩ như vậy nên vị bồ tát này ăn uống các hương liệu như đàn hương, nhũ hương, thảo hương, đinh hương, trầm thủy và tùng hương. Lại uống dầu thơm của các hoa đại loại như hoa chiêm bặc. Ăn uống như vậy một ngàn hai trăm năm, rồi đem dầu thơm mà xoa mình, đối trước đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai, lấy vải quí và thiêng mà quấn mình, rưới tẩm các thứ dầu thơm, và đem nguyện lực và thần lực mà tự đốt thân mình, ánh sáng chiếu khắp thế giới hệ nhiều bằng tám mươi ức hằng sa. Chư Phật trong những thế giới hệ ấy cùng lúc ca tụng, rằng tốt lắm thiện nam tử, như thế này mới là sự tinh tiến chân thật, mới là sự hiến cúng chánh pháp đối với Như Lai. Hiến cúng bằng các loại hoa, vòng hoa, các loại hương liệu, gấm lụa, tràng phan, bảo cái, đàn hương hải ngạn, và đủ thứ cùng loại như vậy, cũng không thể sánh bằng. Cho cả vương quốc, hoàng thành, hậu phi, vương tử, cũng vẫn không bằng. Thiện nam tử, như thế này mới là sự hiến cúng bậc nhất. Trong mọi sự hiến cúng, sự này tối tôn tối thượng. Là vì đây là lấy chánh pháp mà hiến cúng Như Lai.

Ca tụng như vậy rồi, chư Phật cùng yên lặng. Thân của bồ tát Nhất Thế Chúng Sinh Hỷ Kiến thì cháy đến một ngàn hai trăm năm. Qua thì gian ấy rồi, thân vị bồ tát này mới cháy hết.

Sau khi hiến cúng bằng chánh pháp như vậy, và đời sống kết thúc rồi, vị bồ tát này tái sinh trong quốc độ của đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai, bằng cách bỗng nhiên hóa sinh, ngồi xếp bằng trong cung vua Tịnh Đức, và tức thì nói với vương phụ bằng lời chỉnh cú sau đây.

(1) Vương phụ biết cho,
trong đời trước đây
con đã đi trên
con đường khổ hạnh,
đã thành tựu được
định Hiện sắc thân,
và đã làm việc
tinh tiến vĩ đại,
bằng cách xả bỏ
cái thân yêu quí
tôn kính hiến cúng
Thế Tôn của con,
để cầu thành đạt
tuệ giác vô thượng.

Nói lời chỉnh cú ấy rồi lại tâu vương phụ, rằng đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai hiện nay vẫn còn. Trước đây con hiến cúng ngài rồi được pháp tổng trì Biết hết tiếng nói của chúng sinh, lại được nghe kinh Pháp Hoa với những bài kệ đạt đến số lượng tám vạn ức cho đến đại số a súc bà. Tâu vương phụ, bây giờ con lại muốn hiến cúng ngài. Tâu rồi, bồ tát Nhất Thế Chúng Sinh Hỷ Kiến liền ngồi trên đài bằng bảy chất liệu quí báu, thăng lên không gian cao bằng bảy cây đa la mà đến chỗ đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai, bước xuống, đầu mặt lạy ngang chân ngài, chắp tay lại mà tán dương với lời chỉnh cú sau đây.

(2) Diện mạo Thế Tôn
vô cùng kỳ diệu!
Ánh sáng Thế Tôn
chiếu khắp tất cả!
Trong đời trước đây
con mới hiến cúng,
và nay lại được
đích thân chiêm ngưỡng!

Nói lời chỉnh cú ấy rồi, bồ tát Nhất Thế Chúng Sinh Hỷ Kiến lại thưa, bạch đức Thế Tôn, như thế là đức Thế Tôn vẫn còn có thể ở đời thêm nữa. Đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai bảo, thiện nam tử, thì gian niết bàn của Như Lai đã đến. Ông hãy sắp chỗ cho Như Lai. Đêm nay Như Lai sẽ nhập niết bàn. Đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai lại huấn thị bồ tát Nhất Thế Chúng Sinh Hỷ Kiến, rằng thiện nam tử, Như Lai đem giáo pháp của Như Lai mà giao phó cho ông. Lại giao phó cho ông các vị bồ tát, các đại đệ tử và pháp tuệ giác vô thượng. Cả đại thiên thế giới bằng bảy chất liệu quí báu này, những cây ngọc, đài ngọc, cùng những thiên nhân phục dịch, Như Lai cũng giao phó cho ông. Như Lai nhập diệt rồi, bao nhiêu xá lợi cũng giao phó cho ông, ông nên phân bủa ra mà hiến cúng rộng rãi, bằng cách dựng lên hàng ngàn bảo tháp. Đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai huấn thị bồ tát Nhất Thế Chúng Sinh Hỷ Kiến rồi, phần sau của đêm ấy ngài nhập vào niết bàn.

Thấy đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai nhập diệt, bồ tát Nhất Thế Chúng Sinh Hỷ Kiến bi cảm, áo não, luyến mộ, nên dùng đàn hương hải ngạn làm giàn củi, hiến cúng mà thiêu thân ngài. Lửa tắt, vị bồ tát này thu thập xá lợi, làm tám vạn bốn ngàn bình ngọc mà tôn trí, và xây tám vạn bốn ngàn ngôi tháp mà tôn thờ. Những ngôi tháp này cao đến Phạn thiên, trụ vàng tiêu biểu thì cực kỳ tráng lệ, treo rủ xuống là những bảo cái có mắc phan phướn, và những chuông nhỏ quí báu cũng được treo lên.

Nhưng bồ tát Nhất Thế Chúng Sinh Hỷ Kiến lại nghĩ, ta hiến cúng xá lợi như vầy lòng vẫn thấy chưa đủ. Ta nên đổi cách mà hiến cúng nữa. Nghĩ như vậy nên vị bồ tát này bảo tất cả các chúng gồm có chư bồ tát, chư đại đệ tử, tám bộ thiên long, rằng quí vị biết cho, nay tôi muốn hiến cúng xá lợi của đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai. Nói rồi tức thì đối trước tám vạn bốn ngàn bảo tháp, tự đốt hai cánh tay được trang sức bởi cả trăm phước đức, cháy suốt bảy vạn hai ngàn năm mà hiến cúng, làm cho vô số người cầu tuệ giác thanh văn và vô số người phát tâm tuệ giác vô thượng đều được ở vào trong định Hiện các sắc thân.

Bấy giờ chư bồ tát, chư thiên, nhân loại, và các chúng khác, thấy bồ tát Nhất Thế Chúng Sinh Hỷ Kiến không còn hai cánh tay thì lo và thương mà nói với nhau, rằng vị bồ tát này là thầy của chúng ta, giáo hóa cho chúng ta, mà nay đốt cả hai cánh tay, thân không hoàn bị! Nhưng bồ tát Nhất Thế Chúng Sinh Hỷ Kiến ở giữa các chúng mà thệ nguyện, rằng tôi bỏ hai cánh tay thì quyết chắc sẽ được cái thân màu hoàng kim của Phật. Nếu thật như vậy thì nguyện hai cánh tay của tôi trở lại như cũ. Thệ nguyện rồi tự nhiên phục hồi cả hai cánh tay. Ấy là do phước đức và tuệ giác của vị bồ tát này cực kỳ thuần hậu mà cảm ra. Và lúc ấy cả đại thiên thế giới chấn động đủ hết sáu cách, chư thiên rưới xuống các thứ hoa quí, hết thảy nhân loại và chư thiên cùng được sự chưa từng có.

Đức Thế Tôn bảo bồ tát Tú vương Hoa, ý của ông nghĩ thế nào, bồ tát Nhất Thế Chúng Sinh Hỷ Kiến có phải ai khác, nay chính là Dược Vương đại sĩ. Thân mạng vị đại sĩ này bỏ ra mà hiến, mà cho, có đến nhiều lần vạn ức trăm triệu.

Tú vương Hoa, ai phát tâm muốn được tuệ giác vô thượng mà đốt được một ngón tay hay một ngón chân để hiến cúng tháp Phật, thì hơn đem quốc thành vợ con, đem rừng núi sông hồ và mọi thứ bảo vật của cả đại thiên thế giới mà hiến cúng. Nếu ai đem bảy thứ quí báu chất đầy đại thiên thế giới mà hiến cúng Phật đà, hiến cúng bồ tát, duyên giác và la hán, công đức người này không bằng tiếp nhận kính giữ Pháp Hoa dầu chỉ một bài chỉnh cú bốn câu, phước ấy vẫn rất nhiều.

Tú vương Hoa, trong tất cả dòng nước nguồn suối sông ngòi, biển cả là bậc nhất, Pháp Hoa cũng vậy, sâu và lớn nhất trong tất cả kinh pháp của Như Lai tuyên thuyết. Thổ sơn, hắc sơn, tiểu thiết vi, đại thiết vi, và mười bảo sơn, trong tất cả núi ấy núi Tu di là bậc nhất, Pháp Hoa cũng vậy, tối thượng trong các kinh pháp. Trong các tinh tú, nguyệt cầu sáng nhất, Pháp Hoa cũng vậy, soi sáng nhất trong ngàn vạn ức kinh pháp. Thái dương trừ được mọi thứ bóng tối, Pháp Hoa cũng vậy, trừ được mọi sự bất thiện tối tăm. Trong các quốc vương, Luân Vương là bậc nhất, Pháp Hoa cũng vậy, tối tôn trong các kinh pháp. Đế Thích là chúa trời Tam thập tam thiên, Pháp Hoa cũng vậy, là vua chúa kinh pháp. Phạn Vương là cha của hết thảy chúng sinh, Pháp Hoa cũng vậy, là cha của hết thảy hiền thánh đang tiếp tục hay đã hoàn tất trong việc tu học, của những người phát tâm bồ tát. Trong tất cả phàm phu, tu đà hoàn, tư đà hàm, a na hàm, a la hán và bích chi Phật là bậc nhất, Pháp Hoa cũng vậy, trong tất cả kinh pháp do Như Lai nói, hoặc bồ tát nói hay thanh văn nói, kinh ấy bậc nhất. Người tiếp nhận kính giữ được kinh ấy cũng là bậc nhất trong tất cả chúng sinh. Trong tất cả thanh văn duyên giác, bồ tát là bậc nhất, Pháp Hoa cũng vậy, bậc nhất trong tất cả kinh pháp. Phật là vua các pháp, Pháp Hoa cũng vậy, là vua các kinh.

Tú vương Hoa, Pháp Hoa có năng lực cứu vớt hết thảy chúng sinh, có năng lực làm cho hết thảy chúng sinh thoát ly mọi sự khổ não, có năng lực đem lại lợi ích vĩ đại cho hết thảy chúng sinh, sung mãn mọi sự nguyện ước của họ. Như khát được nước, như lạnh được lửa, như trần được áo, như kẻ đi buôn được người cầm đầu, như con được mẹ, như qua sông được thuyền bè, như bịnh nhân được y sĩ, như tối được đèn, như nghèo được ngọc, như dân được vua, như thương khách được biển cả, như tối được đuốc, Pháp Hoa cũng vậy, có năng lực làm cho chúng sinh thoát hết mọi sự khổ não, mọi thứ ốm đau, mở được những cách buộc ràng bởi sự sống chết.

Đối với Pháp Hoa, ai được nghe, được chép, được khuyên người chép, thì công đức có được, nếu đem tuệ giác của Phật tính coi nhiều ít mới thấy vô hạn. Ai chép cuốn kinh Pháp Hoa rồi hiến cúng bằng các loại hoa, vòng hoa, các loại hương liệu, bằng bảo cái có mắc tràng phan, bằng vải lụa bao phủ, bằng các thứ đèn như đèn bơ, đèn dầu, bằng các thứ đèn dầu thơm như đèn dầu chiêm bặc, đèn dầu tu man na, đèn dầu ba la la, đèn dầu ba lị si ca, đèn dầu na ba ma lị, thì được công đức cũng là vô hạn.

Tú vương Hoa, ai nghe được phẩm Việc cũ của bồ tát Dược Vương này thì cũng được công đức vô hạn. Dầu là nữ nhân mà nghe và tiếp nhận ghi nhớ được phẩm Việc cũ của bồ tát Dược Vương này, thì thân nữ nhân đời này kết thúc rồi sau đó không còn có lại thân ấy. Như Lai nhập diệt rồi, trong năm trăm năm sau, dầu là nữ nhân mà được nghe kinh Pháp Hoa, và thực hành như kinh ấy dạy, thì người ấy mệnh chung ở quốc độ này là tức khắc hóa sinh trên tòa ngọc trong hoa sen của quốc độ Cực lạc, nơi đức A di Đà Như Lai chủ ngự, với chư đại bồ tát bao quanh. Ở đó, người ấy không còn bị quấy rối vì tham dục, vì sân hận và ngu si, vì những sự dơ bẩn như kiêu ngạo, ganh ghét, mà lại được thần thông của bồ tát, được tuệ giác Không sinh. Được tuệ giác ấy nên mắt thông suốt, và với mắt ấy thấy được chư Phật bằng nhiều lần trăm triệu hằng sa. Bấy giờ chư Phật như vậy cũng từ xa mà ca tụng, rằng tốt lắm thiện nam tử, trong giáo pháp của đức Thích Ca Thế Tôn, ông tiếp nhận, ghi nhớ, đọc tụng, suy xét nghĩa lý và giảng nói cho người về kinh Pháp Hoa, nên phước đức của ông thì vô hạn lượng, lửa không đốt được, nước không trôi được. Công đức của ông thì ngàn Phật nói cũng không hết: ông đã phá tan đám giặc các ma, đánh thắng đạo quân sống chết, bao sự thù địch khác nữa cũng bị hủy diệt. Thiện nam tử, trăm ngàn Phật đà đem thần lực giữ gìn cho ông. Toàn thể thế gian, bao gồm cả nhân loại và chư thiên, không ai bằng ông. Ngoại trừ Phật đà, tuệ giác và thiền định của thanh văn, duyên giác, cho đến bồ tát, không ai hơn ông. Tú vương Hoa, vị bồ tát ấy, mà vốn là một nữ nhân, thành tựu công đức lực và tuệ giác lực đến như vậy.

Nếu ai nghe phẩm Việc cũ của bồ tát Dược Vương này mà tùy hỷ tán dương, thì người ấy hiện tại miệng thường phát ra hơi thơm hoa sen xanh, lỗ lông cả người thường toát ra hơi thơm đàn hương ngưu đầu, và thành quả người ấy đạt được là như trên đã nói.

Vì lý do này, Tú vương Hoa, Như Lai đem phẩm Việc cũ của bồ tát Dược Vương giao phó cho ông. Như Lai nhập niết bàn rồi, trong năm trăm năm sau, ông hãy truyền bá rộng rãi phẩm này trong cõi Diêm phù, đừng để mất đi. Đừng để cho ma vương độc ác, dân của ma vương ấy, hay chư thiên, long vương và dạ xoa thuộc loại bất thiện, quỉ ăn tinh chất và những kẻ cùng loại, rình được cơ hội thuận tiện.

Tú vương Hoa, ông nên đem thần lực của ông mà giữ gìn Pháp Hoa. Kinh ấy là thuốc tốt cho bịnh của người Diêm phù. Ai bịnh mà được nghe kinh ấy thì bịnh hết, không già sớm, không chết yểu. Tú vương Hoa, thấy ai tiếp nhận kính giữ Pháp Hoa thì nên đem hoa sen xanh bọc đầy bột hương thơm mà hiến cúng tung rãi trên người ấy, với ý nghĩ người ấy không bao lâu nữa chắc chắn sẽ dùng cỏ cát tường mà ngồi nơi bồ đề tràng, chiến thắng ma quân, thổi loa chánh pháp vĩ đại, gióng trống chánh pháp vĩ đại, đưa chúng sinh vượt qua mà thoát khỏi biển cả sinh già bịnh chết. Do vậy mà những người cầu tuệ giác của Phật thấy ai tiếp nhận kính giữ Pháp Hoa thì nên sinh lòng kính trọng như trên.

Khi đức Thế Tôn tuyên thuyết phẩm Việc cũ của bồ tát Dược Vương thì có tám vạn bốn ngàn bồ tát được pháp tổng trì Biết hết tiếng nói của chúng sinh. Và đức Đa Bảo Phật đà ở trong bảo tháp mà khen rằng, tốt lắm Tú vương Hoa, ông đã làm được một việc ngoài tầm nghĩ bàn: ông biết hỏi đức Thích Ca Thế Tôn về việc cũ của Dược Vương đại sĩ, ích lợi vô lượng cho hết thảy chúng sinh.

_________________

Kết thúc tụng kinh Pháp Hoa, chúng con xin hồi hướng:
Vạn ức thời kỳ
không thể nói được
mới được có lúc
Phật nói Pháp Hoa.
Vạn ức thời kỳ
không thể nói được
mới được có lúc
nghe nói Pháp Hoa.
Chúng con nương nhờ
Phật Pháp Tăng lực
mới được trì tụng
Diệu Pháp Liên Hoa.
Chúng con nguyện đem
công đức như vầy
hiến khắp tất cả
các loại chúng sinh,
cầu cho chúng con
cùng với chúng sinh
đều được thành tựu
tuệ giác chư Phật.

Kính lạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Kính lạy tất cả Pháp bảo trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni, đức Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp Hoa. Kính lạy đức Đa Bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp Hoa toàn là chân thật. Kính lạy đức Di Lạc, đức Phật đương lai, đã phát khởi kinh Pháp Hoa và tiếp dẫn những người hành trì Pháp Hoa vãng sinh Đâu suất tịnh độ. Kính lạy tất cả Phật bảo trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy bồ tát Văn Thù, vị pháp sư Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Phổ Hiền, vị khuyến phát Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Quan Âm, vị đại sĩ toàn diện. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Lược Dẫn & Cuốn 1 | Cuốn 2 | Cuốn 3 | Cuốn 4 | Cuốn 5 | Cuốn 6 | Cuốn 7 | Phẩm Phổ Hiền | Kinh Pháp Hoa Toát Yếu |



Lược Dẫn & Cuốn 1 | Cuốn 2 | Cuốn 3 | Cuốn 4 | Cuốn 5 | Cuốn 6 | Cuốn 7 | Phẩm Phổ Hiền | Kinh Pháp Hoa Toát Yếu |

[7]

KINH PHÁP HOA
(Hoa Sen Của Chánh Pháp) 
Phần CHÍNH VĂN
Tỷ kheo Thích Trí Quang dịch

 CUỐN 7

CUỐN 7
Phẩm 24:  Bồ tát Diệu Âm
Phẩm 25:  Quan Âm đại sĩ: vị Toàn diện
Phẩm 26:  Tổng trì minh chú
Phẩm 27:  Việc Cũ Của Diệu Trang Nghiêm Vương
Phẩm 28:  Sự khuyến khích của bồ tát Phổ Hiền

Ngưỡng bạch Phật Pháp Tăng vô tận tam bảo từ bi chứng minh. Đệ tử chúng con nguyện vì bản thân, vì cha mẹ bà con, vì người thân kẻ thù, vì mọi người và vì chúng sinh, trì tụng kinh đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa.

Mở đầu tụng kinh Pháp Hoa, chúng con xin kính lạy:

Kính lạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Kính lạy tất cả Pháp bảo trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni, đức Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp Hoa. Kính lạy đức Đa Bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp Hoa toàn là chân thật. Kính lạy đức Di Lạc, đức Phật đương lai, đã phát khởi kinh Pháp Hoa và tiếp dẫn những người hành trì Pháp Hoa vãng sinh Đâu suất tịnh độ. Kính lạy tất cả Phật bảo trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy bồ tát Văn Thù, vị pháp sư Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Phổ Hiền, vị khuyến phát Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Quan Âm, vị đại sĩ toàn diện. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

__________ 

Phẩm 24:  Bồ tát Diệu Âm

Lúc bấy giờ, từ nơi gò thịt nổi trên đỉnh đầu và từ nơi lông trắng giữa hai đầu mày, là hai trong ba mươi hai tướng đại trượng phu, đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng, chiếu qua những cõi Phật ở hướng đông bằng nhiều lần trăm triệu hằng sa. Qua khỏi số lượng ấy thì có một thế giới hệ tên là Tịnh quang trang nghiêm, đức Phật giáo chủ danh hiệu là Tịnh hoa Tú vương Trí Như Lai, đủ mười đức hiệu. Ngài đang thuyết pháp cho đại chúng bồ tát cung kính bao quanh và nhiều đến vô số lượng vô giới hạn.

Ánh sáng từ nơi lông trắng của đức Thế Tôn chiếu đến thế giới hệ Tịnh quang trang nghiêm. Tại đây có vị bồ tát danh hiệu Diệu Âm. Vị ấy từ lâu đã gieo trồng các gốc rễ công đức, phụng sự thân gần vô lượng trăm ngàn vạn ức đức Phật, hoàn thành đầy đủ tuệ giác rất sâu, thể hiện định Cờ đẹp, định Hoa sen chánh pháp, định Phẩm chất trong suốt, định Trò chơi chúa tể tinh tú, định Không còn vin theo, định Ấn tín tuệ giác, định Biết hết tiếng nói chúng sinh, định Quy tụ hết thảy công đức, định Trong suốt, định Thần thông dạo chơi, định Đuốc tuệ, định Chúa tể mọi sự trang nghiêm, định Áng sáng trong suốt, định Kho tàng trong suốt, định Đặc biệt, định Vòng xoay thái dương, thể hiện các định vĩ đại cùng loại như vậy, nhiều đến như trăm ngàn vạn ức hằng sa.

Khi ánh sáng của đức Thế Tôn chiếu đến thân thể của ngài Diệu Âm, thì vị bồ tát ấy liền thưa đức Tịnh hoa Tú vương Trí Như Lai, rằng bạch đức Thế Tôn, con nên qua thế giới hệ Kham nhẫn để lễ bái thân gần và hiến cúng đức Thích Ca Thế Tôn, lại gặp vị bồ tát thái tử của đức Pháp vương là ngài Văn Thù, gặp bồ tát Dược Vương, bồ tát Dũng Thí, bồ tát Tú vương Hoa, bồ tát Thượng Hạnh, bồ tát Trang nghiêm Vương, bồ tát Dược Thượng. Đức Tịnh hoa Tú vương Trí Như Lai bảo bồ tát Diệu Âm, ông chớ có khinh thị Kham nhẫn mà sinh ra ý nghĩ thế giới hệ ấy thấp kém. Thiện nam tử, thế giới hệ Kham nhẫn chỗ cao chỗ thấp chứ không bằng phẳng, đủ các thứ núi đá núi đất, và đâu đâu cũng dơ cũng xấu. Ở đó thân Phật thấp nhỏ, thân bồ tát cũng vậy. Vậy mà thân ông cao đến bốn vạn hai ngàn do tuần, còn thân Như Lai cao đến sáu trăm tám chục vạn do tuần. Thân ông mà cũng đã đẹp nhất, với ngàn vạn phước tướng, với ánh sáng tuyệt diệu. Nên ông đến Kham nhẫn thì đừng khinh thế giới hệ ấy: đừng sinh ý tưởng thấp kém đối với Phật, với bồ tát và với đất nước của thế giới hệ ấy. Bồ tát Diệu Âm thưa với đức Phật của mình, bạch đức Thế Tôn, nay con đến thế giới hệ Kham nhẫn là do sức của đức Thế Tôn – do thần thông du hóa, do công đức trang nghiêm và tuệ giác trang nghiêm của đức Thế Tôn.

Thế rồi bồ tát Diệu Âm không đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, thân không dao động mà chỉ nhập định. Do định lực này mà tại Linh sơn, cách pháp tòa của đức Thế Tôn không xa, xuất hiện tám vạn bốn ngàn hoa sen quí báu, với vàng Diêm phù đàn làm cuống, bạch ngân làm cánh, kim cương làm tua, ngọc chân thúc ca làm đài. Bồ tát Văn Thù, vị thái tử của đức Pháp vương, thấy những hoa sen ấy thì thưa, bạch đức Thế Tôn, vì lý do gì mà điềm lành như vầy hiện trước ra đây, là có mấy ngàn vạn hoa sen với vàng Diêm phù đàn làm cuống, bạch ngân làm cánh, kim cương làm tua và ngọc chân thúc ca làm đài? Đức Thế Tôn bảo ngài Văn Thù, ấy là đại bồ tát Diệu Âm muốn từ quốc độ của đức Tịnh hoa Tú vương Trí Như Lai, cùng tám vạn bốn ngàn bồ tát bao quanh, sẽ đến quốc độ Kham nhẫn này để hiến cúng thân gần và lễ bái Như Lai, lại muốn hiến cúng và nghe kinh Pháp Hoa.

Ngài Văn Thù thưa, bạch đức Thế Tôn, vị bồ tát ấy đã trồng thiện căn nào và làm công đức gì mà có thần lực vĩ đại như vầy? Vị bồ tát ấy tu tập định nào, xin đức Thế Tôn dạy cho chúng con biết tên của định này. Định này chúng con cũng muốn nỗ lực tu tập. Tu tập định này mới thấy được sắc tướng lớn nhỏ và uy nghi tới ngừng của vị bồ tát ấy. Xin đức Thế Tôn dùng thần lực làm cho vị bồ tát ấy đến đây để chúng con được thấy. Đức Thế Tôn bảo ngài Văn Thù, đức Đa Bảo Phật đà, một đức Phật nhập diệt đã lâu, sẽ làm hiện ra cho chư vị thấy sắc tướng của bồ tát Diệu Âm. Bấy giờ đức Đa Bảo Phật đà bảo bồ tát Diệu Âm, thiện nam tử, hãy đến đây; bồ tát Văn Thù, vị thái tử của đức Pháp Vương, muốn thấy thân ông.

Ngay lúc ấy, bồ tát Diệu Âm ẩn mất tại quốc độ của mình, cùng tám vạn bốn ngàn bồ tát xuất phát. Bao nhiêu quốc độ mà vị bồ tát ấy đi qua đều chấn động sáu cách, đều mưa xuống hoa sen bằng bảy chất liệu quí báu, đều có cả trăm ngàn nhạc khí chư thiên không đánh mà tự kêu lên. Vị bồ tát ấy mắt như cánh hoa sen xanh to lớn, và hợp lại cả ngàn vạn mặt trăng thì mặt vị bồ tát ấy vẫn sáng đẹp hơn. Thân vị bồ tát ấy màu sắc hoàng kim, được trang sức bởi vô lượng trăm ngàn đặc điểm, uy đức rực rỡ, ánh sáng chiếu tỏa, tướng quí đủ cả, và bền chắc như thân Na la diên. Vị bồ tát ấy ngồi trên đài bằng bảy chất liệu quí báu, thăng lên không gian cách mặt đất bảy cây đa la, với các vị bồ tát bao quanh mà đến Linh sơn của quốc độ Kham nhẫn.

Đến rồi, bồ tát Diệu Âm bước xuống khỏi đài ngọc, lấy chuỗi ngọc giá trị cả trăm cả ngàn, cầm đến chỗ đức Thích Ca Thế Tôn, đầu mặt lạy ngang chân ngài, dâng lên mà thưa, bạch đức Thế Tôn, đức Tịnh Hoa Tú vương Trí Như Lai của con xin kính vấn an đức Thế Tôn, rằng ngài ít bịnh ít phiền, sinh hoạt bình thường được thư thái không? Ngài sống yên vui không? Bốn đại chủng trong cơ thể của ngài được điều hòa không? Việc đời ở đây ngài chịu nỗãi không? Chúng sinh ở đây ngài hóa độ dễ dàng không? Ở đây có hay không có những kẻ lắm tham dục, sân hận, ngu si, ganh ghét, keo lẫn và ngạo mạn? Ở đây có hay không có những kẻ bất hiếu cha mẹ, bất kính tu sĩ, thấy biết sai lầm, tâm tính bất thiện, không chế ngự năm thứ giác quan? Bạch đức Thế Tôn, chúng sinh ở đây chiến thắng được ma quân thù địch không? Đức Đa Bảo Phật đà nhập diệt đã lâu, đã ở trong ngôi tháp bằng bảy chất liệu quí báu, có đến nghe kinh Pháp Hoa không? Đức Tịnh Hoa Tú vương Trí Như Lai của con xin kính vấn an đức Đa Bảo Phật đà có yên ổn, ít phiền, chịu đựng ở lâu được không? Bạch đức Thế Tôn, con ước nguyện được thấy thân đức Đa Bảo Phật đà, xin đức Thế Tôn làm cho con được thấy. Đức Thế Tôn nói với đức Đa Bảo, bồ tát Diệu Âm muốn được yết kiến ngài. Đức Đa Bảo nói, Diệu Âm, rất tốt việc ông đến đây để được hiến cúng đức Thích Ca Thế Tôn, được nghe kinh Pháp Hoa, và được gặp những vị như bồ tát Văn Thù.

Bấy giờ bồ tát Hoa Đức thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, bồ tát Diệu Âm trồng thiện căn nào và tu công đức gì mà có thần lực như vầy? Đức Thế Tôn bảo bồ tát Hoa Đức, quá khứ có đức Phật danh hiệu Vân Lôi Âm vương, bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp. Quốc độ của ngài tên là Hiện nhất thế thế gian, thời kỳ của ngài tên là Hỷ Kiến. Trong một vạn hai ngàn năm, bồ tát Diệu Âm diễn tấu mười vạn chủng loại nhạc khí hiến cúng đức Vân Lôi Âm vương Như Lai, lại dâng lên ngài tám vạn bốn ngàn bát ứng khí làm bằng bảy chất liệu quí báu. Do yếu tố này kết quả mà ngày nay sinh tại quốc độ của đức Tịnh Hoa Tú vương Trí Như Lai và có thần lực như vầy. Hoa Đức, ý ông nghĩ thế nào, vị bồ tát Diệu Âm hiến cúng âm nhạc và kính dâng bát ngọc nơi đức Vân Lôi Âm vương Như Lai có phải ai khác, mà chính là vị bồ tát Diệu Âm hiện thời. Hoa Đức, vị bồ tát ấy đã phụng sự thân gần vô lượng chư Phật, đã gieo trồng từ lâu bao nhiêu gốc rễ công đức ở nơi chư Phật ấy. Sau đó, vị bồ tát ấy cũng đã gặp thêm nhiều lần trăm triệu chư Phật nữa, đồng đẳng với số cát của sông Hằng.

Hoa Đức, ông chỉ thấy bồ tát Diệu Âm qua cái thân ở đây, nhưng vị bồ tát ấy biểu hiện đủ loại thân hình, ở khắp mọi nơi và giảng nói Pháp Hoa cho các loại chúng sinh. Hoặc biểu hiện thân Phạn vương, thân Đế thích, thân Tự tại, thân Đại tự tại, thân Thiên đại tướng quân, thân Tỳ sa môn thiên vương, hoặc biểu hiện thân Luân vương, thân quốc vương, thân trưởng giả, thân cư sĩ, thân tể quan, thân bà la môn, hoặc biểu hiện thân tỷ kheo, thân tỷ kheo ni, thân ưu bà tắc, thân ưu bà di, hoặc biểu hiện thân phụ nữ trưởng giả, thân phụ nữ cư sĩ, thân phụ nữ tể quan, thân phụ nữ bà la môn, hoặc biểu hiện thân đồng nam, thân đồng nữ, hoặc biểu hiện các thân thiên, long, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la và ma hầu la dà, những người không phải người—bồ tát Diệu Âm biểu hiện các thân hình như vậy mà giảng nói Pháp Hoa. Những chỗ địa ngục ngạ quỉ súc sinh và những nơi tai nạn, vị bồ tát ấy cứu giúp được cả. Thậm chí vị bồ tát ấy còn biểu hiện thân hình nữ nhân ở trong hậu cung của các vua chúa mà giảng nói Pháp Hoa.

Hoa Đức, bồ tát Diệu Âm là vị có năng lực cứu giúp cho các loại chúng sinh ở quốc độ Kham nhẫn. Vị bồ tát ấy biến thể các loại thân hình như trên, ở trong quốc độ Kham nhẫn mà giảng nói Pháp Hoa cho các loại chúng sinh, nhưng thần thông và tuệ giác của vị bồ tát ấy không vì vậy mà giảm bớt chút nào. Vị bồ tát ấy đem bao nhiêu là tuệ giác mà soi sáng cho quốc độ Kham nhẫn, làm cho các loại chúng sinh ở đây ai cũng được biết đến vị bồ tát ấy. Đối với chúng sinh trong hằng sa quốc độ khắp cả mười phương, vị bồ tát ấy cũng làm như vậy. Do vậy, những ai nên dùng thân hình thanh văn mới được độ thoát thì vị bồ tát ấy biểu hiện thân hình này mà thuyết pháp, những ai nên dùng thân hình duyên giác mới được độ thoát thì vị bồ tát ấy biểu hiện thân hình này mà thuyết pháp, những ai nên dùng thân hình bồ tát mới được độ thoát thì vị bồ tát ấy biểu hiện thân hình này mà thuyết pháp, những ai nên dùng thân hình Phật đà mới được độ thoát thì vị bồ tát ấy biểu hiện thân hình này mà thuyết pháp. Cứ như vậy, đủ các chủng loại, vị bồ tát ấy tùy kẻ nào nên dùng thân gì để hóa độ thì biểu hiện thân ấy cho họ. Đến nỗi có kẻ nên dùng sự nhập diệt mới được độ thoát, thì vi bồ tát ấy cũng biểu hiện nhập diệt. Hoa Đức, bồ tát Diệu Âm thành tựu đại thần thông lực và đại tuệ giác lực như thế đó.

Bồ tát Hoa Đức thưa, như vậy là bồ tát Diệu Âm đã gieo trồng rất sâu gốc rễ pháp lành; vị bồ tát ấy ở trong định nào mà ở đâu cũng có năng lực biểu hiện thân hình để hóa độ chúng sinh như vậy? Đức Thế Tôn dạy bồ tát Hoa Đức, thiện nam tử, định của bồ tát Diệu Âm tên là Hiện các sắc thân. Vị bồ tát ấy ở trong định này nên lợi ích được như vậy cho vô lượng chúng sinh.

Khi đức Thế Tôn tuyên thuyết phẩm Bồ tát Diệu Âm này ngang đây thì tám vạn bốn ngàn bồ tát cùng đi với bồ tát Diệu Âm đều thực hiện định Hiện các sắc thân, vô lượng bồ tát ở thế giới hệ Kham nhẫn cũng thực hiện định này, lại còn thực hiện các pháp tổng trì.

Bồ tát Diệu Âm hiến cúng đức Thế Tôn và bảo tháp của đức Đa Bảo rồi trở về thế giới hệ của mình. Những thế giới hệ mà vị bồ tát ấy đi qua lại chấn động sáu cách, lại rưới xuống hoa sen quí báu, lại diễn tấu trăm ngàn vạn ức chủng loại nhạc khí. Về đến thế giới hệ của mình, bồ tát Diệu Âm, với tám vạn bốn ngàn bồ tát bao quanh, đến chỗ đức Tịnh Hoa Tú vương Trí Như Lai mà thưa, bạch đức Thế Tôn, con đến thế giới hệ Kham nhẫn làm lợi ích cho chúng sinh, bằng cách yết kiến lễ bái và hiến cúng đức Thích Ca Thế Tôn và bảo tháp của đức Đa Bảo Phật đà, lại gặp vị bồ tát thái tử của đức Pháp vương là ngài Văn Thù, gặp bồ tát Dược Vương, bồ tát Đắc Cần Tinh tiến Lực, bồ tát Dũng Thí, và các vị đồng đẳng; con cũng làm cho tám vạn bốn ngàn vị bồ tát đi theo con đây được định Hiện các sắc thân.

Khi đức Thế Tôn tuyên thuyết hoàn tất phẩm Bồ tát Diệu Âm đến và đi thì bốn vạn hai ngàn thiên nhân được tuệ giác Không sinh, bồ tát Hoa Đức được định Pháp Hoa.

Phẩm 25:
Quan Âm đại sĩ: vị Toàn diện

Vào lúc bấy giờ, bồ tát Vô tận Ý đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, trần vai bên phải, chắp tay hướng về đức Thế Tôn mà thưa, bạch đức Thế Tôn, Quan Âm đại sĩ vì lý do gì mà danh hiệu là Quan Thế Âm?

Đức Thế Tôn dạy bồ tát Vô tận Ý, thiện nam tử, vô số chúng sinh bị mọi sự đau khổ, nghe nói đến Quan Âm đại sĩ mà một lòng trì niệm danh hiệu của ngài, thì đại sĩ tức khắc nghe thấy âm thanh ấy và họ được thoát cả.

Trì niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ thì vào lửa dữ, lửa ấy không đốt được, và đó là do thần lực của vị đại sĩ này. Nếu bị nước lớn trôi cuốn mà trì niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ, thì tức khắc được chỗ nước cạn. Trăm ngàn vạn ức người, vì kiếm bạc, vàng, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, chân châu, và những thứ quí báu cùng loại, nên ra biển cả; giả sử bị trận gió dữ làm u ám mặt biển và bầu trời, thổi bạt thuyền tàu sa vào đảo quốc la sát, trong những người ấy đến nỗi chỉ có một kẻ trì niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ, những người ấy cũng vẫn thoát được cái họa la sát. Vì những lý do như vậy mà vị đại sĩ này danh hiệu là Quan Thế Âm.

Người nào sắp bị hành hình mà trì niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ, thì dao gậy trong tay đao phủ tức khắc gãy ra từng đoạn và người ấy thoát được. Giả sử đầy cả đại thiên thế giới là dạ xoa, la sát, muốn đến hại người nào mà nghe người ấy trì niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ, thì những quỉ dữ này không thể nhìn người ấy bằng mắt dữ, huống chi làm hại. Bất cứ có tội không tội, người nào bị gông cùm xích buộc mà trì niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ, thì những hình cụ ấy đứt và hỏng cả, và người này tức thì thoát được. Giả sử đầy cả đại thiên thế giới là giặc cướp, có người cầm đầu một đoàn người đi buôn, mang cầm vàng ngọc quí giá mà đi qua con đường nguy hiểm; trong đoàn ấy có kẻ nói, các thiện nam tử, đừng sợ, chúng ta nên hết lòng mà trì niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ. Vị đại sĩ này có thể ban cho mọi người sự không sợ hãi; chúng ta trì niệm danh hiệu đại sĩ thì sẽ thoát được giặc cướp trên con đường này. Đoàn người đi buôn nghe nói thì đồng thanh mà niệm nam mô Quan thế Âm bồ tát. Nhờ sự trì niệm danh hiệu đại sĩ mà tức khắc thoát được. Vô tận Ý, thần lực Quan Âm đại sĩ đồ sộ đến như thế ấy.

Ai có tính đa dâm mà thường xuyên trì niệm tôn kính Quan Âm đại sĩ thì thoát được tính ấy. Ai có tính đa sân mà thường xuyên trì niệm tôn kính Quan Âm đại sĩ thì thoát được tính ấy. Ai có tính đa si mà thường xuyên trì niệm tôn kính Quan Âm đại sĩ thì thoát được tính ấy. Vô tận Ý, Quan Âm đại sĩ có thần lực vĩ đại, ích lợi rất nhiều như vậy. Do vậy mà mọi người nên thường xuyên tâm niệm đại sĩ.

Nữ nhân nào muốn cầu con trai mà lễ bái hiến cúng Quan Âm đại sĩ, thì sinh được con trai vừa có phước đức vừa có trí tuệ. Nữ nhân nào muốn cầu con gái mà lễ bái hiến cúng Quan Âm đại sĩ, thì sinh được con gái đoan chính, đẹp, có gốc rễ phước đức gieo trồng trong đời trước, và được mọi người mến trọng. Vô tận Ý, Quan Âm đại sĩ có thần lực như vậy, ai tôn kính lễ bái thì được phước chứ không phải vô hiệu quả.

Vì lý do này mà mọi người nên trì niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ. Vô tận Ý, ai trì niệm danh hiệu liệt vị bồ tát nhiều bằng hằng sa, và suốt đời hiến cúng đồ ăn đồ uống đồ mặc đồ nằm và dược phẩm, thì ý ông nghĩ thế nào, thiện nam hay thiện nữ ấy được phước nhiều không? Rất nhiều, bạch đức Thế Tôn. Bồ tát Vô tận Ý thưa như vậy, và đức Thế Tôn lại nói, ai trì niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ, và đến nỗi chỉ lễ bái hiến cúng được một thì gian mà thôi, phước người này với phước người trước chính xác đồng đẳng, không khác gì nhau, và hưởng thụ đến trăm ngàn vạn ức thời kỳ cũng vẫn không thể cùng tận. Vô tận Ý, trì niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ được phước không có số lượng và không có giới hạn như vậy.

Bồ tát Vô tận Ý lại thưa, bạch đức Thế Tôn, Quan Âm đại sĩ du hóa thế giới hệ Kham nhẫn này như thế nào? Đại sĩ thuyết pháp như thế nào cho chúng sinh? Phương cách thích nghi của đại sĩ là như thế nào?

Đức Thế Tôn dạy bồ tát Vô tận Ý, thiện nam tử, người ở thế giới nào nên hóa độ bằng thân hình Phật đà thì Quan Âm đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình Duyên giác thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình Thanh văn thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp. Người nào nên hóa độ bằng thân hình Phạn vương thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình Đế thích thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình Tự tại thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình Đại tự tại, thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình Thiên đại tướng quân thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình Tỳ sa môn thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp. Người nào nên hóa độ bằng thân hình quốc chúa thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình trưởng giả thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình cư sĩ thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình tể quan thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình bà la môn thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp. Những người nên hóa độ bằng thân hình tỷ kheo và tỷ kheo ni, ưu bà tắc và ưu bà di, thì đại sĩ biến thể những thân hình ấy mà thuyết pháp. Những người nên hóa độ bằng thân hình phụ nữ của trưởng giả, cư sĩ, tể quan và bà la môn, thì đại sĩ biến thể những thân hình phụ nữ ấy mà thuyết pháp. Những người nên hóa độ bằng những thân hình đồng nam và đồng nữ, thì đại sĩ biến thể những thân hình ấy mà thuyết pháp. Những ai nên hóa độ bằng những thân hình tám bộ thì đại sĩ biến thể những thân hình ấy mà thuyết pháp. Ai nên hóa độ bằng thân hình thần Chấp kim cang thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp.

Vô tận Ý, Quan Âm đại sĩ hoàn hảo năng lực như vậy: dùng mọi thân hình vào mọi thế giới mà hóa độ cho chúng sinh. Do vậy mà chư vị nên hết lòng hiến cúng Quan Âm đại sĩ. Trong nỗi kinh hoàng, trong cơn nguy cấp, trong sự hoạn nạn, Quan Âm đại sĩ có thể cho người sự không sợ hãi, nên thế giới hệ Kham nhẫn này ai cũng tôn xưng là Người cho sự không sợ.

Bồ tát Vô tận Ý liền thưa, bạch đức Thế Tôn, nay con xin hiến cúng Quan Âm đại sĩ. Thưa rồi, vị bồ tát này cởi ngay xâu chuổi đủ thứ ngọc quí đang mang nơi cổ, giá trị trăm ngàn lạng vàng, hiến lên Quan Âm đại sĩ mà thưa, bạch đại sĩ, xin đại sĩ nhận cho một cách hiến cúng theo chánh pháp bằng xâu chuỗi ngọc quí giá này. Nhưng Quan Âm đại sĩ không nhận. Bồ tát Vô tận Ý lại thưa, bạch đại sĩ, xin đại sĩ thương tôi và thương chúng sinh mà nhận cho. Lúc ấy đức Thế Tôn dạy Quan Âm đại sĩ, hãy thương bồ tát Vô tận Ý, thương bốn chúng tám bộ mà nhận xâu chuỗi ngọc ấy. Quan Âm đại sĩ tức khắc thương mà nhận, và phân xâu chuỗi ngọc ấy làm hai phần, một phần hiến cúng đức Thế Tôn, một phần hiến cúng bảo tháp của đức Đa Bảo.

Đức Thế Tôn nói, Vô tận Ý, Quan Âm đại sĩ với thần lực tự tại như vậy mà du hóa thế giới hệ này.

Bấy giờ bồ tát Vô tận Ý lại thưa hỏi đức Thế Tôn bằng lời chỉnh cú sau đây.

(1) Bạch đức Thế Tôn,
đấng đầy tướng quí!
cho con hỏi lại:
vị con Phật này
vì lý do gì
tên Quan thế Âm?

(2) Vào lúc bấy giờ
đấng đầy tướng quí
cũng dùng chỉnh cú
đáp lại như sau.

(3) Này Vô tận Ý,
hãy nghe cho khéo.
Việc làm Quan Âm
là khéo đáp ứng
hết thảy mọi người
ở khắp mọi nơi,
với sự thệ nguyện
sâu rộng như biển –
một sự thệ nguyện
cực kỳ hùng vĩ,
vô cùng trong sáng,
và được đại sĩ
đã từng phát ra,
trong khi trải qua
vô số thời kỳ
không thể nghĩ bàn
phụng sự rất nhiều
vạn ức đức Phật.

(4) Nay đây Như Lai
chỉ nói vắn tắt.
Ai nghe danh hiệu
hoặc thấy hình tượng
Quan Âm đại sĩ,
chuyên tâm trì niệm
chứ không bỏ qua,
thì hết đau khổ
ở trong những nơi
còn có đau khổ.

(5) Bị kẻ ác ý
xô xuống hố lửa,
năng lực trì niệm
Quan Âm đại sĩ
làm tắt hố lửa
như bị nước tưới.

(6) Trôi nổi biển cả
rồng, cá, quái vật,
năng lực trì niệm
Quan Âm đại sĩ
làm cho sóng nước
không thể nhận chìm.

(7) Trên đỉnh Tu di
bị xô rơi xuống,
năng lực trì niệm
Quan Âm đại sĩ
làm như mặt trời
đứng trong không gian.

(8) Kẻ ác đuổi rơi
chân núi đá cứng,
năng lực trì niệm
Quan Âm đại sĩ
làm không thương tổn
đến một mảy lông.

(9) Giặc thù bao vây
cầm đao muốn hại,
năng lực trì niệm
Quan Âm đại sĩ
làm giặc thù ấy
sinh ra hiền lành.

(10) Bị họa vua chúa
sắp bị hành hình,
năng lực trì niệm
Quan Âm đại sĩ
làm gươm đao phủ
gãy liền từng đoạn.

(11) Giam cầm gông xích
tay còng chân cùm,
năng lực trì niệm
Quan Âm đại sĩ
làm cho rời ra
mà thoát được liền.

(12) Trù, ếm, thuốc độc
muốn gây tai họa,
năng lực trì niệm
Quan Âm đại sĩ
làm cho về lại
nơi kẻ gây ra.

(13) Nếu bị la sát
rồng độc, quỉ dữ,
năng lực trì niệm
Quan Âm đại sĩ
làm chúng tức thì
không dám làm hại.

(14) Thú dữ bao vây
nanh vuốt ghê rợn,
năng lực trì niệm
Quan Âm đại sĩ
làm chúng mau lẹ
tháo chạy mất hút.

(15) Rắn rít tiết phun
hơi độc như khói,
năng lực trì niệm
Quan Âm đại sĩ
làm chúng tự đi
liền theo tiếng niệm.

(16) Giông tố sấm sét
mưa đá mưa lớn,
năng lực trì niệm
Quan Âm đại sĩ
làm cho tiêu tan
liền theo tiếng niệm.

(17) Chúng sinh khốn đốn
vì bao đau khổ,
cái nhìn tuệ giác
của Quan thế Âm
đầy cả năng lực
cứu khổ cho đời.

(18) Quan Âm đại sĩ
đầy thần thông lực
đầy tuệ giác lực
đầy phương tiện lực,
cho nên khắp cả
mười phương thế giới
không đâu mà không
biến thể xuất hiện.

(19) Chỗ dữ địa ngục
ngạ quỉ súc sinh,
cho đến khổ lớn
sinh già bịnh chết,
đại sĩ làm cho
dần dần hết sạch.

(20) Nhìn đúng sự thật,
nhìn thật trong suốt,
nhìn với tuệ giác
vô cùng vĩ đại,
nhìn bằng đại bi,
nhìn theo đại từ,
nên hãy thường xuyên
nguyện cầu chiêm ngưỡng.

(21) Là thể trong suốt
sáng không tỳ vết,
là vầng tuệ nhật
phá tan hắc ám,
là lửa rực sáng
xua tan tai nạn,
ngài trải hào quang
khắp cả trần gian.

(22) Bản thể đại bi
như sấm thức tỉnh,
ý thức đại từ
như mây dồn lớn,
đại sĩ mưa xuống
nước Pháp cam lộ
rưới tắt lửa dữ
của bao phiền não.

(23) Đối chất cửa quan,
kinh hoàng chiến trận,
năng lực trì niệm
Quan Âm đại sĩ
làm cho giặc thù
lui bước tan rã.

(24) Tiếng cực tinh tế,
tiếng nhìn vào đời,
tiếng giống Phạn thiên,
tiếng như hải triều,
tiếng hơn tất cả
cung bậc trong đời,
nên hãy thường xuyên
chuyên tâm trì niệm.

(25) Hãy niệm liên tục,
đừng có hoài nghi;
trong cơn đau khổ,
chết chóc, nguy khốn,
Quan Âm đại sĩ
vị Thanh Tịnh ấy
là nơi nương tựa
cho bao chúng sinh.

(26) Là bậc trọn vẹn
phẩm chất hoàn hảo,
là mắt từ bi
nhìn xuống chúng sinh,
là biển dồn lại
vô lượng phước đức,
vị đại sĩ ấy
đáng kính đáng lạy.

Bấy giờ bồ tát Trì Địa liền đứng dậy từ chỗ mình ngồi, bước tới trước đức Thế Tôn mà thưa, bạch đức Thế Tôn, người nào được nghe phẩm nói về Quan Âm đại sĩ—về đấng diệu dụng tự tại và thần lực biến thể một cách toàn diện, thì biết công đức người ấy đã có không ít.

Khi đức Thế Tôn tuyên thuyết phẩm nói về vị Toàn diện này, trong các chúng có tám vạn bốn ngàn người cùng phát tâm tuệ giác vô thượng là tâm tuyệt bậc mà đồng bậc.

Phẩm 26:
Tổng trì minh chú

Lúc ấy bồ tát Dược Vương đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, trần vai bên phải, chắp tay hướng về đức Thế Tôn mà thưa, bạch đức Thế Tôn, thiện nam hay thiện nữ nào đối với Pháp Hoa mà biết tiếp nhận ghi nhớ, đọc tụng thông suốt hay sao chép ấn hành, thì được bao nhiêu phước? Đức Thế Tôn dạy, Dược Vương, thiện nam hay thiện nữ nào hiến cúng chư Phật nhiều bằng nhiều lần trăm triệu hằng sa, thì ý đại sĩ nghĩ thế nào, phước người này được nhiều không? Rất nhiều, bạch đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn nói, thiện nam hay thiện nữ nào đối với Pháp Hoa mà đến nỗi chỉ tiếp nhận ghi nhớ được một bài chỉnh cú bốn câu, nhưng có thể đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, lý giải ý nghĩa và làm đúng kinh dạy, thì công đức cũng rất nhiều. Bồ tát Dược Vương thưa, bạch đức Thế Tôn, con xin cho người diễn giảng Pháp Hoa một bài tổng trì minh chú để hộ trì người ấy. Bồ tát Dược Vương liền nói tổng trì minh chú:

An nhĩ – man nhĩ – ma nễ – ma ma nễ – chỉ lệ – dà lê đệ – xa mế – xa lý đa vĩ – chiên đế – mục đế – mục đa lý – sa lý – a vĩ sa lý – tang lý sa lý – xoa duệ – a xoa duệ – a kỳ nị – chiên đế – xa lý – đà la ni – a lô dà bà sa – pha dá tỳ xoa nị – nễ tỳ thế – a tiện đa la nễ lý thế – a đàn đa ba lê du địa – âu cứu lệ – mâu cứu lệ – a la lệ – ba la lệ – thủ ca si – a tam ma tam lý – phật đà tỳ cát lợi diệt đế – đạt ma ba lỵ si đế – tăng dà niết cù sa nễ – bà xá bà xá du địa – mạn đa la – mạn đa la xoa dạ đa – bưu lâu đa – bưu lâu đa kiêu xá lược – ác xoa la – ác xoa dã đa dã – a bà lô – a ma nhã na đa dạ. (Dịch âm từ Phạn văn: A ni dê, ma ni dê, ma nê, ma ma nê, chít tê, cha ri tê, sa mê, sa mi ta, vi săn tê, mút tê, mút ta ta mê, sa mê, a vi sa mê, sa ma sa mê, sa dê, át sa dê, át si nê, săn tê, sa mi tê, đa ra ni, a lô ka ba sê, pra ti da vết sa ni, ni đi ru, a bi dăn ta ra ni vít tê, a bi dăn ta ra pa ri su đi, mút ku lê, mút ku lê, a ra đê, pa ra đê, su kăn si, a săm ma săm mê, bu đa vi lô ki tê, đam ma pa ri si tê, sam ga nia gô sa ni, ba da ba da vi sô đa ni, man trê, man tra sa da tê, ru tê, ru ta kao sa li dê, át sa dê, át sa da va na ta dê, va lô đa, a ma ni da na ta dê, soa ha).

Bạch đức Thế Tôn, tổng trì minh chú này đã được hằng sa chư Phật tuyên thuyết. Ai xúc phạm người diễn giảng Pháp Hoa là xúc phạm chư Phật như vậy. Đức Thế Tôn tán dương, rằng tốt lắm Dược Vương, đại sĩ thương tưởng và hộ trì người diễn giảng Pháp Hoa mà tuyên thuyết tổng trì minh chú như vậy là ích lợi rất nhiều cho chúng sinh.

Bồ tát Dũng Thí cũng thưa, bạch đức Thế Tôn, con cũng xin hộ trì cho người đọc tụng, hơn nữa nhận giữ Pháp Hoa, mà nói một bài tổng trì minh chú. Người ấy được tổng trì minh chú này thì dẫu quỉ ăn thịt người, quỉ bạo ác, quỉ xú uế, quỉ thây chết, quỉ ăn tinh chất, quỉ đói khát, và những kẻ cùng loại, muốn dò xét tìm kiếm nhược điểm của người ấy cũng không thể có được cơ hội thuận tiện. Bồ tát Dũng Thí liền đối trước đức Thế Tôn mà nói tổng trì minh chú ấy:

Thoa lệ – ma ha thoa lệ – úc chỉ – mục chỉ – a lệ – a la bà đệ – niết lệ đệ – niết lệ đa bà đệ – y trí ni – vi trí ni – chỉ trí ni – niết lệ trì ni -niết lệ trì bà để. (Dịch âm từ Phạn văn: Ji va lê, ma ha ji va lê, út kê, mấc kê, a đê, a đa va ti, nờ ri ti dê, nờ ri ti da va ti, ít ti ni, vít ti ni, chít ti ni, nờ ri ti da ni, nờ ri ti da va ti, soa ha).

Bạch đức Thế Tôn, tổng trì minh chú này được hằng sa chư Phật tuyên thuyết và tùy hỷ. Ai xúc phạm người diễn giảng Pháp Hoa là xúc phạm chư Phật như vậy.

Bấy giờ Tỳ Sa Môn Thiên Vương, người hộ vệ thế gian, cũng thưa, bạch đức Thế Tôn, con cũng vì thương tưởng chúng sinh và hộ trì người diễn giảng Pháp Hoa mà xin nói một bài tổng trì minh chú. Tỳ Sa Môn Thiên Vương liền nói tổng trì minh chú ấy:

A lê – na lê – nâu na lê – a na lô – na lý – câu na lý. (Dịch âm từ Phạn văn: Át tê, nát tê, va nát tê, a na đê, na đi, ku ma đi, soa ha).

Bạch đức Thế Tôn, không những con đem tổng trì minh chú này hộ trì cho người diễn giảng Pháp Hoa, mà chính bản thân con cũng hộ trì cho người ấy, làm cho người ấy ở đâu thì trong chu vi một trăm do tuần không có mọi sự suy biến, tai họa.

Trì Quốc Thiên Vương cũng hiện diện trong đại hội. Với chúng càn thát bà nhiều đến nhiều lần trăm triệu cung kính vây quanh, vị Thiên Vương ấy bước tới chỗ đức Thế Tôn, chắp tay mà thưa, bạch đức Thế Tôn, con cũng xin đem một bài tổng trì minh chú mà hộ trì cho người kính giữ Pháp Hoa. Trì Quốc Thiên Vương liền nói tổng trì minh chú ấy:

A dà nễ – dà nễ – cù lỵ – càn đà lỵ – chiên đà lỵ – ma đăng kỳ – thường cầu lỵ – phù lâu sa ni – ác để. (Dịch âm từ Phạn văn: A ga nê, ga nê, gao ri, găn đa ri, chăn đa li, ma tăn ghi, pút ka si, sam ku lê, vờ ru sa li, si si, soa ha).

Bạch đức Thế Tôn, Tổng trì Minh chú này được nhiều ức đức Phật nói ra. Ai xúc phạm người diễn giảng Pháp Hoa là xúc phạm các đức Phật như vậy.

Bấy giờ có những La sát nữ tên là Kết Buộc, Không Kết Buộc, Răng Cong, Răng Đẹp, Răng Đen, Nhiều Tóc, Không Chán, Cầm Vòng Hoa, Chỗ Nào, Đoạt Tinh Chất, mười La sát nữ ấy hợp cùng mẹ của năm trăm quỷ tử, và con với thuộc hạ của họ, đến chỗ đức Thế Tôn, đồng thanh thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, chúng con cũng nguyện hộ trì cho người đọc tụng, hơn nữa nhận giữ Pháp Hoa, loại trừ suy biến và bệnh hoạn cho người này. Kẻ nào dò xét tìm kiếm nhược điểm của người này thì chúng con làm cho họ không có được cơ hội thuận tiện. Đối trước đức Thế Tôn, những La sát nữ nói Tổng trì Minh chú sau đây:

Y đề lý – y đề dẫn – y đề lý – a đề lý – y đề lý – nê lý – nê lý – nê lý – nê lý – nê lý – lâu hê – lâu hê – lâu hê – lâu hê – lâu hê – đa hê – đa hê – đa hê – đâu hê – nâu hê. (Dịch âm từ Phạn văn: I ti mê, i ti mê, i ti mê, i ti mê, i ti mê; ni mê, ni mê, ni mê, ni mê, ni mê; ru hê, ru hê, ru hê, ru hê, ru hê; sờ tu hê, sờ tu hê, sờ tu hê, sờ tu hê, sờ tu hê, soa ha).

Thà là ngồi lên trên đầu chúng con, chứ không được quấy phá người diễn giảng Pháp Hoa! Quỷ ăn thịt người, quỷ bạo ác, quỷ đói khát, quỷ xú uế, quỷ thây chết, kẻ dùng chú tạo ra quỷ thây chết, kẻ dùng chú luyện ra sự bay trong không, quỷ gây điên, quỷ gây động kinh, quỷ thây chết của quỷ ăn thịt người tạo ra, quỷ thây chết của loài người tạo ra, quỷ gây sốt cách nhật một ngày cho đến bảy ngày, quỷ gây sốt thường xuyên, quỷ biến hình nam, quỷ biến hình nữ, quỷ biến hình đồng nam, quỷ biến hình đồng nữ, tất cả quỷ quái trên đây, cho đến trong mộng cũng không được quấy phá người diễn giảng Pháp Hoa! Đối trước đức Thế Tôn, những La sát nữ lại thưa những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Nếu không thuận theo
Minh chú chúng con,
quấy phá đến người
diễn giảng Pháp Hoa,
thì đầu kẻ này
phải vỡ làm bảy,
rã rời tựa như
nhánh cây A Lê!

(2-4) Như hại cha mẹ,
như sự ép dầu,
như cân và đo
gian dối lừa người,
và như Điều Đạt
phá hoại chư Tăng,
những kẻ xúc phạm
người giảng Pháp Hoa
cũng sẽ bị họa
như những tội ấy.

Những La sát nữ nói những lời chỉnh cú ấy rồi lại thưa, bạch đức Thế Tôn, chúng con cũng đích thân hộ trì cho người nhận giữ Pháp Hoa bằng cách đọc tụng và tu hành theo kinh ấy, làm cho người này yên vui, khỏi bị suy biến, bịnh hoạn, thuốc độc.

Đức Thế Tôn dạy, tốt lắm các La sát nữ, các người hộ trì cho người chỉ tiếp nhận ghi nhớ danh hiệu kinh Pháp Hoa mà phước đã không lường được, huống chi hộ trì cho người tiếp nhận ghi nhớ kinh ấy một cách đầy đủ, lại còn hiến cúng cuốn kinh ấy bằng các loại hoa, vòng hoa, các loại hương liệu, bằng tràng phan, bảo cái, bằng kịch nhạc, bằng các thứ đèn như đèn bơ, đèn dầu, bằng các thứ đèn dầu thơm như đèn dầu hoa Tô ma na, đèn dầu hoa Chiêm bặc, đèn dầu hoa Ba si ca, đèn dầu hoa Ưu bát la, bằng hàng trăm hàng ngàn những thứ cùng loại. Chỗ nào, các người và thuộc hạ các người nên hộ trì cho người tiếp nhận ghi nhớ Pháp Hoa như vậy.

Khi phẩm Tổng trì Minh chú như thế này được tuyên thuyết thì có sáu vạn tám ngàn người thực hiện tuệ giác Không sinh.

Phẩm 27:
Việc Cũ Của Diệu Trang Nghiêm Vương

Khi ấy đức Thế Tôn bảo cả Đại hội các chúng, xưa, cách nay hơn vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn thời kỳ vô số, có đức Phật danh hiệu là Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp. Quốc độ của ngài tên Quang Minh Trang Nghiêm, thời kỳ của ngài tên Hỷ Kiến. Trong giáo pháp của ngài có quốc vương tên Diệu Trang Nghiêm, vương hậu tên Tịnh Đức, có hai vương tử, thứ nhất tên Tịnh Tạng, thứ hai tên Tịnh Nhãn. Hai vương tử có đại thần lực, đại phước đức và đại tuệ giác, và từ lâu đi theo đường đi của Bồ tát như Bố thí Ba la mật, Trì giới Ba la mật, Nhẫn nhục Ba la mật, Tinh tiến Ba la mật, Thiền định Ba la mật, Bát nhã Ba la mật, Phương tiện Ba la mật, như từ bi hỷ xả, cho đến ba mươi bảy thành phần hỗ trợ tuệ giác cũng thấu suốt tất cả. Hai vương còn được các định của Bồ tát như định Trong suốt, định Thái dương tinh tú, định Ánh sáng trong suốt, định Sắc tướng trong suốt, định Soi sáng trong suốt, định Trang sức lâu dài, định Kho tàng uy đức vĩ đại, đối với các định như vậy hai vương tử cũng thấu suốt toàn thể.

Thời ấy, đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai muốn dắt dẫn Diệu Trang Nghiêm Vương và thương tưởng chúng sinh, nên cũng đã tuyên thuyết Pháp Hoa. Sự thể như vầy. Hai vương đến chỗ của mẹ, chắp tay mà thưa, xin mẹ đi đến chỗ đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai. Chúng con xin đi theo hầu mẹ để được thân gần hiến cúng và lễ bái ngài. Ngài đang tuyên thuyết Pháp Hoa ở giữa tất cả chúng nhân loại và chư thiên. Chúng ta nên đến lắng nghe và tiếp nhận. Vương hậu bảo hai vương tử, vương phụ các con tin chịu kiến thức ngoài chánh pháp, vướng sâu vào học thuyết Bà La Môn. Các con nên đến thưa với ngài cùng đi. Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn chắp tay thưa mẹ, chúng con là con đấng pháp vương, vậy mà sinh vào gia đình kiến thức sai lầm! Vương hậu bảo, các con nên lo nghĩ cho cha các con mà biểu hiện thần biến. Thấy được thần biến thì tâm trí vương phụ các con chắc chắn trong sạch và có thể chấp nhận cho chúng ta đi đến chỗ Phật. Hai vương tử nghĩ đến vương phụ nên vọt lên không gian với độ cao bảy cây Đa la, biểu hiện các thần biến. Ở trong không gian mà đi đứng nằm ngồi. Trên mình ra nước thì dưới mình ra lửa, dưới mình ra nước thì trên mình ra lửa. Mình lớn ra đầy không gian rồi nhỏ lại, nhỏ lại rồi lớn ra. Thoáng mất trong không gian thì đã ở trên mặt đất. Vào đất như vào nước, đi trên nước như đi trên đất. Hai vương tử biểu hiện nhiều thần biến cùng loại như vậy, cốt làm cho tâm trí vương phụ tin hiểu một cách trong sáng.

Diệu Trang Nghiêm Vương thấy thần biến của hai con đến như thế ấy thì lòng rất hoan hỷ, được sự chưa từng có, nên chắp tay, hướng lên hai vương tử mà hỏi, vị nào là bổn sư của các con, các con là đệ tử của vị nào? Hai vương tử thưa, khải tấu vương phụ, đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai hiện đang ngồi trên pháp tòa dưới cây Bồ đề bằng bảy chất liệu quý báu, ở giữa các chúng thế giới mà chư thiên nhân loại có trong đó, tuyên thuyết phong phú về kinh Pháp Hoa, ngài là bổn sư của chúng con, chúng con là đệ tử của ngài. Diệu Trang Nghiêm Vương nói với các con, cha cũng muốn yết kiến bổn sư của các con. Chúng ta nên cùng đi.

Hai vương tử liền từ trong không gian mà hạ xuống, trở lại chỗ mẹ, chắp tay mà thưa, vương phụ nay đã có sự tin hiểu đủ khả năng phát tâm tuệ giác vô thượng. Chúng con đã làm việc Phật làm cho cha chúng con. Xin mẹ chấp nhận cho chúng con được xuất gia tu tập nơi đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai. Hai vương tử dùng lời chỉnh cú mà thưa lại về ý nguyện của mình:

(1) Xin mẹ buông thả
để cho chúng con
thoát ly gia đình
mà làm Sa môn.
Phật đà là đấng
cực kỳ khó gặp,
chúng con ước nguyện
theo ngài tu học.

(2) Như hoa Ưu đàm
lâu lắm mới có,
gặp được Phật đà
còn khó hơn nữa,
cơ hội thuận tiện
cũng rất khó có;
xin mẹ cho phép
chúng con xuất gia.

Vương hậu Tịnh Đức nói liền, mẹ cho các con xuất gia, vì lẽ Phật đà rất khó gặp được. Hai vương tử tâu với cha mẹ, lành thay phụ hoàng mẫu hậu, xin cha mẹ đi liền đến chỗ đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai để thân gần hiến cúng. Bởi vì Phật thì khó gặp như hoa Ưu đàm hiếm có; lại hiếm có như dịp con rùa một mắt nổi chìm hoài trong biển cả mà cổ nó gặp được cái lỗ nơi tấm ván cây trôi nổi trong biển cả ấy. Vậy mà chúng con nhờ phước đời trước sâu dày, đời này sinh ra đã gặp Phật và gặp Pháp của Phật, nên xin cha mẹ chấp thuận cho chúng con xuất gia. Phật đã khó gặp mà cơ hội thuận tiện cũng khó có.

Bấy giờ hậu cung của Diệu Trang Nghiêm Vương có tám vạn bốn ngàn người mà toàn là người có khả năng tiếp nhận ghi nhớ Pháp Hoa. Bồ tát Tịnh Nhãn thì đã thấu suốt từ lâu đối với định Hoa sen chánh pháp. Bồ tát Tịnh Tạng thì đã nhiều ức thời kỳ thấu suốt định Thoát ly đường dữ, vì muốn làm cho chúng sinh thoát ly đường dữ. Vương hậu Tịnh Đức thì được định Qui tụ của Phật, thấu suốt kho tàng bí mật của chư Phật. Hai vương tử bồ tát vận dụng phương tiện lực như trên, hoán cải khéo léo cho tâm trí vương phụ tin hiểu và ưa thích Phật pháp. Nên quốc vương Diệu Trang Nghiêm cùng với quần thần tùy thuộc, vương hậu Tịnh Đức cùng với hậu cung thể nữ tùy thuộc, hai vương tử cùng với bốn vạn hai ngàn người, tất cả cùng lúc đi đến chỗ đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai. Đến rồi, ai cũng đem đầu mặt lạy ngang chân ngài, đi quanh ngài ba vòng rồi lui lại đứng vào một phía. Bấy giờ đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai thuyết pháp cho Diệu Trang Nghiêm Vương với đủ cách trình bày, thuyết phục, khuyến khích và tán thưởng. Diệu Trang Nghiêm Vương rất hoan hỷ, đẹp dạ.

Diệu Trang Nghiêm Vương và vương hậu Tịnh Đức mở chuỗi ngọc chân châu đang mang nơi cổ, giá trị cả trăm ngàn, tung rải lên trên đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai. Trong không gian ngọc ấy hóa thành đài ngọc có bốn trụ. Trong đài có cái giường ngọc lớn, trải trăm ngàn vạn loại vải thiêng, và trên đó có đức Phật ngồi xếp bằng, phóng ra ánh sáng vĩ đại. Diệu Trang Nghiêm Vương nghĩ thân Phật thật hiếm có, tuyệt đẹp, uy nghiêm, cao lớn, đặc biệt, có đủ hết thảy sắc tướng tinh tế bậc nhất. Bấy giờ đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai nói với bốn chúng, các người thấy Diệu Trang Nghiêm Vương đang chắp tay đứng trước Như Lai đây không? Trong giáo pháp của Như Lai, vị hoàng đế này sẽ làm tỷ kheo, tinh tiến mà tu tập và hỗ trợ các pháp tuệ giác vô thượng của Như Lai, và rồi sẽ thành Phật đà với danh hiệu Sa La Thọ Vương, quốc độ tên Đại quang, thời kỳ tên Đại cao vương. Sa La Thọ Vương Như Lai có vô lượng bồ tát và vô lượng thanh văn, quốc độ bằng phẳng. Thành quả của Diệu Trang Nghiêm Vương sẽ có đến như thế ấy.

Diệu Trang Nghiêm Vương tức thì đem quốc chính giao phó vương đệ, rồi cùng vương hậu, hai vương tử và những người tùy thuộc đều xuất gia, tu tập trong giáo pháp của đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai. Sau khi xuất gia, Diệu Trang Nghiêm Vương trải qua tám vạn bốn ngàn năm thường xuyên nỗ lực, tinh tiến tu hành Pháp Hoa. Qua thì gian ấy, Diệu Trang Nghiêm Vương được định Mọi sự trang sức đầy phẩm chất trong suốt, liền thăng lên không gian với độ cao bảy cây đa la mà thưa, bạch đức Thế Tôn, hai con của con đã làm việc Phật làm, đem thần biến mà di chuyển tâm trí của con ra khỏi học thuyết sai lầm, làm cho con đứng vững trong giáo pháp của đức Thế Tôn và được gặp ngài. Hai con của con đúng là bạn tốt của con, muốn khơi dậy gốc rễ điều lành đời trước để ích lợi cho con nên sinh vào gia đình con. Đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai bảo Diệu Trang Nghiêm Vương, đúng như vậy, đúng như lời ông nói. Thiện nam hay thiện nữ nào biết gieo trồng gốc rễ điều lành thì đời đời được gặp bạn tốt, và bạn tốt thì có năng lực làm việc Phật làm, là trình bày, thuyết phục, khuyến khích, tán thưởng mà làm cho nhập vào tuệ giác vô thượng. Đại vương, ông nên ý thức bạn tốt là yếu tố lớn lao, cảm hóa dắt dẫn cho ông được thấy Như Lai và phát tâm tuệ giác vô thượng. Đại vương, ông thấy hai vương tử không? Hai vương tử đã từng phụng sự, thân gần và tôn kính cực nhiều trăm triệu hằng sa chư Phật. Nơi chư Phật ấy, hai vương tử đã tiếp nhận kính giữ Pháp Hoa, thương tưởng chúng sinh thấy biết sai lầm mà làm cho họ đứng trong thấy biết chính xác.

Diệu Trang Nghiêm Vương liền từ không gian hạ xuống mà thưa, bạch đức Thế Tôn, ngài thật hiếm có. Do phước đức và tuệ giác nên trên đỉnh đầu của ngài nổi lên gò thịt mà từ đó ánh sáng rực rỡ chiếu tỏa. Mắt ngài thì dài và rộng với màu sắc xanh biếc. Lông trắng giữa hai hàng lông mày thì trắng ngời như trăng sáng với màu sắc bạch mã não. Răng thì trắng, đều, khít, và thường xuyên lóng lánh. Môi thì đỏ và đẹp như trái tần bà… Đồng đẳng như vậy, Diệu Trang Nghiêm Vương tán dương hàng ức những sự đặc thù của đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai rồi, đối trước ngài, ông nhất tâm, chắp tay mà thưa thêm nữa, bạch đức Thế Tôn, thật là chưa từng có: giáo pháp của ngài thì có đủ phẩm chất tinh tế và ngoài tầm nghĩ bàn; giới pháp của giáo pháp ấy thì làm theo là yên vui, thích thú, tốt đẹp. Từ ngày hôm nay, con không đi theo tâm ý của mình nữa, không sinh ra nữa những thứ tà kiến, ngạo mạn, sân hận và bao nhiêu tư tưởng tội ác. Trình bạch như vậy rồi, Diệu Trang Nghiêm Vương đảnh lễ đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai mà lui ra.

Đức Thế Tôn bảo đại hội các chúng, ý các người nghĩ thế nào, Diệu Trang Nghiêm Vương có phải ai khác, mà nay là bồ tát Hoa Đức. Vương hậu Tịnh Đức thì nay là bồ tát Quang Chiếu Trang Nghiêm Tướng đang đứng trước Như Lai đây; lúc ấy vì thương Diệu Trang Nghiêm Vương và quyến thuộc của ông mà vị bồ tát này đã sống với họ. Còn hai vương tử thì nay là bồ tát Dược Vương và bồ tát Dược Thượng. Hai vị này thành tựu những công đức lớn lao đại loại như sự thể vừa nói, là vì ở nơi vô lượng đức Phật, hai vị này đã từng gieo trồng đủ loại gốc rễ công đức và hoàn thành những phẩm chất ngoài tầm nghĩ bàn. Người nào nhận thức được danh hiệu của hai vị bồ tát này thì cả thế giới, trong đó có chư thiên và nhân loại, cũng nên lễ kính người ấy.

Khi đức Thế Tôn tuyên thuyết phẩm Việc cũ của Diệu Trang Nghiêm Vương thì có tám vạn bốn ngàn người tách xa bụi bặm, tách rời dơ bẩn, được sự trong sáng của con mắt nhìn các pháp.

Phẩm 28:
Sự khuyến khích của bồ tát Phổ Hiền

Bấy giờ, bằng thần lực rất tự tại và danh tiếng đầy uy đức của mình, đại bồ tát Phổ Hiền, với sự tháp tùng của các vị đại bồ tát nhiều đến vô lượng vô biên không thể tính kể, từ hướng đông mà đến đại hội này. Những thế giới hệ mà ngài đi qua đều chấn động sáu cách, mưa xuống hoa sen quí báu, và tấu lên hàng ức chủng loại nhạc khí. Theo hầu bao quanh ngài còn có một đại chúng gồm cả tám bộ mà ai cũng biểu hiện uy đức và thần lực. Khi đến Linh sơn của thế giới hệ này, ngài đem đầu mặt lạy ngang chân đức Thế Tôn, và theo chiều bên phải, ngài đi quanh đức Thế Tôn bảy vòng, rồi thưa, bạch đức Thế Tôn, từ cõi Phật của đức Bảo Uy Đức Thượng Vương Như Lai, con xa nghe tại thế giới hệ Kham nhẫn này đức Thế Tôn tuyên thuyết Pháp Hoa, nên cùng với vô lượng vô biên bồ tát, con đến đây để lắng nghe và tiếp nhận. Kính xin đức Thế Tôn dạy cho con được biết, sau khi ngài nhập diệt thì thiện nam thiện nữ trong thời kỳ ấy làm sao để có được Pháp Hoa? Đức Thế Tôn dạy đại bồ tát Phổ Hiền, thiện nam thiện nữ nào có bốn yếu tố sau đây thì sau khi Như Lai nhập diệt vẫn được Pháp Hoa: một là được chư Phật giữ gìn, hai là gieo trồng gốc rễ công đức, ba là đã ở vào nhóm người cố định theo chánh pháp, bốn là phát nguyện cứu độ chúng sinh. Thiện nam hay thiện nữ nào có bốn yếu tố như vậy thì Như Lai nhập diệt rồi cũng vẫn chắc chắn có được Pháp Hoa.

Đại bồ tát Phổ Hiền thưa, bạch đức Thế Tôn, năm trăm năm sau, trong thời kỳ dữ dội vẩn đục ấy có ai tiếp nhận kính giữ Pháp Hoa, thì con sẽ hộ trì bằng cách trừ khử suy biến tai họa cho những người này được yên vui. Con làm cho không một kẻ nào dò xét tìm kiếm mà được cơ hội thuận tiện để quấy phá những người này. Ma vương, con trai ma vương, con gái ma vương, dân ma vương, kẻ bị ma vương phụ nhập, quỷ ăn thịt người, quỷ bạo ác, quỷ ăn tinh chất, quỷ điên cuồng, quỷ thây chết, quỷ xú uế, kẻ dùng chú tạo ra quỷ thây chết, và những kẻ cùng loại, tất cả những kẻ quấy phá nhân loại trên đây không ai có được cơ hội thuận tiện. Những người này hoặc đi hoặc đứng mà đọc tụng Pháp Hoa, thì lúc ấy con cỡi voi chúa sắc trắng có sáu ngà, cùng các đại bồ tát đến tại chỗ mà tự biểu hiện thân mình để hiến cúng, hộ trì và an ủi tâm chí cho những người này, lại để hiến cúng kinh Pháp Hoa. Những người này ngồi mà tư duy ý nghĩa Pháp Hoa, thì lúc ấy con cũng cỡi voi chúa sắc trắng mà biểu hiện trước mắt, để nếu những người này có quên mất một câu hay một bài chỉnh cú nào của kinh Pháp Hoa, thì con sẽ chỉ dạy và cùng đọc tụng cho những người này thông suốt như cũ.

Những người đọc tụng kính giữ Pháp Hoa này được thấy thân con thì vô cùng hoan hỷ, càng thêm tinh tiến. Và nhờ thấy thân con mà tức thì được định, lại được các tổng trì tên là tổng trì Xoay chuyển, tổng trì Xoay chuyển vô số, tổng trì Nghệ thuật thuyết pháp, được các tổng trì mà đại loại là như vậy.

Bạch đức Thế Tôn, năm trăm năm sau, trong thời kỳ dữ dội vẩn đục, đối với Pháp Hoa mà tỷ kheo và tỷ kheo ni, ưu bà tắc và ưu bà di, bốn chúng ấy có ai tìm kiếm cho được, ai tiếp nhận ghi nhớ, ai đọc xét văn nghĩa, ai tụng được thuộc lòng, ai sao chép ấn hành, rồi muốn tu tập về kinh ấy, thì trong ba tuần bảy ngày hãy nhất tâm mà tinh tiến. Trọn vẹn ba tuần bảy ngày rồi, con cỡi voi trắng sáu ngà, có vô lượng bồ tát bao quanh, đem cái thân hết thảy chúng sinh ai cũng thích nhìn mà biểu hiện trước mắt và thuyết pháp cho những người này, với đủ cách trình bày, thuyết phục, khuyến khích và tán thưởng. Con lại cho những người này một bài tổng trì minh chú. Được bài tổng trì minh chú ấy thì không có một kẻ không phải loài người nào mà quấy phá được, cũng không bị mê hoặc rối loạn vì người khác phái. Con cũng đích thân hộ trì cho những người này một cách thường trực. Kính xin đức Thế Tôn cho phép con tuyên thuyết bài tổng trì minh chú ấy. Đối trước đức Thế Tôn, đại bồ tát Phổ Hiền liền nói tổng trì minh chú:

A đàn địa – đàn đà bà địa – đàn đà bà đế – đàn đà cưu xá lệ – đàn đà tu đà lệ – tu đà lệ – tu đà la bà để – phật đà ba chiên nễ – tát bà đà la ni – a bà đa ni – tát bà bà sa a bà đa ni – tu a bà đa ni – tăng dà bà lý xoa ni – tăng dà niết dà đà ni – a tăng kỳ – tăng dà ba dà địa – đế lệ a đọa tăng dà đâu lược – a ra đế ba ra đế – tát bà tăng dà địa tam ma địa dà lan địa – tát bà đạt ma tu ba lỵ sát đế – tát bà tát đỏa lâu đà kiêu xá lược a nâu dà địa – tân a tỳ cát lỵ địa đế (Dịch âm từ Phạn văn: A đăn đê, đăn đa pa ti, đăn đa va ta ni, đăn đa ku sa lê, đăn đa su đa ri, su đa ri, su đa ra pa ti, bu đa pát da nê, sa va đa ra ni, a va ta ni, sa va ba sờ da va ta nê, su a va ta nê, sam ga pa rít sa ni, sam ga nia ga ta ni, a sam gê, sam ga pa ga tê, tra đoa sam ga tu li da, sa va săm ga săm ma ti răn tê, sa va đa ma su pa rít si tê, sa va sát toa ru ta kao sa li da nu ga tê, sim ha vít ri đi tê, a nu va tê, va ta ni, va ta li, soa ha).

Bạch đức Thế Tôn, vị bồ tát nào nghe được tổng trì minh chú ấy thì nên biết đó là do thần lực Phổ Hiền. Pháp Hoa mà lưu hành được tại đại lục Diêm phù, và có ai tiếp nhận kính giữ, thì nên nghĩ toàn là do thần lực Phổ Hiền. Có ai tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, nhớ nghĩ chính xác, lý giải nghĩa ý, làm đúng kinh dạy… thì nên biết người ấy đi theo đường đi Phổ Hiền, nơi chỗ vô lượng vô biên chư Phật đã gieo trồng rất sâu gốc rễ pháp lành, và được chư Phật đưa tay xoa đầu. Ai chỉ sao chép ấn hành Pháp Hoa, thì người ấy mạng chung là sinh lên tầng trời Đao lợi, tám vạn bốn ngàn thiên nữ diễn tấu kịch nhạc mà đón rước, người ấy tức khắc đội mão làm bằng bảy thứ quí báu, vui thích giữa các thiên nữ ấy. Chỉ sao chép ấn hành Pháp Hoa mà đã như vậy, huống chi tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, nhớ nghĩ chính xác, lý giải nghĩa ý, làm đúng kinh dạy…? Nên, đối với Pháp Hoa, ai tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, lý giải nghĩa ý…, thì người ấy mạng chung là được ngàn đức Phật trao tay cho, làm cho không còn sợ hãi, không sa vào đường dữ, và tức khắc sinh lên từng trời Đâu suất, chỗ đức Di Lạc, vị đại sĩ có ba mươi hai tướng trượng phu, có chúng đại bồ tát bao quanh, có trăm ngàn vạn ức thiên nữ làm tùy thuộc. Có những ích lợi như vậy, nên người có trí hãy kính cẩn mà đích thân sao chép ấn hành, khuyên người sao chép ấn hành, kính cẩn mà tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, nhớ nghĩ chính xác, làm đúng kinh dạy… Bạch đức Thế Tôn, chính con đem thần lực của con mà giữ gìn Pháp Hoa, làm cho kinh này, sau khi đức Thế Tôn nhập diệt, vẫn được lưu hành rộng rãi tại đại lục Diêm phù, không bị tuyệt tích.

Khi ấy đức Thế Tôn tán dương, rằng tốt lắm Phổ Hiền, tốt lắm việc đại sĩ giữ gìn Pháp Hoa mà ích lợi yên vui rất nhiều cho bao nhiêu chúng sinh. Đại sĩ đã hoàn thành công đức ngoài tầm nghĩ bàn và từ bi vĩ đại sâu xa, đã phát tâm nguyện tuệ giác vô thượng liên tục từ xa xưa cho đến bây giờ, vậy mà bây giờ đại sĩ vẫn phát tâm nguyện đem thần lực Phổ Hiền giữ gìn Pháp Hoa! Như Lai đem thần lực của Như Lai mà giữ gìn cho những người trì niệm danh hiệu Phổ Hiền.

Phổ Hiền, đối với Pháp Hoa, người nào tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, nhớ nghĩ chính xác, làm đúng kinh dạy, sao chép ấn hành…, thì đại sĩ nên biết người ấy thấy ta, Thích Ca Như Lai, và như từ miệng ta mà nghe kinh Pháp Hoa này; nên biết người ấy hiến cúng ta, Thích Ca Như Lai; nên biết người ấy được ta, Thích Ca Như Lai, khen rằng tốt lắm; nên biết người ấy được ta, Thích Ca Như Lai, đưa tay xoa đầu; nên biết người ấy được ta, Thích Ca Như Lai, đem pháp y che phủ… Người ấy không còn ham thích lạc thú thế tục; không ưa thích kinh sách văn bút của người ngoại đạo, cũng không thích thân gần bản thân của họ; không thích thân gần những kẻ hành nghề tội ác như kẻ thợ thịt, kẻ chăn nuôi heo dê gà chó, kẻ thợ săn, kẻ buôn bán nữ sắc… Người ấy tâm ý chân chất ngay thẳng, có sự nhớ nghĩ chân chính, có sức mạnh phước đức, không bị ba thứ độc tố quấy phá, cũng không bị quấy phá bởi sự ganh ghét, bởi sự kiêu ngạo vì bản ngã, bởi sự kiêu ngạo về tự thị điều ác đã làm, bởi sự kiêu ngạo vì chưa được mà tự cho đã được. Người ấy ít ham muốn, biết vừa đủ, có năng lực tu hành theo đường đi Phổ Hiền.

Phổ Hiền, Như Lai nhập diệt rồi, năm trăm năm sau, ai thấy người đọc tụng kính giữ Pháp Hoa, thì nên nghĩ người ấy không bao lâu sẽ đi đến bồ đề tràng, chiến thắng các đạo ma quân, thu hoạch tuệ giác vô thượng, chuyển đẩy bánh xe chánh pháp, đánh trống chánh pháp, thổi loa chánh pháp, mưa nước chánh pháp, ngồi trên pháp tòa sư tử ở giữa đại hội các chúng mà các chúng chư thiên và nhân loại bao gồm trong đó.

Phổ Hiền, thời kỳ sau này, ai đọc tụng kính giữ Pháp Hoa thì người ấy hết còn tham lam vướng mắc vào đồ mặc, đồ nằm, đồ ăn, đồ uống, và những vật giúp cho đời sống. Người ấy ước nguyện gì cũng không vô hiệu quả, ngay trong đời này mà đã nhận được kết quả của phước đức. Ai khinh chê người ấy, nói người ấy khùng, làm việc vô ích, rốt cuộc không được gì đâu, khinh chê như vậy thì kết quả tai hại là đời đời không mắt. Ai hiến cúng ca tụng người ấy thì ngay trong đời này đã được kết quả hiện thực. Ngược lại, thấy người kính giữ Pháp Hoa mà chỉ trích lỗi lầm của người ấy, thì thật hay không thật gì, người chỉ trích cũng bị phung hủi ngay trong đời này. Ai chê cười người ấy thì đời đời răng và răng hàm vừa thưa vừa thiếu, môi xấu, mũi xẹp, tay cong, chân quẹo, mắt lé, thân thể hôi thối, ghẻ mụt, máu mủ, bụng thủng, hơi hụt, bị những bịnh nặng và dữ như vậy. Thế nên, Phổ Hiền, thấy người kính giữ Pháp Hoa thì nên đứng dậy mà đón từ xa, nên kính như kính Phật.

Khi đức Thế Tôn nói phẩm Sự khuyến khích của đại bồ tát Phổ Hiền thì vô lượng vô biên bồ tát đồng đẳng với số cát của sông Hằng được tổng trì

Xoay chuyển vô số, các bồ tát đồng đẳng với số bụi của đại thiên thế giới được trọn đường đi Phổ Hiền.

Khi đức Thế Tôn tuyên thuyết hoàn tất kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì chư vị bồ tát mà đứng đầu là đại bồ tát Phổ Hiền, chư vị thanh văn mà đứng đầu là tôn giả Xá Lợi Phất, cùng với các chúng nhân loại và loài khác, toàn thể đại hội đều cực kỳ hoan hỷ, tiếp nhận ghi nhớ lời đức Thế Tôn dạy, đảnh lễ ngài mà cáo thoái.

__________

Kết thúc tụng kinh Pháp Hoa, chúng con xin hồi hướng:

Vạn ức thời kỳ
không thể nói được
mới được có lúc
Phật nói Pháp Hoa.
Vạn ức thời kỳ
không thể nói được
mới được có lúc
nghe nói Pháp Hoa.
Chúng con nương nhờ
Phật Pháp Tăng lực
mới được trì tụng
Diệu Pháp Liên Hoa.
Chúng con nguyện đem
công đức như vầy
hiến khắp tất cả
các loại chúng sinh,
cầu cho chúng con
cùng với chúng sinh
đều được thành tựu
tuệ giác chư Phật.

Kính lạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Kính lạy tất cả Pháp bảo trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni, đức Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp Hoa. Kính lạy đức Đa Bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp Hoa toàn là chân thật. Kính lạy đức Di Lạc, đức Phật đương lai, đã phát khởi kinh Pháp Hoa và tiếp dẫn những người hành trì Pháp Hoa vãng sinh Đâu suất tịnh độ. Kính lạy tất cả Phật bảo trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy bồ tát Văn Thù, vị pháp sư Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Phổ Hiền, vị khuyến phát Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Quan Âm, vị đại sĩ toàn diện. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.


Lược Dẫn & Cuốn 1 | Cuốn 2 | Cuốn 3 | Cuốn 4 | Cuốn 5 | Cuốn 6 | Cuốn 7 | Phẩm Phổ Hiền | Kinh Pháp Hoa Toát Yếu |



Lược Dẫn & Cuốn 1 | Cuốn 2 | Cuốn 3 | Cuốn 4 | Cuốn 5 | Cuốn 6 | Cuốn 7 | Phẩm Phổ Hiền | Kinh Pháp Hoa Toát Yếu |

[8]

KINH PHÁP HOA
(Hoa Sen Của Chánh Pháp) 
Phần CHÍNH VĂN
Tỷ kheo Thích Trí Quang dịch

SAO LỤC 1: PHẨM PHỔ HIỀN

Xem ở đây:
http://www.hongnhu.org/pham-pho-hien-kinh-hoa-nghiem/

Lược Dẫn & Cuốn 1 | Cuốn 2 | Cuốn 3 | Cuốn 4 | Cuốn 5 | Cuốn 6 | Cuốn 7 | Phẩm Phổ Hiền | Kinh Pháp Hoa Toát Yếu |



Lược Dẫn & Cuốn 1 | Cuốn 2 | Cuốn 3 | Cuốn 4 | Cuốn 5 | Cuốn 6 | Cuốn 7 | Phẩm Phổ Hiền | Kinh Pháp Hoa Toát Yếu |

[9]

KINH PHÁP HOA
(Hoa Sen Của Chánh Pháp) 
Phần CHÍNH VĂN
Tỷ kheo Thích Trí Quang dịch

SAO LỤC 2: TOÁT YẾU PHÁP HOA

Lời dẫn
Phẩm 1: Mở đầu
Phẩm 2: Phương tiện
Phẩm 3: Ví dụ
Phẩm 4: Tin Hiểu
Phẩm 5: Cây cỏ
Phẩm 6: Thọ ký
Phẩm 7: Tương quan xa xưa
Phẩm 8: Năm trăm đệ tử tiếp nhận thọ ký
Phẩm 9: Thọ ký cho các vị tu học tiếp tục và tu học hoàn tất
Phẩm 10: Người diễn giảng Pháp Hoa
Phẩm 11: Bảo tháp xuất hiện
Phẩm 12: Đề Bà Đạt Đa
Phẩm 13: Kính giữ Pháp Hoa
Phẩm 14: Sống yên vui 804
Phẩm 15: Từ đất xuất hiện
Phẩm 16: Sự sống lâu của đức Thế Tôn. 817
Phẩm 17: Phân tích thành quả
Phẩm 18: Thành quả tùy hỷ
Phẩm 19: Thành quả của người diễn giảng Pháp Hoa
Phẩm 20: Bồ tát Thường Bất Khinh
Phẩm 21: Sức Thần Của Đức Thế Tôn
Phẩm 22: Giao Phó Trọng Trách
Phẩm 23: Việc Cũ Của Bồ Tát Dược Vương
Phẩm 24: Bồ tát Diệu Âm
Phẩm 25: Quan Âm đại sĩ: vị Toàn diện
Phẩm 26: Tổng trì minh chú
Phẩm 27: Việc cũ của Diệu Trang Nghiêm Vương
Phẩm 28: Sự khuyến khích của bồ tát Phổ Hiền

Lời dẫn

Tiểu phẩm này đáng lẽ gọi là lược dịch, nhưng có mấy chỗ không là như vậy nên phải để chữ toát yếu. Lược dịch và toát yếu ở đây là lấy ý chính, ý quan trọng, và sự thể chủ yếu. Do vậy, ở đây chỉ toát lược văn mà thôi.

Tiểu phẩm này nên đọc trước khi đọc tụng chính văn hoặc đọc trước hay sau khi đọc lược giải. Nhất thiết không có cái việc tụng tiểu phẩm này thay cho chính văn. Tụng sau khi tụng chính văn thì được.

Phật đản 2542 (1998)

Trí Quang

_________

TOÁT YẾU PHÁP HOA

Phẩm 1: Mở đầu

Kinh này tôi nghe đức Thế Tôn tuyên thuyết trong thì gian ngài ở trong đỉnh Linh sơn, thuộc thành Vương xá. Cùng hiện diện là một đại hội có chúng đại tỷ kheo gồm nhiều vị La hán, nhiều vị tu học tiếp tục và tu học hoàn tất, nhiều vị tỷ kheo ni; có chúng đại bồ tát gồm rất nhiều vị. Ngoài ra, 8 bộ phi nhân loại và 4 chúng nhân loại cũng qui tụ đông đủ.

Đại hội các chúng như vậy đảnh lễ và ngồi quanh đức Thế Tôn. Ngài tuyên thuyết kinh Nghĩa Vô Lượng, rồi nhập định Vị trí của nghĩa vô lượng, và từ tướng bạch hào phóng ra ánh sáng, chiếu qua nhiều thế giới hệ ở chính đông, làm cho cả đại hội thấy sự huy hoàng của các thế giới hệ ấy, thấy hết các chủng loại chúng sinh làm gì và được gì hay bị gì, thấy chư vị Thế Tôn và nghe Pháp của các ngài nói, thấy chư vị bồ tát đủ cách đi theo đường đi của bồ tát.

Bấy giờ đức Di Lạc hỏi đức Văn Thù, tại sao đức Thế Tôn biểu hiện như vậy, và kết thúc rằng đức Thế Tôn muốn nói cái Pháp mà ngài chứng ngộ khi mới ngồi nơi bồ đề tràng, hay muốn thọ ký làm Phật cho đệ tử của ngài? Đức Văn Thù nói, đó là điềm đức Thế Tôn sẽ nói cái Pháp vĩ đaị. Vì như tôi biết, đức Nhật Nguyệt Đăng Minh Thế Tôn cuối cùng, trong nhiều vị kế tiếp nhau và cùng danh hiệu, đã từng làm như vậy. Nên đức Thế Tôn hiện nay phóng hào quang lớn là đế hỗ trợ cho sự phát lộ thật tướng—Ngài sẽ tuyên thuyết Pháp Hoa, giải trừ hoài nghi cho mọi người cầu tuệ giác Thanh văn, tuệ giác Duyên giác, tuệ giác Phật đà.

_____

Phẩm 2: Phương tiện

Khi ấy đức Thế Tôn thung dung xuất định, nói với đại hội qua tôn giả Xá Lợi Phất, rằng từ chư vị Như Lai, Như Lai đã thực hành trọn vẹn các pháp của tuệ giác vô thượng, nên tuệ giác ấy của Như Lai thì Thanh văn Duyên giác Bồ tát đều không thể thấu triệt. Do tuệ giác ấy mà Như Lai thành tựu sự hiếm có bậc nhất, đó là tùy nghi thuyết pháp, dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi mọi sự vướng mắc. Như Lai tùy nghi thuyết được như vậy là vì tuệ giác của Như Lai (tức Phật tri kiến: sự thấy biết của Phật) thì đủ mọi phẩm chất: 4 tâm vô hạn, 4 trí thông suốt, 10 đại năng lực, 18 sự đặc biệt, 4 sự không sợ, 4 thiền, 4 định, 8 sự giải thoát, 3 pháp tam muội… Do vậy, chỉ có Như Lai, và chư vị Như Lai, mới cùng tận và tuyên thuyết về thật tướng: biểu hiện như vậy, đặc tính như vậy, bản thể như vậy, năng lực như vậy, động tác như vậy, nhân tố như vậy, duyên tố như vậy, kết quả như vậy, hình thành như vậy, toàn bộ như vậy. Nên nguyên tắc của Như Lai là sau cùng phải nói thật, rằng niết bàn mà Như Lai làm cho Thanh văn Duyên giác đạt được, niết bàn ấy chỉ do Như Lai tùy nghi thuyết ra ba cỗ xe, làm cho chư vị trước đây đã thoát khỏi sự vướng mắc vào sinh tử khốn khổ, và nay đây sẽ thoát khỏi sự vướng mắc vào niết bàn giả thiết.

*

Lời này của đức Thế Tôn làm cho các vị La hán rơi cả vào sự hoài nghi. Chính tôn giả Xá Lợi Phất cũng hoài nghi tuệ giác của mình: đã cứu cánh hay phải tu hành nữa? Tôn giả thỉnh cầu đức Thế Tôn giải thích cho về lời ngài đã dạy. Sau ba lần thỉnh cầu, đức Thế Tôn mới chấp thuận thì có nhiều vị tăng thượng mạn, vẫn tự cho niết bàn của mình là đã hoàn toàn, nên lạy đức Thế Tôn mà rời khỏi đại hội. Đức Thế Tôn không ngăn cản. Ngài nói những hạt lép đã tự loại. Đại hội nay toàn là hạt chắc. Chư vị hãy khéo nghe. Như Lai, và chư vị Như Lai, chỉ vì lý do duy nhất và trọng đại mà xuất thế, ấy là khai mở và chỉ thị sự thấy biết của Phật cho chúng sinh tỉnh ngộ và nhập vào—có nghĩa chỉ đem cỗ xe Phật đà mà hóa độ.

Thế nhưng Như Lai xuất hiện vào thời kỳ dữ dội, đầy cả 5 thứ vẩn đục, chư vị và chúng sinh lại vốn ham dục lạc nên bị khốn khổ tác loạn. Như Lai nếu chỉ nói, và nói liền, về cỗ xe Phật đà, thì không nhờ vậy mà chư vị và chúng sinh được hóa độ. Do đó, y như chư vị Như Lai đã khuyến cáo khi Như Lai mới hoàn thành tuệ giác vô thượng, Như Lai quan sát trình độ và đạo hạnh của chư vị và chúng sinh mà tùy nghi thuyết ra cỗ xe Thanh văn và cỗ xe Duyên giác, phương tiện tuyên ngôn chư vị chứng được niết bàn, và nhờ vậy mà chư vị được hóa độ. Rồi có vô số con Phật là các vị Bồ tát, trong số đó có chính chư vị nhưng ngày nay đã có thể chuyển biến, biết tìm đến Như Lai, vì quyết chí tìm cầu và lắng nghe về tuệ giác của Như Lai. Thế nên ngày nay Như Lai hoan hỷ hết sức, tuyên thuyết Pháp Hoa mà nói thẳng về cỗ xe Phật đà, công bố chư vị—Thanh văn La hán—sẽ được làm Phật cả.

Như vậy là, sự thật, Như Lai chỉ hóa độ chư vị và chúng sinh bằng cỗ xe Phật đà, vì 9 thể loại kinh pháp Như Lai nói trước đây đều lấy cỗ xe Phật đà làm căn bản; vì Như Lai vốn lập chí nguyện làm cho ai cũng như Như Lai; vì mục đích Như Lai xuất thế là để công bố sự thấy biết của Phật đà; vì Như Lai tự đi bằng cỗ xe Phật đà thì cũng đem cỗ xe ấy mà chở chư vị và chúng sinh; vì cỗ xe Thanh văn và cỗ xe Duyên giác chỉ là Như Lai thiện dụng danh từ mà giả thiết; vì phải thể hiện nguyên lý “các pháp thường tự vắng lặng”, đi trọn đường đi của Bồ tát và trở thành Phật đà, mới thật là niết bàn; vì chư vị Như Lai trong 3 thì gian của 10 phương quốc độ đều nói chỉ cỗ xe Phật đà là thật; vì từ chư vị Như Lai quá khứ, những ai biết nói một tiếng con tôn kính Phật hay biết hiến cúng Phật bằng một cái cúi đầu, và bao sự đồng đẳng như vậy, thì do cái “giống Phật” này mà rồi ra đã thành Phật tất cả; vì chính Như Lai cũng làm như chư Phật trong ba thì gian, áp dụng phương tiện tuyên thuyết cỗ xe Thanh văn và cỗ xe Duyên giác, rồi cuối cùng, ngày nay tuyên thuyết cỗ xe Phật đà; vì tất cả Thanh văn La hán “ai nấy cũng sẽ được làm Phật cả”.

Như Lai và chư vị Như Lai tuyên thuyết cỗ xe Phật đà là vì biết giống Phật cũng phát từ các yếu tố, vì biết giống Phật ấy bản thể là thường trú. Và đó là ấn tín thật tướng của Như Lai mà, cuối cùng, ngày nay Như Lai mới công bố.

Ấy vậy, chư vị phải nhận thức sự tùy nghi thuyết pháp của Như Lai, và “hãy vui mừng lên khi tự biết chắc mình sẽ làm Phật”.

________ 

Phẩm 3: Ví dụ

Khi ấy tôn giả Xá Lợi Phất tức thì đứng dậy mà bạch đức Thế Tôn, ngài đã làm cho con hết hoài nghi không được thọ ký như Bồ tát, hết hối tiếc không được thành quả như Thế Tôn. Con biết ngài tùy nghi thuyết ra cỗ xe Thanh văn và cỗ xe Duyên giác là để tạo phương tiện cho ngày nay, cuối cùng, thuyết về cỗ xe Phật đà, làm cho các chúng sẽ được làm Phật cả. Và biết con thật là con Phật, biết phải đến lúc làm Phật, đủ 32 tướng, 4 chúng 8 bộ đều tôn kính, bấy giờ mới được gọi là niết bàn.

Khi mới nghe đức Thế Tôn nói sự niết bàn của Thanh văn La hán chỉ là giả thiết thì con cả sợ, nghĩ đây là ma hóa ra Phật để quấy rối chúng con. Nhưng rồi lòng con yên như biển cả khi nghe đức Thế Tôn nói chư vị Thế Tôn quá khứ và vị lai đều áp dụng phương tiện, tùy nghi mà thuyết pháp. Ngài cho biết ngài cũng dùng phương tiện giáng sinh, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân, và cả sự nhập niết bàn sau này, mà công bố con đường đích thực. Tiếng nói của ngài làm cho con đứng vững trong sự biết chắc mình sẽ làm Phật, chư thiên nhân loại đều tôn kính, chuyển đẩy bánh xe chánh pháp tối thượng, giáo hóa chư vị bồ tát.

Đức Thế Tôn nói, Xá Lợi Phất, xưa kia Như Lai đã dạy cho tôn giả phát nguyện mong cầu tuệ giác Phật đà, vậy mà tôn giả quên hết. Ngày nay Như Lai muốn làm cho tôn giả nhớ lại cái nguyện ấy, và đường đi của cái nguyện ấy, nên tuyên thuyết Pháp Hoa, thọ ký làm Phật cho chư vị. Xá Lợi Phất, trong thì vị lai, tôn giả trải qua nhiều thời kỳ, phụng sự nhiều vị Như Lai, kính giữ chánh pháp của các ngài, đi trọn đường đi của bồ tát rồi, sẽ được thành Phật với danh hiệu Hoa Quang, đủ 10 đức hiệu: bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua niết bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giác hoàn toàn: bậc Tôn cao nhất đời. Quốc độ tên Ly cấu, đẹp, sạch, yên vui, nhân loại và chư thiên đều đông đảo. Hoa Quang Như Lai xuất thế không phải thời kỳ dữ dội, nhưng vì chí nguyện xưa nên cũng tuyên thuyết đủ cả 3 cỗ xe. Thời kỳ của Hoa Quang Như Lai tên là Đại bảo trang nghiêm, vì được trang hoàng bởi vô số bồ tát tu chứng rất cao. Hoa Quang Như Lai và người trong quốc độ của ngài sống đến nhiều thời kỳ bậc nhỏ. Ngài nhập diệt rồi, giáo pháp nguyên chất và giáo pháp tương tự cũng tồn tại nhiều thời kỳ bậc nhỏ. Hoa Quang Như Lai là hậu thân của tôn giả, Xá Lợi Phất, tôn giả hãy vui mừng lên.

Cả đại hội nghe thấy tôn giả Xá Lợi Phất được thọ ký làm Phật thì cực kỳ hoan hỷ. Thiên chúng hiến cúng đức Thế Tôn bằng hoa và nhạc, rồi thưa, xưa kia đức Thế Tôn chuyển pháp luân tứ đế, ngày nay ngài chuyển pháp luân tối thượng. Đức Thế Tôn tuyên thuyết cỗ xe Phật đà, chúng con kính xin tùy hỷ. Tôn giả Xá Lợi Phất được thọ ký thì chúng con rồi cũng chắc chắn được làm Phật. Bao nhiêu phước đức chúng con có được, chúng con hồi hướng cả về nơi tuệ giác của đức Thế Tôn và nguyện được tuệ giác ấy.

Tôn giả Xá Lợi Phất bạch đức Thế Tôn, con hoàn toàn không còn hoài nghi gì nữa khi đích thân được ngài thọ ký thành tựu tuệ giác vô thượng, nhưng 1200 vị La hán đây vẫn còn hoài nghi. Lành thay đức Thế Tôn, xin ngài giải thích thêm cho chư vị ấy. Đức Thế Tôn nói, Như Lai đã chăúng mới nói chư vị sẽ được làm Phật cả hay sao. Nhưng nay Như Lai đem một sự ví dụ để nói thêm về ý nghĩa ấy.

Ví như vị đại trưởng giảcó một ngôi nhà lớn. Ngôi nhà ấy chỉ có một cửa, mà ở trong lại có nhiều con của đại trưởng giả. Ngôi nhà hư hỏng, lại có lắm chim dữ, thú dữ, bò sát dữ, quỷ quái càng dữ hơn. Đại trưởng giả mới đi ra, ngôi nhà đột nhiên lửa dậy đốt cả bốn phía. Đại trưởng giả trở lại ngoài cửa. Biết các con đang còn trong đó, ông liền trở vào. Ông nghĩ thân mình và cánh tay của ông rất mạnh, có thể dùng vạt áo hay ghế đẳng, gom các con lại ôm mà chạy ra. Nhưng cửa chỉ một cái mà lại nhỏ hẹp thì các con có sẽ rơi lại và bị đốt cháy. Nên ông nói rõ cho các con nghe mọi sự tai họa. Nhưng chúng vẫn ham chơi. Hơi lửa xáp tới, nóng rát mà chúng vẫn không biết gì. Đại trưởng giả liền nghĩ, các con ta vốn có sở thích, liền bảo, những cỗ xe dê, xe hươu, xe bò, mà các con thích, cha để cả ngoài cửa. Các con thích xe gì thì ra mà lấy gấp. Nghe nói những cỗ xe, các con ông tức thì tranh nhau chạy ra, thoát khỏi nhà lửa. Bấy giờ đại trưởng giả chỉ đồng đều cấp cho mỗi người con một cỗ xe bò, lớn, đẹp, được kéo bởi con bò trắng, đi rất êm và rất mau.

Như Lai cũng vậy. Như Lai là từ phụ. Chúng sinh toàn là con Như Lai. Ba cõi không yên, in như nhà lửa, đang bị đốt cháy bởi đủ thứ ham muốn, khổ não. Thế nhưng, dẫu có sức mạnh của thần thông, và sức mạnh của tuệ giác, mà Như Lai chưa dùng được để chỉ nói, và nói liền, về cỗ xe Phật đà. Do vậy, Như Lai phải phương tiện giả thiết 3 cỗ xe. Ai nghe pháp với Như Lai mà cầu tự niết bàn, thì đó là theo cỗ xe Thanh văn, như những người con thích xe dê mà chạy khỏi nhà lửa. Ai nghe pháp với Như Lai mà cầu tuệ giác tự nhiên, thì đó là theo cỗ xe Duyên giác, như những người con thích xe hươu mà chạy khỏi nhà lửa. Ai nghe pháp của Như Lai mà cầu sự thấy biết của Phật, và cầu như vậy là để đem lại yên vui cho chúng sinh, thì đó là theo cỗ xe Phật đà, như những người con thích xe bò mà chạy khỏi nhà lửa. Nhưng thoát khỏi nhà lửa ba cõi rồi thì Như Lai chỉ đồng đều cấp cho cỗ xe Phật đà, để cùng đi thẳng đến sự thấy biết của Phật.

Ấy vậy, Như Lai từ cỗ xe Phật đà mà thiết ra 3 cỗ xe. Nên mọi việc ngày nay là hướng cả vào sự thấy biết của Phật. Còn chân lý tứ đế đem lại giải thoát thì chỉ giải thoát hư ảo. Giải thoát ấy không phải cứu cánh, vì thoát mà chưa được tuệ giác vô thượng. Điều này là chung kết, là ấn tín của Như Lai, chư vị hãy công bố cho đời – cho những người có thể tin hiểu Pháp Hoa, nhưng không tuyên truyền bừa bãi cho những kẻ bất kính bất tín.

__________ 

Phẩm 4: Tin Hiểu

Bấy giờ các vị tôn giả Tu Bồ Đề, Ca Chiên Diên, Đại Ca Diếp, Mục Kiền Liên, nghe đức Thế Tôn thọ ký làm Phật cho tôn giả Xá Lợi Phất thì hoan hỷ, phấn chấn, quỳ xuống, chiêm ngưỡng mà bạch ngài, chúng con đứng đầu chư Tăng, tự cho đã được niết bàn, chỉ nghĩ về không, không sắc tướng, không ưa thích. Còn đối với các pháp của Bồ tát, như làm sạch thế giới, làm nên chúng sinh, thì chúng con không thích thú gì. Ngày nay được nghe đức Thế Tôn thọ ký cho Thanh văn thì chúng con tự mừng sâu xa, vì cái lợi ích cao cả ấy chúng con không cầu mà tự được. Chúng con xin trình bạch một sự ví dụ để thưa rõ ý nghĩa như vậy.

Ví như có người tuổi nhỏ, bỏ cha trốn đi xứ khác đến 50 năm. Lớn tuổi và nghèo khốn, người ấy bôn ba để kiếm cơm áo, lần hồi đến nhằm đô thành cha ở. Người cha thì tìm con mãi mà không được, nên dừng lại ở đô thành ấy. Ông giàu sang, tư thế rất lớn. Xa con hơn 50 năm mà ông vẫn thương nhớ. Không nói với ai, nhưng ông lo nghĩ khi chết thì tài sản biết giao cho ai. Người con đến nhằm lâu đài của ông, đứng ở ngoài và một bên cửa, nhìn thấy tư thế của ông thì nghĩ đây là vua, hay ngang với vua, không phải chỗ mình kiếm ăn. Đi đến xóm nghèo, bán sức mà dễ kiếm ăn hơn. Nghĩ thế nên bỏ chạy. Người cha ngồi trên ngai sư tử, thấy thì nhận ra liền, mừng rằng tài sản của ta đã có người để giao phó rồi. Ông sai người chạy theo dẫn về. Người con sợ quá, ngất đi. Người cha thấy vậy bảo thôi. Ông biết con mình ý chí thấp hèn, sợ chính sự cao sang của mình. Lập chước phương tiện, ông kín đáo sai vài kẻ không oai phong gì, đi tìm người con, từ từ nói ông muốn thuê dọn đồ dơ bẩn, trả giá gấp đôi, và chúng tôi cùng làm với anh. Người con biết giá rồi, chịu đến dọn đồ dơ bẩn.

Người cha thấy con như vậy thì biết con mình chí khí thấp hèn, chỉ thích việc hèn. Ông liền cởi bỏ đồ sang, mặc áo rách dơ bẩn, lại lấy đất bụi làm lấm lem cả người, rồi cầm dụng cụ quét dọn đồ dơ bẩn, đến chỗ người làm thuê. Với cách ấy ông mới gần được con ông. Ông bảo anh hãy làm luôn ở đây. Ông thêm tiền thuê và cho đồ dùng. “Ta như cha anh, anh như con ta”. Người con mừng vì sự đãi ngộ ấy, nhưng vẫn tự xưng là kẻ làm thuê hèn hạ. Do vậy mà 20 năm trời vẫn chỉ được bảo quét dọn dơ bẩn. Qua thì gian này rồi lòng mới tin nhau, và người con được tự do ra vào trong lâu đài, nhưng vẫn thích ăn ở chỗ cũ. Khi người cha biết mình sắp chết mới bảo ta có lắm vàng ngọc, tràn đầy kho tàng. Và thu chi như thế nào con phải biết cho rõ. Nay thì cha với con không khác gì cả. Người con nhận lãnh và thu chi kho tàng, nhưng vẫn không có ý mong lấy cho đủ một bữa ăn, ở cũng vẫn chỗ cũ, tâm lý thấp kém vẫn chưa hết được. Phải ít lâu nữa tâm lý mới thênh thang, chí lớn đã đạt, biết khinh bỏ tâm lý cũ. Người cha biết như vậy, lại biết mình sắp chết, nên mời họ hàng thân thích, đủ cả quốc vương đại thần, tuyên bố người này là con trai của tôi, tôi thật cha nó. Trước đây nó trốn đi, nay, tại đây, tôi gặp lại nó. Ngày nay hết thảy tài sản của tôi đều là của con tôi, và trước đây nó cũng biết rõ cả. Người con bấy giờ rất mừng, nghĩ rằng kho báu không cầu mà tự đến.

Bạch đức Thế Tôn, chúng con cũng vậy. Vì ba sự đau khổ mà chúng con chịu bao nhiêu phiền lụy trong chốn sống chết. Đời này vẫn ngu vẫn lầm, chỉ ưa giáo pháp thấp nhỏ. Đức Thế Tôn bảo chúng con vận dụng tư duy tu mà quét dọn cho sạch mọi sự hý luận dơ bẩn. Chúng con nỗ lực theo huấn dụ ấy, và chỉ được sự niết bàn nội tại như cái giá làm thuê một ngày mà tự cho đã đủ. Biết chúng vốn khốn khổ vì đắm say dục lạc, ưa thích giáo pháp thấp nhỏ, nên đức Thế Tôn tạm thời gác lại mà chưa phán quyết chúng con cũng có phần nhận được sự thấy biết của Phật – măëc dầu ngài đã nói cho chúng con biết về kho tàng ấy, và chúng con vâng lời ngài mà đem nói cho chư vị Bồ tát, nhưng tự thân chúng con thì không ưa thích gì kho tàng ấy cả. Chúng con không biết mình thật con Phật. Ngày nay, qua kinh Pháp Hoa, đức Thế Tôn tuyên cáo chỉ có cỗ xe Phật đà là thật, Thanh văn cũng là con Phật, và cũng sẽ được làm Phật. Do vậy, chúng con nói chúng con vốn không có tâm nguyện gì, chỉ nhờ hồng ân của đức Thế Tôn phương tiện dẫn dụ mà ngày nay kho tàng thấy biết của đấng Pháp vương tự đến với chúng con. Chúng con lâu ngày nghiêm trì tịnh giới, thực tu phạn hạnh, ngày nay nhận được thành quả vĩ đại – Con Phật đáng nhận được gì thì ngày nay chúng con nhận được đủ cả.

_________

 Phẩm 5: Cây cỏ

 Khi ấy đức Thế Tôn bảo tôn giả Đại Ca Diếp và các vị đại đệ tử của ngài, rằng Như Lai xét biết ý nghĩa của các pháp và biết đạo hạnh của chúng sinh, biết một cách tường tận mà khai thị về sự thấy biết của Phật. Đại Ca Diếp, ví như khắp cả thế giới đại thiên này mây lớn nổi lên và dăng bủa khắp cả, đổ mưa xuống một cách đồng đều, nước mưa ướt thấm tất cả cây cối và cỏ thuốc. Cây cối thì tùy chủng loại lớn hay chủng loại nhỏ, cỏ thuốc thì tùy tính chất tốt, tính chất vừa, tính chất kém, đều hấp thụ đủ cả. Mưa là một màu sắc và mùi vị mà xứng với các mầm, nên cây cối và cỏ thuốc đều sinh ra, lớn lên, trổ hoa, ra trái và kết hạt vẫn khác nhau. Như Lai thuyết pháp cũng vậy. Pháp ấy chỉ một màu sắc và mùi vị là đạt đến sự thấy biết của Phật. Nhưng chúng sinh tùy tâm tính và thị hiếu mà hấp thụ được cả, và được ở vào những vị trí như sau.

Được ngôi vị cao cả trong nhân loại và chư thiên là cỏ thuốc kém; được quả vị Thanh văn và Duyên giác là cỏ thuốc vừa; chí cầu Phật quả và biết sẽ làm Phật là cỏ thuốc tốt. Con Phật chuyên tâm hạnh Phật, tự biết quyết định làm Phật, Bồ tát như vậy là cây nhỏ; chuyển đẩy bánh xe chánh pháp không còn thoái chuyển mà cứu độ vô số chúng sinh, Bồ tát như vậy là cây lớn. Lại nữa, Thanh văn và Duyên giác bằng cái thân tối hậu mà nghe pháp đắc đạo, là cỏ thuốc cùng được lớn lên; Bồ tát trí tuệ vững chắc, cầu cỗ xe Phật đà tối thượng, là cây nhỏ cùng được lớn lên; Bồ tát được thần thông lực, thấu triệt về Không, phóng ánh sáng nhiệm mầu mà hóa đạo chúng sinh, là cây lớn cùng được lớn lên.

Ấy vậy, Như Lai thuyết pháp như mây lớn đổ mưa một vị mà thấm khắp hoa người, làm cho kết trái hạt cả. Thế nên chư vị phải biết La hán chưa thật niết bàn; tất cả chư vị đều là đi theo đường đi Bồ tát, và sẽ làm Phật cả.

_________

Phẩm 6: Thọ ký

Nói những lời trên đây rồi, đức Thế Tôn tuyên cáo với đại hội, rằng Như Lai lấy mắt Phật mà nhìn thì đại đệ tử của Như Lai là tôn giả Đại Ca Diếp đây, vị lai phụng sự nhiều vị Như Lai, tu tập và tuyên thuyết vô số chánh pháp vĩ đại của các ngài, rồi thân cuối cùng thành đức Phật đà danh hiệu Quang Minh, đủ mười đức hiệu, quốc độ tên Quang Đức, thời kỳ tên Đại Trang Nghiêm. Ngài sống nhiều thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp nguyên chất và giáo pháp tương tự đều tồn tại nhiều thời kỳ bậc nhỏ. Quốc độ của ngài đẹp, sạch, Bồ tát chúng và Thanh văn chúng đều vô lượng. Không có việc ma, vua ma và dân ma dầu có cả, nhưng toàn là hộ trì Phật pháp.

Bấy giờ các tôn giả Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề và Ca Chiên Diên đều chấn động cả người, chiêm ngưỡng đức Thế Tôn mà thưa, rằng y như những kẻ đến từ nước đói, gặp cỗ bàn của đức vua, nhưng không được vua bảo thì không dám dùng, chúng con cũng vậy. Đức Thế Tôn đã nói chúng con sẽ làm Phật cả, nhưng xin ngài thọ ký cho, như kẻ đói cần được bảo mới dám ăn. Đức Thế Tôn biết nỗi mong ước của các đại đệ tử, nên bảo, chư vị Tỷ kheo, tôn giả Tu Bồ Đề vị lai sẽ phụng sự nhiều vị Như Lai, thường hành phạn hạnh, đi trọn đường đi Bồ tát rồi, thân cuối cùng thành đức Phật đà danh hiệu Danh Tướng, đủ mười đức hiệu. Thời kỳ tên Hữu Bảo, quốc độ tên Bảo Sinh. Quốc độ ấy đẹp, sạch, dân chúng đều ở lầu ngọc, đài ngọc; Thanh văn chúng thì không thể xác định, Bồ tát chúng thì vô số. Danh Tướng Như Lai sống nhiều thời kỳ bậc nhỏ. Giáo pháp nguyên chất và giáo pháp tương tự đều tồn tại nhiều thời kỳ bậc nhỏ. Danh Tướng Như Lai thường đứng trong không gian mà thuyết pháp, hóa độ vô lượng Bồ tát và Thanh văn.

Đức Thế Tôn lại bảo chư vị Tỷ kheo, tôn giả Ca Chiên Diên trong thì vị lai, phụng sự nhiều vị Như Lai, đi trọn đường đi Bồ tát rồi, thân cuối cùng được thành Phật đà, danh hiệu Diêm Phù Na Đề Kim Quang, đủ mười đức hiệu. Quốc độ đẹp, sạch, không có bốn nẻo đường dữ mà lại có lắm chư thiên nhân loại. Thanh văn chúng và Bồ tát chúng thì vô số, trang hoàng cho quốc độ ấy. Diêm Phù Na Đề Kim Quang Như Lai sống nhiều thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp nguyên chất và giáo pháp tương tự cũng tồn tại nhiều thời kỳ bậc nhỏ.

Đức Thế Tôn lại bảo đại hội, tôn giả Mục Kiền Liên trong thì vị lai phụng sự nhiều vị Như Lai, thường hành phạn hạnh và duy trì giáo pháp của các ngài, rồi thành đức Phật đà danh hiệu Đa Ma La Bạc Chiên Đàn Hương, đủ mười đức hiệu. Thời kỳ tên Hỷ Mãn. Quốc độ tên Ý Lạc, đẹp, sạch, rất nhiều chư thiên và nhân loại, Bồ tát và Thanh văn cũng vô số. Đa Ma La Bạc Chiên Đàn Hương Như Lai sống nhiều thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp nguyên chất và giáo pháp tương tự cũng tồn tại nhiều thời kỳ bậc nhỏ.

Trước khi năm trăm vị đệ tử uy đức toàn vẹn của Như Lai được thọ ký làm Phật, Như Lai nói cho chư vị nghe sự tương quan xa xưa giữa Như Lai với chư vị.

________ 

Phẩm 7: Tương quan xa xưa

Đức Thế Tôn bảo chư vị tỷ kheo, trong thì quá khứ, cách nay vô lượng thời kỳ, có đức Phật đà danh hiệu Đại Thông Trí Thắng, bậc Đến như chư Phật, bậc Thích Ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua niết bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giác hoàn toàn: bậc Tôn cao nhất đời. Quốc độ của ngài tên Hảo thành, thời kỳ của ngài tên Đại tướng. Chư vị tỷ kheo, đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà nhập diệt cách nay những thời kỳ hơn cả vi trần nghiền từ nhiều quốc độ. Vậy mà sức mạnh sự thấy biết của Như Lai nhìn lại sự nhập diệt ấy thấy như thể mới xảy ra hôm nay.

Chư vị tỷ kheo, đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà sống lâu rất nhiều thời kỳ. Khi ngồi nơi bồ đề tràng, ngài phá tan quân đội ma vương rồi, nhưng trải qua không dưới 10 thời kỳ bậc nhỏ nữa các pháp của tuệ giác vô thượng mới thể hiện như ở trước mắt.

Đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà khi chưa xuất gia đã có 16 vương tử. Nghe thân phụ hoàn thành tuệ giác vô thượng thì họ bỏ hết những gì họ thích, cùng nhau đi đến bồ đề tràng. Ai cũng kính lạy và tán dương đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà. Rồi cùng nhau khuyến thỉnh ngài chuyển đẩy bánh xe chánh pháp, rằng xin ngài phô bày sự thấy biết của ngài để làm cho chúng con cùng với chúng sinh cũng trở thành như ngài.

Đức Thế Tôn lại bảo, chư vị tỷ kheo, khi đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà hoàn thành tuệ giác vô thượng thì khắp các cõi Phật mười phương đều chấn động đủ hết sáu cách. Những chỗ tối tăm, và cung điện chư thiên, cũng chấn động và sáng hơn lên. Phạn vương ở các cõi Phật lần theo ánh sáng mà đi tìm, và ai cũng thấy đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà ngồi trên tòa sư tử dưới cây bồ đề, với các chúng nhân loại và không phải nhân loại bao quanh. Lại thấy 16 vương tử đang thỉnh cầu ngài chuyển đẩy bánh xe chánh pháp. Các vị Phạn vương đảnh lễ đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà, đem thiên hoa tung rải mà hiến cúng ngài và cây bồ đề của ngài, lại dâng lên ngài cung điện của họ. Rồi ai cũng thỉnh cầu ngài chuyển đẩy bánh xe chánh pháp.

Lúc bấy giờ đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà nhận lời thỉnh cầu của các vị Phạn vương và 16 vị vương tử, chuyển đẩy bánh xe chánh pháp 4 chân lý, bằng cách 3 lần chuyển đẩy với 12 phương thức: Đây là khổ; đây là khổ, chư vị phải biết; đây là khổ, Như Lai đã biết. Đây là khổ tập; đây là khổ tập, chư vị phải đoạn; đây là khổ tập, Như Lai đã đoạn. Đây là khổ diệt; đây là khổ diệt, chư vị phải chứng; đây là khổ diệt, Như Lai đã chứng. Đây là khổ diệt đạo; đây là khổ diệt đạo, chư vị phải tu; đây là khổ diệt đạo, Như Lai đã tu. Rồi 4 chân lý như vậy lại được nói rộng thành 12 duyên khởi. Nói rộng khổ và khổ tập như sau: vô minh sinh thì hành sinh, cho đến sinh sinh thì khổ não sinh. Nói rộng khổ diệt và khổ diệt đạo như sau: vô minh diệt thì hành diệt, cho đến sinh diệt thì khổ não diệt. Khi đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà ở giữa đại hội tuyên thuyết chánh pháp trên đây thì có hàng ức hàng triệu người, vì không tham đắm các pháp, nên tâm được giải thoát, 3 minh trí và 6 thần thông họ có đủ cả. Rồi lần thứ hai, lần thứ ba và lần thứ tư, cũng đều như vậy. Từ đó về sau, riêng chúng thanh văn cũng đã vô lượng vô biên. Như thế đó là cỗ xe Thanh văn và cỗ xe Duyên giác được thiết lập và vận dụng mà hóa độ 2 chúng sinh này. Còn sự thiết lập và vận dụng cỗ xe Phật đà như sau.

Phần 16 vương tử thì cùng đem cái tuổi đồng niên mà xuất gia, làm sa di bồ tát. Ai cũng từng phụng sự rất nhiều chư vị Như Lai, thực hành phạn hạnh một cách trong sáng mà cầu tuệ giác vô thượng. Cùng nhau, họ thưa đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà, rằng vô số chư vị thanh văn như trên đã thành thục cả rồi, kính xin đức Thế Tôn nói cho về pháp của tuệ giác vô thượng. Tâm chí chúng con là nguyện được tuệ giác ấy. Đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà nhận lời, và qua nhiều thời kỳ rồi, ngài ở giữa đại hội mà nói kinh Pháp Hoa. Nói rồi, 16 sa di bồ tát vì tuệ giác vô thượng mà ai cũng tiếp nhận, ghi nhớ và đọc tụng một cách thông suốt, sắc sảo. Trong khi ngài nói kinh ấy thì 16 vị sa di bồ tát, và chúng bồ tát, ai cũng tin hiểu được cả. Trong chúng thanh văn cũng có vị tin hiểu. Nhưng nhiều người khác sinh ra nghi ngại.

Đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà nói kinh Pháp Hoa suốt nhiều thời kỳ mà không lúc nào nghỉ. Nói rồi, ngài nhập thất mà thiền định đến hàng ngàn thời kỳ. Bấy giờ, cũng trong thì gian ấy, 16 vị sa di bồ tát đều giảng diễn phong phú về kinh Pháp Hoa. Vị nào cũng hóa độ hằng sa chúng sinh cho họ phát tâm tuệ giác vô thượng. Hàng ngàn thời kỳ qua rồi, đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà xuất định, bảo đại hội, bất cứ thanh văn, duyên giác hay bồ tát, ai tin được kinh pháp do 16 vị sa di bồ tát tuyên thuyết, thì những người ấy rồi ra ai cũng được sự thấy biết của Phật.

Chư vị tỷ kheo, 16 vị sa di bồ tát thường vui thích nói Pháp Hoa. Mười sáu số lượng hằng sa chúng sinh mà mỗi vị giáo hóa thì đời đời sinh ra ở đâu cũng chung với mỗi vị, theo mỗi vị mà nghe pháp thêm nữa. Do vậy mà 16 số lượng hằng sa chúng sinh ấy gặp được hàng ức chư vị Như Lai nữa, và việc ấy đến nay vẫn chưa chấm dứt. Chư vị tỷ kheo, nay Như Lai nói để chư vị biết, 16 vị sa di bồ tát, đệ tử của đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà, hiện nay cùng thành tựu tuệ giác vô thượng và đang thuyết pháp giáo hóa khắp cả mười phương quốc độ. Hai vị ở chính đông là A Súc Như Lai và Tu Di Đảnh Như Lai. Hai vị ở đông nam là Sư Tử Âm Như Lai và Sư Tử Tướng Như Lai. Hai vị ở chính nam là Hư Không Trú Như Lai và Thường Diệt Như Lai. Hai vị ở tây nam là Đế Tướng Như Lai và Phạn Tướng Như Lai. Hai vị ở chính tây là A Di Đà Như Lai và Độ Nhất Thế Thế Gian Khổ Não Như Lai. Hai vị ở tây bắc là Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Thần Thông Như Lai và Tu Di Tướng Như Lai. Hai vị ở chính bắc là Vân Tự Tại Như Lai và Vân Tự Tại Vương Như Lai. Một vị ở đông bắc là Hoại Nhất Thế Thế Gian Bố Úy Như Lai. Còn vị thứ 16 là ta, Thích Ca Mâu Ni Như Lai, ở quốc độ Kham Nhẫn này.

Chư vị tỷ kheo, như trên đã nói, khi chúng ta làm sa di bồ tát thì ai cũng giáo hóa hằng sa chúng sinh. Mười sáu số lượng hằng sa chúng sinh này vì tuệ giác vô thượng mà vẫn theo nghe Pháp với chúng ta. Nhưng trong mỗi số lượng ấy, cho đến ngày nay, có những người vẫn còn ở vị trí thanh văn, thì chúng ta vẫn thường giáo hóa cho bằng pháp của tuệ giác vô thượng. Những người này, mà thuộc số lượng hằng sa chúng sinh của phần Như Lai giáo hóa từ lúc Như Lai còn làm sa di bồ tát, thì chính là chư vị, và chư vị đệ tử thanh văn trong thì vị lai sau khi Như Lai nhập diệt. Chư vị đệ tử thanh văn sau khi Như Lai nhập diệt cũng có những người không nghe Pháp Hoa, không hay không biết gì về đường đi của bồ tát, và đối với thành quả của mình thì phát sinh ý tưởng nhập được niết bàn.

Chư vị tỷ kheo, bất cứ ở quốc độ nào, khi Như Lai tự biết thì giờ nhập diệt sắp đến, chư tăng lại thanh tịnh, sự tin hiểu cũng vững chắc, ai cũng thấu triệt về Không, vào sâu tư duy tu, thì bấy giờ Như Lai nói cho kinh Pháp Hoa này, minh xác rằng thế gian không có cỗ xe thanh văn và cỗ xe duyên giác đưa đến niết bàn, mà đưa đến niết bàn thì chỉ có cỗ xe Phật đà.

Chư vị tỷ kheo, nên biết Như Lai đủ mọi phương tiện, lại đi sâu vào bản tính chúng sinh, biết chí nguyện của chúng sinh ưa thích giáo pháp thấp nhỏ là vì đã đắm sâu vào trong năm thứ dục lạc; vì những người như vậy mà Như Lai nói đến niết bàn thanh văn và duyên giác, và họ nghe thì tin hiểu được. Sự thể ví như con đường hiểm ác dài đến năm trăm do tuần, nằm trong chốn hoang vắng và ghê rợn. Một đoàn nhiều người muốn vượt qua con đường ấy để đến chỗ vàng ngọc. Một vị hướng dẫn rất thông minh, lại biết rõ con đường hiểm ác này chỗ nào thông chỗ nào nghẽn. Vị ấy dẫn đoàn người vượt qua con đường này. Nhưng đoàn người nửa đường đổ nhác, muốn lui, thưa với vị hướng dẫn, rằng chúng tôi quá mệt mà lại ghê sợ, không còn đi tới được nữa. Chúng tôi muốn lui về. Vị hướng dẫn có lắm chước phương tiện, nghĩ rằng đoàn người này thật đáng thương, sao lại bỏ vàng ngọc to lớn mà muốn trở về. Nghĩ rồi, vị ấy sử dụng phương tiện lực, ngay nơi đoạn giữa của con đường hiểm ác, chỗ đã qua ba trăm do tuần, biến hóa một thành quách to lớn, và bảo họ, các người đừng sợ, đừng về. Thành quách to lớn kia các người có thể vào nghỉ, muốn ở luôn trong đó thì yên ổn thích thú, muốn đi tới để đến chỗ vàng ngọc thì cũng đi được. Đoàn người mỏi mệt, lúc đó, lòng rất vui mừng, rằng chúng ta bây giờ thoát khỏi con đường hiểm ác và được an toàn rồi. Rồi cả đoàn bước tới mà vào trong thành biến hóa, sinh ra ý tưởng đã vượt qua, ý tưởng đã an toàn. Nhưng vị hướng dẫn, khi biết đoàn người nghỉ ngơi hết mệt, tức thì diệt mất cái thành biến hóa đi, bảo đoàn người hãy nên đi tới: chỗ vàng ngọc đã gần đây. Cái thành to lớn vừa rồi chỉ do ta hóa ra cho các người dừng nghỉ mà thôi. Chư vị tỷ kheo, Như Lai cũng vậy. Như Lai làm đại đạo sư cho chư vị. Như Lai biết rõ đường dữ sống chết phiền não là con đường đầy hiểm nạn mà lại xa dài, ai cũng phải rời bỏ, phải vượt qua. Nhưng nếu chư vị chỉ nghe cỗ xe Phật đà thì sẽ không thích gặp Như Lai, không muốn thân gần, vì nghĩ rằng tuệ giác Phật đà quá dài quá xa, siêng khó lâu lắm mới được thành đạt. Như Lai biết rõ tâm lý khiếp nhược hèn kém ấy nên dùng phương tiện lực, nói ra niết bàn của thanh văn và duyên giác để cho chư vị dừng nghỉ giữa đường. Khi chư vị đã đứng ở vị trí thanh văn và duyên giác rồi, Như Lai liền nói cho chư vị biết việc làm của chư vị chưa được hoàn tất. Nhưng vị trí của chư vị đang đứng thì đã gần đến sự thấy biết của Phật. Chư vị hãy xét niết bàn mà chư vị thực hiện: niết bàn ấy chỉ là cái thành biến hóa do Như Lai phương tiện thiết lập mà thôi.

Chư vị tỷ kheo, do sự tương quan xa xưa đã nói như trên, ngày nay Như Lai tuyên thuyết Pháp Hoa, làm cho chư vị nhập vào Phật tuệ. Ngày nay Như Lai nói thật để chư vị biết: cái chư vị được không phải đã là niết bàn hoàn toàn. Để đạt cho được niết bàn hoàn toàn, chư vị cần phải nổi lên tột độ sự đại tinh tiến. Khi nào chư vị đạt được sự thấy biết của Phật nội dung gồm đủ mọi phẩm chất Phật—mà đại loại như 10 đại năng lực, lại có đủ cả 32 tướng đại trượng phu, bấy giờ mới là niết bàn hoàn toàn.

_________ 

Phẩm 8: Năm trăm đệ tử tiếp nhận thọ ký

Lúc ấy tôn giả Phú Lâu Na được nghe từ đức Thế Tôn sự phương tiện tùy nghi thuyết pháp, sự thọ ký cho các vị đại đệ tử, và sự tương quan xa xưa, thì tâm trí trong sáng, phấn chấn, bước tới trước đức Thế Tôn, lạy ngang chân ngài, rồi chiêm ngưỡng ngài mà nghĩ, đức Thế Tôn thật hiếm có, thích ứng với mọi thành phần, sử dụng tuệ giác và phương tiện mà thuyết pháp, kéo họ ra khỏi mọi sự vướng mắc. Thế nên chỉ có ngài mới biết ước nguyện căn bản của chúng ta.

Vào lúc ấy đức Thế Tôn bảo, chư vị tỷ kheo, đệ tử của Như Lai khéo học phương tiện, ở trong cất chứa phẩm chất bồ tát, bề ngoài hiện ra hình dáng thanh văn. Tôn giả Phú Lâu Na đây Như Lai thường ca tụng là người thuyết pháp bậc nhất, duy trì và tuyên dương chánh pháp của Như Lai và của chư Phật quá khứ vị lai. Tôn giả thấu suốt về Không mà chư Phật nói, nên thuyết pháp một cách xác tín, trong sạch. Vì mục đích tịnh hóa quốc độ mà tôn giả thường làm việc Phật làm là giáo hóa chúng sinh. Chư vị tỷ kheo, khi hoàn bị về đường đi như vậy của bồ tát, trải qua nhiều thời kỳ rồi, tôn giả sẽ ở chính nơi quốc độ này mà thành đức Phật đà, danh hiệu Pháp Minh, đủ mười đức hiệu. Pháp Minh Như Lai lấy hằng sa đại thiên thế giới mà làm một quốc độ của mình, đẹp và sạch, không có đường dữ và nữ nhân, ai cũng sinh ra bằng biến hóa. Cả quốc độ thường ăn bằng cái vui chánh pháp và cái vui thiền định. Bồ tát chúng và thanh văn chúng đều vô số lượng. Thời kỳ của Pháp Minh Như Lai tên Bảo Minh, quốc độ của ngài tên Thiện Tịnh. Ngài sống lâu nhiều thời kỳ, giáo pháp cũng tồn tại cực kỳ lâu dài.

Bấy giờ 1200 vị tâm đã tự tại cùng nghĩ, thật là thích thú nếu được đức Thế Tôn thọ ký cho như các vị đại đệ tử của ngài. Biết ý nghĩ ấy, đức Thế Tôn bảo tôn giả Đại Ca Diếp, đại đệ tử của Như Lai là tôn giả Kiều Trần Như đây sẽ phụng sự rất nhiều chư vị Như Lai, rồi thành Phật với danh hiệu Phổ Minh, đủ mười đức hiệu, quốc độ trong sạch, bồ tát dũng mãnh. Phổ Minh Như Lai sống lâu nhiều thời kỳ, giáo pháp nguyên chất tồn tại gấp đôi sống lâu, giáo pháp tương tự tồn tại gấp đôi giáo pháp nguyên chất. Đại Ca Diếp, 500 vị trong số 1200 vị La hán, đại loại như các tôn giả Tần Loa Ca Diếp, Già Da Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp, Ca Lưu Đà Di, Ưu Đà Di, A Nâu Lâu Đà, Ly Bà Đa, Kiếp Tân Na, Bạc Câu La, Châu Đà, Sa Già Đà, đều sẽ được tuệ giác vô thượng và cùng một danh hiệu Phổ Minh Như Lai. Chư vị Như Lai như vậy sẽ tuần tự thọ ký cho nhau, và mọi sự giống nhau tất cả.

Năm trăm vị La hán được đức Thế Tôn thọ ký rồi, hoan hỷ, phấn chấn, lạy ngang chân ngài, hối lỗi, tự trách, bằng cách thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, chúng con thường tự cho đã được niết bàn cuối cùng. Ngày nay mới biết ý nghĩ ấy thật như kẻ vô trí. Chúng con phải được tuệ giác vô thượng của Phật mới là niết bàn chân thật, vậy mà tự cho tuệ giác nhỏ mọn của mình đã là đầy đủ.

Bạch đức Thế Tôn, ví như có kẻ đến nhà bạn thân, say rượu nằm ngủ. Người bạn sắp đi việc công, nên đem viên ngọc vô giá buộc vào áo trong của người ấy. Người ấy ngủ say, không hay biết gì cả. Tỉnh dậy thì lang thang đến xứ khác, làm ăn rất cực nhọc. Và kiếm được chút ít thì tự cho đã đủ. Về sau người bạn gặp lại, thấy mà phải kêu lên, sao anh đến nông nỗi này. Trước đây muốn cho anh vui thú nên tôi đã đem viên ngọc vô giá buộc vào áo trong của anh. Nay đang còn kia. Sao anh không biết, để phải kiếm sống khó nhọc. Anh thật khờ dại. Hãy đem viên ngọc ấy đổi lấy những thứ cần dùng, thì không còn thiếu thốn gì nữa.

Đức Thế Tôn cũng vậy. Khi ngài làm bồ tát, đã gieo vào chúng con chí nguyện tối thượng, chí nguyện mong cầu tuệ giác của bậc Toàn giác. Nhưng chúng con quên ngay, không hay biết gì hết. Được tuệ giác La hán là tự cho đã niết bàn, như kẻ kiếm sống cực nhọc nên chỉ được chút ít mà tự cho đã đủ. Trong khi đó chí nguyện nói trên vẫn còn y nguyên. Ngày nay đức Thế Tôn thức tỉnh chúng con, dạy rằng cái mà chư vị được chưa phải niết bàn. Bạch đức Thế Tôn, ngày nay chúng con mới biết mình thật là bồ tát, được nhận lời ghi về tuệ giác vô thượng. Do vậy mà chúng con cùng cực hoan hỷ, được sự chưa từng có.

__________

 Phẩm 9: Thọ ký cho các vị tu học tiếp tục và tu học hoàn tất

 Lúc ấy các tôn giả A Nan Đà và La Hầu La đều nghĩ, nếu được đức Thế Tôn thọ ký thì thích thú biết bao. Các tôn giả đến trước đức Thế Tôn, đầu mặt lạy ngang chân ngài và cùng thưa, bạch đức Thế Tôn, trong sự thọ ký chúng con cũng đáng có phần. Chúng con được chư thiên, nhân loại và tu la, ai cũng biết đến. Nếu đức Thế Tôn thọ ký cho chúng con thì ước nguyện của chúng con đã đạt mà ước vọng của các chúng cũng thỏa. Bấy giờ 2000 vị đệ tử thanh văn của đức Thế Tôn mà sự tu học đang tiếp tục hay đã hoàn tất, cũng đều đứng dậy, đến trước đức Thế Tôn, chuyên chú mà chắp tay chiêm ngưỡng, cùng biểu lộ sự ước nguyện như ước nguyện của các tôn giả A Nan Đà và La Hầu La.

Khi ấy đức Thế Tôn bảo tôn giả A Nan Đà, vị lai tôn giả sẽ được thành Phật với danh hiệu Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương, đủ 10 đức hiệu. Tôn giả sẽ phụng sự hàng ức chư vị Phật đà, coi giữ kho tàng chánh pháp của các ngài, sau đó thực hiện tuệ giác vô thượng, giáo hóa bồ tát nhiều bằng hàng ức hằng sa. Quốc độ tên là Ngọn Cờ Siêu Việt thường dựng cao lên, toàn cõi trong sạch. Thời kỳ tên là Âm Thanh Tinh Túy vang dội khắp cả. Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai sống lâu hàng ức thời kỳ, giáo pháp nguyên chất tồn tại gấp đôi sống lâu, giáo pháp tương tự tồn tại gấp đôi giáo pháp nguyên chất. Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai được hằng sa Như Lai khắp cả mười phương cùng nhau ca tụng tán dương thành quả của ngài.

Bấy giờ trong đại hội có hàng ngàn vị bồ tát mới phát tâm cùng nghĩ, đến như chư vị đại bồ tát mà chúng ta cũng không nghe thấy được thọ ký như vầy, vì nguyên nhân nào mà chư vị thanh văn lại được phán quyết như vậy? Đức Thế Tôn biết ý nghĩ ấy nên bảo, chư thiện nam tử, Như Lai cùng với tôn giả A Nan Đà đã từng ở nơi đức Không Vương Như Lai đồng thời phát ra tâm chí mong cầu tuệ giác vô thượng. Nhưng tôn giả thường thích đa văn, còn Như Lai thường siêng tinh tiến, nên Như Lai thành tựu tuệ giác vô thượng mà tôn giả coi giữ kho tàng chánh pháp của Như Lai. Tôn giả ấy cũng coi giữ kho tàng chánh pháp của chư Phật vị lai. Bản nguyện của tôn giả là như vậy nên được thọ ký như trên.

Tôn giả A Nan Đà đích thân nghe lời đức Thế Tôn thọ ký cho thì tức khắc nhớ được kho tàng chánh pháp của vô lượng chư Phật quá khứ như thể hiện tại mới nghe, lại nhớ được cả bản nguyện của mình phương tiện làm thị giả để coi giữ chánh pháp của chư Phật.

Khi ấy đức Thế Tôn bảo tôn giả La Hầu La, trong vị lai, tôn giả sẽ được thành Phật với danh hiệu Đạp Thất Bảo Hoa Như Lai, đủ 10 đức hiệu. Tôn giả sẽ phụng sự chư Phật bằng vi trần của hàng chục thế giới và cũng làm trưởng tử của các ngài. Sự huy hoàng của quốc độ, số lượng thời kỳ sống lâu, đệ tử được giáo hóa, giáo pháp nguyên chất và giáo pháp tương tự, tất cả điều này của đức Đạp Thất Bảo Hoa Như Lai đều giống như của đức Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai. Tôn giả cũng sẽ làm trưởng tử của ngài. Và qua thì gian ấy rồi sẽ được tuệ giác vô thượng.

Đức Thế Tôn lại thấy 2000 vị tu học tiếp tục và tu học hoàn tất tâm ý của họ mềm dịu, vắng lặng, trong suốt, chuyên chú nhìn ngài, nên ngài bảo tôn giả A Nan Đà, tôn giả thấy các vị này chăng? Các vị sẽ phụng sự chư Phật nhiều bằng vi trần của hàng chục thế giới, kính trọng, coi giữ kho tàng chánh pháp của các ngài, và cuối cùng thì đồng thời thành Phật ở khắp mười phương quốc độ, với danh hiệu đồng nhất là Bảo Tướng Như Lai, đủ 10 đức hiệu. Lại cùng sống lâu một thời kỳ. Sự tráng lệ của quốc độ, chúng thanh văn và chúng bồ tát, giáo pháp nguyên chất và giáo pháp tương tự, tất cả điều này cũng đồng đẳng. Lại cũng đồng đẳng giáo hóa cứu độ mười phương chúng sinh, và rồi dần dần nhập vào niết bàn.

Bấy giờ 2000 vị tu học tiếp tục và tu học hoàn tất nghe đức Thế Tôn thọ ký cho như vậy, ai cũng hoan hỷ, phấn chấn, cùng thưa, bạch đức Thế Tôn, chúng con nghe được tiếng ngài thọ ký, tâm thức tràn ngập hoan hỷ, y như được rưới nước cam lộ.

__________ 
 

Phẩm 10: Người diễn giảng Pháp Hoa

Khi ấy đức Thế Tôn qua đại bồ tát Dược Vương mà nói với hàng vạn đại sĩ, rằng Dược Vương, đại sĩ hãy nhìn, đại hội này có vô lượng 8 bộ, 4 chúng, có những người cầu tuệ giác Thanh văn, cầu tuệ giác Duyên giác hay cầu tuệ giác Phật đà. Các chúng như thế này hiện ở trước Như Lai mà nghe Pháp Hoa, thì Như Lai thọ ký cho tất cả sẽ được tuệ giác vô thượng. Dược Vương, sau khi Như Lai nhập diệt, nếu có người nào nghe kinh Pháp Hoa thì Như Lai cũng thọ ký cho như vậy.

Nếu có người nào đối với kinh Pháp Hoa mà biết tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng nói cho người, sao chép ấn hành…; hoặc đối với cuốn kinh Pháp Hoa mà thôi mà biết kính và nhìn như kính và nhìn Như Lai, hiến cúng bằng các loại hoa, vòng hoa, các hương liệu, lọng dù, tràng phan, kịch nhạc, vải lụa bao bọc…, thì Dược Vương, hãy coi những người này như đã phụng sự rất nhiều chư vị Phật đà. Người nào có thể tiếp nhận kính giữ kinh Pháp Hoa này thì hãy nên coi người ấy chính là Như Lai phái đến; thì phải nên coi người ấy là người đã được tự do chỗ họ muốn sinh, có thể sinh trong thời kỳ dữ dội mà nói rộng rãi Pháp Hoa tối thượng. Sau khi Như Lai nhập niết bàn rồi, trong thời dữ dội người nào có thể tiếp nhận kính giữ kinh Pháp Hoa này thì ai cũng nên kính như kính Phật. Thời dữ sau này ai có năng lực kính giữ kinh Pháp Hoa này, thì người ấy là sứ giả của Như Lai phái đến trong loài người này để làm công việc của Như Lai.

Khi ấy đức Thế Tôn lại bảo Dược Vương đại sĩ, bao nhiêu kinh pháp của Như Lai tuyên thuyết, kinh Pháp Hoa này rất khó tin khó hiểu. Dược Vương, Pháp Hoa là kho tàng bí yếu của chư Phật, được chư Phật giữ gìn, từ trước đến nay Như Lai chưa hề nói đến một cách minh bạch. Cho nên Dược Vương, đại sĩ nên biết, sau khi Như Lai nhập diệt, ai có năng lực sao chép ấn hành, tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, tôn kính hiến cúng, giảng nói cho người…, thì người ấy được Như Lai đem pháp y mà che phủ, lại được chư vị Như Lai hiện tại ở các quốc độ khác cùng giữ gìn cho, nên người ấy có được sức mạnh của đức tin vĩ đại, sức mạnh của chí nguyện, và sức mạnh của các gốc rễ pháp lành. Nên biết người ấy cư ngụ cùng tăng xá với Như Lai, được Như Lai đưa tay xoa đầu.

Những người cầu tuệ giác Phật đà mà thấy nghe kinh Pháp Hoa, thấy nghe rồi tin tưởng, lý giải, tiếp nhận, ghi nhớ, thì biết những người ấy đã được đến gần tuệ giác vô thượng. Dược Vương, ví như có người đang khát, cần nước, nên ở chỗ cao nguyên đào đất mà tìm. Ra công liên tục, dần dần thấy đất ướt rồi thấy đất bùn, thì lòng họ biết chắc đã gần đến nước. Bồ tát cũng vậy, nếu nghe, hiểu, tư duy và tu tập được Pháp Hoa, thì nên biết chắc chắn đã đến gần tuệ giác vô thượng. Tại sao, vì tuệ giác vô thượng của hết thảy bồ tát tìm cầu đều ở trong Pháp Hoa. Pháp Hoa mở phương tiện mà chỉ thật tướng. Kho tàng Pháp Hoa sâu, chắc, kín và xa, không ai thấu được. Như Lai ngày nay vì giáo hóa tác thành cho các vị bồ tát mới mở ra, chỉ cho. Dược Vương, nếu bồ tát nghe Pháp Hoa mà kinh sợ ngờ vực thì đó là bồ tát mới phát tâm, còn thanh văn nghe Pháp Hoa mà kinh sợ ngờ vực thì đó là kẻ tăng thượng mạn.

Dược Vương, sau khi Như Lai nhập diệt, thiện nam hay thiện nữ nào muốn diễn giảng Pháp Hoa cho 4 chúng, thì phải làm sao mới nên diễn giảng? Dược Vương, thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà của Như Lai là đại từ bi, phải mặc áo của Như Lai là đức nhẫn nhục, phải ngồi chỗ của Như Lai là nguyên lý Không. Phải như vậy mới nên diễn giảng Pháp Hoa, bản kinh vua các kinh, bản kinh xác quyết cho chư vị thanh văn. Diễn giảng Pháp Hoa mà ai thóa mạ, hành hung, thì hãy nhớ Như Lai mà nhẫn. Người nào đủ hết 3 pháp nói trên thì diễn giảng hay đọc tụng Pháp Hoa đều thấy được Như Lai. Và diễn giảng Pháp Hoa mà người nghe hoan hỷ là do Như Lai hộ trì.

_________ 

Phẩm 11: Bảo tháp xuất hiện

 Vào lúc bấy giờ, trước đức Thế Tôn, một ngôi bảo tháp bằng bảy chất liệu quí báu, cao và lớn, từ đất vọt lên, đứng trong không gian. Bảo tháp được trang hoàng bằng đủ thứ bảo vật. Từ trong bảo tháp xuất ra âm thanh rất lớn, tán dương rằng tốt lắm, thưa đức Thích Ca Thế Tôn; ngài có thể tuyên thuyết cho đại hội các chúng như thế này về kinh Pháp Hoa của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Thật đúng như vậy, thưa đức Thích Ca Thế Tôn; những điều ngài tuyên thuyết toàn là chân thật.

Bấy giờ 4 chúng đã thấy bảo tháp vĩ đại đứng trong không gian, lại nghe âm thanh xuất ra từ bảo tháp ấy, thì ai cũng được sự vui đẹp về chánh pháp, và ngạc nhiên thấy là sự chưa từng có, nên cùng đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, cung kính chắp tay mà đứng mãi với một tư thế ấy. Lúc này có vị đại sĩ danh hiệu là Đại Lạc Thuyết, bạch đức Thích Ca Thế Tôn, vì lý do nào mà ngôi bảo tháp như vầy từ đất vọt lên, và trong đó phát ra âm thanh vừa rồi? Đức Thế Tôn bảo, Đại Lạc Thuyết, trong ngôi bảo tháp này có toàn thân của một đức Phật đà. Thì quá khứ, ở phương dưới, có một quốc độ tên là Bảo Tịnh, đức Phật giáo chủ danh hiệu là Đa Bảo Phật đà. Khi còn đi trên đường đi của bồ tát, ngài phát lời nguyện trọng đại, nguyện rằng nếu được trở thành Phật đà thì sau khi nhập diệt, trong mười phương quốc độ, chỗ nào có Phật nói kinh Pháp Hoa, bảo tháp của Như Lai cũng sẽ xuất hiện trước chỗ ấy để nghe kinh ấy, và làm chứng cho kinh ấy bằng cách tán dương rằng tốt lắm. Khi thành Phật đà rồi, lúc sắp nhập diệt, đức Đa Bảo Phật đà ở giữa đại hội chư thiên nhân loại mà tuyên cáo chư vị tỷ kheo, rằng khi Như Lai nhập diệt rồi, ai muốn hiến cúng toàn thân của Như Lai thì nên chung nhau xây dựng một ngôi bảo tháp cho vĩ đại. Rồi đức Đa Bảo Phật đà vận dụng sức mạnh thần thông và sức mạnh đại nguyện, bất cứ chỗ nào trong mười phương quốc độ có Phật tuyên thuyết Pháp Hoa, bảo tháp của ngài cũng xuất hiện ở trước, và toàn thân của ngài ở trong bảo tháp tán dương rằng tốt lắm. Đại Lạc Thuyết, hôm nay đức Đa Bảo Phật đà nghe Như Lai tuyên thuyết Pháp Hoa nên bảo tháp của ngài xuất hiện mà tán dương rằng tốt lắm.

Đại Lạc Thuyết đại sĩ lúc ấy bạch đức Thế Tôn, chúng con ước muốn được nhìn thấy toàn thân của đức Đa Bảo Phật đà. Đức Thế Tôn bảo, Đại Lạc Thuyết, đức Đa Bảo Phật đà còn có lời nguyện sâu xa và trọng đại nữa, nguyện rằng khi bảo tháp của Như Lai xuất hiện trước các đức Phật để nghe Pháp Hoa, nếu đức Phật nào muốn đem toàn thân của Như Lai chỉ cho 4 chúng, thì chư Phật phân thân của đức Phật ấy đang thuyết pháp giáo hóa ở khắp mười phương quốc độ đều qui tụ lại một chỗ, bấy giờ toàn thân của Như Lai mới xuất hiện. Đại Lạc Thuyết, chư Phật phân thân của Như Lai hiện đang thuyết pháp ở mười phương quốc độ, hôm nay Như Lai cũng nên chiêu tập. Đại Lạc Thuyết đại sĩ thưa, bạch đức Thế Tôn, chúng con cũng ước muốn được nhìn thấy chư Phật phân thân của đức Thế Tôn để lễ bái, hiến cúng.

Khi ấy đức Thế Tôn phóng một đường hào quang chiếu qua hướng đông. Cả đại hội tức thì thấy được chư Phật của hằng sa quốc độ ở hướng ấy, và nghe các ngài thuyết pháp. Hướng đông như vậy thì các hướng tây nam bắc, 4 góc và trên dưới, hướng nào hào quang cũng chiếu đến, và cả đại hội cũng thấy nghe như đã thấy nghe về hướng đông. Chư Phật phân thân ở mười phương hướng đều bảo các vị bồ tát ở quốc độ của mình, rằng chư thiện nam tử, Như Lai nay nên đến quốc độ Kham nhẫn, chỗ đức Thích Ca Thế Tôn, để cùng hiến cúng ngài và hiến cúng bảo tháp của đức Đa Bảo Phật đà. Bấy giờ đức Thế Tôn biến quốc độ Kham nhẫn, và tám phương hướng của quốc độ này ngài lại 2 lần, mỗi lần biến hàng trăm triệu quốc độ của mỗi phương hướng, suốt hết tất cả quốc độ như vậy cùng trở thành một tịnh độ, với lưu ly làm đất và trang trí bằng cây ngọc. Dưới mỗi cây ngọc có một tòa sư tử cũng bằng ngọc. Che khắp trên tịnh độ này là những màn được đính kết các thứ ngọc xen nhau và bủa ra. Bảo cái được treo lên. Đốt lên hương liệu rất quí. Rải khắp mặt đất là thiên hoa.

Lúc ấy chư Phật phân thân của đức Thích Ca Thế Tôn ở mười phương hướng đều đến qui tụ, và ngài nào cũng ngồi trên tòa sư tử ngọc dưới những cây ngọc. Các ngài ngồi tràn đầy cả tịnh độ nói trên. Và ngài nào cũng phái vị đại bồ tát thị giả đến vấn an đức Thế Tôn. Các ngài cầm mà đưa hoa ngọc cho các vị ấy bưng đầy hai tay, bảo rằng Thiện nam tử, hãy đến Linh sơn, chỗ đức Thích Ca Thế Tôn, thưa với ngài đúng như lời của Như Lai, rằng đức Thế Tôn ít bịnh ít phiền, khí lực yên vui chăng, thanh văn và bồ tát yên ổn cả chăng. Hãy rải hoa ngọc này mà hiến cúng ngài, và bạch rằng đức Thế Tôn của con danh hiệu như vậy, muốn được cùng đức Thế Tôn mở cửa bảo tháp của đức Đa Bảo Phật đà.

Khi ấy đức Thích Ca Thế Tôn thấy chư Phật phân thân đã qui tụ, lại nghe chư Phật ấy muốn được cùng mở cửa bảo tháp, nên ngài đứng dậy, rời khỏi pháp tòa, đứng trong không gian. Tất cả 4 chúng, vốn đã đứng lên và chắp tay, bây giờ chăm chú mà nhìn đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn liền dùng ngón tay bên phải mở cửa bảo tháp, làm phát ra âm thanh lớn như cửa thành lớn được tháo khóa chốt mà mở ra. Tức thì toàn thể đại hội các chúng đều được thấy đức Đa Bảo Phật đà ngồi trong bảo tháp, trên tòa sư tử, toàn thân không rã, y như đang nhập thiền định. Cả đại hội lại được nghe lời của đức Đa Bảo Phật đà nói, rằng tốt lắm, thưa đức Thích Ca Thế Tôn, ngài đã tuyên thuyết một cách thích thú về kinh Pháp Hoa. Tôi đến đây là để nghe kinh ấy.

Bốn chúng cùng bao bộ chúng khác, nghe thấy đức Phật nhập diệt hàng ức thời kỳ rồi mà nói như vậy thì ai cũng ca tụng là sự chưa từng có. Cả khối hoa quí của chư thiên được họ đem tung rải trên đức Đa Bảo Phật đà và đức Thích Ca Thế Tôn. Còn đức Đa Bảo Phật đà thì ở trong bảo tháp để một nửa pháp tòa của mình nhường cho đức Thích Ca Thế Tôn mà nói rằng thưa ngài, mời ngài đến ngồi ở đây. Tức thì đức Thích Ca Thế Tôn vào trong bảo tháp, ngồi trên một nửa pháp tòa, cũng theo cách ngồi xếp bằng. Cả đại hội các chúng thấy hai ngài cùng ngồi xếp bằng trên pháp tòa sư tử ở trong bảo tháp, thì nghĩ rằng hai ngài ngồi cao xa quá, xin đức Thế Tôn dùng sức mạnh thần thông mà làm cho chúng con cũng được lên ở trên không gian. Tức thì đức Thích Ca Thế Tôn làm cho cả đại hội các chúng được như nguyện, rồi đem âm thanh vĩ đại mà phổ cáo toàn thể, rằng ai là người có thể ở trong quốc độ Kham nhẫn này mà giảng nói rộng rãi về kinh Pháp Hoa, thì bây giờ chính là lúc nên nói ra. Pháp Hoa là bậc nhất, giữ được Pháp Hoa là giữ được toàn thân Như Lai. Chư thiện nam thiện nữ, hãy nghĩ cho kỹ: đó là trách vụ khó khăn, các người nên phát nguyện mà đảm nhận.

_______

 

Phẩm 12: Đề Bà Đạt Đa

 Khi ấy đức Thế Tôn bảo đại hội, quá khứ Như Lai đã cầu Pháp Hoa trong nhiều thời kỳ. Như Lai thường làm quốc vương, nguyện cầu sự thấy biết của Phật, lòng không thoái lui hay lệch khỏi mục đích ấy. Tính mạng cũng không tiếc, nên quốc vương từ bỏ ngôi vua, cần cầu chánh pháp, rằng ai nói được cho ta về đại thừa thì ta phụng sự suốt đời. Có một tiên nhân đến nói tôi biết Pháp Hoa. Quốc vương thực hành được thì tôi dạy cho. Quốc vương rất mừng, tức thì đi theo, phụng sự mọi điều vị ấy cần đến. Cả ngàn năm, vì chánh pháp mà quốc vương tinh chuyên, cung đốn hầu hạ tiên nhân, không thiếu sót điều gì. Dồn hết tâm tình vào pháp tinh túy nên cả thân tâm không nhác không mệt. Khắp vì bao loại chúng sinh mà nỗ lực cầu pháp vĩ đại, chứ không vị gì bản thân hay thú vui ngũ dục. Do đó mà được thành Phật, và nay cố đem cái pháp như vậy nói cho các người.

Đức Thế Tôn bảo chư vị tỷ kheo, quốc vương lúc ấy nay là Như Lai, còn vị tiên nhân ấy nay là Đề Bà Đạt Đa. Do người bạn tốt Đề Bà Đạt Đa mà Như Lai hoàn thành hết thảy thành quả của Phật đà. Như Lai đủ hết sức mạnh thần thông, sức mạnh tuệ giác, trở thành bậc toàn giác, hóa độ sâu rộng, toàn là do người bạn tốt Đề Bà Đạt Đa. Như Lai nay tuyên cáo với tất cả, rằng Đề Bà Đạt Đa sau này qua rất nhiều thời kỳ rồi sẽ thành Phật đà, danh hiệu Thiên Vương Như Lai, đủ mười đức hiệu. Ngài tồn tại nhiều thời kỳ bậc giữa, tuyên thuyết cho chúng sinh một cách rộng rãi về chánh pháp tinh túy, làm cho chúng sinh được tuệ giác La hán, tuệ giác Duyên giác, tuệ giác Phật đà. Ngài nhập niết bàn rồi, giáo pháp nguyên chất cũng tồn tại nhiều thời kỳ bậc giữa, xá lợi toàn thân được xây dựng tôn thờ trong ngôi tháp bằng bảy chất quí, rất cao và lớn. Chư thiên, nhân loại, ai cũng đem bông hoa và hương liệu, kịch nhạc và thi ca, mà hiến cúng bảo tháp, và sự hiến cúng này làm cho bao loại chúng sinh được tuệ giác La hán, tuệ giác Duyên giác, tuệ giác Phật đà, làm cho vô lượng chúng sinh phát đại bồ đề tâm, đến bậc không còn thoái chuyển.

Chư vị tỷ kheo, trong thì vị lai, thiện nam hay thiện nữ nào nghe được phẩm Đề Bà Đạt Đa này của kinh Pháp Hoa mà lòng trong sáng, tin kính cẩn, không ngờ vực, không lầm lẫn, thì người ấy không sa vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, mà lại sinh trong nhân loại, chư thiên, hay sinh trước chư Phật ở bất cứ phương hướng nào. Và sinh ở đâu cũng thường được nghe Pháp Hoa. Sinh trong nhân loại hay chư thiên thì hưởng thụ sự yên vui tuyệt diệu và hơn hết, còn sinh trước chư Phật thì hóa sinh bằng hoa sen.

*

Bấy giờ Trí Tích, vị bồ tát thị tùng đức Đa Bảo Phật đà, bạch với ngài hãy trở về quốc độ của mình. Đức Thích Ca Thế Tôn bảo bồ tát Trí Tích, thiện nam tử, hãy chờ một lát. Quốc độ nay có vị bồ tát tên là Văn Thù, các vị đáng gặp nhau, luận thuyết chánh pháp tinh túy rồi về. Bấy giờ bồ tát Văn Thù ngồi trên hoa sen có cả ngàn cánh, lớn như bánh xe, các vị bồ tát tùy tùng cũng vậy, và từ Diêm Hải long cung đột nhiên vọt lên, lên cao trong không gian, lướt đến Linh sơn, bước xuống hoa sen, lại chỗ đức Thích Ca Thế Tôn và đức Đa Bảo Phật đà, kính lạy hai ngài, rồi bước qua chỗ bồ tát Trí Tích, hỏi thăm nhau và ngồi một bên. Bồ tát Trí Tích hỏi, nhân giả đến long cung giáo hóa được mấy người? Bồ tát Văn Thù nói vô lượng, xin đợi một chút sẽ có chứng cứ. Nói chưa xong thì có nhiều vị bồ tát cũng ngồi hoa sen quí, từ biển vọt lên, lướt đến Linh sơn, ở trong không gian. Các vị này do bồ tát Văn Thù hóa độ, nguyên là thanh văn mà nay ai cũng thực hành nguyên lý Không của đại thừa. Bồ tát Văn Thù nói sự giáo hóa của tôi là như vậy. Bồ tát Trí Tích khen mà hỏi, ngài diễn giảng thật tướng như thế nào mà làm cho các vị này được như vậy? Bồ tát Văn Thù nói, tôi thường tuyên thuyết Pháp Hoa. Bồ tát Trí Tích nói, kinh ấy sâu xa, trong biển cả có hay không có ai thực hành được và thành Phật một cách mau chóng? Bồ tát Văn Thù nói có, Long nữ của Diêm Hải Long vương mới 8 tuổi mà trong chốc lát đủ năng lực thực hiện tuệ giác vô thượng. Bồ tát Trí Tích nói, đức Thích Ca Thế Tôn trải qua vô lượng thời kỳ, xả bỏ thân mạng vì chúng sinh, sau đó mới trở thành Phật đà. Tôi không tin Long nữ nào đó trong khoảnh khắc mà làm được như vậy. Nói bàn chưa xong, Long nữ đột nhiên xuất hiện trước mặt, kính lạy đức Thế Tôn rồi tán dương ngài, rằng đức Thế Tôn thấu triệt thật tướng của tội phước, ai cũng tôn thờ như bậc đồng tông. Ngài Văn Thù nói con chóng thành tuệ giác vô thượng, việc này chỉ có đức Thế Tôn chứng biết cho con. Lúc ấy tôn giả Xá Lợi Phất nói với Long nữ, rằng thiện nữ nói có thể thành Phật mau chóng, việc này thật khó tin. Tại sao, vì thân thể nữ nhân không phải là vật dụng chứa đựng chánh pháp, lại không được làm Phạn vương, Đế thích, Ma vương, Luân vương, Phật thân, như vậy thiện nữ làm sao thành Phật mà lại thành Phật mau chóng? Long nữ có một viên ngọc quí, giá bằng cả thế giới đại thiên. Bấy giờ Long nữ hai tay nâng viên ngọc ấy hiến lên đức Thế Tôn. Ngài nhận liền. Long nữ thưa bồ tát Trí Tích và tôn giả Xá Lợi Phất, con hiến ngọc quí, đức Thế Tôn nhận cho con, việc này mau chóng không? Rất mau chóng, 2 ngài trả lời như vậy. Long nữ thưa, đem thần lực của các ngài nhìn sự thành Phật của con, thì sự ấy còn mau hơn việc này. Tức thì toàn thể đại hội lúc ấy cùng thấy trong khoảnh khắc đột nhiên, Long nữ biến thành nam tử, đầy đủ phong cách bồ tát, lướt qua thế giới hệ Vô cấu ở hướng nam, ngồi trên đài sen quí, thành bậc Biết đúng và khắp, với cái thân đủ cả 32 tướng quí và 80 vẻ đẹp, tuyên thuyết chánh pháp tinh túy cho chúng sinh mười phương. Tại quốc độ Kham nhẫn này, cả đại hội từ xa thấy sự thành Phật và thuyết pháp của Long nữ, thì tâm thần người nào cũng rất hoan hỷ, vọng xa mà lạy. Thế giới hệ Vô cấu thì vô lượng chúng sinh nghe pháp đều lý giải, tỏ ngộ được sự không thoái chuyển, vô lượng chúng sinh nữa được thọ ký về tuệ giác vô thượng, và thế giới ấy chấn động đủ cả 6 cách. Thế giới hệ Kham nhẫn thì ba ngàn người đứng vào vị trí không thoái chuyển, ba ngàn người nữa phát triển tuệ giác vô thượng và được thọ ký về tuệ giác ấy. Bồ tát Trí Tích, tôn giả Xá Lợi Phất, và cả đại hội, đều yên lặng mà tin nhận.

__________

Phẩm 13: Kính giữ Pháp Hoa

Lúc ấy Dược Vương đại sĩ, Đại Lạc Thuyết đại sĩ, và bao nhiêu bồ tát tùy thuộc, cùng đối trước đức Thế Tôn mà phát nguyện như vầy: Kính xin đức Thế Tôn đừng lo nghĩ. Sau khi đức Thế Tôn nhập diệt, chúng con nguyện kính giữ Pháp Hoa. Con người trong thời kỳ dữ dội sau này tuy khó giáo hóa, chúng con vẫn nổi dậy sức mạnh của sự ẩn nhẫn lớn lao mà kính giữ Pháp Hoa. Chúng con không tiếc tính mạng trong việc kính giữ ấy.

Trong đại hội, 500 vị La hán và 8000 vị tu học tiếp tục và tu học hoàn tất, đã được thọ ký, cũng đứng dậy, chắp tay hướng về đức Thế Tôn, thệ nguyện sẽ ở tại các quốc độ khác mà diễn giảng Pháp Hoa.

Bấy giờ di mẫu của đức Thế Tôn là tỷ kheo ni Đại Thắng Sinh Chủ, cùng 6000 tỷ kheo ni tu học tiếp tục và tu học hoàn tất, cùng đứng dậy, chuyên chú chắp tay mà chiêm ngưỡng đức Thế Tôn. Ngài bảo, Đại Thắng Sinh Chủ, tại sao bà ưu tư mà nhìn Như Lai? Bà nghĩ Như Lai không gọi tên bà mà thọ ký chăng? Đại Thắng Sinh Chủ, trước đây Như Lai đã nói tổng quát, rằng hết thảy thanh văn đều được thọ ký. Nay bà muốn biết sự thọ ký ấy thì, vị lai, trong chánh pháp của hàng ức đức Phật, bà và 6000 vị tỷ kheo ni cùng làm những nhà diễn giảng vĩ đại, và bằng cách này mà bà hoàn thiện một cách đều đặn đường đi của bồ tát, trở thành một đức Phật đà danh hiệu Nhất Thế Chúng Sinh Hỷ Kiến Như Lai, đủ 10 đức hiệu. Đại Thắng Sinh Chủ, đức Nhất Thế Chúng Sinh Hỷ Kiến Như Lai sẽ cùng 6000 vị bồ tát tuần tự thọ ký cho nhau mà thành tựu tuệ giác vô thượng. Bấy giờ thân mẫu của tôn giả La Hầu La là tỷ kheo ni Trì Dự, cũng được đức Thế Tôn bảo, Trì Dự, vị lai bà sẽ ở trong chánh pháp của hàng ức đức Phật mà làm việc làm của bồ tát, bằng cách cũng làm nhà diễn giảng vĩ đại, đều đặn và hoàn tất đường đi của Phật, rồi được thành Phật tại cõi Thiện quốc, với danh hiệu Cụ Túc Thiên Vạn Quang Tướng Như Lai, đủ mười đức hiệu, sống lâu vô lượng.

Các vị tỷ kheo ni Đại Thắng Sinh Chủ và Trì Dự, cùng những người tùy thuộc, bấy giờ ai cũng hoan hỷ cùng cực, tức thì đối trước đức Thế Tôn mà thưa, rằng bạch ngài, bậc thầy đem lại sự an ủi cho tất cả! Chúng con được ngài thọ ký cho, trong lòng ổn định hoàn toàn. Thưa rồi lại phát nguyện tuyên thuyết Pháp Hoa tại các quốc độ khác.

Khi ấy đức Thế Tôn nhìn vào rất nhiều bồ tát đại sĩ. Các vị toàn là bậc Không thoái chuyển, có thể chuyển đẩy bánh xe chánh pháp Không thoái chuyển. Khi đức Thế Tôn nhìn vào, các vị liền đứng dậy, đến trước ngài, tập trung tâm trí, chắp hai tay lại, suy nghĩ như vầy: Nếu đức Thế Tôn phán bảo chúng ta duy trì và công bố Pháp Hoa, thì chúng ta sẽ làm đúng như lời ngài. Nhưng ngài yên lặng, vậy chúng ta phải làm gì? Kính thuận tình ý của đức Thế Tôn, lại muốn viên mãn tâm nguyện của mình, nên đối trước ngài, các vị cất tiếng nói uy dũng như tiếng sư tử gầm mà phát nguyện như vầy: Bạch đức Thế Tôn, sau khi ngài nhập diệt, chúng con sẽ qua lại mười phương thế giới, đem hết năng lực mà làm cho chúng sinh, đối với kinh Pháp Hoa, biết sao chép ấn hành, tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng giải ý nghĩa, làm đúng kinh dạy, nhớ nghĩ chính xác… Chúng con làm được như vậy toàn là nhờ uy lực của đức Thế Tôn. Kính xin đức Thế Tôn ở đâu cũng chăm sóc che chở cho chúng con. Các vị lại thưa, sau này, trong thời kỳ khủng bố tàn ác, chúng con thệ nguyện tuyên thuyết Pháp Hoa. Ai thóa mạ hành hung, chúng con cũng nguyện ẩn nhẫn. Họ nói chúng con ham danh lợi nên nói thuyết ngoại đạo. Họ cũng bày ra diễn giảng Pháp Hoa, và nói chúng con lấy thuyết của họ. Kính tin Thế Tôn, chúng con không tiếc tính mạng, ẩn nhẫn mà bảo tồn Pháp Hoa của đức Thế Tôn ký thác. Là sứ giả của đức Thế Tôn, chúng con đi đến khắp nơi, nói cho những ai cần cầu Pháp Hoa. Thỉnh cầu đức Thế Tôn, đức Đa Bảo, và chư Phật phân thân, chứng biết cho thệ nguyện của chúng con.

_________

Phẩm 14: Sống yên vui

Vào lúc bấy giờ, Văn Thù đại sĩ bạch với đức Thế Tôn, rằng các vị đại sĩ này thật hiếm có. Các vị kính thuận đức Thế Tôn nên phát ra thệ nguyện cao cả, nguyện ở trong thời kỳ dữ dội sau này mà kính giữ Pháp Hoa. Nhưng, bạch đức Thế Tôn, bồ tát đại sĩ ở trong thời kỳ dữ dội sau này, làm thế nào để diễn giảng Pháp Hoa? Đức Thế Tôn dạy, muốn diễn giảng Pháp Hoa thì phải đặt mình vững chắc vào 4 cách sống yên vui.

Cách sống yên vui thứ nhất là đặt mình vững chắc vào phạm vi đi và phạm vi thân của bồ tát. Phạm vi đi của bồ tát có hai. Một là, bồ tát đi trong đường đất nhẫn nhục: ôn hòa, khéo thuận, không thô bạo, không kinh hoảng. Hai là, đối với các pháp, bồ tát chỉ nhìn thật tướng, không đi theo sự phân biệt mà cũng không đi theo sự không phân biệt. Như vậy gọi là phạm vi đi của bồ tát. Phạm vi thân của bồ tát cũng có hai. Một là, bồ tát không thân gần chính quyền hay quan chức của chính quyền. Không thân gần tu sĩ ngoại đạo. Không thân gần tác giả văn phẩm, thi phẩm và nhạc phẩm trần tục. Không thân gần những kẻ theo chủ thuyết xuôi với đời hay ngược với đời. Không thân gần những kẻ chơi những trò chơi hung hãn, những kẻ hóa trang, ảo thuật. Không thân gần những kẻ đao phủ, những kẻ làm nghề ác. Những kẻ trên đây có khi đến với bồ tát, thì bồ tát nên thuyết pháp cho họ mà không ước vọng danh lợi. Lại không thân gần tỷ kheo ni ưa thích cười giởn, hay nữ tín đồ quá ham lạc thú, và coi việc này như tìm niết bàn ngay trong hiện tại. Cũng không thân gần những vị cầu niết bàn của thanh văn. Khi họ đến với bồ tát thì bồ tát tùy nghi thuyết pháp mà không ước vọng danh lợi. Đối với người khác phái, bồ tát không vì những hình dáng phát sinh tư tưởng về dục mà thuyết pháp cho họ, cũng không thích gặp. Đến nhà người, đừng nói chuyện với người khác phái. Đừng thân gần với những người lại cái. Đừng một mình đi vào những chỗ dân cư hay đi đến nhà người; có lý do phải đi thì đi với một vị tỷ kheo khác, không có vị tỷ kheo thì phải chuyên tâm nghĩ nhớ đến Phật. Thuyết pháp cho người khác phái thì đừng ngồi chỗ khuất, đừng đùa giởn, đừng cười bày răng, đừng để hở ngực, và đến nỗi vì chánh pháp cũng không thân thiết với họ, huống chi vì gì khác. Thường ưa tỉnh tọa, ở chỗ thanh giản, tập trung mà sửa chửa tâm mình. Hai, bồ tát xét thấy các pháp toàn là Không, chỉ do sự tương quan mà có—Toàn là Không, vì thấy thật tướng các pháp: không thác loạn, không dao động, không suy thoái, không chuyển biến; vì thấy như hư không: tư duy không thấu, mô tả không đạt, không khái niệm, không danh từ; vì thấy thật là không thật: không số lượng, không giới hạn, không trở ngại, không ngăn cách. Bồ tát thường thích quán sát về thật tướng như vậy. Và như vậy gọi là chỗ đi và chỗ thân, bồ tát nhờ hai chỗ ấy mà thuyết pháp yên vui.

Cách sống yên vui thứ hai là miệng chỉ diễn giảng hay đọc tụng kinh điển, không thích nói nhược điểm của người, của kinh điển. Không khinh ngạo các vị diễn giảng khác. Không nói những sự tốt xấu giỏi dở của mọi người. Đối với thanh văn, không đem tên ra mà nói xấu hay khen tốt. Tâm lý oán ghét hiềm khích không hề nổi dậy, vì phải khéo tu cái tâm yên vui. Ai muốn nghe pháp, cũng không nghịch ý họ. Họ hỏi gì thì không trả lời bằng giáo pháp cỗ xe thấp nhỏ, chỉ đem giáo pháp cỗ xe vĩ đại mà giảng giải, làm cho họ rồi ra ai cũng đạt được tuệ giác Biết tất cả. Có ai gạn hỏi thì đáp theo nghĩa lý, yếu tố, ví dụ, diễn giảng, phân tích, dùng những cách này làm họ phát tâm, tăng dần cái lợi ích nhập vào tuệ giác Phật đà. Hãy loại bỏ sự biếng nhác, tách xa sự bực dọc, đem tâm từ bi mà thuyết chánh pháp. Ngày đêm thường thuyết chánh pháp vô thượng, đem mọi yếu tố và lắm ví dụ mà khai thị cho người, làm ai cũng vui. Đồ mặc, đồ nằm, đồ ăn, đồ uống, dược phẩm, đối với tất cả những thứ như vậy không mong ước gì. Chỉ một tâm nguyện, nguyện nhờ thuyết pháp mà mình với người cùng được thành Phật, và đó chính là lợi ích, lạc thú, là sự hiến cúng lớn lao. Như Lai nhập diệt rồi, vị tỷ kheo bồ tát diễn giảng Pháp Hoa thì lòng không còn ganh tị, tức bực, không bị quấy phá, trở ngại, không còn lo rầu, không bị thóa mạ, hành hung, khủng bố, xua đuổi, là vì đứng vững trong sự ẩn nhẫn.

Cách sống yên vui thứ ba là, sau này, trong thời kỳ cuối cùng, khi giáo pháp sắp ẩn mất, những người kính giữ Pháp Hoa thì đừng ôm giữ tâm lý ganh ghét, dua nịnh và dối trá. Đừng khinh khi thóa mạ những người học tập tuệ giác của Phật, đừng tìm kiếm điều hay cái dở của những người ấy. Đối với 4 chúng tỷ kheo, tỷ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, đối với các vị cầu cỗ xe thanh văn, cỗ xe duyên giác, cỗ xe bồ tát, thì đừng quấy rối, làm cho họ thắc mắc, hối tiếc, bằng cách nói rằng các người cách xa tuệ giác của Phật, không bao giờ thực hiện được tuệ giác ấy, vì lẽ đối với tuệ giác ấy các người là những kẻ bất thường, biếng nhác. Đừng bàn chơi các pháp, cải cọ lẫn nhau. Đối với chúng sinh thì nghĩ đến đại bi, đối với Phật đà thì nghĩ là từ phụ, đối với bồ tát thì nghĩ là đại sư. Đối với bồ tát mười phương thì tôn kính sâu xa, đối với chúng sinh đủ loại thì thuyết pháp bình đẳng. Nhưng thuận với chánh pháp nên không nói nhiều cũng không nói ít, thậm chí đối với những người ưa thích chánh pháp một cách sâu xa cũng không vì họ mà nói nhiều. Văn Thù, sau này, trong thời kỳ cuối cùng, khi giáo pháp sắp ẩn mất, các vị bồ tát có ai thành tựu cách sống yên vui thứ ba này thì lúc diễn giảng Pháp Hoa không ai quấy phá được. Người ấy còn được đồng học rất tốt, chung nhau đọc tụng Pháp Hoa. Lại được các chúng đến nghe mà nghe thì nhớ, thì tụng, thì giảng, giảng rồi tự mình sao chép hay khuyên người sao chép, và hiến cúng cung kính tôn trọng tán dương đối với cuốn kinh Pháp Hoa. Con Phật như vậy diễn giảng Pháp Hoa, thường xuyên ôn hòa và hay ẩn nhẫn, từ bi giáo hóa tất cả các chúng, không hề sinh ra tâm tư biếng nhác.

Cách sống yên vui thứ tư là, sau này, trong thời kỳ cuối cùng, khi giáo pháp sắp ẩn mất, bồ tát kính giữ Pháp Hoa thì đối với những người tại gia xuất gia phải có lòng lành, đối với những người không phải bồ tát phải có lòng thương. Nên nghĩ như vầy: những người ấy mất mát rất lớn nếu không nghe không biết không hay, không hỏi không tin không hiểu gì về sự phương tiện tùy nghi thuyết pháp của đức Thế Tôn, nghĩa là không hỏi không tin không hiểu gì về Pháp Hoa. Dầu vậy, ta vẫn nguyện rằng khi được tuệ giác vô thượng rồi, tùy những người này ở vào bất cứ vị trí nào, ta cũng đem thần thông lực và trí tuệ lực mà dẫn dắt cho họ được đứng vào trong Pháp Hoa. Văn Thù, sau khi Như Lai nhập diệt, bồ tát có ai thành tựu cách sống yên vui thứ tư này thì diễn giảng Pháp Hoa không có lầm lỗi, thường được bốn chúng, và mọi thành phần khác, cùng hiến cúng cung kính tôn trọng tán dương. Chư thiên ở trong không gian, vì nghe pháp nên cũng thường xuyên theo hầu. Khi vị ấy ở những nơi thôn xóm thành thị, hoặc ở những chỗ núi rừng thanh vắng, có ai đến muốn gạn hỏi, thì chư thiên ngày đêm thường vì pháp mà hộ vệ vị ấy, làm cho người nghe ai cũng hoan hỷ. Tại sao, vì Pháp Hoa là bản kinh được sự giữ gìn của thần lực chư Phật quá khứ vị lai cùng với hiện tại. Văn Thù, trong vô lượng quốc độ, kinh Pháp Hoa này đến nỗi cái tên còn khó được nghe đến, huống chi được nhìn thấy, thọ trì đọc tụng kinh ấy.

Văn Thù, ví như vị Luân vương hùng cường, muốn sử dụng uy thế làm cho các nước thần phục. Nhưng các quốc vương không tuân lịnh. Luân vương phải động binh chinh phạt. Và thấy tướng sĩ chiến đấu ai có công thì Luân vương mừng, tùy công mà thưởng bằng cách ban cho đủ thứ cần dùng và hiếm có. Chỉ viên ngọc sáng trong bối tóc thì không đem cho, vì chỉ trên đỉnh đầu của Luân vương mới nên có viên ngọc sáng ấy. Văn Thù, Như Lai cũng vậy, nhờ định lực và tuệ lực mà có quốc gia chánh pháp, ngự trị ba cõi. Nhưng chúa tể các loại ma không chịu khuất phục. Tướng sĩ hiền thánh của Như Lai phải chiến đấu với chúa tể các loại ma ấy. Và ai có công thì Như Lai hoan hỷ, ở giữa bốn chúng mà nói cho họ các kinh pháp để họ đẹp dạ, thưởng cho họ bao nhiêu là tài sản chánh pháp đại loại như thiền định, giải thoát, căn bản và năng lực thuần khiết, lại ban cho họ đô thành niết bàn, tuyên ngôn họ được niết bàn để dẫn đạo cho lòng họ hoan hỷ. Nhưng không nói cho họ kinh Pháp Hoa này. Văn Thù, vị Luân vương thấy tướng sĩ ai có công lớn mới rất mừng, và đem viên ngọc sáng, một viên ngọc khó có ai tin nổi giá trị của nó, từ lâu Luân vương để trong bối tóc, không bừa bãi cho ai mà nay đem thưởng cho. Như Lai cũng vậy, làm vị Pháp vương vĩ đại trong cả ba cõi, đem chánh pháp giáo hóa hết thảy chúng sinh, thấy tướng sĩ hiền thánh chiến đấu với ma hợp thể, ma phiền não và ma chết chóc, mà ai có công lớn diệt ba độc, vượt ba cõi, phá lưới ma, thì bấy giờ Như Lai rất hoan hỷ, và đem kinh Pháp Hoa, bản kinh có năng lực làm cho chúng sinh đạt đến tuệ giác của đấng Toàn giác, hết thảy thế gian phần nhiều oán ghét khó tin, trước đây chưa nói bao giờ mà nay nói cho. Văn Thù, Pháp Hoa là pháp thoại bậc nhất, và bí mật của chư Phật. Trong các pháp thoại, Pháp Hoa sâu xa hơn hết, nên cuối cùng Như Lai mới nói mà ban cho chư vị; như vị Luân vương hùng cường, giữ mãi viên ngọc sáng, ngày nay mới đem ban thưởng. Như Lai làm vua các pháp, có sức mạnh lớn là sức nhẫn nhục, có kho báu lớn là kho tuệ giác, vận dụng đại từ cùng với đại bi, giáo hóa thế giới một cách đúng cách. Ấy là thấy mọi người chịu bao khổ não, muốn thoát khổ não nên chiến với ma; Như Lai vì họ mà nói chánh pháp, đem phương tiện khéo nói bao khế kinh. Khi biết mọi người đắc lực cả rồi, cuối cùng nói cho kinh Pháp Hoa này; tựa như Luân vương lấy viên ngọc sáng để trong bối tóc đem ra ban thưởng.

Sau khi Như Lai nhập niết bàn rồi, những ai tìm kiếm tuệ giác Phật đà, muốn được yên vui diễn giảng Pháp Hoa thì phải thân gần bốn cách sống yên vui đã nói trên đây. Diễn giảng đọc tụng Pháp Hoa thì không lo bực, cũng không đau ốm, sắc tướng sáng tươi; không sinh không sống ở trong những chỗ nghèo nàn khốn cùng, thấp hèn xấu xí. Diễn giảng Pháp Hoa thì như sư tử chúa đi đâu chẳng sợ, trí tuệ chiếu sáng như mặt trời chiếu. Và ngay trong mộng cũng thấy toàn là những việc tốt đẹp.

_______

Phẩm 15: Từ đất xuất hiện

Lúc ấy rất nhiều bồ tát đại sĩ, đã từ các quốc độ khác đến quốc độ này, đứng dậy chắp tay đảnh lễ mà bạch đức Thế Tôn, nếu ngài cho phép chúng con, sau khi ngài nhập diệt, ở tại quốc độ Kham Nhẫn này, nổ lực mà kính giữ Pháp Hoa, thì chúng con nguyện ở tại đây mà diễn giảng kinh ấy một cách phong phú. Đức Thế Tôn bảo thôi, chư thiện nam tử. Quốc độ này tự có rất nhiều bồ tát đại sĩ, mỗi vị lại có rất nhiều tùy thuộc. Thầy trò các vị này có thể, sau khi Như Lai nhập diệt, kính giữ Pháp Hoa, công bố rộng rãi. Khi đức Thế Tôn nói như vậy thì đất của toàn thể đại thiên quốc độ Kham Nhẫn đều chấn động mà nứt ra, và từ đó có vô số bồ tát đại sĩ cùng lúc vọt lên. Các vị ấy thân toàn màu hoàng kim, đủ cả 32 tướng quí, và ánh sáng thì vô số lượng. Các vị cùng ở trong không gian phía dưới quốc độ Kham Nhẫn này, nghe tiếng đức Thế Tôn nói như trên nên từ đó dũng xuất. Các vị toàn là những bậc đạo sư, dẫn theo đại chúng tùy thuộc: Nhiều vị, mỗi vị dẫn theo rất nhiều tùy thuộc. Cho đến nhiều vị hơn, mỗi vị chỉ dẫn theo hai hay một tùy thuộc. Và nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ đến đơn độc. Thầy trò các vị bồ tát đại sĩ như thế này toán số ví dụ cũng không thể xác định.

Thầy trò các vị từ đất xuất hiện rồi, cùng đến chỗ đức Đa Bảo và đức Thích Ca mà kính lạy. Các vị lại đến chư Phật phân thân làm lễ cũng vậy, và đem những cách thức tán dương của bồ tát mà tán dương các ngài. Rồi đứng lại một phía, các vị hân hoan chiêm ngưỡng đức Đa Bảo và đức Thích Ca. Thì gian các vị mới xuất hiện cho đến tán dương xong, trải qua hết hàng chục thời kỳ bậc nhỏ. Nhưng thần lực của đức Thế Tôn làm cho cả đại hội thấy như nửa ngày mà thôi. Rồi bốn vị thượng thủ trong số các vị đạo sư là Thượng Hạnh, Vô Biên Hạnh, Tịnh Hạnh, An Lập Hạnh, cùng đứng trước đại chúng bồ tát ấy, chắp tay, chiêm ngưỡng đức Thích Ca mà vấn an, rằng đức Thế Tôn ít bịnh, ít phiền, sống yên vui chăng? Những người đáng được ngài hóa độ, họ có tiếp nhận sự hóa độ ấy một cách dễ dàng để ngài khỏi mệt nhọc chăng? Đức Thế Tôn bảo, đúng như vậy, chư thiện nam tử; Như Lai yên vui, ít bịnh, ít phiền, những người đáng được hóa độ cũng dễ hóa độ. Những người này mới thấy thân Như Lai và mới nghe lời Như Lai là tin tưởng tiếp nhận, nhập vào tuệ giác của Như Lai. Ngoại trừ những người trước đây tu học theo giáo pháp cỗ xe thấp nhỏ; những người như vậy ngày nay Như Lai cũng làm cho nghe được Pháp Hoa, nhập được Phật tuệ. Nghe đức Thế Tôn dạy như vậy, bốn vị thượng thủ thưa ngài: Lành thay, đức Thế Tôn đại hùng, tất cả chúng con kính xin tùy hỷ.

Vào lúc bấy giờ đức Di Lạc cùng bồ tát chúng muốn biết nguyên ủy của chư vị bồ tát đại sĩ từ đất xuất hiện, nên chắp tay hướng về đức Thế Tôn mà hỏi, đại chúng bồ tát như thế này từ đâu đến đây? Đến để làm gì? Ai đã giáo hóa tác thành cho chư vị ấy? Các vị thị giả của chư Phật phân thân cũng hỏi đức Phật của mình. Chư Phật phân thân dạy, đức Di Lạc đã hỏi đức Thế Tôn rồi, các người hãy chờ một lát mà nghe ngài giải đáp. Khi ấy đức Thế Tôn khen đức Di Lạc đã hỏi một việc trọng đại như vậy. Và bảo, chư vị hãy cùng nhau tập trung tâm trí, khoác áo giáp tinh tiến, phát ý chí cứng chắc. Như Lai nay muốn phát lộ về tuệ giác và thần thông, về khí lực và uy lực của Như Lai. Như Lai an ủi như vậy là để chư vị khỏi ngờ khỏi sợ. Vì lẽ những gì xưa nay chư vị chưa nghe thì nay sẽ được nghe đến. Cái pháp bậc nhất mà Như Lai thực hiện, Như Lai sắp nói ra.

Di Lạc đại sĩ, hôm nay, giữa đại hội như vầy, Như Lai tuyên cáo để chư vị biết. Rằng đại chúng bồ tát từ đất dũng xuất đây là do Như Lai ở thế giới hệ Kham Nhẫn này thành tựu tuệ giác vô thượng rồi, giáo hóa cho các vị ấy thuần hóa tính ý, phát tâm tuệ giác. Các vị ấy ở trong không gian phía dưới thế giới hệ này. Các vị không thích ở chỗ đông đảo và nói năng nhiều lời, chỉ muốn ở nơi yên tĩnh, chuyên tâm tinh tiến mà cầu đạt cho được tuệ giác vô thượng.

Bấy giờ trong lòng đức Di Lạc và bồ tát chúng lại sinh nghi hoặc, nghĩ rằng đức Thế Tôn làm cách nào trong một thì gian ít ỏi mà giáo hóa tác thành được cho chư vị bồ tát như vầy? Nghĩ vậy nên bạch đức Thế Tôn, rằng ngài làm thái tử, thoát ly hoàng cung họ Thích, cách thành Già da không xa, ngồi nơi bồ đề tràng, thành đạt tuệ giác vô thượng, từ đó đến nay mới hơn 40 năm. Trong thì gian ngắn ngủi như vậy mà tại sao ngài có thể làm được một cách lớn lao việc làm của Phật, là giáo hóa chư vị bồ tát như vầy? Bạch đức Thế Tôn, điều này quả là cả thế gian đều khó tin. Dẫu rằng chúng con tin sự tùy nghi thuyết pháp của đức Thế Tôn, nhưng các vị bồ tát mới phát tâm, sau khi đức Thế Tôn nhập diệt mà nghe những lời này thì có thể có kẻ không tin, sinh ra cái lỗi bài bác chánh pháp. Chính vì vậy, bạch đức Thế Tôn, con xin ngài giảng giải, làm cho ai cũng không có nghi hoặc.

__________

Phẩm 16: Sự sống lâu của đức Thế Tôn

 Vào lúc bấy giờ đức Thế Tôn bảo đại chúng bồ tát, và toàn thể đại hội, chư thiện nam tử, các người hãy tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai. Một lần nữa, đức Thế Tôn bảo, các người hãy tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai. Lại một lần nữa, đức Thế Tôn bảo, các người hãy tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai. Bấy giờ đại chúng bồ tát mà bậc thượng thủ là đức Di Lạc, chắp tay mà thưa, bạch đức Thế Tôn, xin ngài chỉ dạy, chúng con sẽ tin nhận lời ngài. Các vị thưa như vậy đến 3 lần rồi, vẫn nói xin ngài chỉ dạy, chúng con sẽ tin nhận lời ngài. Thấy đại chúng bồ tát thỉnh cầu đến 3 lần mà không ngưng, nên đức Thế Tôn bảo, chư vị hãy nghe cho kỹ về thần lực của Như Lai. Tất cả thế giới đều nói đời này đức Thích Ca Thế Tôn rời khỏi hoàng cung họ Thích, cách thành Già da không xa, ngồi nơi bồ đề tràng mà được tuệ giác vô thượng. Nhưng, chư thiện nam tử, Như Lai thật sự trở thành Phật đà thì đến nay đã vô lượng thời kỳ. Như Lai nay tuyên ngôn rõ ràng cho chư vị biết, nếu đem quốc độ mà nghiền làm bụi nhỏ, rồi mỗi hạt bụi giả thiết là một thời kỳ, thì Như Lai thành Phật đến nay còn hơn số thời kỳ ấy đến hàng triệu lần. Từ đó đến nay, Như Lai thường ở tại quốc độ này, và tại hàng triệu quốc độ khác, mà dắt dẫn ích lợi cho các loại chúng sinh, trong đó có các vị bồ tát dũng xuất. Chư thiện nam tử, trong thì gian ấy và trong những quốc độ ấy, Như Lai tự nói là các đức Như Lai khác, lại nói sự nhập diệt của các đức Như Lai ấy. Như vậy toàn là phương tiện mà nói. Như Lai thấy chúng sinh ưa thích giáo pháp thấp nhỏ, đức mỏng tội nặng, thì vì những người ấy mà phương tiện nói rằng Như Lai mới được tuệ giác vô thượng gần đây.

Chư thiện nam tử, Như Lai vì hóa độ chúng sinh nên nói mình qua thân mình hay nói mình qua thân khác, nói mình biểu hiện qua thân mình hay nói mình biểu hiện qua thân khác, nói mình biểu hiện qua việc mình hay nói mình biểu hiện qua việc khác, mọi cách nói đều trung thực, không dối trá. Vì lẽ Như Lai đúng như thật tướng của ba cõi mà thấy ba cõi không lui mất không hiện ra, không tồn tại không nhập diệt, không như nhau không khác nhau. Không như chúng sinh ba cõi nhìn thấy ba cõi; ba cõi như vậy Như Lai nhìn thấy thật tướng rõ ràng, không có lầm lẫn. Chỉ vì các loại chúng sinh có đủ thứ cá tính và thị hiếu, hành động và tư tưởng khác nhau, mà Như Lai thì muốn làm cho ai cũng được phát sinh gốc rễ điều thiện, nên đem bao nhiêu yếu tố, ví dụ và lời chữ mà thuyết pháp đủ cách, làm việc Phật làm mà chưa bao giờ tạm thời ngừng bỏ. Như vậy là Như Lai thành Phật đến nay đã cực kỳ lâu xa, sống lâu vô lượng thời kỳ, vĩnh viễn tồn tại mà không nhập diệt.

Chư thiện nam tử, Như Lai xưa kia đang đi đường đi của bồ tát mà sự sống lâu có được, đến nay vẫn chưa hết, thì gian còn nhiều hơn bội phần số lượng đã nói ở trên; huống chi Như Lai ngày nay đã thành Phật, và sự sống lâu của Như Lai là của một đức Phật? Như Lai nay không thật nhập diệt mà tuyên bố sẽ nhập diệt, là Như Lai dùng phương tiện ấy để giáo hóa chúng sinh. Tại sao, vì nếu Như Lai tồn tại lâu dài thì những kẻ phước đức mỏng mảnh, không lo gieo trồng gốc rễ điều lành, thấy Như Lai thường tồn tại mà không nhập diệt thì khinh thường, phóng túng mà nhàm chán, biếng nhác, chứ không có ý tưởng Như Lai khó gặp, không sinh tâm lý tôn kính, vì vậy mà Như Lai phương tiện nói rằng các đức Như Lai xuất thế rất là khó gặp. Những kẻ phước đức mỏng mảnh nghe nói như vậy thì tất nghĩ đến sự khó gặp ấy mà trong lòng luyến mộ, khao khát và ngưỡng vọng đối với Như Lai, tự nhiên gieo trồng gốc rễ điều lành, vì vậy nên Như Lai không thật nhập diệt mà tự nói nhập diệt. Chư thiện nam tử, cách thức hóa độ các đức Như Lai là như vậy, vì hóa độ chúng sinh mà nói, nên nói thế nào cũng trung thực chứ không sai lầm, dối trá. Ví như một lương y chế thuốc hay và chữa bịnh giỏi. Lương y có lắm con. Khi lương y đi vắng thì các con ông dùng lầm thuốc độc của kẻ khác. Độc phát nên sảng loạn. Khi ấy người cha trở về. Các con dùng nhằm thuốc độc hoặc mất trí hoặc không mất trí, nhưng thấy cha thì cùng chào đón và xin cứu chữa. Người cha soạn một phương thuốc với màu sắc, hương thơm và vị ngon đều tốt, đưa cho các con mà bảo, dược phẩm này rất quí, các con dùng thì không độc chất nào mà còn được nữa. Trong các con, ai không mất trí thì dùng liền và bịnh lành hết. Còn những người mất trí thì thấy cha về cũng mừng, nhưng cho thuốc lại không chịu dùng. Người cha nghĩ những đứa con này thật đáng thương, thuốc tốt mà không chịu dùng. Ta phải lập chước phương tiện mới được. Ông bảo, các con phải biết ta già rồi, giờ chết đã đến. Dược phẩm tốt này ta để lại ở đây, các con lấy dùng thì khỏi lo không lành. Chỉ dạy rồi ông lại đi vắng, bảo người nói cha các người chết rồi. Bấy giờ các con nghe nói cha chết thì lòng rất lo buồn mà tự nghĩ côi cút, không nơi nương tựa. Nghĩ mãi nên tỉnh trí. Và nhận ra được dược phẩm tốt, tức khắc lấy dùng và lành bịnh. Người cha nghe các con lành cả thì trở lại cho các con thấy. Chư thiện nam tử, có ai chỉ trích được rằng vị lương y dối trá chăng? Không, bạch đức Thế Tôn. Chư thiện nam tử, Như Lai cũng vậy. Như Lai thành Phật đến nay đã vô lượng thời kỳ, chỉ vì cứu độ chúng sinh mà phương tiện tuyên bố nhập diệt, nhưng không thể nói đúng cách rằng Như Lai nói dối.

Thần lực Như Lai là như thế ấy, vô số thời kỳ thường ở Linh sơn cùng với bao nhiêu chỗ ở khác nữa. Chúng sinh nhìn thấy thì thấy hoại kiếp, lửa dữ đốt cháy cả quốc độ này. Nhưng chính lúc ấy quốc độ Như Lai vẫn thường yên ổn, chư thiên nhân loại vẫn thường tràn đầy trong quốc độ ấy. Vườn rừng lầu đài trang trí vàng ngọc, cây ngọc sum sê những hoa và quả, mọi người thích thú du ngoạn trong đó. Chư thiên thì đánh trống của chư thiên, lại thường diễn tấu các thứ nhạc khí, và rưới hoa xuống loại như mạn đà, rải trên Như Lai và cả đại chúng. Tịnh độ Như Lai tồn tại như thế, vậy mà chúng sanh thấy lửa đốt hết, thấy bao lo sợ kinh hoàng đau đớn. Những nổi khổ ấy thấy đầy khắp cả.

Những ai tu hành, chân thành ôn nhu, thì đều thấy được thân thể Như Lai thường ở tại đây tuyên thuyết chánh pháp, vì những người này mà Như Lai nói đời sống Như Lai vô biên vô lượng; còn ai lâu lắm mới thấy Như Lai, Như Lai vì họ nói Phật khó gặp. Nói rằng nhập diệt, rằng không nhập diệt, chỉ do Như Lai phương tiện mà nói. Như Lai thường xuyên thấy biết chúng sinh ai có ai không đi theo đường chánh, rồi tùy trường hợp cần phải hóa độ cho họ thế nào, Như Lai nói pháp với những cách nói thích ứng cho họ.

________

Phẩm 17: Phân tích thành quả

Đức Thế Tôn bảo đức Di Lạc, Như Lai nói về sự bất tận như vậy của đời sống Như Lai thì có nhiều chúng sinh thực hiện tuệ giác Không sinh. Lại có nhiều bồ tát được tổng trì Nghe nhớ, có nhiều bồ tát được các tài hùng biện mà trong đó có sự Biện thuyết, có nhiều bồ tát được tổng trì Xoay chuyển vô số, có nhiều bồ tát có thể chuyển đẩy bánh xe chánh pháp Không còn thoái chuyển, có nhiều bồ tát có thể chuyển đẩy bánh xe chánh pháp Hào quang trong sáng. Lại có nhiều bồ tát chỉ tám đời nữa, chỉ hai đời nữa, chỉ một đời nữa, thì được Tuệ giác vô thượng. Lại có chúng sinh nhiều bằng bụi nhỏ phát Tâm tuệ giác vô thượng.

Khi đức Thế Tôn phân tích chư vị bồ tát được lợi ích của Pháp vĩ đại như vậy thì trong không gian mưa xuống thiên hoa, rãi trên chư Phật phân thân, trên đức Thế Tôn và đức Đa Bảo, trên tất cả bồ tát và bốn chúng. Trong không gian lại mưa xuống phấn các hương liệu, và trống chư thiên tự kêu vang lên; lại mưa xuống hàng ngàn loại vải chư thiên; và rủ xuống khắp cả chín phương hướng là những chuỗi ngọc. Bao nhiêu là lư hương, làm bằng ngọc và ở trong đốt hương liệu vô giá, tự chuyển động đến khắp nơi, hiến cúng toàn thể pháp hội lớn lao. Các bên ở trên mỗi đức Phật, các vị bồ tát cầm bảo cái có mắc phan phướn, và dùng âm thanh tuyệt diệu mà ngâm hát vô số thi ca tán dương chư Phật. Vào lúc ấy đức Di Lạc từ chỗ ngồi đứng dậy, trần vai bên phải, chắp tay hướng về đức Thế Tôn, nói những lời chỉnh cú mà lặp lại những sự kiện trên đây, và kết thúc rằng: Tiếng nói Thế Tôn vang cả mười phương, lợi ích rộng lớn cho bao chúng sinh, làm cho tất cả có đủ những thiện căn hỗ trợ phát Tâm tuệ giác vô thượng.

Đức Thế Tôn lại bảo đức Di Lạc, người nào nghe đời sống Như Lai bất tận như vậy, thì dẫu đến nỗi chỉ phát sinh được một ý niệm tin hiểu mà thôi, công đức người ấy đã không có hạn lượng. Thiện nam hay thiện nữ nào vì cầu tuệ giác vô thượng mà trải qua nhiều thời kỳ thực hành năm pháp ba la mật, ngoại trừ bát nhã, công đức của người này đem sánh với công đức của người trước thì không thể bằng được. Thiện nam hay thiện nữ nào có công đức trước mà thoái chuyển đối với tuệ giác vô thượng là điều không thể có.

Lại nữa, Di Lạc, nếu ai chỉ nghe Như Lai nói về sự bất tận của đời sống Như Lai mà hiểu được ý hướng của sự nói như vậy, thì người ấy có năng lực phát khởi tuệ giác vô thượng của Như Lai. Di Lạc, thiện nam hay thiện nữ nào nghe Như Lai nói sự bất tận của đời sống Như Lai mà tin hiểu bằng tâm trí sâu xa, thì thấy pháp hội Pháp Hoa này thường còn tại Linh sơn, thấy quốc độ Kham nhẫn này là tịnh độ, và thấy được như vậy thì đại sĩ phải biết đó là sắc thái của sự tin hiểu sâu xa. Thêm nữa, sau khi Như Lai nhập diệt, ai nghe Pháp Hoa mà không phỉ báng, biết tùy hỷ, thì đại sĩ phải biết như thế cũng đã là sắc thái của sự tin hiểu sâu xa; huống chi tùy hỷ rồi còn biết kính giữ kinh ấy, thì như vậy là đỉnh đầu người này đã đội Như Lai, là đã xây dựng chùa tháp mà hiến cúng Như Lai và kiến thiết tăng xá mà hiến cúng Tỷ kheo tăng.

Chỉ kính giữ Pháp Hoa mà đã được như trên, huống chi kính giữ kinh ấy mà còn thực hành lục độ, còn xây dựng chùa tháp và tăng xá hiến cúng Phật và Tăng, còn có những thắng pháp khác, thì đại sĩ phải biết những người ấy bước mau đến bồ đề tràng, sắp ngồi dưới bồ đề thọ mà hoàn mãn vô thượng giác.

________

Phẩm 18: Thành quả tùy hỷ

Lúc ấy đức Di Lạc lại thưa, bạch đức Thế Tôn, thiện nam hay thiện nữ nào nghe kinh Pháp Hoa mà biết tùy hỷ, thì được bao nhiêu phước đức? Ngài còn lặp lại sự thưa hỏi này bằng lời chỉnh cú.

Đức Thế Tôn bảo đức Di Lạc, sau khi Như Lai nhập diệt, những người nghe kinh Pháp Hoa mà tùy hỷ, rồi đi đến những nơi có thể đến và nên đến, y như những điều mình được nghe và tùy sức mình mà nói lại cho người thân, người quen, và người có thể nghe. Những người này nghe rồi cũng tùy hỷ và đi nói chuyền lại cho những người khác. Những người khác nghe rồi cũng tùy hỷ, cũng nói chuyền. Triển chuyển cho đến lớp thứ năm mươi. Di Lạc, công đức của thiện nam hay thiện nữ lớp thứ năm mươi này, nay Như Lai nói đến, đại sĩ hãy khéo nghe.

Sáu loại chúng sinh sinh ra từ trứng, từ dạ con, từ độ ẩm thích hợp, từ sự biến hình, lại có hay không hình thể, có hay không tư tưởng, không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân. Các loại chúng sinh như vậy, có người cầu phước nên họ muốn gì về vật dụng cũng cấp cho cả. Cho như vậy tám mươi năm rồi, vị thí chủ nghĩ, nay họ già yếu, sắp chết đến nơi. Ta nên đem pháp hóa của Phật mà hướng dẫn. Tức thì ông chiêu tập họ lại, quảng bá pháp hóa bằng mọi cách trình bày, thuyết phục, khuyến khích, tán thưởng. Làm cho trong một thì gian ai cũng được đạo quả của cỗ xe Thanh văn. Di Lạc, ý đại sĩ nghĩ thế nào, công đức vị thí chủ ấy nhiều không? Bạch đức Thế Tôn, rất nhiều. Di Lạc, Như Lai nay nói rõ ràng cho đại sĩ biết, công đức ấy không bằng công đức của người thuộc lớp năm mươi nghe kinh Pháp Hoa mà sinh tâm tùy hỷ. Di Lạc, công đức của người này mà đã như vậy, huống chi công đức của người đầu tiên.

Di Lạc, ai đứng hay ngồi mà lắng nghe và tiếp nhận Pháp Hoa, thì đời sau sinh ra ở đâu cũng được đi bằng xe thuyền loại thượng hạng. Ai đang ngồi nghe Pháp Hoa mà nhường hay chia chỗ mời người đến sau ngồi nghe, thì đời sau sẽ ngồi chỗ của Đế Thích, Phạn Vương, Luân Vương. Ai loan báo hay giới thiệu Pháp Hoa mà mời người cùng đi nghe, thì đời sau được sinh cùng chỗ với vị bồ tát đã có các pháp tổng trì; được lợi căn, trí tuệ; được nhiều đời không câm ngọng; hơi miệng không hôi thối, lưỡi không bị bịnh; miệng cũng vậy; răng không dơ, không đen, không vàng, không thưa, không mẻ, không rụng, không lệch, không cong; môi không xệ xuống, không rút vào, không thô nhám, không ghẻ lở, không sứt hỏng, không méo vẹo, không dày,không lớn, không thâm, không đen, không có gì đáng ghét; mũi không xẹp, không hóp, không cong, không gãy; mặt thì sắc không đen, hình không hóp lại, dài ra, không lõm xuống, không gãy, không có hết thảy cái vẻ không thể ưa thích; trái lại, môi, lưỡi, răng hàm, răng, tất cả đều chỉnh, đẹp; mũi thì dài, lớn, cao, thẳng; mặt và dáng mặt thật hoàn hảo; mày cao mà dài; trán rộng, bằng phẳng, ngay ngắn; nói tóm, tướng tốt loài người, người ấy có đủ tất cả. Đời đời, người ấy sinh ra ở đâu cũng thấy Phật nghe Pháp, tin tưởng và tiếp nhận giáo huấn. Di Lạc, đại sĩ hãy quan sát điều ấy: khuyến khích cho người nghe giảng Pháp Hoa mà thành quả còn như vậy, huống chi chính mình chuyên chú mà lắng nghe, mà đọc tụng, mà phân tích nói lại cho mọi người, mà tu hành như kinh dạy.

_________

Phẩm 19: Thành quả của người diễn giảng Pháp Hoa

Vào lúc ấy, đức Thế Tôn bảo đại bồ tát Thường Tinh Tiến, thiện nam hay thiện nữ nào đối với Pháp Hoa mà thực hành 5 pháp hạnh: tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng nói cho người, sao chép ấn hành, thì được những phẩm chất tốt, trang sức cho sáu căn trong suốt tất cả.

Thường Tinh Tiến, thiện nam hay thiện nữ nào đối với Pháp Hoa mà thực hành 5 pháp hạnh thì được 800 phẩm chất tốt của mắt. Với mắt thịt trong suốt do cha mẹ sinh ra mà thấy cả trong và ngoài đại thiên thế giới: thấy dưới đến ngục Vô gián trên đến trời Hữu đảnh, trong đó tất cả chúng sinh, hành vi của tất cả chúng sinh ấy, và những chỗ của hành vi ấy kết quả sinh đến, cũng thấy biết hết thảy.

Thường Tinh Tiến, thiện nam hay thiện nữ nào đối với Pháp Hoa mà thực hành 5 pháp hạnh, thì được 1200 phẩm chất tốt của tai. Với tai thịt trong suốt ấy mà nghe hết thảy lời tiếng ở trong và ngoài đại thiên thế giới. Và phân biệt các loại lời tiếng như vậy mà không hỏng nhĩ căn.

Thường Tinh Tiến, thiện nam hay thiện nữ nào đối với Pháp Hoa mà thực hành 5 pháp hạnh, thì được 800 phẩm chất tốt của mũi. Với mũi thịt trong suốt ấy mà nghe được các hơi trên dưới và trong ngoài đại thiên thế giới. Nghe hết các hơi như vậy mà tỹ căn không hỏng, và muốn phân tích nói cho người khác thì nhớ không sai.

Thường Tinh Tiến, thiện nam hay thiện nữ nào đối với Pháp Hoa mà thực hành 5 pháp hạnh, thì được 1200 phẩm chất tốt của lưỡi. Tốt xấu, ngon dở, đắng chát, ở trên lưỡi của người này đều biến thành mùi thượng hạng, không có thứ gì không ngon. Nếu đem lưỡi ấy giảng nói gì thì đi vào con tim, làm cho ai cũng hoan hỷ thích thú. Người này ở phương hướng nào thì chư vị Phật đà xoay lại phương hướng ấy mà thuyết pháp, và người ấy tiếp nhận, ghi nhớ hết cả, lại xuất ra tiếng nói sâu xa và tuyệt diệu mà tuyên thuyết pháp ấy. Thường Tinh Tiến, thiện nam hay thiện nữ nào đối với Pháp Hoa mà thực hành 5 pháp hạnh, thì được 800 phẩm chất tốt của thân. Người ấy được thân trong suốt như khối lưu ly. Vì thân trong suốt nên chúng sinh cả đại thiên thế giới đều hiện nơi thân ấy. Dưới đến ngục Vô gián, trên đến trời Hữu đảnh, bao nhiêu chúng sinh và những gì có trong đó, đều hiện nơi thân này. Thanh văn Duyên giác Bồ tát và Phật đà thuyết pháp, thì những hình ảnh như vậy cũng hiện nơi thân này.

Thường Tinh Tiến, thiện nam hay thiện nữ nào đối với Pháp Hoa mà thực hành 5 pháp hạnh, thì được 1200 phẩm chất tốt của ý. Với ý trong suốt như vậy thì đến nỗi chỉ nghe một bài chỉnh cú hay một câu đủ nghĩa cũng

thông suốt nghĩa lý vô biên. Thông suốt như vậy rồi lại có khả năng giảng nói một bài chỉnh cú hay một câu đủ nghĩa ấy đến một tháng, một mùa, cho đến cả năm, và những gì người này giảng nói, thì vì ý nghĩa hướng về thật tướng, nên không trái ngược với thật tướng ấy. Người này nếu phải nói đến học thuyết thế gian, lý thuyết chính trị, công nghiệp dân sinh, và những gì cùng loại, thì cũng biết nói cho hợp với Phật pháp. Cả đại thiên thế giới, sáu loài chúng sinh nghĩ gì, nghĩ để làm gì, nghĩ để bàn gì, người này biết hết. Người này nghĩ gì, tính gì, nói gì, cũng đều trung thực với pháp của Như Lai đã dạy chứ không có gì không trung thực, lại cũng trung thực với pháp đã được nói đến trong kinh của các đức Phật trước.

__________

Phẩm 20: Bồ tát Thường Bất Khinh

 Khi ấy đức Thế Tôn bảo đại bồ tát Đại Thế Chí, xưa, xa xưa, cách nay rất nhiều thời kỳ, có đức Oai Âm Vương Như Lai, đủ 10 đức hiệu. Thời kỳ của ngài tên là Ly Suy, quốc độ của ngài tên là Đại Thành. Đại Thế Chí, Oai Âm Vương Như Lai sống lâu rất nhiều thời kỳ. Giáo pháp nguyên chất và tương tự cũng tồn tại rất lâu, khi kết thúc thì quốc độ Đại Thành tuần tự xuất hiện nhiều đức Phật nữa, cùng một danh hiệu Oai Âm Vương Như Lai.

Đức Oai Âm Vương Như Lai đầu tiên, sau khi nhập diệt, trong thời kỳ giáo pháp tương tự của ngài, những tỷ kheo tăng thượng mạn có thế lực cực lớn. Chính trong lúc này mà có một vị tỷ kheo bồ tát tên là Thường Bất Khinh. Đại Thế Chí, vì sao ngài lại được gọi như vậy? Vì gặp bất cứ ai, ngài cũng thi lễ mà nói tôi không dám khinh thường quý vị, vì quý vị sẽ thành Phật đà. Khi nói như vậy, có kẻ mắng nhiếc, ngài vẫn không giận dữ, vẫn nói quý vị sẽ thành Phật đà. Có kẻ lấy cây mà đánh, lấy đá mà ném, ngài chạy tránh, nhưng vẫn đứng xa mà nói lớn, rằng tôi không dám khinh thường quý vị, quý vị sẽ làm Phật đà. Trải qua bao nhiêu năm tháng, ngài thường xuyên nói như vậy, nên những kẻ Tăng thượng mạn gọi ngài là Thường Bất Khinh.

Lúc đời sống sắp kết thúc, Tỷ kheo Bồ tát Thường Bất Khinh được nghe đầy đủ về kinh Pháp Hoa mà đức Oai Âm Vương Như Lai đã tuyên thuyết. Ngài tiếp nhận và kính giữ đầy đủ. Và tức thì được sáu căn trong suốt. Do vậy, đời sống của ngài tăng lên nhiều năm nữa, ngài diễn giảng phong phú cho mọi người về kinh Pháp Hoa. Bấy giờ, những kẻ Tăng thượng mạn đã gọi ngài là Thường Bất Khinh, thấy ngài đạt được sức mạnh đại thần thông, sức mạnh đại hùng biện, sức mạnh đại yên lặng, nên nghe ngài diễn giảng ai cũng tin phục. Ngài lại giáo hóa cho họ đứng trong tuệ giác vô thượng.

Sau khi đời sống kết thúc, ngài gặp được nhiều đức Phật cùng danh hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh Như Lai, và cũng diễn giảng Pháp Hoa. Nhân tố này làm cho ngài gặp nhiều đức Phật nữa cùng danh hiệu Vân Tự Tại Vương Như Lai, cũng kính giữ Pháp Hoa, cũng được sáu căn bình thường mà trong suốt. Ngài còn gặp nhiều đức Phật nữa, cũng diễn giảng Pháp Hoa, và trở thành Phật đà.

Đại Thế Chí, đại Bồ tát Thường Bất Khinh lúc ấy chính là bản thân Như Lai. Như Lai nếu không tiếp nhận kính giữ Pháp Hoa thì đã không thành tựu tuệ giác vô thượng một cách mau chóng. Phần những người trong bốn chúng khinh ngạo đại Bồ tát Thường Bất Khinh thì bao thời kỳ không gặp Phật không nghe Pháp không thấy Tăng, bao thời kỳ chịu khổ khốc liệt trong Vô gián. Nhưng hết tội báo ấy lại gặp được đại Bồ tát Thường Bất Khinh giáo hóa cho về tuệ giác vô thượng. Họ nay là năm trăm Bồ tát, năm trăm Tỷ kheo và Tỷ kheo ni, năm trăm ưu bà tắc và ưu bà di, toàn là những người không thoái chuyển tuệ giác vô thượng, và đang có mặt trong đại hội này.

Đại Thế Chí, đại sĩ phải biết, Pháp Hoa ích lợi vĩ đại cho chư vị đại Bồ tát, có năng lực làm cho chư vị ấy đạt đến tuệ giác vô thượng. Vì lý do này, sau khi Như Lai nhập diệt, đối với Pháp Hoa, chư vị đại Bồ tát hãy liên tục tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng nói cho người, sao chép ấn hành…

________

 Phẩm 21: Sức Thần Của Đức Thế Tôn

 Lúc bấy giờ các vị đại Bồ tát đã từ đất dũng xuất, cùng đối trước đức Thế Tôn, chuyên chú mà chắp tay chiêm ngưỡng dung nhan của ngài, thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, sau khi ngài nhập diệt, chúng con sẽ ở trong bao nhiêu quốc độ của chư Phật phân thân của ngài mà giảng nói rộng rãi về kinh Pháp Hoa. Chúng con làm như vậy là vì bản thân chúng con cũng muốn được cái Pháp vĩ đại ấy để hiến cúng bằng cách tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng nói cho người, sao chép ấn hành.

Khi ấy, trước toàn thể đại hội, và trọn trăm ngàn năm, đức Thế Tôn và chư Phật phân thân của ngài, từ nơi hết thảy lỗ lông, phóng ra vô lượng ánh sáng có màu sắc, chiếu khắp quốc độ mười phương. Làm cho chúng sinh ở các quốc độ ấy cùng nhìn quốc độ Kham nhẫn này: Thấy chư Phật phân thân, thấy đức Thế Tôn và đức Đa Bảo, thấy chúng Bồ tát và bốn chúng bao quanh đức Thế Tôn, và thấy ngài đang tuyên thuyết Pháp Hoa cho họ. Thấy như vậy nên tùy hỷ sâu xa, và cùng nhau chắp tay hướng về quốc độ này mà nói kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, và đem các loại cúng phẩm tung vào quôác độ này. Bấy giờ tất cả quốc độ mười phương đều thông suôát với nhau như một cõi Phật.

Khi ấy đức Thế Tôn bảo đại chúng Bồ tát mà trong bốn vị thượng thủ có đại Bồ tát Thượng Hạnh, rằng một chút thần lực của Như Lai mà đã bất khả tư nghị như vậy. Nhưng nếu Như Lai đem thần lực như vậy, vì sự giao phó trọng trách mà nói đến đặc tính của Pháp Hoa, thì nói nhiều thời kỳ cũng không cùng tận. Nói cốt yếu thì những gì Như Lai có đều nói trong Pháp Hoa. Do vậy mà sau khi Như Lai nhập diệt, đối với Pháp Hoa, chư vị phải một lòng thực hành năm pháp hạnh mà kính giữ kinh ấy.

Kính giữ Pháp Hoa là thấy Như Lai, thấy đức Đa Bảo, thấy chư Phật phân thân, thấy các Bồ tát đang được Như Lai giảng dạy giáo hóa trong ngày hôm nay. Cái Pháp bí yếu mà Như Lai được khi Như Lai ngồi nơi Bồ đề tràng, ai kính giữ được kinh Pháp Hoa này, sẽ không bao lâu cũng được Pháp ấy. Ví như ánh sáng hai vầng nhật nguyệt, người ấy phá tan mọi sự mờ tối. Người ấy đi khắp trong cõi đời này, diệt được mờ tối cho bao chúng sinh, giáo hóa bao người có tánh Bồ tát cùng được ngồi vào cỗ xe duy nhất.

__________

Phẩm 22: Giao Phó Trọng Trách

 Vào lúc bấy giờ, từ trên pháp tòa, đức Thế Tôn đứng dậy, biểu hiện thần lực bằng cách đưa cánh tay phải xoa trên đỉnh đầu vô lượng Bồ tát đại sĩ mà nói, cái pháp tuệ giác vô thượng rất khó được như thế này, Như Lai trải qua vô lượng thời kỳ mới tu hành, thu thập và thực hiện được, ngày nay Như Lai đem giao phó cho quý vị; quý vị nên hết lòng truyền bá, làm cho sự ích lợi của pháp ấy tăng lên một cách rộng rãi. Ba lần như vậy, đức Thế Tôn xoa trên đỉnh đầu chư vị Bồ tát đại sĩ mà nói, cái pháp như thế này ngày nay Như Lai giao phó cho quý vị, quý vị hãy làm cho hết thảy chúng sinh cùng được nghe biết pháp ấy.

Tại sao Như Lai giao phó như vậy? Vì Như Lai đại từ bi. Như Lai có thể cho chúng sinh tuệ giác Phật đà, tuệ giác Như Lai, tuệ giác Tự nhiên. Như Lai là đại thí chủ. Quý vị cũng phải học tập phong cách ấy. Trong thì vị lai, ai tin được tuệ giác Như Lai thì quý vị nên giảng nói Pháp Hoa, với chủ ý làm cho những người này đạt được tuệ giác ấy. Ai chưa tin được tuệ giác ấy thì quý vị hãy đem những giáo pháp sâu xa khác của Như Lai mà trình bày, thuyết phục, khuyến khích, tán thưởng. Làm được như vậy là quý vị đã báo đáp được ân đức của chư Phật. Chư vị Bồ tát đại sĩ nghe đức Thế Tôn dạy như vậy thì ai cũng rất hoan hỷ. Nỗi hoan hỷ ấy tràn ngập cơ thể, nên chư vị tăng thêm tôn kính, chắp tay hướng về đức Thế Tôn, cùng lên tiếng mà thưa, bạch đức Thế Tôn, chúng con nguyện xin cùng nhau phụng hành đúng như lời đức Thế Tôn huấn dụ. Dạ, đúng như vậy, bạch đức Thế Tôn, xin đức Thế Tôn đừng lo nghĩ. Ba lần như vậy, chư vị Bồ tát đại sĩ cùng lên tiếng mà thưa, bạch đức Thế Tôn, chúng con nguyện xin cùng nhau phụng hành đúng như lời đức Thế Tôn huấn dụ. Dạ, đúng như vậy, bạch đức Thế Tôn, xin đức Thế Tôn đừng lo nghĩ.

Khi ấy đức Thế Tôn kính thỉnh chư Phật phân thân trở về quốc độ của các ngài; kính xin tháp Đa Bảo trở về chỗ cũ. Khi đức Thế Tôn nói như vậy thì vô lượng chư Phật phân thân, đức Đa Bảo Phật đà, cùng vô biên đại chúng Bồ tát mà trong 4 vị thượng thủ có đại Bồ tát Thượng Hạnh, 4 chúng Thanh văn mà thượng thủ là tôn giả Xá Lợi Phất, và tất cả thế giới mà trong đó bao gồm nhân loại và 8 bộ, nghe những điều đức Thế Tôn nói ai cũng đại hoan hỷ.

__________

Phẩm 23: Việc Cũ Của Bồ Tát Dược Vương

Lúc ấy Bồ tát Tú Vương Hoa thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, Bồ tát Dược Vương du hóa như thế nào trong quốc độ Kham nhẫn? Vị Bồ tát ấy có bao nhiêu khổ hạnh khó làm? Lành thay đức Thế Tôn, xin ngài nói ra một chút về khổ hạnh ấy. Chúng Bồ tát đến từ thế giới hệ khác và chúng Thanh văn ở thế giới hệ này ai nghe cũng hoan hỷ.

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo Bồ tát Tú Vương Hoa, quá khứ cách nay nhiều thời kỳ, có đức Phật danh hiệu là Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai, đủ 10 đức hiệu. Chúng đại Bồ tát và chúng đại Thanh văn của ngài rất đông. Ngài sống rất lâu. Đời sống của đại Bồ tát cũng đồng đẳng. Quốc độ của ngài không có nữ nhân, không có các đường dữ, không có mọi sự tai nạn. Quốc độ ấy rất đẹp và sạch.

Bấy giờ đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai tuyên thuyết Pháp Hoa cho Bồ tát Nhất Thế Chúng Sinh Hỷ Kiến và các chúng Bồ tát, Thanh văn. Nhất Thế Chúng Sinh Hỷ Kiến là vị Bồ tát thích tập khổ hạnh. Trong giáo pháp của đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai, vị Bồ tát này tinh tiến kinh hành và tư duy để cầu Phật tuệ. Trọn hàng ngàn năm như vậy, vị Bồ tát này được định tên Hiện các sắc thân, và rất hoan hỷ, nghĩ rằng, ta được định Hiện các sắc thân là nhờ sức mạnh của sự được nghe Pháp Hoa. Ta nên hiến cúng đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai và kinh ấy. Nghĩ vậy nên vị Bồ tát này tức thì nhập định Hiện các sắc thân, ở trong không gian rưới hoa hương rất quí mà hiến cúng. Hiến cúng cách ấy rồi, Bồ tát Nhất Thế Chúng Sinh Hỷ Kiến xuất định, nghĩ rằng, dầu ta vận dụng thần lực mà hiến cúng đức Thế Tôn của ta như vậy vẫn không bằng đem chính thân ta mà hiến cúng. Nghĩ như vậy nên vị Bồ tát này ăn uống các hương liệu, uống dầu thơm của các loại hoa, rồi đem dầu thơm mà thoa mình, đối trước đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai, đem nguyện lực và thần lực mà tự đốt thân mình, ánh sáng chiếu khắp bao nhiêu thế giới hệ. Chư Phật trong những thế giới hệ ấy cùng lúc ca tụng, rằng tốt lắm thiện nam tử, như thế này mới là sự tinh tiến chân thật. Thiện nam tử, như thế này mới là sự hiến cúng bậc nhất. Trong mọi sự hiến cúng, sự này tối tôn tối thượng. Là vì đây là lấy chánh pháp mà hiến cúng Như Lai.

Sau khi hiến cúng bằng chánh pháp như vậy, và đời sống kết thúc rồi, vị Bồ tát này tái sanh trong quốc độ của đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai, bằng cách bỗng nhiên hóa sinh, ngồi xếp bàèng trong cung vua Tịnh Đức, và tức thì nói với vương phụ, rằng vương phụ biết cho, trong đời trước đây con đã đi trên con đường khổ hạnh, đã thành tựu định Hiện các sắc thân, và đã làm việc tinh tiến vĩ đại, bằng cách xả bỏ cái thân yêu quí, tôn kính hiến cúng đức Thế Tôn của con, để cầu thành đạt tuệ giác vô thượng. Nói rồi, lại tâu vương phụ, rằng đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai hiện nay vẫn còn. Trước đây con hiến cúng ngài rồi được pháp tổng trì Biết hết tiếng nói của chúng sinh, lại được nghe kinh Pháp Hoa với những bài kệ đạt đến số lượng hàng ức đại số cuối cùng. Tâu vương phụ, bây giờ con lại muốn hiến cúng ngài. Rồi Bồ tát Nhất Thế Chúng Sinh Hỷ Kiến liền đến chỗ đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai, đầu mặt lạy ngang chân ngài, chắp tay lại mà thưa: Diện mạo Thế Tôn vô cùng kỳ diệu! Ánh sáng Thế Tôn chiếu khắp tất cả! Trong đời trước đây con mới hiến cúng và nay lại được đích thân chiêm ngưỡng!

Bồ tát Nhất Thế Chúng Sinh Hỷ Kiến lại thưa, bạch đức Thế Tôn, như vậy là đức Thế Tôn vẫn còn có thể ở đời thêm nữa. Đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai bảo, thiện nam tử, thì gian Niết bàn của Như Lai đã đến. Ông hãy sắp chỗ cho Như Lai. Đêm nay Như Lai sẽ nhập Niết bàn. Ngài lại huấn thị Bồ tát Nhất Thế Chúng Sinh Hỷ Kiến, rằng thiện nam tử, Như Lai đem giáo pháp của Như Lai mà giao phó cho ông, lại giao phó cho ông các vị Bồ tát, các đại đệ tử, và pháp tuệ giác vô thượng. Huấn thị rồi, phần sau của đêm ấy ngài nhập vào Niết bàn.

Thấy vậy, Bồ tát Nhất Thế Chúng Sinh Hỷ Kiến bi cảm, luyến mộ, dùng đàn hương làm giàn củi, hiến cúng mà thiêu thân ngài, thu thập xá lợi vào hàng ngàn bình ngọc, và xây hàng ngàn bảo tháp mà tôn thờ. Thế nhưng vị Bồ tát ấy lại nghĩ, ta hiến cúng xá lợi như vầy vẫn thấy chưa đủ. Ta nên đổi cách mà hiến cúng. Vị Bồ tát này bảo chư Bồ tát, chư đại đệ tử và bao chúng khác, rằng nay tôi muốn hiến cúng xá lợi của đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai. Nói rồi tự đốt hai cánh tay được trang sức bởi cả trăm phước, làm cho vô số người cầu tuệ giác Thanh văn và phát tâm tuệ giác vô thượng đều được ở vào trong định Hiện các sắc thân.

Bấy giờ các chúng thấy bồ tát Nhất Thế Chúng Sinh Hỷ Kiến không còn hai cánh tay thì lo và thương mà nói với nhau, rằng vị bồ tát này là thầy chúng ta mà nay thân không hoàn bị! Nhưng bồ tát Nhất Thế Chúng Sinh Hỷ Kiến ở giữa các chúng mà thệ nguyện, rằng tôi bỏ hai cánh tay thì quyết chắc sẽ được cái thân màu hoàng kim của Phật. Nếu thật như vậy thì nguyện hai cánh tay của tôi trở lại như cũ. Thệ nguyện rồi tự nhiên phục hồi cả hai cánh tay. Ấy là do phước đức và tuệ giác của vị bồ tát này cực kỳ thuần hậu mà cảm ra.

Đức Thế Tôn bảo bồ tát Tú Vương Hoa, ý ông nghĩ thế nào, bồ tát Nhất Thế Chúng Sinh Hỷ Kiến có phải ai khác, nay chính là Dược Vương đại sĩ. Thân mạng vị đại sĩ này bỏ ra mà hiến, mà cho, có đến vô lượng.

Tú Vương Hoa, Pháp Hoa có năng lực cứu vớt hết thảy chúng sinh, có năng lực đem lại lợi ích vĩ đại cho hết thảy chúng sinh, sung mãn mọi sự nguyện ước của họ, có năng lực làm cho chúng sinh thoát hết mọi sự khổ não, mọi thứ ốm đau, mở được những cách ràng buộc bởi sự sống chết. Đối với Pháp Hoa, ai được nghe, được chép, được khuyên người chép, thì công đức có được, nếu đem tuệ giác của Phật tính coi nhiều ít mới thấy vô hạn. Ai chép cuốn kinh Pháp Hoa rồi hiến cúng bằng các loại hoa, các hương liệu, bằng các thứ đèn, bằng các thứ đèn dầu thơm, thì được công đức cũng là vô hạn.

Tú Vương Hoa, ai nghe được phẩm Việc cũ của bồ tát Dược Vương này thì cũng được công đức vô hạn. Dầu là nữ nhân mà nghe và tiếp nhận ghi nhớ được phẩm Việc cũ của bồ tát Dược Vương thì thân nữ nhân đời này kết thúc rồi sau đó không còn có lại thân ấy. Như Lai nhập diệt rồi, trong năm trăm năm sau, dầu là nữ nhân mà nghe được kinh Pháp Hoa, và thực hành như kinh ấy dạy, thì người ấy mệnh chung ở quốc độ này là tức khắc hóa sinh trên tòa ngọc trong hoa sen của quốc độ Cực lạc, nơi đức A Di Đà Như Lai chủ ngự, với chư đại bồ tát bao quanh. Ở đó, người ấy được tuệ giác Không sinh nên mắt trong suốt. Với mắt ấy thấy được chư Phật nhiều như hằng sa. Bấy giờ chư Phật như vậy cũng từ xa mà ca tụng, rằng tốt lắm thiện nam tử, trong giáo pháp của đức Thích Ca Thế Tôn, ông tiếp nhận, ghi nhớ, đọc tụng, suy xét nghĩa lý và giảng nói cho người về kinh Pháp Hoa, nên phước của ông thì vô hạn lượng, trăm ngàn Phật đà đem thần lực giữ gìn cho ông, ngoại trừ Phật đà, tuệ giác và thiền định của thanh văn, duyên giác, cho đến bồ tát, không ai hơn ông, Tú Vương Hoa, vị bồ tát ấy, mà vốn là một nữ nhân, thành tựu công đức lực và tuệ giác lực đến như vậy.

Nếu ai nghe phẩm Việc cũ của bồ tát Dược Vương này mà tùy hỷ tán dương, thì người ấy hiện tại miệng thường phát ra hơi thơm hoa sen xanh, lỗ lông cả người thường toát ra hơi thơm đàn hương, và thành quả người ấy đạt được là như trên đã nói. Vì lý do này, Tú Vương Hoa, Như Lai đem phẩm Việc cũ của bồ tát Dược Vương giao phó cho ông. Như Lai nhập diệt rồi, trong năm trăm năm sau, ông hãy truyền bá rộng rãi phẩm này trong cõi Diêm phù, đừng để mất đi. Tú Vương Hoa, ông nên đem thần lực của ông mà giữ gìn Pháp Hoa. Kinh ấy là thuốc tốt cho bịnh của người Diêm phù. Ai bịnh mà được nghe kinh ấy thì bịnh hết, không già sớm, không chết yểu.

Khi đức Thế Tôn tuyên thuyết phẩm Việc cũ của bồ tát Dược Vương thì có hàng vạn bồ tát được pháp tổng trì Biết hết tiếng nói của chúng sinh. Và đức Đa Bảo Phật đà ở trong bảo tháp thì khen rằng, tốt lắm Tú Vương Hoa, ông đã làm được một việc ngoài tầm nghĩ bàn: ông biết hỏi đức Thích Ca Thế Tôn về việc cũ của Dược Vương đại sĩ, ích lợi vô lượng cho hết thảy chúng sinh.

________

 Phẩm 24: Bồ tát Diệu Âm

Lúc bấy giờ, từ nơi nhục kế và bạch hào, đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng, chiếu qua rất nhiều quốc độ ở hướng đông thì có một quốc độ tên là Tịnh Quang trang nghiêm, đức Phật giáo chủ danh hiệu là Tịnh Hoa Tú Vương Trí Như Lai, đủ 10 đức hiệu. Tại đây có vị bồ tát danh hiệu Diệu Âm, từ lâu hoàn thành đầy đủ tuệ giác rất sâu, thể hiện nhiều định mà trong đó có định Hoa sen chánh pháp. Khi ánh sáng của đức Thế Tôn chiếu đến thân thể thì ngài Diệu Âm liền thưa đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Như Lai, rằng bạch đức Thế Tôn, con nên qua thế giới hệ Kham nhẫn để lễ bái thân gần và hiến cúng đức Thích Ca Thế Tôn và gặp các vị đại bồ tát. Đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Như Lai bảo bồ tát Diệu Âm, thiện nam tử, ông đến Kham nhẫn thì đừng sinh ý tưởng thấp kém đối với Phật, với bồ tát và với đất nước của thế giới hệ ấy. Bồ tát Diệu Âm thưa với đức Phật của mình, bạch đức Thế Tôn, nay con đến thế giới hệ Kham nhẫn là do thần thông du hóa, do công đức trang nghiêm và tuệ giác trang nghiêm của đức Thế Tôn.

Thế rồi bồ tát Diệu Âm không đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, thân không dao động mà chỉ nhập định. Do định lực này mà tại Linh sơn, cách pháp tòa của đức Thế Tôn không xa, xuất hiện tám mươi bốn ngàn hoa sen bằng vàng ngọc rất quí. Thái tử của đức Pháp vương là ngài Văn Thù thấy những hoa sen ấy thì thưa, bạch đức Thế Tôn, vì lý do gì mà điềm lành như vầy hiện trước ra đây? Đức Thế Tôn bảo, ấy là đại bồ tát Diệu Âm muốn từ quốc độ của đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Như Lai, cùng tám mươi bốn ngàn bồ tát bao quanh, sẽ đến quốc độ Kham nhẫn này để hiến cúng thân gần và lễ bái Như Lai, lại muốn hiến cúng và nghe kinh Pháp Hoa. Ngài Văn Thù thưa, bạch đức Thế Tôn, xin đức Thế Tôn dùng thần lực làm cho vị bồ tát ấy đến đây để chúng con được thấy. Đức Thế Tôn bảo ngài Văn Thù, đức Đa Bảo Phật đà sẽ làm hiện ra cho chư vị thấy sắc tướng của bồ tát Diệu Âm. Bấy giờ đức Đa Bảo Phật đà bảo bồ tát Diệu Âm, thiện nam tử, hãy đến đây; bồ tát Văn Thù muốn thấy thân ông.

Ngay lúc ấy, bồ tát Diệu Âm ẩn mất tại quốc độ của mình, cùng tám mươi ngàn bồ tát xuất phát. Bao nhiêu quốc độ mà vị bồ tát này đi qua đều chấn động sáu cách, đều mưa xuống hoa sen quí báu, đều có cả trăm ngàn nhạc khí chư thiên không đánh mà tự kêu lên. Vị bồ tát này ngồi trên đài bằng bảy chất liệu quí báu, thăng lên không gian cách mặt đất bảy cây đa la, với các vị bồ tát bao quanh mà đến Linh sơn của quôác độ Kham nhẫn. Đến rồi, bồ tát Diệu Âm bước xuống khỏi đài ngọc, lấy chuổi ngọc giá trị cả trăm cả ngàn, cầm đến chỗ đức Thích Ca Thế Tôn, đầu mặt lạy ngang chân ngài, dâng lên mà thưa, bạch đức Thế Tôn, đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Như Lai của con xin kính vấn an đức Thế Tôn, rằng ngài ít bịnh ít phiền, sinh hoạt bình thường được thư thái không? Ngài sống yên vui không? Bốn đại chủng trong cơ thể của ngài được điều hòa không? Việc đời ở đây ngài chịu nỗi không? Chúng sinh ở đây ngài hóa độ dễ dàng không? Ở đây có hay không có những kẻ lắm tham dục, sân hận, ngu si, ganh ghét, keo lẫn và ngạo mạn? Ở đây có hay không có những kẻ bất hiếu cha mẹ, bất kính tu sĩ, thấy biết sai lầm, tâm tính bất thiện, không chế ngự năm thứ giác quan? Bạch đức Thế Tôn, chúng sinh ở đây chiến thắng được ma quân thù địch không? Đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Như Lai của con xin kính vấn an đức Đa Bảo Phật đà. Bạch đức Thế Tôn, con ước nguyện được thấy thân đức Đa Bảo Phật đà, xin đức Thế Tôn làm cho con được thấy. Đức Thế Tôn nói với đức Đa Bảo, bồ tát Diệu Âm muốn được yết kiến ngài. Đức Đa Bảo nói, Diệu Âm, rất tốt việc ông đến đây để được hiến cúng đức Thích Ca Thế Tôn, được nghe kinh Pháp Hoa.

Bấy giờ bồ tát Hoa Đức thưa, rằng bạch đức Thế Tôn, bồ tát Diệu Âm trồng thiện căn nào và tu công đức gì mà có thần lực như vầy? Đức Thế Tôn bảo, Hoa Đức, vị bồ tát ấy có thần lực như vầy là vì đã thân gần phụng sự vô lượng chư Phật, đã gieo trồng từ lâu bao nhiêu gốc rễ công đức ở nơi chư Phật ấy. Hoa Đức, ông chỉ thấy bồ tát Diệu Âm qua cái thân ở đây, nhưng vị bồ tát ấy biểu hiện đủ loại thân hình, ở quốc độ Kham nhẫn và mọi quốc độ khác mà giảng nói Pháp Hoa cho các loại chúng sinh. Hoặc biểu hiện các thân Phạn Vương, Đế Thích, Tự Tại, Đại Tự Tại, Thiên Đại tướng quân, Tì Sa Môn thiên vương, quốc vương, trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà la môn; hoặc biểu hiện các thân 4 chúng; hoặc biểu hiện các thân phụ nữ trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà la môn; hoặc biểu hiện các thân đồng nam, đồng nữ; hoặc biểu hiện các thân 8 bộ. Bồ tát Diệu Âm biểu hiện các thân như vậy mà giảng nói Pháp Hoa. Những chỗ địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, và những nơi tai nạn, vị bồ tát ấy cứu giúp được cả. Thậm chí vị bồ tát ấy còn biểu hiện thân hình nữ nhân ở trong hậu cung của các vua chúa mà giảng nói Pháp Hoa.

Hoa Đức, bồ tát Diệu Âm đem bao nhiêu tuệ giác mà soi sáng cho quốc độ Kham nhẫn và quốc độ mười phương. Do vậy, những ai nên dùng các thân hình thanh văn, duyên giác, bồ tát và Phật đà mới được độ thoát thì vị bồ tát ấy biểu hiện các thân hình này mà thuyết pháp. Cứ như vậy, đủ các chủng loại, vị bồ tát ấy tùy kẻ nào nên dùng thân gì để hóa độ thì biểu hiện thân ấy cho họ. Đến nỗi có kẻ nên dùng sự nhập diệt mới được độ thoát, thì vị bồ tát ấy cũng biểu hiện nhập diệt.

Bồ tát Hoa Đức thưa, bạch đức Thế Tôn, như vậy là bồ tát Diệu Âm ở trong định nào mà ở đâu cũng biểu hiện thân hình để hóa độ chúng sinh như vậy? Đức Thế Tôn dạy bồ tát Hoa Đức, định của bồ tát Diệu Âm tên là Hiện các sắc thân. Vị bồ tát ấy ở trong định này nên lợi ích được như vậy cho vô lượng chúng sinh.

Khi đức Thế Tôn tuyên thuyết phẩm bồ tát Diệu Âm này ngang đây thì tám mươi bốn ngàn bồ tát cùng đi với bồ tát Diệu Âm đều thực hiện định Hiện các sắc thân, vô lượng bồ tát ở thế giới hệ Kham nhẫn cũng thực hiện định này, lại còn thực hiện các pháp tổng trì.

Bồ tát Diệu Âm hiến cúng đức Thế Tôn và bảo tháp của đức Đa Bảo rồi trở về thế giới hệ của mình. Những thế giới hệ mà vị bồ tát ấy đi qua lại chấn động sáu cách, lại mưa xuống hoa sen quí báu, lại diễn tấu trăm ngàn vạn ức chủng loại nhạc khí. Về đến thế giới hệ của mình, bồ tát Diệu Âm, với tám mươi bốn ngàn bồ tát bao quanh, đến chỗ đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Như Lai mà thưa, bạch đức Thế Tôn, con đến thế giới hệ Kham Nhẫn làm lợi ích cho chúng sinh, cũng làm cho tám mươi bốn ngàn vị bồ tát đi theo con đây được định Hiện các sắc thân.

Khi đức Thế Tôn tuyên thuyết hoàn tất phẩm Bồ tát Diệu Âm đến và đi thì tám mươi bốn ngàn thiên nhân được tuệ giác Không sinh, bồ tát Hoa Đức được định Pháp Hoa.

________

Phẩm 25: Quan Âm đại sĩ: vị Toàn diện

Vào lúc bấy giờ, bồ tát Vô Tận Ý đứng dậy, trần vai bên phải, chắp tay hướng về đức Thế Tôn mà thưa, bạch đức Thế Tôn, Quan Âm đại sĩ vì lý do gì mà danh hiệu là Quan Thế Âm? Đức Thế Tôn dạy bồ tát Vô Tận Ý, thiện nam tử, chúng sinh nghe nói đến Quan Âm đại sĩ mà một lòng trì niệm danh hiệu của ngài, thì đau khổ không làm khổ được, lửa không đốt được, nước không trôi được, bão không hại được, hình cụ, ác quỉ, gông cùm, giặc cướp, đều không hại được. Ai có tính đa dâm, ai có tính đa sân, ai có tính đa si, mà thường xuyên trì niệm tôn kính Quan Âm đại sĩ thì thoát được những tính ấy. Nữ nhân nào cầu con trai mà lễ bái hiến cúng Quan Âm đại sĩ thì sinh được con trai vừa có phước vừa có trí; nữ nhân nào cầu con gái mà lễ bái hiến cúng Quan Âm đại sĩ thì sinh được con gái đoan chính, tuyệt sắc, có phước đời trước và mọi người mến trọng. Vô Tận Ý, Quan Âm đại sĩ có thần lực như vậy, ai tôn kính lễ bái thì được phước chứ không phải vô hiệu quả.

Vì lý do này mà mọi người nên trì niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ. Vô Tận Ý, ai trì niệm danh hiệu và hiến cúng liệt vị bồ tát, và ai trì niệm danh hiệu và hiến cúng Quan Âm đại sĩ, thì phước của hai người đồng đẳng, và hưởng thụ đến nhiều thời kỳ cũng vẫn không thể cùng tận.

Bồ tát Vô Tận Ý lại thưa, bạch đức Thế Tôn, Quan Âm đại sĩ du hóa thế giới hệ Kham nhẫn như thế nào? Đức Thế Tôn dạy bồ tát Vô Tận Ý, thiện nam tử, chúng sinh nào, ở thế giới nào, nên hóa độ bằng thân hình gì, thì Quan Âm đại sĩ biến thể những thân hình ấy mà hóa độ: thân hình Phật đà, Duyên giác và Thanh văn, thân hình Phạn Vương, Đế Thích, Tự Tại, Đại Tự Tại, Thiên Đại tướng quân, Tỳ sa Môn; thân hình quốc chúa, trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà la môn; thân hình 4 chúng; thân hình phụ nữ 4 loại; thân hình đồng nam đồng nữ; thân hình 8 bộ; thân hình Chấp kim cang thân. Vô Tận Ý, Quan Âm đại sĩ hoàn hảo năng lực như vậy: dùng mọi thân hình vào mọi thế giới mà hóa độ chúng sinh. Do vậy mà chư vị nên hết lòng hiến cúng Quan Âm đại sĩ. Trong nỗi kinh hoàng, trong cơn nguy cấp, trong sự hoạn nạn, Quan Âm đại sĩ có thể cho người sự không sợ hãi, nên thế giới hệ Kham nhẫn này ai cũng tôn xưng là Người cho sự không sợ.

Bồ tát Vô Tận Ý liền thưa, bạch đức Thế Tôn, nay con xin hiến cúng Quan Âm đại sĩ. Thưa rồi, vị bồ tát này cởi ngay chuỗi ngọc đang mang nơi cổ, hiến lên Quan Âm đại sĩ mà thưa, xin đại sĩ nhận cho một cách hiến cúng theo chánh pháp này. Sau khi bồ tát Vô Tận Ý thưa lần thứ hai, và đức Thế Tôn khuyến cáo, Quan Âm đại sĩ nhận và phân chuỗi ngọc ấy, một phần hiến cúng đức Thế Tôn, một phần hiến cúng bảo tháp của đức Đa Bảo. Đức Thế Tôn nói, Vô Tận Ý, Quan Âm đại sĩ với thần lực tự tại như vậy mà du hóa thế giới hệ này.

Chúng sinh khốn đốn
vì bao đau khổ
cái nhìn tuệ giác
của Quan Thế Âm
đầy cả năng lực
cứu khổ cho đời.
Quan Âm đại sĩ
đầy thần thông lực
đầy tuệ giác lực
đầy phương tiện lực,
cho nên khắp cả
mười phương thế giới
không đâu mà không
biến thể xuất hiện.
Nhìn đúng sự thật,
nhìn thật trong suốt,
nhìn với tuệ giác
vô cùng vĩ đại,
nhìn bằng đại bi,
nhìn theo đại từ,
nên hãy thường xuyên
nguyện cầu chiêm ngưỡng.
Là thể trong suốt
sáng không tì vết,
là vầng tuệ nhật
phá tan hắc ám,
là lửa rực sáng
xua tan tai nạn,
ngài trải hào quang
khắp cả trần gian.
Bản thể đại bi
như sấm thức tỉnh,
ý thức đại từ
như mây dồn lớn,
đại sĩ mưa xuống
nước Pháp cam lộ
rưới tắt lửa dữ
của bao phiền não.
Đối chất cửa quan,
kinh hoàng chiến trận,
năng lực trì niệm
Quan Âm đại sĩ
làm cho giặc thù
lBấy giờ bồ tát Trì Địa liền đứng dậy, bước tới trước đức Thế Tôn mà thưa, bạch đức Thế Tôn, người nào được nghe phẩm nói về Quan Âm đại sĩ—về bậc diệu dụng tự tại, thần lực biến thể một cách toàn diện, thì biết công đức người ấy đã có không ít.

Khi đức Thế Tôn tuyên thuyết phẩm nói về vị Toàn diện này, thì có vô số người cùng phát tâm tuệ giác vô thượng là tâm tuyệt bậc mà đồng bậc.

________

Phẩm 26: Tổng trì minh chú

 Lúc ấy bồ tát Dược Vương đứng dậy, trần vai bên phải, chắp tay hướng về đức Thế Tôn mà thưa, bạch đức Thế Tôn, con xin cho người diễn giảng Pháp Hoa một bài tổng trì minh chú để hộ trì cho người ấy: A ni dê, ma ni dê, ma nê, ma ma nê, chít tê, cha ri tê, sa mê, sa mi ta, vi săn tê, mút tê, mút ta ta mê, sa mê, a vi sa mê, sa ma sa mê, sa dê, át sa dê, át si mê, săn tê, sa mi tê, đa ra ni, a lô ka ba sê, pra ti da vết sa ni, ni đi ru, a bi dăn ta ra ni vết tê, a bi dăn ta ra pa ri su đi, mút ku lê, mút ku lê, a ra đê, pa ra đê, su kăn si, a săm ma săm mê, bu đa vi lô ki tê, đam ma pa ri si tê, sam ga nia gô sa ni, ba da ba da vi sô đa ni, man trê, man tra sa da tê, ru tê, ru ta kao sa li dê, át sa dê, át sa da va na ta dê, va lô đa, a ma ni da na ta dê, soa ha.

Bồ tát Dũng Thí cũng thưa, bạch đức Thế Tôn, con cũng xin hộ trì cho người đọc tụng, hơn nữa nhận giữ Pháp Hoa, mà nói một bài tổng trì minh chú: Ji va lê, ma ha ji va lê, út kê, mấc kê, a đê, a đa va ti, nờ ri ti dê, nờ ri ti da va ti, ít ti ni, vít ti ni, chít ti ni, nờ ri ti da ni, nờ ri ti da va ti, soa ha.

Bấy giờ Tỳ sa Môn Thiên vương, người hộ vệ thế gian, cũng thưa, bạch đức Thế Tôn, con cũng vì thương tưởng chúng sinh và hộ trì người diễn giảng Pháp Hoa mà xin nói một bài tổng trì minh chú: Át tê, nát tê, va nát tê, a na đê, na đi, ku ma đi, soa ha.

Trì Quốc Thiên vương cũng hiện diện trong đại hội. Vị thiên vương ấy bước tới chỗ đức Thế Tôn, chắp tay mà thưa, bạch đức Thế Tôn, con cũng xin đem một bài tổng trì minh chú mà hộ trì cho người kính giữ Pháp Hoa: A ga nê, ga nê, gao ri, găn đa ri, chăn đa li, ma tăn ghi, pút ka si, sam ku lê, vờ ru sa li, si si, soa ha.

Bấy giờ có mười la sát nữ hợp cùng mẹ của năm trăm quỉ tử, và con với thuộc hạ của họ, đến chỗ đức Thế Tôn, đồng thanh thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, chúng con cũng nguyện hộ trì cho người đọc tụng, hơn nữa nhận giữ Pháp Hoa, loại trừ suy biến và bịnh hoạn cho người này bằng một bài tổng trì minh chú: I ti mê, i ti mê, i ti mê, i ti mê, i ti mê; ni mê, ni mê, ni mê, ni mê, ni mê; ru hê, ru hê, ru hê, ru hê, ru hê; sờ tu hê, sờ tu hê, sờ tu hê, sờ tu hê, sờ tu hê, soa ha.

Khi phẩm Tổng trì minh chú như thế này được tuyên thuyết thì có sáu mươi tám ngàn người thực hiện tuệ giác Không sinh.

_________

 Phẩm 27: Việc cũ của Diệu Trang Nghiêm Vương

 Khi ấy đức Thế Tôn bảo cả đại hội, xưa, cách nay rất nhiều thời kỳ, có đức Phật danh hiệu Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai, quốc độ tên Quang Minh trang nghiêm, thời kỳ tên Hỷ kiến. Trong giáo pháp của ngài có quốc vương tên Diệu Trang Nghiêm, vương hậu tên Tịnh Đức. Có 2 vương tử, thứ nhất tên Tịnh Tạng, thứ hai tên Tịnh Nhãn. Cả hai đều có đại thần lực, đại phước đức và đại tuệ giác, từ lâu đi theo đường đi của bồ tát, các định của bồ tát cũng đã thực hiện.

Thời ấy, đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai muốn dắt dẫn Diệu Trang Nghiêm vương và thương tưởng chúng sinh, nên cũng đã tuyên thuyết Pháp Hoa. Sự thể như vầy. Hai vương tử đến chỗ mẹ, chắp tay mời mẹ đi đến chỗ đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai, rằng ngài đang tuyên thuyết Pháp Hoa, chúng ta nên đến lắng nghe và tiếp nhận. Vương hậu nói, vương phụ các con tin chịu kiến thức ngoài chánh pháp, các con nên lo nghĩ cho cha mà biểu hiện thần biến để người cùng đi. Hai vương tử vâng lời, vọt lên không gian với độ cao 7 cây đa la, biểu hiện các dạng thần biến. Diệu Trang Nghiêm vương nhìn thấy, lòng rất hoan hỷ, hướng lên hỏi bổn sư của các con là ai. Hai vương tử thưa, đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai là bổn sư của chúng con, đang tuyên thuyết phong phú về kinh Pháp Hoa. Diệu Trang Nghiêm vương bảo, cha muốn yết kiến ngài. Chúng ta nên cùng đi.

Hai vương tử hạ xuống, trở lại thưa mẹ, chúng con đã làm việc Phật làm cho cha chúng con. Nay thì vương phụ đã có sự tin hiểu đủ khả năng phát tâm vô thượng bồ đề. Xin mẹ chấp thuận cho chúng con được xuất gia tu tập nơi đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai, bởi vì Phật thì khó gặp và cơ hội thuận tiện cũng khó có. Vương hậu chấp thuận liền. Và hai vương tử xin cha mẹ đi liền đến chỗ Phật.

Bấy giờ hoàng cung Diệu Trang Nghiêm vương có rất nhiều người có khả năng tiếp nhận Pháp Hoa. Bồ tát Tịnh Nhãn thì thấu suốt từ lâu đối với định Hoa sen chánh pháp. Bồ tát Tịnh Tạng cũng thấu suốt từ lâu đối với định Thoát ly đường dữ. Vương hậu Tịnh Đức thì thấu suốt kho tàng bí mật của Phật qua định Qui tụ của Phật. Diệu Trang Nghiêm vương cùng với quần thần, vương hậu cùng với thế nữ, hai vương tử cùng với hàng ngàn người, cùng lúc đi đến chỗ Phật, đem đầu mặt lạy ngang chân ngài. Bấy giờ đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai thuyết pháp, làm cho Diệu Trang Nghiêm vương rất hoan hỷ, đẹp dạ. Ngài lại nói với bốn chúng, các người thấy Diệu Trang Nghiêm vương đang chắp tay đứng trước Như Lai đây không? Trong giáo pháp của Như Lai, vị hoàng đế này sẽ làm tỷ kheo, tinh tiến mà tu tập và hỗ trợ các pháp tuệ giác vô thượng của Như Lai, và rồi sẽ thành Phật đà với danh hiệu Sa La Thọ vương, quốc độ tên Đại quang, thời kỳ tên Đại cao vương. Ngài có vô lượng bồ tát và vô lượng thanh văn. Quốc độ của ngài là tịnh độ. Thành quả của Diệu Trang Nghiêm vương sẽ có đến như vậy.

Diệu Trang Nghiêm vương tức thì giao quốc chính cho vương đệ, rồi cùng vương hậu, hai vương tử, và những người tùy thuộc, đều xuất gia. Trải qua rất nhiều năm, ông thường xuyên nỗ lực tu hành Pháp Hoa, và được định Mọi sự trang sức đầy phẩm chất trong suốt. Ông thưa Phật, hai con của con đã đem thần biến mà di chuyển tâm trí của con ra khỏi sai lầm, đứng vững trong giáo pháp của Phật. Họ là bạn tốt của con, khơi dậy gốc rễ điều lành đời trước cho con. Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai bảo, đúng như ông nói. Thiện nam hay thiện nữ nào biết gieo trồng gốc rễ điều lành thì đời đời được gặp bạn tốt, và bạn tốt ấy làm được việc Phật làm là làm cho nhập vào tuệ giác vô thượng. Đại vương, nên ý thức bạn tốt là yếu tố lớn lao. Hai vương tử của ông đã phụng sự rất nhiều chư Phật, tiếp nhận kính giữ Pháp Hoa, thương chúng sinh thấy biết sai lầm mà làm cho họ đứng trong thấy biết chính xác.

Diệu Trang Nghiêm vương thưa, bạch đức Thế Tôn, ngài thật hiếm có. Đỉnh đầu của ngài nổi lên gò thịt mà từ đó ánh sáng rực rỡ chiếu tỏa. Mắt ngài thì dài và rộng với màu sắc xanh biếc. Lông trắng giữa hai hàng lông mày thì trắng ngời như trăng sáng với màu sắc bạch mã não. Răng thì trắng, đều, khít, và thường xuyên lóng lánh. Môi thì đỏ và đẹp như trái tần bà… Đồng đẳng như vậy, ông tán dương những sự đặc thù của đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai rồi, nhất tâm, chắp tay mà thưa thêm nữa, rằng bạch đức Thế Tôn, từ ngày hôm nay con không đi theo tâm ý của mình nữa, không sinh ra nữa bao nhiêu tư tưởng tội ác. Trình bạch như vậy rồi, ông đảnh lễ Phật mà lui ra.

Đức Thế Tôn bảo đại hội, Diệu Trang Nghiêm vương nay là bồ tát Hoa Đức. Vương hậu Tịnh Đức nay là bồ tát Quang Chiếu Trang Nghiêm Tướng. Còn hai vương tử thì chính là bồ tát Dược Vương và bồ tát Dược Thượng. Hai vị này hoàn thành những công đức lớn lao, ngoài tầm nghĩ bàn. Ai nhận thức danh hiệu của hai vị này thì cả thế giới chư thiên và nhân loại đều nên lễ kính.

Khi đức Thế Tôn tuyên thuyết phẩm Việc cũ của Diệu Trang Nghiêm vương thì tám mươi bốn ngàn người tách xa bụi bặm, tách rời dơ bẩn, được sự trong sáng của con mắt nhìn các Pháp.

________

Phẩm 28: Sự khuyến khích của bồ tát Phổ Hiền

Bấy giờ, bằng thần lực rất tự tại và danh tiếng đầy uy đức của mình, đại bồ tát Phổ Hiền, với sự tháp tùng của rất nhiều các vị đại bồ tát, từ hướng đông mà đến đại hội này. Những thế giới hệ mà ngài đi qua đều chấn động sáu cách, mưa xuống hoa sen quí báu, và tấu lên vạn ức chủng loại nhạc khí. Khi đến Linh sơn, ngài đem đầu mặt lạy ngang chân đức Thế Tôn, và theo chiều bên phải, ngài đi quanh đức Thế Tôn bảy vòng, rồi thưa, bạch đức Thế Tôn, từ cõi Phật của đức Bảo Uy Đức Thượng Vương Như Lai, con xa nghe tại thế giới hệ Kham nhẫn này đức Thế Tôn tuyên thuyết Pháp Hoa, nên cùng rất nhiều các vị đại bồ tát, con đến đây để lắng nghe và tiếp nhận.

Kính xin đức Thế Tôn dạy cho con được biết, sau khi ngài nhập diệt thì thiện nam thiện nữ trong thời kỳ ấy làm sao để có được Pháp Hoa? Đức Thế Tôn dạy đại bồ tát Phổ Hiền, thiện nam thiện nữ nào có bốn yếu tố sau đây thì sau khi Như Lai nhập diệt vẫn có được Pháp Hoa: một là được chư Phật giữ gìn, hai là gieo trồng gốc rễ công đức, ba là đã ở vào nhóm người cố định theo chánh pháp, bốn là phát nguyện cứu độ chúng sinh. Thiện nam hay thiện nữ nào có bốn yếu tố như vậy thì Như Lai nhập diệt rồi cũng vẫn chắc chắn có được Pháp Hoa.

Đại bồ tát Phổ Hiền thưa, bạch đức Thế Tôn, năm trăm năm sau, trong thời kỳ dữ dội vẩn đục ấy có ai tiếp nhận kính giữ Pháp Hoa, thì con sẽ hộ trì bằng cách trừ khử suy biến tai họa cho những người này được yên vui. Con làm cho không một kẻ nào dò xét tìm kiếm mà được cơ hội thuận tiện để quấy phá những người này. Ma vương, con trai ma vương, con gái ma vương, dân ma vương, kẻ bị ma vương phụ nhập, quỷ ăn thịt người, quỷ bạo ác, quỷ ăn tinh chất, quỷ điên cuồng, quỷ thây chết, quỷ xú uế, kẻ dùng chú tạo ra quỷ thây chết, và những kẻ cùng loại, tất cả những kẻ quấy phá nhân loại trên đây không ai có được cơ hội thuận tiện. Những người này hoặc đi hoặc đứng mà đọc tụng Pháp Hoa, thì lúc ấy con cỡi voi chúa sắc trắng có sáu ngà, cùng các đại bồ tát đến tại chỗ mà tự biểu hiện thân mình để hiến cúng, hộ trì và an ủi tâm chí cho những người này, lại để hiến cúng kinh Pháp Hoa. Những người này ngồi mà tư duy ý nghĩa Pháp Hoa, thì lúc ấy con cũng cỡi voi chúa sắc trắng mà biểu hiện trước mắt, để nếu những người này có quên mất một câu hay một bài chỉnh cú nào của kinh Pháp Hoa, thì con sẽ chỉ dạy và cùng đọc tụng cho những người này thông suốt như cũ.

Những người đọc tụng kính giữ Pháp Hoa này được thấy thân con thì vô cùng hoan hỷ, càng thêm tinh tiến. Và nhờ thấy thân con mà tức thì được định, lại được các tổng trì tên là tổng trì Xoay chuyển, tổng trì Xoay chuyển vô số, tổng trì Nghệ thuật thuyết pháp, được các tổng trì mà đại loại là như vậy.

Bạch đức Thế Tôn, năm trăm năm sau, trong thời kỳ dữ dội vẩn đục, đối với Pháp Hoa mà tỷ kheo và tỷ kheo ni, ưu bà tắc và ưu bà di, bốn chúng ấy có ai tìm kiếm cho được, ai tiếp nhận ghi nhớ, ai đọc xét văn nghĩa, ai tụng được thuộc lòng, ai sao chép ấn hành, rồi muốn tu tập về kinh ấy, thì trong ba tuần bảy ngày hãy nhất tâm mà tinh tiến. Trọn vẹn ba tuần bảy ngày rồi, con cỡi voi trắng sáu ngà, có vô lượng bồ tát bao quanh, đem cái thân hết thảy chúng sinh ai cũng thích nhìn mà biểu hiện trước mắt và thuyết pháp cho những người này, với đủ cách trình bày, thuyết phục, khuyến khích và tán thưởng. Con lại cho những người này một bài tổng trì minh chú. Được bài tổng trì minh chú ấy thì không có một kẻ không phải loài người nào mà quấy phá được, cũng không bị mê hoặc rối loạn vì người khác phái. Con cũng đích thân hộ trì cho những người này một cách thường trực. Kính xin đức Thế Tôn cho phép con tuyên thuyết bài tổng trì minh chú ấy: A đăn đê, đăn đa pa ti, đăn đa va ta ni, đăn đa ku sa lê, đăn đa su đa ri, su đa ri, su đa ra pa ti, bu đa pát da nê, sa va đa ra ni, a va ta ni, sa va ba sờ da va ta nê, su a va ta nê, sam ga pa rít sa ni, sam ga nia ga ta ni, a sam gê, sam ga pa ga tê, tra đoa sam ga tu li da, sa va săm ga săm ma ti răn tê, sa va đa ma su pa rít si tê, sa va sát toa ru ta kao sa li da nu ga tê, sim ha vít ri đi tê, a nu va tê, va ta ni, va ta li, soa ha.

Bạch đức Thế Tôn, vị bồ tát nào nghe được tổng trì minh chú ấy thì nên biết đó là do thần lực Phổ Hiền. Pháp Hoa mà lưu hành được tại đại lục Diêm phù, và có ai tiếp nhận kính giữ, thì nên nghĩ toàn là do thần lực Phổ Hiền. Có ai tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, nhớ nghĩ chính xác, lý giải nghĩa ý, làm đúng kinh dạy… thì nên biết người ấy đi theo đường đi Phổ Hiền, và được chư Phật đưa tay xoa đầu. Đối với Pháp Hoa, ai chỉ sao chép ấn hành thì mạng chung là sinh lên tầng trời Đao lợi. Còn đối với Pháp Hoa mà ai tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, lý giải nghĩa ý… thì mạng chung là được ngàn đức Phật trao tay cho, làm cho không còn sợ hãi, không sa vào đường dữ, và tức khắc sinh lên tầng trời Đâu suất, chỗ đức Di Lạc, vị đại sĩ có ba mươi hai tướng đại trượng phu, có chúng đại bồ tát bao quanh. Có những lợi ích như vậy, nên người có trí hãy kính cẩn mà đích thân sao chép ấn hành, khuyên người sao chép ấn hành, kính cẩn mà tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, nhớ nghĩ chính xác, làm đúng kinh dạy… Bạch đức Thế Tôn, chính con đem thần lực của con mà giữ gìn Pháp Hoa, làm cho kinh này, sau khi đức Thế Tôn nhập diệt, vẫn được lưu hành rộng rãi tại đại lục Diêm phù, không bị tuyệt tích.

Khi ấy đức Thế Tôn tán dương, rằng tốt lắm Phổ Hiền, tốt lắm việc đại sĩ giữ gìn Pháp Hoa mà ích lợi yên vui rất nhiều cho bao nhiêu chúng sinh. Đại sĩ đã hoàn thành công đức ngoài tầm nghĩ bàn và từ bi vĩ đại sâu xa, vậy mà bây giờ đại sĩ vẫn phát tâm nguyện đem thần lực Phổ Hiền giữ gìn Pháp Hoa!

Phổ Hiền, đối với Pháp Hoa, người nào tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, nhớ nghĩ chính xác, làm đúng kinh dạy, sao chép ấn hành… thì đại sĩ nên biết người ấy thấy ta, Thích Ca Như Lai, và như từ miệng ta mà nghe kinh Pháp Hoa này; nên biết người ấy hiến cúng ta, Thích Ca Như Lai; nên biết người ấy được ta, Thích Ca Như Lai, khen rằng tốt lắm; nên biết người ấy được ta, Thích Ca Như Lai, đưa tay xoa đầu; nên biết người ấy được ta, Thích Ca Như Lai, đem pháp y che phủ… Người ấy không còn ham thích lạc thú thế tục; không ưa thích kinh sách văn bút của ngoại đạo, cũng không thích thân gần bản thân của họ; không thích thân gần những kẻ hành nghề tội ác như kẻ thợ thịt, kẻ chăn nuôi heo dê gà chó, kẻ thợ săn, kẻ buôn bán nữ sắc… Người ấy tâm ý chân chất ngay thẳng, có sự nhớ nghĩ chân chính, có sức mạnh phước đức, không bị ba thứ độc tố quấy phá, cũng không bị quấy phá bởi sự ganh ghét, bởi sự kiêu ngạo vì bản ngã, bởi sự kiêu ngạo vì tự thị điều ác đã làm, bởi sự kiêu ngạo vì chưa được mà tự cho đã được. Người ấy ít ham muốn, biết vừa đủ, có năng lực tu hành theo đường đi Phổ Hiền.

Phổ Hiền, Như Lai nhập diệt rồi, năm trăm năm sau, ai thấy người đọc tụng kính giữ Pháp Hoa, thì nên nghĩ người ấy không bao lâu sẽ đi đến bồ đề tràng, chiến thắng các đạo ma quân, thu hoạch tuệ giác vô thượng, chuyển đẩy bánh xe chánh pháp, đánh trống chánh pháp, thổi loa chánh pháp, mưa nước chánh pháp, ngồi trên pháp tòa sư tử ở giữa đại hội các chúng mà các chúng chư thiên và nhân loại bao gồm trong đó.

Phổ Hiền, thời kỳ sau này, ai đọc tụng kính giữ Pháp Hoa thì người ấy hết còn tham lam vướng mắc vào đồ mặc, đồ nằm, đồ ăn, đồ uống, và những vật giúp cho đời sống. Người ấy ước nguyện gì cũng không vô hiệu quả, ngay trong đời này mà đã nhận được kết quả của phước đức. Ai khinh chê người ấy, nói người ấy khùng, làm việc vô ích, rốt cuộc không được gì đâu, khinh chê như vậy thì kết quả tai hại là đời đời không mắt. Ai hiến cúng ca tụng người ấy thì ngay trong đời này đã được kết quả hiện thực. Ngược lại, thấy người kính giữ Pháp Hoa mà chỉ trích lỗi lầm của người ấy, thì thật hay không thật gì, người chỉ trích cũng bị phung hủi ngay trong đời này. Ai chê cười người ấy thì đời đời răng và răng hàm vừa thưa vừa thiếu, môi xấu, mũi xẹp, tay cong, chân quẹo, mắt lé, thân thể hôi thối, ghẻ mụt, máu mủ, bụng thủng, hơi hụt, bị những bịnh nặng và dữ như vậy. Thế nên, Phổ Hiền, thấy người kính giữ Pháp Hoa thì nên đứng dậy mà đón từ xa, nên kính như kính Phật.

Khi đức Thế Tôn tuyên thuyết phẩm Sự khuyến khích của đại bồ tát Phổ Hiền thì có các bồ tát đồng đẳng với hằng sa được tổng trì Xoay chuyển vô số, các bồ tát đồng đẳng với số bụi của đại thiên thế giới được trọn đường đi Phổ Hiền.

Khi đức Thế Tôn tuyên thuyết hoàn tất kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì chư vị bồ tát mà đứng đầu là đại bồ tát Phổ Hiền, chư vị thanh văn mà đứng đầu là tôn giả Xá Lợi Phất, cùng với các chúng nhân loại và loài khác, toàn thể đại hội đều cực kỳ hoan hỷ, tiếp nhận ghi nhớ lời đức Thế Tôn dạy, đảnh lễ ngài mà cáo thoái.

 

HẾT KINH PHÁP HOA

Bản điện tử, chép từ bản đánh máy tại Thư Viện Hoa Sen. Có sửa ít lỗi đánh máy.

Lược Dẫn & Cuốn 1 | Cuốn 2 | Cuốn 3 | Cuốn 4 | Cuốn 5 | Cuốn 6 | Cuốn 7 | Phẩm Phổ Hiền | Kinh Pháp Hoa Toát Yếu |




THÂU ÂM KINH PHẬT (audio)

Pháp Ảnh Lục là bộ  kinh sách do Trưởng lão Thích Trí Quang  dịch từ Hán văn. Nay trong lòng muốn ghi âm nên từ từ đọc và thâu. Không dám nghĩ xa, đơn giản từng trang kinh một. 

Thâu âm như vậy để mang theo bên mình. Bất cứ ở đâu lúc nào, được chút ít thời gian là có thể lắng tâm đọc theo lời Phật.

Xin chia sẻ
10/2019
Đệ tử tại gia Hồng Như

[/expand]

 

 


 




DƯỢC SƯ KINH SÁM – Thượng nhân Thích Trí Quang dịch giải

Dược sư kinh sám

Trưởng lão Trí Quang dịch

Tiểu dẫn

  1. Hiệu quả của kinh sám Dược sư là do tín tâm. Nhưng tin được là nhờ uy thần của Phật. Huống chi mọi hiệu quả đều “do năng lực phước đức và uy thần” của đức Dược sư. Kinh này không khinh thị đồ ăn, đồ mặc, đồ dùng, nhà cửa, bà con, bạn bè. Sống lâu, giàu có, quan chức và con cái, kinh này trọng thị. Nói tóm, kinh này quí sự sống và phương tiện để sống, cho cá nhân và cả tập thể. Không những như thế, kinh này còn cho sự sống và phương tiện để sống là công cụ đạt đến tuệ giác bồ đề tức làm Phật. Ðừng nói rằng đó là trước câu bằng dục lạc, sau hóa bằng chánh pháp (tiên dĩ dục câu hậu dĩ pháp trị). Dược sư nghĩa là thầy thuốc chữa bệnh, rất hiểu cái khổ của bịnh, lại càng rất quí thuốc chữa bịnh. Mà bịnh với thuốc đều có ý nghĩa vừa thực vừa rộng. Thiền tông có công án tôi nhớ như sau. Một hôm Văn thù đại sĩ bảo Thiện tài đồng tử, hãy coi cái gì là thuốc thì lấy đưa đây. Ðồng tử nhìn khắp vũ trụ, thưa, không có cái gì là thuốc cả. Ðại sĩ lại bảo, vậy cái gì không phải thuốc thì lấy đưa đây. Ðồng tử lại nhìn khắp vũ trụ, thưa, không có cái gì là không phải thuốc. Thuốc hay không phải thuốc, hiệu quả Dược sư có hay không có, căn bản là có hay không có “phát sanh tâm không dơ bẩn, tâm không giận dữ tác hại, nghĩa là đối với hết thảy chúng sanh khởi lên cái tâm lợi ích an lạc… “
  2. Sám Dược sư, quan trọng ở chỗ cho ta thấy tội lỗi và quả báo của tội lỗi đều không thật. Không thật mới hy vọng sám hối và sám hối được. Trong Phật giáo nguyên thỉ, câu chuyện A xà thế vương và Ương quật ma la chứng minh cái lẽ ấy(1). Nhưng vẫn chưa nói rõ tội tánh bản không. Phật giáo đại thừa nói rõ như vậy. Sám văn Dược sư càng nói rõ như vậy.
  3. “Xá lợi phất, ông nên biết ta đã ở trong giai đoạn dữ dội đầy cả 5 thứ dơ bẩn mà làm việc khó làm, ấy là thực hiện tuệ giác vô thượng, lại vì toàn thể thế gian nói cái pháp khó tin này (pháp môn tịnh độ Cực lạc) thì đó là việc rất khó”. Hoặc “công đức đức Dược sư là chỗ hiểu biết cực kỳ sâu xa của Phật, tiếp nhận được là do uy lực Như lai”(2). Chỉ khi nào thấm thía những lời dạy như vậy của Phật, hơn là những biện lý chứng minh, mới thấy thích thú kinh và sám Dược sư.
  4. (a) Sách này mang tên “kinh sám Dược sư” là vì có cả kinh và sám Dược sư. (b) Tài liệu chính, dùng để đối chiếu, là kinh Dược sư của Ðại tạng (Chính 14/404-408) và sám Dược sư của Tục tạng (Vạn 129/55b-62a). (c) Nghi thức khai kinh và hoàn kinh là do tôi châm chước trích soạn. (d) Sự dịch nghĩa của tôi, những chữ dịch âm Phạn tự, phần nhiều dùng chữ thông thường, như Bí sô thì dùng Tỷ kheo, Dược xoa thì dùng Dạ xoa, vân vân.
  5. Sau đây là bảng viết tắt : 1. Ðại tạng kinh bản Ðại chính, thì thí dụ Chính 14/401, là đại tạng ấy, tập 14, trang 401 ; 2. Tục tạng kinh bản chữ Vạn, thì thí dụ Vạn 129/55a, là tục tạng ấy, tập 129, tờ 55 mặt trước ; 3. Thái hư đại sư toàn thư (tập 28), thì thí dụ TH 28/2241, là toàn thư ấy, tập 28, trang 2241 ; Phật học đại từ điển của Ðinh Phúc Bảo, thì thí dụ Pđ 123t, là đại từ điển ấy, trang 123, phần trên. Ngoài những tài liệu và ký hiệu này, phần lược giải kinh Dược sư sẽ kê tài liệu riêng.
  6. Khác với bản in cũ, bản chữa và in này không còn để phần Hoa văn và phần dịch âm của kinh và sám Dược sư. Bản chữa và in này là định bản.

Lời đề khóa tụng kinh Dược Sư
của Ngọc lâm quốc sư

Tôi từ lúc bái biệt công ơn cha mẹ, đoạn tuyệt bụi bặm phiền não, thì không rảnh để coi đọc gì hết. Nhưng tình cờ coi vào Ðại tạng kinh, đọc kinh Dược sư như lai bản nguyện công đức, thì bất giác tay nâng ngang trán, thất thanh mà cầu nguyện mọi người cùng nhập vào biển cả đại nguyện của Như lai. Có kẻ hỏi tại sao đối với kinh ấy tôi kinh động tán thán đến như vậy, tôi trả lời, thấy thế nhân vì cảnh ngộ thuận tiện mà đắm chìm không ít. Nên giàu với sang đáng sợ hơn là nghèo và hèn. Nay, Dược sư như lai làm cho người ta sở cầu như nguyện, để rồi từ đó mà vĩnh viễn không còn lùi mất đạo tâm, thẳng tới bồ đề. Vậy, đối với hàng vương thần, trưởng giả, và hết thảy mọi người, muốn làm cái hạnh đồng sự trong 4 nhiếp pháp mà không dùng thuyền tàu đại nguyện của Dược sư như lai, thì làm sao đạt đến cho được.

Ðại phàm tu trì, phải tự lượng lấy mình, tự lượng lấy pháp, rồi thẳng một đường mà nghĩ, thẳng một đường mà làm. Thật chán sợ ba cõi, quyết chí vãng sanh, thì hãy chuyên tâm y theo kinh Di đà mà thâu nhiếp sáu căn, tịnh niệm liên tục, tức là chấp trì danh hiệu, nhất tâm bất loạn, thì quyết định vãng sanh. Ðó là việc làm của người tự lợi trước để sau lợi tha. Còn hiện tiền phú quí công danh toàn chưa quên nghĩ, dục vọng gái trai ăn uống cũng chưa biết chán, thì với pháp môn vãng sanh Cực lạc chưa dễ thâm tín. Có tin đi nữa thì thân tu tịnh độ mà tâm luyến Sa bà, phỏng có ích gì.

Như vậy, muốn cầu cái pháp môn không rời lưỡi câu dục lạc mà vẫn thành tựu tuệ giác Phật đà, ở trong cảnh thuận tiện mà không đến nỗi chìm đắm, thì cố nhiên không có chi hơn tu trì theo sự đặc biệt, siêu đẳng, và khó nghĩ bàn cho thấu, của đại nguyện Dược sư như lai. Nếu tin và làm được, mãi hoài mà không nhác, thì sẽ thấy chẳng những phú quí công danh, chuyển gái thành trai, thoát ly nguy khốn, đạt đến tốt lành, tất cả đều như được ngọc như ý, tùy ý thành tựu, mà còn được điều này : là chính nơi cái chỗ thành tựu mọi sự đó mà thẳng tới bồ đề, không còn thoái chuyển. Như vậy còn sự may mắn nào sánh bằng.

Nhân gian cũng có hạc Dương châu, chỉ cần đi bằng thuyền công đức của Như lai là kiếm được.  

Kinh Dược  sư

 Khai  kinh

(Tán lễ Phật)
Ðại từ đại bi
thương xót chúng sanh,
đại hỷ đại xả
cứu vớt muôn loài,
hào quang diệu tướng
dùng tự trang nghiêm,
chúng con chí thành
qui y đảnh lễ.
Nhất tâm đảnh lễ Phật bảo thường trú khắp cả mười phương.
Nhất tâm đảnh lễ Pháp bảo thường trú khắp cả mười phương.
Nhất tâm đảnh lễ Tăng bảo thường trú khắp cả mười phương.
Nhất tâm đảnh lễ bổn sư Thích ca mâu ni phật.
Nhất tâm đảnh lễ Dược sư lưu ly quang như lai.
Nhất tâm đảnh lễ kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai.
Nhất tâm đảnh lễ chư Phật Bồ tát trong pháp hội Dược sư.

(cúng hương)
Hương thơm tâm tánh
đủ cả năm phần,
vừa được đốt lên
bởi lửa bản thể,
thì cả pháp giới
đều được chan hòa,
phàm cùng với thánh
xông ướp tất cả ;
chính trong hương thơm
quyện lên như vậy,
mà các đức Phật
hiển lộ toàn thân.
Nam mô hương cúng dường bồ tát ma ha tát (3 lần).

(Chân ngôn làm sạch ngoại cảnh)
Án lam sa ha (21 lần)

(Chân ngôn làm sạch thân miệng ý)
Án sa phạ bà phạ thuật đà, sa phạ đạt ma sa phạ, bà phạ thuật độ hám (7 lần).

(Phát nguyện)
Kính lạy chư Thế tôn,
qui y các Phật đà,
nay con phát đại nguyện,
trì tụng kinh Dược sư,
trên trả bốn ơn nặng,
dưới giúp ba đường khổ,
những người thấy nghe được,
đều phát tâm bồ đề,
báo thân này kết thúc,
cùng sanh các tịnh độ.

(Niệm hiệu Phật)
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật  (3 lần)

(Kệ khai kinh)
Phật pháp tuyệt diệu,
cực kỳ cao xa,
trăm ngàn vạn kiếp,
khó mà gặp được ;
nay con thấy nghe,
lại được thọ trì,
nguyện cầu thấu hiểu,
ý thật của Phật.
Nam mô Dược sư hội thượng Phật Bồ tát (3 lần)

kinh
Bản nguyện công đức của đức
Dược sư lưu ly quang như lai

Thời đại nhà Ðường, Tam tạng
pháp sư Huyền tráng dịch

Tôi nghe như vầy.
Một thời, đức Thế tôn du hóa các nước, đến thành Quảng nghiêm, dừng ở dưới cây Tiếng nhạc. Tám ngàn vị đại tỷ kheo, ba vạn sáu ngàn vị đại bồ tát, và các quốc vương, đại thần, đạo sĩ, cư sĩ, tám bộ thiên long, loài người và loài không phải người, đại chúng vô lượng như vậy, cung kính vây quanh đức Thế tôn để được Ngài thuyết pháp cho.

Lúc ấy, Mạn thù pháp vương tử vâng theo uy thần của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, trần vai áo bên trái, gối bên phải quì xuống sát đất hướng về đức Phật, cong mình, chắp tay mà thưa, bạch đức Thế tôn, con xin ngài nói về tướng loại như thế này, đó là danh hiệu, bản nguyện vĩ đại và công đức thù thắng của chư Phật, làm cho người nghe tiêu trừ những sự chướng ngại do nghiệp lực tạo ra. Là vì con muốn lợi lạc cho mọi người trong thời kỳ Phật pháp tương tự xuất hiện. Ðức Thế tôn tán dương Mạn thù đồng tử, lành thay Mạn thù, lành thay, ông đem lòng thương rộng lớn thỉnh cầu Như lai nói về danh hiệu, bản nguyện và công đức của chư Phật để cứu vớt những kẻ bị nghiệp chướng buộc thắt, lợi lạc mọi người trong thời kỳ Phật pháp tương tự. Ông hãy nghe kỹ, suy nghĩ rất khéo, Như lai sẽ nói cho. Mạn thù bạch Phật, dạ, xin Phật chỉ dạy, chúng con thích thú mà nghe.

Phật dạy Mạn thù, phía đông, cách thế giới hệ này bởi những thế giới hệ bằng số cát hơn mười sông Hằng, có một thế giới hệ tên Tịnh lưu ly. Ðức Phật ở đó danh hiệu là Dược sư lưu ly quang như lai, ứng cúng, chánh biến tri, minh hạnh túc, thiện thệ, thế gian giải, vô thượng sĩ, điều ngự trượng phu, thiên nhân sư, phật : thế tôn.

Mạn thù, đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, xưa kia, khi làm hạnh bồ tát, đã phát ra mười hai đại nguyện, cốt làm cho mọi người thực hiện mọi sự mong ước.

Ðại nguyện thứ nhất, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì bản thân ánh sáng rực rỡ, chiếu soi vô số thế giới hệ. Thân ấy lại được trang hoàng bằng bâm hai tướng tốt của bậc đại trượng phu, và tám mươi tướng phụ. Lại làm cho mọi người không khác gì với con.

Ðại nguyện thứ hai, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì thân như ngọc lưu ly, trong ngoài trong suốt, không chút vẩn đục, ánh sáng to lớn và chiếu tỏa xa rộng. Công đức đồ sộ, lại khéo an trú. Những tia sáng rực rỡ, dệt nhau như mạng lưới, và tráng lệ quá hơn nhật nguyệt. Chúng sanh tối tăm được soi sáng cả, nên tùy ý hướng mà làm mọi sự nghiệp.

Ðại nguyện thứ ba, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì vận dụng vô lượng trí tuệ và phương tiện, làm cho mọi người cùng được vô tận những vật hưởng dụng, không để cho ai có sự thiếu thốn.

Ðại nguyện thứ tư, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì những kẻ đi theo tà đạo đều được làm cho ở yên trong đạo giác ngộ, những người tu theo thanh văn duyên giác đều được xây dựng bằng pháp đại thừa.

Ðại nguyện thứ năm, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì vô số người tu hành phạn hạnh trong chánh pháp của con, con làm cho tất cả được giới thể không thiếu sót, trọn vẹn giới pháp ba loại. Giả sử phá phạm đi nữa, nghe danh hiệu con rồi là phục hồi thanh tịnh, không rơi vào đường dữ.

Ðại nguyện thứ sáu, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, những kẻ thân hình thấp kém, giác quan không đủ, xấu xí, u mê, mù điếc, câm ngọng, tay quắp, chân quẹo, lưng gù, phung lác, điên cuồng, đủ thứ bịnh khổ, nhưng nghe danh hiệu con rồi, tất cả đều đẹp đẽ, thông minh, giác quan hoàn bị, hết mọi bịnh khổ.

Ðại nguyện thứ bảy, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô  thượng, những kẻ bị mọi thứ bịnh khổ hành hạ mà không ai cứu giúp không nơi nương tựa, không có y sĩ, không có dược liệu, không có thân thuộc, không có nhà cửa, nghèo nàn lắm khổ, thì danh hiệu của con, một khi đi qua thính giác của họ, là bịnh khổ tan biến, thân tâm an lạc, nhà cửa, thân thuộc và đồ dùng, đầy đủ tất cả, cho đến thực hiện được tuệ giác vô thượng.

 Ðại nguyện thứ tám, nguyện con sau này, khi dược tuệ giác vô thượng, nếu có nữ nhân nào bị hành hạ bởi cả trăm thứ khổ sở của nữ nhân, nên cùng cực chán ngán, muốn thoát thân ấy, thì nghe danh hiệu con rồi, tất cả đều chuyển thân nữ nhân thành thân nam tử, đủ tướng trượng phu, cho đến thực hiện được tuệ giác vô thượng.

Ðại nguyện thứ chín, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì làm cho mọi người thoát khỏi mạng lưới của ma vương, cổi mở thắt buộc của ngoại đạo. Sa vào rừng rậm ác kiến thì sẽ được dẫn ra, đem đặt vào chánh kiến, và dần dần làm cho họ thực tập các hạnh bồ tát, để thực hiện một cách mau chóng tuệ giác vô thượng.

Ðại nguyện thứ mười, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô  thượng, thì những kẻ bị phép vua ghi sổ, xích trói đánh khảo, giam nhốt lao ngục, sắp bị hành hình, cọng với vô lượng tai nạn khổ nhục và bi thảm sầu muộn khác nữa, ngâm nấu bức bách, làm cho cả cơ thể lẫn tâm trí đều chịu thống khổ, nhưng nghe danh hiệu của con, thì vì năng lực phước đức và uy thần của con mà họ thoát hết mọi sự lo sợ khổ sở.

Ðại nguyện mười một, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, những kẻ bị đói khát hành hạ, vì cầu cái ăn mà làm mọi ác nghiệp, nhưng nghe dược danh hiệu của con, nhất tâm thọ trì, thì trước hết con làm cho họ no đủ cơ thể bằng thực phẩm tuyệt diệu, sau đó con sẽ đem cái vui cứu cánh của pháp vị mà xây dựng cho họ.

Ðại nguyện mười hai, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, những kẻ nghèo thiếu y phục, ngày đêm khổ sở vì muỗi mòng lạnh nóng, nếu nghe danh hiệu của con mà nhất tâm thọ trì, thì như sở thích của họ, họ được liền những thứ y phục tuyệt diệu, lại được những đồ trang sức bằng vàng ngọc. Hoa vòng, hương hoa, âm nhạc hòa tấu và mọi kỹ thuật biểu diễn, tùy ý họ thích, con làm cho đầy đủ tất cả.

Mạn thù, đó là mười hai đại nguyện tối thượng, nhiệm mầu, của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, ứng cúng, chánh biến tri, đã lập ra khi còn làm hạnh bồ tát.

Mạn thù, những đại nguyện tối thượng của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai đã lập ra khi còn làm hạnh bồ tát, và những công đức trang nghiêm của thế giới hệ đức Phật ấy, Như lai diễn tả trong một đại kiếp, hay hơn một đại kiếp, cũng không thể cùng tận. Thế giới hệ của đức Phật ấy hoàn toàn thanh tịnh, không có nữ nhân, không có ác đạo không có cả đến cái tiếng thống khổ. Ðất làm bằng ngọc lưu ly. Ðường ngăn bằng giây vàng. Thành, cửa thành, cung điện, lầu gác, mái hiên, cửa sổ, lưới giăng, toàn bằng bảy thứ quí báu. Y như thế giới hệ Cực lạc ở phía tây, công đức trang nghiêm không khác gì cả. Thế giới hệ ấy có hai vị đại bồ tát, thứ nhất danh hiệu Nhật quang biến chiếu, thứ hai danh hiệu Nguyệt quang biến chiếu. Ðó là hai vị đứng đầu chúng bồ tát nhiều vô số lượng của thế giới hệ ấy, thứ lớp kế vị thành Phật, và cùng có khả năng nắm giữ kho tàng ngọc báu chánh pháp của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai. Thế nên, Mạn thù, những thiện nam hay thiện nữ có đức tin hãy nguyện sanh thế giới hệ của đức Phật ấy.

Lúc ấy, đức Thế tôn lại bảo Mạn thù đồng tử, Mạn thù, có những kẻ không nhận thức cái lẽ thiện ác, chỉ giữ thói tham lẫn mà không biết bố thí và phước báo bố thí. Ngu muội, không có trí tuệ, thiếu cả đức tin. Dồn chứa tài sản vàng ngọc cho nhiều, nỗ lực mà giữ. Thấy người xin đến, lòng họ không vui. Giả sử bất đắc dĩ mà bố thí, thì lúc đó đau tiếc sâu xa như cắt thịt mình. Lại còn lắm kẻ tham lẫn, dồn chứa tài sản mà đối với bản thân của họ, họ còn không hưởng dụng, huống chi có thể đem cho cha mẹ, vợ con, tôi tớ, người làm hay kẻ đến xin. Những kẻ ấy, sinh mạng kết thúc ở đây thì sanh trong thế giới quỉ đói hay súc vật. Nhưng xưa kia, khi ở trong loài người, từng được thoáng nghe danh hiệu của đức Dược sư lưu ly quang như lai, nên ngày nay, dầu ở trong ác đạo, vẫn thoáng nhớ danh hiệu của đức Như lai ấy, và ngay khi nhớ thì chết ở ác đạo mà sanh lại loài người, được sự nhớ đời trước nên sợ nỗi khổ ác đạo mà không ham dục lạc, thích bố thí và ca tụng người bố thí. Có gì cũng không tiếc. Dần dần tiếp theo, đầu mắt, tay chân, máu thịt và những bộ phận khác của cơ thể, còn có thể đem cho người đến xin, huống chi những thứ tiền tài sản vật khác.

Mạn thù, có kẻ dầu thọ giới pháp với Như lai mà lại phá giới pháp ấy. Có kẻ không phá giới pháp mà phá qui tắc. Có kẻ đối với giới pháp và qui tắc tuy được sự không phá hoại, nhưng lại phá hoại chánh kiến. Có kẻ không phá hoại chánh kiến mà bỏ phế đa văn, nên đối với nghĩa lý sâu xa của kinh Phật nói không thể lý giải. Có kẻ tuy đa văn mà thượng mạn : vì thượng mạn úp che tâm trí nên cho mình phải, bảo người trái, ghét chê cả chánh pháp, làm bè đảng với ma. Những kẻ ngu si như vậy tự mình đã làm theo tà kiến, lại làm cho vô số người khác rơi xuống hố lớn nguy hiểm. Những kẻ ấy đáng lý trôi lăn vô cùng trong địa ngục, súc sanh và loài quỉ. Nhưng nếu được nghe danh hiệu của đức Dược sư lưu ly quang như lai, thì bỏ ngay tánh ác, tu các pháp lành, và sẽ không sa vào các ác đạo. Giả sử có kẻ vẫn không thể bỏ ngay tánh ác, tu các pháp lành, và phải sa vào các ác đạo đi nữa, thì nhờ uy lực đại nguyện của đức Dược sư lưu ly quang như lai mà làm cho họ thoáng nghe được danh hiệu của ngài, sinh mạng kết thúc ở ác đạo, sanh lại trong loài người, được chánh kiến, tinh tiến, và ý thích khéo thuần hóa, nên thoát ly gia đình, đi đến phi gia đình, ở trong pháp Như lai mà thọ giới, giữ giới, không có phạm giới mà lại chánh kiến, đa văn, lý giải nghĩa lý cực kỳ sâu xa mà lại viễn ly thượng mạn, không chê chánh pháp, không làm bạn ma, dần dần tu hành các hạnh bồ tát và đầy đủ một cách mau chóng.

Mạn thù, có những kẻ tham lẫn ganh ghét, tán tụng bản thân, công kích kẻ khác, nên sẽ sa vào ba ác đạo, nhiều lần ngàn năm chịu mọi sự khổ sở khốc liệt. Chịu khổ sở khốc liệt rồi, sinh mạng kết thúc ở đó mà đến sanh trong loài người, thì làm trâu bò, lừa ngựa, lạc đà, thường bị đánh đập, đói khát hành hạ, lại luôn luôn mang nặng, chở nhiều, và đi theo đường phải đi, hoặc được làm người thì sinh nơi hèn hạ, làm tôi tớ người, bị người sai sử, thường mất tự do. Nhưng nếu xưa kia, khi còn làm người, từng nghe danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, thì do nhân lành ấy mà nay nhớ lại, chí tâm qui y, nhờ thần lực của Ngài mà thoát hết khổ sở, giác quan tinh nhuệ, trí tuệ đa văn, thường cầu thắng pháp, thường gặp thiện hữu, đứt hẳn lưới ma, đập vỏ vô minh, khô sông phiền não, giải thoát hết thảy sinh lão bịnh tử, lo buồn khổ não.

Mạn thù, có những kẻ tính thích chống đối, ly gián, đấu tranh, kiện tụng, gây bực tức và rối loạn cho bản thân và kẻ khác. Ðem cả thân thể, lời nói và ý nghĩ mà tạo ra và thêm lớn đủ thứ ác nghiệp. Gây mãi cho nhau những sự bất lợi để mưu hại lẫn nhau. Cáo triệu những vị thần rừng núi, cây cối, mồ mả ; giết sinh vật lấy máu huyết mà cúng tế dạ xoa, la sát ; viết tên người mình oán, làm hình và ảnh của người ấy, đem chú thuật tàn ác mà thư ;  ếm phù chú, dùng thuốc độc, chú quỉ khởi thi – dùng mọi cách này mà làm đứt sinh mạng người ấy, làm chết thân họ. Người ấy nếu được nghe danh hiệu của đức Dược sư lưu ly quang như lai thì mọi việc dữ trên không cách nào hại được. Lại cùng kẻ kia, tất cả đôi bên đều nổi dậy từ tâm đối với nhau, làm lợi ích an lạc mà không còn ý thức thương tổn hay tâm lý ghét giận. Ðôi bên cùng vui đẹp. Ðối với những thứ mình hưởng thụ, ai cũng thích vừa đủ thì thôi, không muốn lấn nhau, chỉ làm ích lợi cho nhau.

Mạn thù, trong bốn chúng tỷ kheo, tỷ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, và những thiện nam thiện nữ khác có đức tin thuần tịnh, nếu ai có khả năng thọ trì Bát quan trai giới, bằng cách hoặc cả năm hoặc ba tháng, thọ trì giới ấy. Rồi đem thiện căn này nguyện sanh thế giới hệ Cực lạc ở phía tây, chỗ A di đà phật, để được nghe chánh pháp của ngài, nhưng chưa quyết định. Nếu nghe danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, thì đến khi sinh mạng  kết thúc, có tám vị đại bồ tát, danh hiệu Văn thù sư lợi bồ tát, Quan thế âm bồ tát, Ðắc đại thế bồ tát, Vô tận ý bồ tát, Bảo đàn hoa bồ tát, Dược vương bồ tát, Dược thượng bồ tát và Di lạc bồ tát, tám vị đại bồ tát này lướt không gian mà đến, chỉ đường cho người ấy. Tức thì người ấy tự nhiên hóa sinh trong hoa sen bằng các thứ ngọc, và đủ mọi màu sắc xen lẫn với nhau, của thế giới hệ Cực lạc. Cũng có người nhờ sự ấy mà sanh lên cõi trời. Tuy sanh lên cõi trời, nhưng thiện căn xưa cũng chưa cùng tận, và không còn sanh lại tại các ác đạo. Mà sự sống lâu trên cõi trời chấm hết thì sanh lại trong nhân gian. Bằng cách hoặc sanh làm luân vương, thống nhiếp cả bốn đại châu, uy đức tự tại, xây dựng vô lượng trăm ngàn chúng sanh vào mười thiện nghiệp. Hoặc sanh vào dòng sát đế lợi, bà la môn, cư sĩ, đại gia, nhiều tiền tài, lắm vàng ngọc, kho bồ tràn đầy, thân hình và tướng mạo đều đẹp đẽ trang nghiêm, bà con và bạn bè cùng đầy đủ, trí tuệ thông minh, sức lực mạnh mẽ như đại lực sĩ. Nếu là phụ nữ mà được nghe danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, nhất tâm thọ trì thì về sau không còn chịu lại thân thể phụ nữ.

(3)Mạn thù, khi đức Dược sư lưu ly quang như lai thành tựu tuệ giác vô thượng bồ đề, thì do năng lực đại nguyện xưa mà quán sát chúng sanh bị mọi bịnh khổ, như những bịnh gầy ốm, co quắp, tiêu khô, vàng nóng, hoặc bị trúng bùa ếm, thuốc độc, hoặc chết non, chết ngang trái. Muốn làm cho họ tiêu trừ những bịnh khổ ấy, sở cầu mãn nguyện, nên bấy giờ đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai nhập định danh hiệu Diệt trừ mọi khổ não của chúng sanh. Nhập định ấy rồi, từ trong nhục kế phóng ra ánh sáng lớn. Trong ánh sáng này diễn ra đà la ni vĩ đại sau đây : Nam mô, Bạc già phạt đế, bệ sát xã lũ rô – bệ lưu ly bát lạt bà – hát ra xà dã, đát tha yết đa dã, a ra hát đế, tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha : Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ – bệ sát xã – tam một yết đế, sa ha. Khi trong ánh sáng diễn ra đà la ni vĩ đại ấy rồi, đại địa chấn động, phóng ánh sáng lớn, hết thảy chúng sanh bịnh khổ tiêu trừ, hưởng được cái vui yên ổn. Mạn thù, nếu thấy nam tử hay nữ nhân, ai bị bịnh khổ, thì nên nhất tâm vì bịnh nhân ấy mà luôn luôn tinh khiết, tắm rửa, súc miệng, rồi đem thực phẩm, dược phẩm, hay nước không có trùng, trì chú này một trăm lẻ tám biến, cho họ uống, ăn, thì bịnh khổ họ có tiêu tan tất cả. Nếu có cầu gì, chí tâm tụng niệm thì cũng được như vậy, lại không bịnh, thêm tuổi, và sau khi sinh mạng kết thúc thì sanh thế giới hệ của đức Dược sư lưu ly quang như lai, được sự không còn thoái chuyển cho đến tuệ giác bồ đề. Vì vậy Mạn thù, nếu có nam tử nữ nhân nào đối với đức Dược sư lưu ly quang như lai mà chí tâm, tha thiết, cung kính, cúng dường, thì hãy thường trì chú này, đừng để bỏ phế, quên mất.

Mạn thù, nếu nam tử hay nữ nhân có đức tin thuần tịnh, được nghe danh hiệu của đức Dược sư lưu ly quang như lai, ứng cúng, chánh biến  tri, nghe rồi trì niệm. Sáng sớm đánh răng, tắm rửa, súc miệng sạch sẽ, đem các thứ hương hoa, trong đó có hương đốt, hương xoa, và diễn tấu kỹ nhạc mà cúng dường hình tượng của ngài. Ðối với kinh này, hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, nhất tâm thọ trì, nghe học nghĩa lý. Ðối với pháp sư giảng giải kinh này, cũng nên cúng dường, mọi đồ giúp sống thân thể mà mình có, hãy cúng dường đầy đủ, đừng để vị ấy thiếu thốn. Như vậy thì được chư Phật hộ niệm, sở cầu mãn nguyện, cho đến thực hiện tuệ giác bồ đề(4).

Lúc ấy Mạn thù đồng tử bạch Phật, bạch đức Thế tôn, con nguyện khi thời kỳ Phật pháp tương tự xuất  hiện, thì dùng mọi cách làm cho những thiện nam hay thiện nữ có đức tin thuần tịnh được nghe danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai. Cho đến trong lúc ngủ, con cũng đem danh hiệu Ngài thức tỉnh thính giác của họ. Bạch đức Thế tôn, đối với kinh này thì thọ trì đọc tụng hay tuyên thuyết khai thị cho người, tự chép hay bảo người chép, cung kính tôn trọng, đem hiến cúng những thứ hương hoa, hương xoa, hương vụn, hương đất, vòng hoa, chuỗi ngọc, tràng phan, bảo cái, và kỹ thuật biểu diễn, trong đó có âm nhạc. Lấy tơ lụa có năm màu sắc làm bao mà đựng. Quét rưới chỗ thanh tịnh, trần thiết dá cao mà để. Thì khi ấy bốn đại thiên vương, cùng tùy thuộc của họ, và vô số trăm ngàn thiên chúng, đều đến chỗ đó mà cúng dường, hộ vệ. Bạch đức Thế tôn, những chỗ kinh bảo này lưu hành, có ai thọ trì được, thì vì bản nguyện, công đức, và danh hiệu được nghe, của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, mà nên biết người ấy không còn chết ngang trái, không còn bị những quỉ thần ác đoạt mất tinh chất. Ðã bị đoạt thì được lại như cũ, thân tâm an  lạc. 

Phật dạy, Mạn thù, đúng như vậy, đúng như ông nói. Mạn thù, nếu có thiện nam thiện nữ đức tin thuần tịnh, muốn cúng dường đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, thì trước hết, hãy tạo lập hình tượng của Ngài, trần thiết tòa thanh tịnh mà đặt để. Rải các thứ hoa, đốt các thứ hương, đem các thứ tràng phan mà trang hoàng chỗ ấy. Bảy ngày đêm thọ Bát quan trai giới, ăn đồ ăn thanh tịnh. Tắm gội cho sạch và thơm, mặc y phục sạch sẽ. Nên phát sanh tâm không dơ bẩn, tâm không giận dữ tác hại. Nghĩa là đối với hết thảy chúng sanh khởi lên cái tâm lợi ích an lạc, từ bi hỷ xả và bình đẳng. Rồi tấu nhạc và ca tụng, nhiễu quanh tượng phật Dược sư lưu ly quang như lai theo chiều hướng bên phải. Lại nên tưởng niệm bản nguyện và công đức của đức Như lai ấy, đọc tụng kinh này, tư duy nghĩa ý và diễn giảng khai thị. Như vậy thì mọi sở cầu đều toại ý : cầu sống lâu được sống lâu, cầu giàu có được giàu có, cầu quan chức được quan chức, cầu con trai dược con trai, cầu con gái được con gái. Nếu ai bỗng nhiên bị ác mộng, thấy đủ cảnh tượng khủng khiếp, hoặc bị những giống chim quái dị đến tập hợp lại, hoặc chỗ ở có cả trăm sự quái dị xuất hiện, kẻ ấy nếu đem những đồ tuyệt diệu cung kính cúng dường đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, thì những ác mộng và những cảnh tượng khủng khiếp, những sự không cát tường, ẩn mất tất cả, không thể tác hại. Nếu ai bị những sự hãi sợ như thủy tai, hỏa hoạn, khí giới, độc chất, chơi vơi giữa chừng, sa xuống chỗ hiểm, voi dữ, sư tử, cọp, sói, gấu, bi, rắn độc, bò cạp, rít, sâu, muỗi, nhặng, mà chí tâm tưởng niệm được đức phật Dược sư lưu ly quang như lai, cung kính cúng dường, thì mọi sự hãi sợ đều thoát được cả. Nếu ai bị nước khác xâm lăng, quấy nhiễu, nội bộ trộm cướp, phản loạn, tưởng niệm cung kính đức Như lai ấy cũng thoát hết thảy. 

Mạn thù, nếu có thiện nam thiện nữ đức tin thuần tịnh, cho đến hết đời, không thờ vị trời nào khác chỉ nhất tâm qui y Phật Pháp Tăng, thọ trì giới pháp, như năm giới, mười giới, bốn trăm giới của bồ tát, hai trăm năm mươi giới của tỷ kheo, năm trăm giới của tỷ kheo ni. Nhưng đối với giới pháp của họ thọ trì, hoặc có kẻ phá phạm nên sợ đọa lạc ác đạo. Nếu biết chuyên tâm trì niệm danh hiệu đức phật Dược sư lưu ly quang như lai, cung kính cúng dường, thì quyết chắc không phải lãnh chịu đời sống trong ba ác đạo.

Nếu có nữ nhân nào, lúc gần sinh sản, chịu đựng đau đớn cùng cực, mà biết chí tâm trì niệm danh hiệu, lễ bái, ca tụng, cung kính, cúng dường đức Như lai ấy, thì mọi nỗi đau đớn tan biến tất cả. Ðứa con sinh ra, mọi bộ phận của thân hình đều hoàn bị, sắc tướng của thân hình ấy đẹp và nghiêm, ai thấy cũng hoan hỷ, giác quan tinh nhuệ, trí tuệ thông minh, yên ổn, ít bịnh, không có một kẻ không phải người đoạt mất tinh chất của đứa con ấy.

Lúc ấy đức Thế tôn bảo tôn giả A nan, công đức mà đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai có mà Như lai đã ca tụng, là chỗ hiểu biết cực kỳ sâu xa của chư Phật, khó mà lý giải, ông tin được không ? Tôn giả A nan bạch Phật, bạch đức Thế tôn uy đức cao cả, đối với khế kinh Ngài dạy, con không sinh tâm nghi ngờ. Tại sao, vì thân thể, lời nói và ý nghĩ của các đức Như lai, không động tác nào mà không thanh tịnh. Bạch đức Thế tôn, vầng nhật nguyệt kia có thể làm cho rơi rụng, và Tu di, hòn núi chúa tể trong các hòn núi, cũng có thể làm cho nghiêng đổ, nhưng lời nói của chư Phật thì không thể làm cho khác đi được. Tuy nhiên, bạch đức Thế tôn, có những kẻ đức tin không đủ nghe nói chỗ hiểu biết cực kỳ sâu xa của chư Phật thì nghĩ, tại sao chỉ trì niệm một danh hiệu Phật của đức Dược sư lưu ly quang như lai mà thu hoạch bao nhiêu công đức và ích lợi vượt bậc như vậy. Vì sự không tin này mà quay lại phỉ báng. Những kẻ ấy suốt đêm trường mất lợi lạc lớn, đọa lạc ác đạo trôi lăn không cùng. Phật dạy tôn giả A nan, những kẻ ấy nếu nghe dược danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, chí tâm thọ trì, không sinh nghi hoặc, mà vẫn đọa lạc ác đạo là điều không có. A nan, đó là chỗ hiểu biết cực kỳ sâu xa của chư Phật, khó thể tin và hiểu. Nay ông tiếp nhận được, phải biết toàn là do uy lực Như lai. A nan, hết thảy Thanh văn, Ðộc giác và các vị Bồ tát chưa bước lên thập địa, đều không thể tin và hiểu một cách đúng như sự thực, chỉ trừ các vị Bồ tát còn hệ thuộc một đời mà thôi. A nan, thân thể loài người khó mà có được, sự tin tưởng tôn kính Tam bảo càng khó mà có được, nhưng nghe danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai lại khó được hơn những sự khó được ấy. A nan, vô lượng bồ tát hạnh, vô lượng thiện phương tiện, và vô lượng quảng đại nguyện, của đức Dược sư lưu ly quang như lai, trong một đại kiếp hay hơn một đại kiếp, Như lai nói một cách đầy đủ, thì đại kiếp ấy có thể kết thúc mau chóng, còn hạnh nguyện và phương tiện của đức Phật này vẫn không cùng tận. 

Lúc ấy trong chúng hội có một vị đại sĩ danh hiệu Cứu thoát, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trần vai áo bên phải, gối bên phải quì xuống sát đất, cong mình, chắp tay mà bạch Phật, bạch đức Thế tôn uy đức cao cả, khi thời kỳ Phật pháp tương tự xuất hiện, có những kẻ bị mọi thứ bịnh hoạn làm cho nguy khốn. Bịnh mãi, gầy ốm, ăn uống không được, cổ và môi đều khô nóng. Nhìn mọi phía đều đen tối. Tướng chết xuất hiện. Cha mẹ, anh em, bà con, bạn bè, quen biết, khóc lóc vây quanh. Nhưng bản thân bịnh nhân thì tuy vẫn nằm chỗ của mình, mà lại thấy sứ giả Diêm vương dẫn thần thức của mình đến trước vị vua chấp pháp này. Nguyên mọi người đều có vị thần cùng sanh, tùy việc họ làm, tội cũng như phước, ghi chép đầy đủ, và bấy giờ trao cả cho Diêm vương. Diêm vương tra hỏi kẻ ấy, tính việc họ làm, tùy tội và phước mà xử phán. Chính trong lúc này, thân thuộc hay quen biết của bịnh nhân, nếu biết vì họ mà qui y đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, cung thỉnh chư Tăng đọc tụng kinh này, đốt cây đèn bảy tầng, treo phan thần “tiếp nối mạng sống” bằng năm màu, thì hoặc có kẻ nơi đây thần thức về được, và như trong chiêm bao, tự thấy rõ ràng ; hoặc trải qua bảy ngày, hoặc hai mươi mốt ngày, hoặc ba mươi lăm ngày, hoặc bốn mươi chín ngày, khi thần thức về được thì như từ chiêm bao thức dậy, tự nhớ biết tất cả quả báo của thiện nghiệp ác nghiệp. Nhờ tự chứng kiến nghiệp báo, nên đến nỗi gặp phải tai nạn cho sinh mạng, cũng không tạo tác ác nghiệp. Vì vậy, những thiện nam thiện nữ đức tin thuần tịnh, hãy thọ trì danh hiệu của đức Dược sư lưu ly quang như lai, tùy sức có thể mà cung kính cúng dường.

Lúc ấy tôn giả A nan hỏi bồ tát Cứu thoát, thiện nam tử, nên bằng cách nào cung kính cúng dường đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai ? Phan và đèn “tiếp nối mạng sống” nên làm cách nào ? Bồ tát Cứu thoát nói, đại đức, nếu bịnh nhân muốn thoát bịnh khổ, nên vì họ mà bảy ngày đêm thọ trì Bát quan trai giới. Nên đem đồ ăn, đồ uống và đồ dùng, tùy sức liệu biện mà cúng dường Tỷ kheo tăng. Ngày đêm sáu buổi lễ bái cúng dường đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai. Ðọc tụng kinh này bốn mươi chín biến. Ðốt bốn mươi chín ngọn đèn. Tạo hình tượng đức Như lai ấy bảy vị. Trước mỗi hình tượng để bảy ngọn đèn, cái lượng mỗi ngọn đèn lớn như bánh xe. Và đến bốn mươi chín ngày đêm, ánh sáng không đứt. Còn làm phan năm màu thì dài bốn mươi chín gang tay. Nên phóng sanh đến bốn mươi chín giống khác nhau. Như vậy thì có thể qua được tai nạn nguy khốn, không bị mọi thứ ngang trái và quỉ dữ tác hại. 

 Ðại đức A nan, nếu giai cấp Sát đế lợi, các vị vua đã làm lễ quán đảnh, khi tai nạn nổi dậy, như dân chúng bịnh dịch, nước khác lấn ép, nước mình phản nghịch, tinh tú quái dị, nhật thực nguyệt thực gió mưa trái thì, quá thì không mưa, thì giai cấp Sát đế lợi, các vị vua đã làm lễ quán đảnh, lúc ấy, hãy phát khởi tâm từ bi đối với tất cả chúng sanh, ân xá những người bị giam bị nhốt, và theo cách cúng dường tôi đã nói trên mà cúng dường đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai. Nhờ thiện căn như vậy, và nhờ năng lực bản nguyện của đức Như lai ấy, mà làm cho quốc độ của họ tức khắc yên ổn, gió mưa điều hòa, lúa má thành thục, mọi  người vô bịnh, vui vẻ. Trong  quốc độ của họ không có những loại thần Dạ xoa bạo ác, tác hại chúng sanh. Mọi hiện tượng dữ ẩn mất tất cả và tức thì. Còn giai cấp Sát đế lợi, và những vị vua đã làm lễ quán đảnh, thì sự sống, tướng tốt, sức mạnh, vô bịnh và tự do, đều được tăng thêm. Nếu hoàng hậu, hoàng phi, đông cung, vương tử, đại thần, phụ chánh, thể nữ, bách quan và dân chúng, bị bịnh làm khổ, và bị những tai nạn khác, cũng nên làm phan thần năm màu và đốt đèn sáng liên tục, phóng các loại có sinh mạng, rải những bông hoa đủ màu, đốt những hương thơm nổi tiếng, thì bịnh hết, nạn khỏi. 

Lúc ấy tôn giả A nan lại hỏi bồ tát Cứu thoát, thiện nam tử, tại sao mạng sống đã hết mà có thể làm cho tăng thêm ? Bồ tát Cứu thoát nói, đại đức, ngài không nghe đức Thế tôn nói có chín sự chết ngang trái hay sao. Vì chín sự chết này mà tôi khuyên làm phan và đèn “tiếp nối mạng sống”, tu các phước đức. Nhờ tu các phước đức mà trọn đời không trải qua một cơn đau đớn hoạn nạn nào cả. Tôn giả A nan hỏi, chín sự chết ngang trái là gì ? Bồ tát Cứu thoát nói, có kẻ bị bịnh tuy nhẹ, nhưng không thầy, không thuốc, không ai coi sóc. Gặp thầy thì lại bị cho thuốc không đúng, nên thật không đáng chết mà chết một cách ngang trái. Lại tin thầy bà yêu nghiệt của tà ma ngoại đạo thuộc phạm vi thế gian nói  vớ vẩn về họa phước, nên đâm ra sợ hãi, dao động. Tâm thì không tự chánh nó lại, lại đi bói hỏi để tìm lấy tai họa. Giết hại sinh vật mà giải tấu thần minh, van vái yêu quái để xin làm phước giúp đỡ mong muốn thêm tuổi nhưng chung cục không thể đạt được. Ngu si mê lầm, tin theo cái thấy cong và ngược, nên làm chết mình một cách ngang trái, nhập vào địa ngục, không có kỳ hạn thoát ra. Ðó là sự chết ngang trái thứ nhất. Thứ hai, một cách ngang trái bị phép vua giết. Thứ ba, săn bắn, chơi bời, đam mê tửu sắc, phóng túng vô độ, một cách ngang trái bị những kẻ không phải người đoạt mất tinh chất. Thứ tư, một cách ngang trái bị lửa đốt. Thứ năm, một cách ngang trái bị nước chìm. Thứ sáu, một cách ngang trái bị các giống thú dữ ăn. Thứ bảy, một cách ngang trái rơi xuống sườn núi. Thứ tám, một cách ngang trái trúng chết bởi thuốc độc, ếm vái, chú thư, quỉ khởi thi. Thứ chín, chết một cách ngang trái vì đói khát nguy khốn, không được đồ ăn thức uống. Ðó là sự chết ngang trái mà đức Thế tôn nói vắn tắt có chín thứ như vậy. Ngoài ra còn có vô số những sự ngang trái khác, khó nói cho đủ.

 Ðại đức A nan, Diêm vương lãnh xét sự ghi chép về sách tịch của thế gian. Ai bất hiếu cha mẹ, làm năm tội nghịch, hủy nhục Tam bảo, phá phép vua tôi, làm hỏng tánh giới, thì Diêm vương theo tội nặng nhẹ xét mà phạt. Vì lý do ấy, nay tôi khuyến cáo mọi người đốt đèn, treo phan, phóng sanh, tu phước, làm cho họ qua khỏi khốn khổ, không gặp mọi sự hoạn nạn.

Lúc ấy trong chúng hội có mười hai vị đại tướng Dạ xoa, cùng có mặt ở đó, là đại tướng Cung tỳ la, đại tướng Phạt chiết la, đại tướng Mê xí la, đại tướng An để la, đại tướng Ngạch nễ la, đại tướng San để la, đại tướng Nhân đạt la, đại tướng Ba di la, đại tướng Ma hổ la, đại tướng Chân đạt la, đại tướng Chiêu đỗ la, đại tướng Tỳ yết la. Mười hai vị đại tướng Dạ xoa này, mỗi vị có bảy ngàn Dạ xoa làm tùy thuộc, cùng lúc cất tiếng bạch Phật, bạch đức Thế tôn, chúng con bây giờ nhờ uy lực của Ngài mà nghe được danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, không còn nỗi sợ hãi về ác đạo nữa. Chúng con đốc suất nhau, cùng nhau nhất tâm, suốt đời qui y Phật Pháp Tăng, thệ nguyện gánh vác hết thảy chúng sanh, tạo cho họ cái lợi chân thật, cái vui lợi ích. Tùy thôn làng, thị thành, thủ đô, và trong rừng thanh vắng, của bất cứ xứ nào, mà hoặc có kinh này lưu hành, hoặc có kẻ trì niệm danh hiệu của đức Dược sư lưu ly quang như lai, cung kính cúng dường Ngài, thì chúng con, và tùy thuộc của chúng con, hộ vệ người ấy, làm cho họ thoát mọi khổ nạn, mọi ước nguyện đều thỏa mãn.  Hoặc ai bị bịnh khổ mà cầu thoát qua, thì cũng   nên đọc tụng kinh này, dùng tơ sợi năm màu mà kết tên chúng con. Ðược toại nguyện rồi mới tháo kết ấy. 

Lúc ấy đức Thế tôn tán dương các đại tướng Dạ xoa, rằng lành thay các tướng Ðại dạ xoa, lành thay, các người nghĩ báo ân đức của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, thì thường nên như vậy mà lợi ích an lạc hết thảy chúng sanh.

Bấy giờ tôn giả A nan bạch Phật, bạch đức Thế tôn, nên mệnh danh như thế nào về pháp môn này, và chúng con nên phụng trì kinh này như thế nào ? Phật dạy tôn giả A nan, pháp môn này nên mệnh danh Nói về bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai, cũng nên mệnh danh Nói về sự kết nguyện thần chú để lợi ích chúng sanh của mười hai thần tướng, lại nên mệnh danh Bạt trừ hết thảy nghiệp chướng. Nên phụng trì như vậy. 

Khi đức Thế tôn nói lời này rồi, các vị đại bồ tát cùng các vị đại thanh văn, quốc vương, đại thần, đạo sĩ, cư sĩ, thiên chúng, long chúng, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lầu la, khẩn na la, ma hầu la dà, loài người và loài không phải người, toàn thể đại chúng như vậy nghe những điều Phật dạy, ai cũng cực kỳ hoan hỷ, tín thọ phụng hành.

Nam mô Dược sư hội thượng Phật Bồ tát  (3 lần)

Hoàn kinh

(Ðảnh lễ)
Nhất tâm đảnh lễ bổn sư Thích ca mâu ni phật.
Nhất tâm đảnh lễ Dược sư lưu ly quang như lai.
Nhất tâm đảnh lễ kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai.
Nhất tâm đảnh lễ chư Phật Bồ tát trong pháp hội Dược sư.
Nhất tâm đảnh lễ Nhật quang biến chiếu bồ tát.
Nhất tâm đảnh lễ Nguyệt quang biến chiếu bồ tát.
Nhất tâm đảnh lễ Văn thù sư lợi bồ tát.
Nhất tâm đảnh lễ Quan thế âm bồ tát.
Nhất tâm đảnh lễ Ðắc đại thế bồ tát.
Nhất tâm đảnh lễ Vô tận ý bồ tát.
Nhất tâm đảnh lễ Bảo đàn hoa bồ tát.
Nhất tâm đảnh lễ Dược vương bồ tát.
Nhất tâm đảnh lễ Dược thượng bồ tát.
Nhất tâm đảnh lễ Di lạc bồ tát

(cầu nguyện.- I. Cầu nguyện cho bản thân)
Ðệ tử tên x x pháp danh x x, đem công đức thọ trì kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai, cầu nguyện bịnh chướng tiêu trừ, phước thọ tăng trưởng, đời này thiện căn không bị trở ngại, kiếp sau đích thân tiếp nhận sự thọ ký tối thượng của Phật. 

(2. cầu nguyện cho người khác)
Ðệ tử tên xx pháp danh xx, chí thành vì xx, pháp danh xx, thọ trì kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai, cầu nguyện xx nhờ công đức này mà bịnh chướng tiêu tan, phước thọ tăng thượng, chánh tín không bị phá hoại, thiện căn không bị trở ngại, đời này thân cận phụng sự Tam bảo, kiếp sau đích thân nhận được sự thọ ký của Phật.

(Hồi hướng)
Nguyện đem công đức này
hướng về khắp tất cả,
nguyện con và chúng sanh
đều trọn thành Phật đạo.

(Qui y Tam bảo)
Tự qui y Phật,
xin nguyện chúng sanh,
thể theo đạo cả,
phát lòng vô thượng.

Tự qui y Pháp,
xin nguyện chúng sanh,
thấu rõ kinh tạng,
trí tuệ như biển.

Tự qui y Tăng,
xin nguyện chúng sanh,
thống lý đại chúng,
hết thảy không ngại.

 Sám  Dược  sư – cuốn trước

Khai kinh

(Tán lễ Phật)
Ðại từ đại bi
thương xót chúng sanh,
đại hỷ đại xả
cứu vớt muôn loài,
hào quang diệu tướng
dùng tự trang nghiêm,
chúng con chí thành
qui y đảnh lễ.
Nhất tâm đảnh lễ Phật bảo thường trú khắp cả mười phương.
Nhất tâm đảnh lễ Pháp bảo thường trú khắp cả mười phương.
Nhất tâm đảnh lễ Tăng bảo thường trú khắp cả mười phương.
Nhất tâm đảnh lễ bổn sư Thích ca mâu ni phật.
Nhất tâm đảnh lễ Dược sư lưu ly quang như lai.
Nhất tâm đảnh lễ kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai.
Nhất tâm đảnh lễ chư Phật Bồ tát trong pháp hội Dược sư.

(cúng hương)
Hương thơm tâm tánh
đủ cả năm phần,
vừa được đốt lên
bởi lửa bản thể,
thì cả pháp giới
đều được chan hòa,
phàm cùng với thánh
xông ướp tất cả,
chính trong hương thơm 
quyện lên như vậy,
mà các đức Phật 
hiển lộ toàn thân.
Nam mô hương cúng dường bồ tát ma ha tát (3 lần)

( chân ngôn làm sạch ngoại cảnh)
Án lam sa ha. (21 lần)

(Chân ngôn làm sạch thân miệng ý)
Án sa phạ bà phạ thuật đà,
sa phạ đạt ma sa phạ, bà phạ thuật độ hám. (7 lần)

(Phát nguyện)
Kính lạy chư Thế tôn,
qui y các Phật đà,
nay con phát đại nguyện,
lễ bái Dược sư sám,
trên trả bốn ơn nặng,
dưới giúp ba đường khổ,
những người thấy nghe được,
đều phát tâm bồ đề,
báo thân này kết thúc,
cùng sanh các tịnh độ.

(Niệm hiệu  Phật)
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật. (3 lần)
Nam mô Dược sư hội thượng Phật Bồ tát. (3 lần)

Mở đầu vận dụng phương pháp sám hối “đạo tràng Dược sư”, chúng con ngày nay nên đem tánh mạng mà qui y đảnh lễ chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai :

Nam mô quá khứ Tỳ bà thi phật.
Nam mô Thi khí phật.
Nam mô Tỳ xá phù phật.
Nam mô Cầu lưu tôn phật.
Nam mô Câu na hàm mâu ni phật.
Nam mô Ca diếp phật.
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật.
Nam mô đương lai Di lạc tôn phật
Nam mô Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Dược sư hải hội Phật Bồ tát.

Phương pháp sám hối “Dược sư tiêu tai diên thọ”(5). cuốn trước

Hết thảy chư Phật thương tưởng chúng sanh, nên đã dạy cho phương pháp sám hối “đạo tràng Dược sư”.  Là vì con người dơ bẩn quá nặng, bóng tối vô minh che khuất tâm trí, không hiểu nhân quả không siêng sám hối. Phóng túng tham lam sân hận ngu si, buông thả sát sanh trộm cắp dâm dục. Tội lỗi dơ bẩn đã tạo vô lượng vô biên, ác nghiệp oán cừu đã kết vô cùng vô tận, không hay không biết, ngày càng sâu dày. Ðến nỗi thúc ngắn đời sống lâu dài mà thành chết yểu chết oan, cách mất chức vị quan quyền mà thành thấp thỏi nghèo hèn, tước bỏ giàu sang sung túc mà thành nghèo khổ khốn cùng, chết non con trai con gái mà thành cô đơn lẻ chiếc. Mắc vào chín cái chết ngang trái, sa xuống ba con đường ác đạo. Khổ quả nhiều mối, tự tạo tác, tự lãnh chịu. ác báo nhiều cách, hoặc đời này, hoặc kiếp sau. Tơ tóc không sai, dầu mau dầu chậm chắn chắc phải trả.

Nên xưa kia, đức Thích ca  đã từ bi cứu vớt, bằng cách nói bản kinh về Bản nguyện và công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai(6), dạy người đọc tụng hãy tạo hình tượng đức Như lai  bảy vị, trước mỗi vị đặt bảy ngọn đèn, cái lượng mỗi ngọn đèn lớn như bánh xe, đốt đến bốn mươi chín ngày, ánh sáng không tắt. Nhưng việc ấy chỉ vua quan(7), cư sĩ đại gia, nhiều tiền lắm của, kho bồ tràn đầy mới làm nổi, còn người kém sức, lòng dẫu ưng muốn mà không có khả năng làm cho trang nghiêm đúng cách. Vì lý do ấy mà căn cứ chính trong kinh Bản nguyện công đức nói trên, diễn ra phương pháp sám hối “Tiêu tai diên thọ”, tiện cho mọi người tắm gội trai giới, hoặc trong chùa chiền, hoặc nơi nhà cửa, hoặc mời các vị xuất gia, hoặc cùng những người thiện niệm, rưới quét sửa dọn, hương hoa đèn nến, tùy sức hiến cúng, y văn đọc tụng, chí thành lễ bái, như thế thì không có sự mong cầu nào không ứng nghiệm, không có sự ước nguyện nào không hoàn thành.

Trong kinh dạy rằng, bộc bạch sám hối tội ác đã làm, là điều mà Tịnh danh đại sĩ ưa chuộng. Vì vậy mà sửa chứa quá khứ, tu tỉnh tương lai, tẩy giặt thân tâm, đoạn tuyệt ác pháp, thề không làm lại, tội lỗi nhiều kiếp sạch hết không còn, nên tùy nguyện cầu thỏa mãn tất cả. Ðệ tử chúng con chí tâm đảnh lễ khẩn cầu sám hối :

Nam mô Tỳ lô giá na phật.
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật.
Nam mô Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Vô lượng thọ phật.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì quá khứ.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì hiện tại.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì vị lai.
Kính lạy kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Nhật quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Nguyệt quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Văn thù sư lợi bồ tát.
Nam mô Quan thế âm bồ tát.
Nam mô Ðắc đại thế bồ tát.
Nam mô Vô tận ý bồ tát.
Nam mô Bảo đàn hoa bồ tát.
Nam mô Dược vương bồ tát.
Nam mô Dược thượng bồ tát.
Nam mô Di lạc bồ tát.
Nam mô Tiêu tai chướng bồ tát.
Nam mô Tăng phước thọ bồ tát.
Kính lạy ba vạn sáu ngàn vị đại bồ tát dưới cây Tiếng nhạc.
Kính lạy các vị đại thánh tăng là tôn giả A nan và tám ngàn vị tỷ kheo.
Nam mô Cứu thoát bồ tát.

Ðảnh lễ chư Phật rồi lại sám hối tiếp. Nghĩ lại thời kỳ Phật pháp tương tự xuất hiện, nếu mọi người vì muốn lợi ích an lạc, nhổ trừ tất cả nghiệp chướng, xây dựng công đức hơn lạ ; muốn tu tập một cách đầy đủ đại nguyện của chư Phật, và thọ trì một cách trọn vẹn danh hiệu và kho báu chánh pháp của chư Phật ; muốn được vô thượng chánh biến giác, bâm hai tướng tốt và tám mươi tướng phụ trang hoàng cơ thể ; muốn được vô lượng trí tuệ phương tiện để làm cho chúng sanh đứng yên trong pháp đại thừa ; muốn tu hành phạn hạnh, được giới thể không thiếu sót, trọn vẹn giới pháp ba loại, tuyệt đối thanh tịnh không có phá phạm ; muốn được các giác quan đều hoàn bị, không mọi tật nguyền và bịnh khổ, nhà cửa, thân thuộc và đồ dùng đều đủ và nhiều ; muốn phá rách mạng lưới của ma vương, cổi mở ràng buộc của ngoại đạo, phát nhổ rừng rậm của mọi thứ ác kiến(9) ; nếu có nữ nhân muốn chuyển nữ thành nam, đầy đủ hình tướng trượng phu ; muốn cầu con trai được con trai, cầu con gái được con gái, cầu sống lâu được sống lâu ; hoặc bị phép vua làm tội mà muốn giải thoát mọi sự lo sợ thống khổ ; muốn được đồ ăn đồ uống tuyệt diệu, pháp vị no đủ, mọi thứ y phục tuyệt diệu và tất cả đồ trang sức bằng vàng ngọc ; muốn thực hành bố thí, mọi thứ mình có toàn không ham tiếc, hiến cả cho người đến xin ; muốn được chánh kiến, tinh tiến và ý thích khéo thuần hóa, đa văn thông lợi, lý giải nghĩa lý cực kỳ sâu xa, thường cầu thắng pháp, thường gặp thiện hữu ; muốn thọ trì giới pháp, nguyện sanh thế giới hệ Cực lạc ở phía tây, chỗ A di đà phật, để được nghe chánh pháp của ngài ; nếu có giới pháp đã phá hủy mà muốn phục hồi thanh tịnh, sinh mạng đã hết mà muốn cứu muốn nối ; cho đến quốc độ  và dân chúng bị mọi sự ngang trái và mọi sự tai nạn mà muốn tiêu trừ cho ẩn mất để mưa gió thuận thời, dân chúng vui vẻ, thì hãy trang nghiêm đúng cách, qui y và đảnh lễ đức Dược sư lưu ly quang như lai, nhất tâm tinh tiến, tu tập chánh định. Tại sao, vì đức Như lai ấy, khi làm hạnh bồ tát, đã phát mười hai đại nguyện tối thượng và nhiệm mầu, tạo ra công đức thù thắng, nên làm cho những người nghe được thì nghiệp chướng tiêu trừ, hết thảy sở cầu đều được mãn nguyện. Ðiều này chỉ các vị bồ tát còn hệ thuộc một đời mới có khả năng tin và hiểu đúng như sự thực, tu hành đúng như Phật dạy. Nên phải đem thân thể, tính mạng(10) và tài sản ra, không lẫn không tiếc, tận lực trang nghiêm, thì quyết chắc được kết quả và toại nguyện. Vì nghĩ lại như vậy, nên ngày nay đệ tử cùng những người hiện diện, tất cả đều chí tâm qui mạng đảnh lễ :

Nam mô Tỳ lô giá na phật.
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật.
Nam mô Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Vô lượng thọ phật.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì quá khứ.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì hiện tại.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì vị lai.
Kính lạy kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Nhật quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Nguyệt quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Văn thù sư lợi bồ tát.
Nam mô Quan thế âm bồ tát.
Nam mô Ðắc đại thế bồ tát.
Nam mô Vô tận ý bồ tát.
Nam mô Bảo đàn hoa bồ tát.
Nam mô Dược vương bồ tát.
Nam mô Dược thượng bồ tát.
Nam mô Di lạc bồ tát.
Nam mô Tiêu tai chướng bồ tát.
Nam mô Tăng phước thọ bồ tát.
Kính lạy ba vạn sáu ngàn vị đại bồ tát dưới cây Tiếng nhạc.
Kính lạy các vị đại thánh tăng là tôn giả A nan và tám ngàn vị tỷ kheo.
Nam mô Cứu thoát bồ tát.

Ðảnh lễ chư Phật rồi lại sám hối tiếp. Nguyện xin chư Phật Bồ tát đồng vận từ bi, giáng lâm đạo tràng ; toàn thể tám bộ thiên long, các tướng Dạ xoa, cùng sinh thương tưởng, đi đến đạo tràng. Các thánh chúng như vậy, xin cùng chứng minh. Chúng con ngày nay, muốn vì chúng sanh khắp cả mười phương và toàn thể lục đạo, mà tu hành tuệ giác vô thượng, đoạn trừ hết thảy nghiệp chướng, cùng vào biển cả đại nguyện của đức Như lai, để hiện sắc thân khắp nơi, nơi trong một niệm mà cúng dường hết thảy Tam bảo khắp cả mười phương, nơi trong một niệm mà hóa độ cùng khắp tất cả chúng sanh trong lục đạo, làm cho họ nhập vào tuệ giác vĩ đại và bình đẳng. Vì muốn như vậy nên ngày nay nhất tâm tinh tiến, tu hành đúng như Phật dạy. Nguyện xin chư Phật, Bồ tát, đức Dược sư như lai, đem năng lực bản nguyện mà nhận cho sự sám hối của con, làm cho việc con làm quyết định phá trừ nghiệp chướng, viên thành hạnh nguyện. Như kinh đã dạy, nguyện xin chứng minh, “Nam mô Dược sư lưu ly quang như lai, ứng cúng, chánh biến tri, minh hạnh viên mãn, quang minh quảng đại. Công đức đồ sộ thân khéo an trú. Lưới sáng tráng lệ quá hơn nhật nguyệt. Chúng sanh tối tăm được soi sáng cả… Tùy mong cầu gì cũng đều toại nguyện… Bao nhiêu bịnh khổ đều tiêu tan cả… Vô lượng bồ tát hạnh, vô lượng thiện phương tiện, và vô lượng quảng đại nguyện, của đức phật Dược sư, trong một đại kiếp hay hơn một đại kiếp, ta, Thích ca như lai, nói một cách đầy đủ thì đại kiếp ấy có thể kết thúc mau chóng, còn hạnh nguyện và phương tiện của đức Phật này vẫn không cùng tận”. Vì thế mà chúng con chí tâm qui mạng đảnh lễ :

Nam mô, Bạc già phạt đế, bệ sát xã lũ rô – bệ lưu ly bát lạt bà – hát ra xà dã, đát tha yết đa dã, a ra hát đế, tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha : Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ – bệ sát xã – tam một yết đế, sa ha. (3 lần)

Nam mô Dược sư hội thượng Phật Bồ tát. ( 3 lần)

Hoàn kinh

(Tán Phật)
Kính lạy đức Dược sư,
chánh giác rất vi diệu,
ở cõi Tịnh lưu ly,
thuộc phía đông cõi này ;
Ngài thật khó nghĩ bàn,
đủ ba vô số kiếp,
và không ai sánh bằng,
với mười hiệu tôn xưng.
Trong nhân đã phát ra
mười hai môn đại nguyện
trong quả đã viên mãn
trăm ngàn loại tướng hảo ;
biển từ bi rộng lớn
khó ai lường cho nổi,
núi công đức cao cả
không thể khen cho cùng.
Nam mô đông phương Tịnh lưu ly giới, Dược sư lưu ly quang như lai, ứng cúng, chánh  biến tri, minh hạnh túc, thiện thệ, thế gian giải, vô thượng sĩ, điều ngự trượng phu, thiên nhân sư, phật : thế  tôn(11).

(Niệm Phật)
Nam mô Dược sư lưu ly quang phật. (30 đến 108 tiếng)
(từ đây sắp xuống, mỗi danh hiệu 3 tiếng)
Nam mô Nhật quang biến chiếu bồ tát. 
Nam mô Nguyệt quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Văn thù sư lợi bồ tát.
Nam mô Quan thế âm bồ tát.
Nam mô Ðắc đại thế bồ tát.
Nam mô Vô tận ý bồ tát.
Nam mô Bảo đàn hoa bồ tát.
Nam mô Dược vương bồ tát.
Nam mô Dược thượng bồ tát.
Nam mô Di lạc bồ tát.

( cầu nguyện 1. Cầu nguyện cho bản thân )
Ðệ tử tên xx pháp danh xx, đem công đức bái sám theo phương pháp sám hối “đạo tràng Dược sư”, cầu nguyện bịnh chướng tiêu trừ, phước thọ tăng trưởng, đời này thiện căn không bị trở ngại, kiếp sau đích thân tiếp nhận sự thọ ký tối thượng của Phật.

(2. cầu nguyện cho người khác)
Ðệ tử tên xx pháp danh xx, chí thành vì xx, pháp danh xx, bái sám theo phương pháp sám hối “đạo tràng Dược sư”, cầu nguyện xx nhờ công đức này mà bịnh chướng tiêu tan, phước thọ tăng thượng, chánh  tín không bị phá hoại, thiện căn không bị trở ngại, đời này thân cận phụng sự tam bảo, kiếp sau đích thân nhận được sự thọ ký của Phật.

(Hồi hướng)
Nguyện đem công đức này
hướng về khắp tất cả,
nguyện con và chúng sanh
đều trọn thành Phật đạo.

(Qui y Tam bảo)
Tự qui y Phật,
xin nguyện chúng sanh,
thể theo đạo cả,
phát lòng vô thượng.

Tự qui y Pháp,
xin nguyện chúng sanh,
thấu rõ kinh tạng,
trí tuệ như biển.

Tự qui y Tăng,
xin nguyện chúng sanh,
thống lý đại chúng,
hết thảy không ngại.

Sám  Dược  sư – cuốn  giữa

Khai kinh

(Tán lễ Phật)
Ðại từ đại bi
thương xót chúng sanh,
đại hỷ đại xả
cứu vớt muôn loài,
hào quang diệu tướng
dùng tự trang nghiêm,
chúng con chí thành
qui y đảnh lễ.
Nhất tâm đảnh lễ Phật bảo thường trú khắp cả mười phương.
Nhất tâm đảnh lễ Pháp bảo thường trú khắp cả mười phương.
Nhất tâm đảnh lễ Tăng bảo thường trú khắp cả mười phương.
Nhất tâm đảnh lễ bổn sư Thích ca mâu ni phật.
Nhất tâm đảnh lễ Dược sư lưu ly quang như lai.
Nhất tâm đảnh lễ kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai.
Nhất tâm đảnh lễ chư Phật Bồ tát trong pháp hội Dược sư.

(cúng hương)
Hương thơm tâm tánh
đủ cả năm phần,
vừa được đốt lên
bởi lửa bản thể,
thì cả pháp giới
đều được chan hòa,
phàm cùng với thánh
xông ướp tất cả,
chính trong hương thơm 
quyện lên như vậy,
mà các đức Phật 
hiển lộ toàn thân.
Nam mô hương cúng dường bồ tát ma ha tát (3 lần)

( chân ngôn làm sạch ngoại cảnh)
Án lam sa ha. (21 lần)

(Chân ngôn làm sạch thân miệng ý)
Án sa phạ bà phạ thuật đà,
sa phạ đạt ma sa phạ, bà phạ thuật độ hám. (7 lần)

(Phát nguyện)
Kính lạy chư Thế tôn,
qui y các Phật đà,
nay con phát đại nguyện,
lễ bái Dược sư sám,
trên trả bốn ơn nặng,
dưới giúp ba đường khổ,
những người thấy nghe được,
đều phát tâm bồ đề,
báo thân này kết thúc,
cùng sanh các tịnh độ.

(Niệm hiệu  Phật)
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật. (3 lần)
Nam mô Dược sư hội thượng Phật Bồ tát. (3 lần)

Phương pháp sám hối Dược sư tiêu tai diên thọ, cuốn giữa.

Hết thảy chư Phật thương tưởng chúng sanh, dạy cho phương pháp sám hối “đạo tràng Dược sư”, nên ngày nay chúng con đem tánh mạng mà qui y đảnh lễ hết thảy chư Phật :

Nam mô Tỳ lô giá na phật.
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật.
Nam mô Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Vô lượng thọ phật.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì quá khứ.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì hiện tại.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì vị lai.
Kính lạy kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Nhật quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Nguyệt quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Văn thù sư lợi bồ tát.
Nam mô Quan thế âm bồ tát.
Nam mô Ðắc đại thế bồ tát.
Nam mô Vô tận ý bồ tát.
Nam mô Bảo đàn hoa bồ tát.
Nam mô Dược vương bồ tát.
Nam mô Dược thượng bồ tát.
Nam mô Di lạc bồ tát.
Nam mô Tiêu tai chướng bồ tát.
Nam mô Tăng phước thọ bồ tát.
Kính lạy ba vạn sáu ngàn vị đại bồ tát dưới cây Tiếng nhạc.
Kính lạy các vị đại thánh tăng là tôn giả A nan và tám ngàn vị tỷ kheo.
Nam mô Cứu thoát bồ tát.

Ðảnh lễ chư Phật rồi lại sám hối tiếp. Ðệ tử chúng con khắp vì bốn ơn(12) ba cõi(13) và pháp giới chúng sanh, nguyện đoạn trừ cả ba thứ chướng ngại(14), nên qui tánh mạng về nơi Phật, đảnh lễ mà sám hối. Con với chúng sanh, vô thỉ đến giờ, do ái và kiến(15) mà trong chấp nhân ngã, ngoài vì bạn xấu, nên không tùy hỷ ai cả, dầu là một điều thiện bằng tơ tóc, chỉ biết khắp  cả thân miệng ý cùng làm đủ các ác nghiệp. Việc tuy không rộng mà ác ý bủa khắp. Ngày đêm liên tục, không có gián đoạn. Che giấu lỗi lầm, không muốn ai hay. Không sợ ác đạo, không hổ không thẹn. Bài bác, cho rằng không có nhân quả. Tội chướng như vậy mà chưa hề trải qua sự sám hối nào cả. Chúng con ngày nay dối trước chư Phật khắp cả mười phương, trước đức Dược sư như lai, tin tưởng sâu xa nguyên lý nhân quả, phát sanh hổ thẹn hệ trọng và phát sanh sợ hãi to lớn mà bộc bạch sám hối. Ðoạn tâm liên tục mà phát tâm bồ đề. Ðoạn ác tu thiện, siêng năng thúc dục cả thân miệng ý. Ðổi bỏ tánh xấu nặng nề ngày xưa mà tùy hỷ đối với người phàm cũng như bậc thánh, dầu chỉ một điều thiện bằng tơ tóc mà thôi. Nghĩ nhớ đức phật Dược sư có cái sức của thệ nguyện to lớn, có thể cứu vớt con, đem con ra khỏi biển hai chết(16) mà đặt lên trên bờ ba đức(17), nên nguyện xin Ngài từ bi, thương xót nhiếp thọ. Tất cả đều chí tâm qui mạng đảnh lễ :

Nam mô Tỳ lô giá na phật.
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật.
Nam mô Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Vô lượng thọ phật.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì quá khứ.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì hiện tại.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì vị lai.
Kính lạy kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Nhật quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Nguyệt quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Văn thù sư lợi bồ tát.
Nam mô Quan thế âm bồ tát.
Nam mô Ðắc đại thế bồ tát.
Nam mô Vô tận ý bồ tát.
Nam mô Bảo đàn hoa bồ tát.
Nam mô Dược vương bồ tát.
Nam mô Dược thượng bồ tát.
Nam mô Di lạc bồ tát.
Nam mô Tiêu tai chướng bồ tát.
Nam mô Tăng phước thọ bồ tát.
Kính lạy ba vạn sáu ngàn vị đại bồ tát dưới cây Tiếng nhạc.
Kính lạy các vị đại thánh tăng là tôn giả A nan và tám ngàn vị tỷ kheo.
Nam mô Cứu thoát bồ tát.

Ðảnh lễ chư Phật rồi lại sám hối tiếp. Ðệ tử chúng con từ vô thỉ đến ngày nay, có cái bịnh tham lam sân hận và tật đố, cái bịnh kiêu mạn ngạo ngược, cái bịnh không biết thiện ác, cái bịnh không tin tội phước, cái bịnh bất hiếu ngũ nghịch(18), cái bịnh phá phạm trai giới, cái bịnh phá phạm thi la(19), cái bịnh khen mình chê người, cái bịnh ham được không chán, cái bịnh say mê tiếng hay và chạy theo sắc đẹp, cái bịnh ham hố hơi thơm và ưa thích đụng chạm, cái bịnh tin theo sự thấy cong và ngược(20) cái bịnh đam mê tửu sắc mà phóng túng vô độ, cái bịnh dầu gặp thầy mà lại cho thuốc không đúng, cái bịnh vô lượng tai nạn, khổ nhục, và bi thảm sầu muộn khác nữa, ngâm nấu bức bách, làm cho cả cơ thể lẫn tâm trí đều chịu  thống khổ. Muốn làm cho những bịnh khổ ấy tiêu trừ, sở cầu mãn nguyện, nên bấy giờ đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai nhập định danh hiệu Diệt trừ mọi khổ não của chúng sanh. Nhập định ấy rồi, từ trong nhục kế phóng ra ánh sáng lớn. Trong ánh sáng này diễn ra đà la ni vĩ dại sau đây : Nam mô, Bạc già phạt đế, bệ sát xã lũ rô – bệ lưu ly bát lạt bà – hát ra xà dã, đát tha yết đa dã, a ra hát đế, tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha : Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ – bệ sát xã – tam một yết đế, sa ha. Khi trong ánh sáng diễn ra đà la ni vĩ  đại ấy rồi, đại địa chấn động, phóng ánh sáng lớn, hết thảy chúng sanh bịnh khổ tiêu trừ, hưởng dược cái vui yên ổn.

Do đó mà biết công năng sám hối là tễ thuốc linh nghiệm làm lành bịnh thân tâm, là toa thuốc thần kỳ làm thoát khổ sinh tử. Có vị đại y vương theo bịnh đặt thuốc : từ bi hỷ xả là thuốc, nhẫn nhục nhu hòa là thuốc, chánh tín Tam bảo là thuốc, siêng tu phước tuệ là thuốc, sáu ba la mật là thuốc, ăn no cam lộ là thuốc, ham cầu pháp vị là thuốc, tu chân dưỡng khí là thuốc, phản bản hoàn nguyên là thuốc, có lỗi đổi được là thuốc, phương tiện khôn khéo là thuốc, không động vì tiếng hay sắc đẹp là thuốc, lắng lòng tuyệt dục là thuốc. Thường dùng những thứ thuốc như vậy giã ra, giần đi, rồi hợp lại mà thường thường đem uống.

Nhưng, chúng sanh nếu bịnh lẽ ra cùng một bịnh, chúng sanh cần thuốc lẽ ra cùng một thuốc. Nếu nói có nhiều pháp thì thế là điên đảo. Nếu căn cứ thật tướng của nhất thừa(21) mà nói, thì đâu có thêm có bớt, có dơ có sạch, có lành có dư, có tội có phước, có bịnh có thuốc. Nhìn lại phương tiện trước đã áp dụng, thật như người trong chiêm bao : chiêm bao thấy thân bị bịnh nên tìm thầy uống thuốc mà được hết được lành ; đến lúc tỉnh giấc chiêm bao thì rõ ra vốn là không bịnh, sự không bịnh cũng không, huống chi thầy với thuốc. Nên bịnh của chúng sanh toàn là bịnh huyễn, thuốc của chư Phật toàn là thuốc huyễn. Do đó mà biết, pháp mà Như lai thuyết ra toàn là một tướng một vị, tướng vị giải thoát, tách rời, diệt sạch, cứu cánh niết bàn, chung qui về Không(22). Ví như từ một đám mây mà mưa xuống, thì cây thuốc lớn nhỏ gì cũng được tốt tươi, chúng con ngày nay nhờ ơn Phật mà được nghe danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, không còn có nữa cái nạn bịnh khổ, mới có khả năng đạt đến một cách trọn vẹn tuệ giác vô thượng bồ đề. Vì vậy, ngày nay chúng con đốc suất nhau, cùng nhau nhất tâm, suốt đời qui y Phật Pháp Tăng. Và bây giờ qui y đảnh lễ hết thảy chư Phật :

Nam mô Tỳ lô giá na phật.
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật.
Nam mô Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Vô lượng thọ phật.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì quá khứ.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì hiện tại.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì vị lai.
Kính lạy kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Nhật quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Nguyệt quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Văn thù sư lợi bồ tát.
Nam mô Quan thế âm bồ tát.
Nam mô Ðắc đại thế bồ tát.
Nam mô Vô tận ý bồ tát.
Nam mô Bảo đàn hoa bồ tát.
Nam mô Dược vương bồ tát.
Nam mô Dược thượng bồ tát.
Nam mô Di lạc bồ tát.
Nam mô Tiêu tai chướng bồ tát.
Nam mô Tăng phước thọ bồ tát.
Kính lạy ba vạn sáu ngàn vị đại bồ tát dưới cây Tiếng nhạc.
Kính lạy các vị đại thánh tăng là tôn giả A nan và tám ngàn vị tỷ kheo.
Nam mô Cứu thoát bồ tát.

Ðảnh lễ chư Phật rồi lại sám hối tiếp. Nếu người nào muốn thoát bịnh khổ, nên vì họ mà bảy ngày đêm thọ trì Bát quan trai giới. Nên đem đồ ăn, đồ uống và đồ dùng, tùy sức liệu biện mà cúng dường Tỷ kheo tăng. Ngày đêm sáu buổi lễ bái hành dạo, cúng dường đức thế tôn Dược sư lưu  ly quang như lai. Ðọc tụng bản kinh tôn quí(23) bốn mươi chín biến. Ðốt bốn mươi chín ngọn đèn. Ðến bốn mươi chín ngày đêm, ánh sáng không đứt. Như vậy thì có thể qua được tai nạn nguy khốn, không bị mọi thứ ngang trái và quỉ dữ tác hại. Vì vậy, ngày nay đệ tử cùng với những người hiện diện, tất cả đều cùng cực tinh tiến(24), đốt hương rãi hoa, thắp đèn treo phan(25), phóng sanh tu phước, để được qua khỏi khốn khổ, không gặp mọi sự hoạn nạn. Nguyện xin đức Như lai chứng minh cho sự sám hối của con.

Ðệ tử chúng con từ vô thỉ đến ngày nay, làm gì cũng không vừa ý. Nên biết tất cả đều vì quả báo sót lại của ác nghiệp từ quá khứ đến nay, mà gây ra. Vì vậy, ngày nay cần phải nỗ lực mà cầu xin sám hối. Sám hối quả báo ác mộng, những cảnh tượng khủng khiếp, những sự không cát tường của trong loài người. Sám hối quả báo bịnh dữ liền năm, lắm tháng không lành, gối giường nằm chiếu, không thể đứng đi của trong loài người. Sám hối quả báo đông ôn hạ dịch(26), sốt ác tính và thương hàn của trong loài người. Sám hối quả báo thủy tai hỏa hoạn, trộm cướp giặc giả, chiến tranh nguy khốn của trong loài người. Sám hối quả  báo bị sư tử, cọp, sói, rắn độc, bò cạp, rít và sâu làm hại của trong loài người. Sám hối quả báo sanh lão bịnh tử, lo buồn khổ não của trong loài người. Sám hối quả báo thân miệng và ý toàn là công cụ tạo tác và tăng trưởng đủ thứ ác nghiệp của cả chúng sanh. Sám hối quả báo sẽ sa vào ba ác đạo, nhiều lần ngàn năm chịu mọi sự khổ sở khốc liệt của cả chúng sanh. Sám hối quả báo hay bị trôi lăn vô cùng trong địa ngục, súc sanh và loài quỉ(27) của cả chúng sanh. Sám hối quả báo lại sanh nữa trong các ác đạo của cả chúng sanh. Sám hối quả báo làm tôi tớ người, bị người sai sử của cả chúng sanh. Sám hối quả báo hoặc làm trâu bò, lừa ngựa, lạc đà, thường bị đánh dập, lại còn quả báo luôn luôn mang nặng chở nhiều, đi theo đường phải đi mà bị đói khát hành hạ, của cả chúng sanh. Sám hối quả báo bị bùa ếm, thuốc độc và quỉ khởi thi(28) ngụy tạo yêu dị của trong loài người. Cùng loại như vậy, trong hiện tại cũng như vị lai, loài người cũng như chư thiên, quả báo có vô lượng tai họa, ngang trái, biến cố, thời khí, chết chóc, hoạn nạn, suy tồn và quấy phá. Chúng con ngày nay chí thành hướng về đức phật Dược sư, về thánh chúng qui tụ như biển cả, mà cầu xin sám hối, nguyện tiêu diệt cả.

Trước đã cứu xét cái lẽ cứu cánh là bịnh này thuốc này đồng là huyễn ảo, lại cứu xét mà sám hối trọn vẹn hết thảy báo chướng do ác nghiệp gây ra. Nay nên tuần tự phát nguyện hồi hướng. Ðệ tử chúng con nguyện đem công đức được phát sanh bởi sự sám hối ba thứ chướng ngại mà hồi hướng cả, hiến cho hết thảy chúng sanh để cùng sám hối. Nguyện cùng chúng sanh, từ nay sắp đi, cho đến ngày thực hiện tuệ giác vô thượng, nhớ khổ sanh tử mà phát bồ đề tâm. Ðổi ác làm lành, bỏ tà về chánh. Thân tâm an lạc, sống lâu vô cùng, áo cơm sung túc, nhà cửa, thân thuộc, đồ dùng và kho nẫm tràn đầy. Hình tướng đoan chánh, trí tuệ thông minh, uy nghiêm dũng liệt. Các tướng Dạ xoa hộ vệ, chư Phật thánh chúng nhiếp thọ. Làm gì cũng được ân trạch của đức Từ bi.

Ðệ tử chúng con lại nguyện từ nay sắp đi, mau chứng tuệ giác bồ dề, tướng tốt tướng phụ và ánh sáng đều tráng lệ, lạ và hơn cả. Nguyện chúng sanh được ánh sáng soi sáng, tùy ý hướng mà làm mọi sự nghiệp. Nguyện chúng sanh cùng được vô tận những vật hưởng dụng, không có sự thiếu thốn. Nguyện chúng sanh xây dựng đại thừa, cùng được ở yên trong dạo giác ngộ(29). Nguyện chúng sanh dược giới thể không thiếu sót, giả sử phá phạm thì phục hồi thanh tịnh. Nguyện chúng sanh đẹp đẽ, thông minh, giác quan hoàn bị, hết mọi bịnh khổ. Nguyện chúng sanh bịnh khổ tan biến, nhà cửa, thân thuộc và đồ dùng, đầy đủ tất cả. Nguyện chúng sanh chuyển thân nữ nhân thành thân nam tử, đủ tướng trượng phu, cho đến thực hiện tuệ giác vô thượng. Nguyện chúng sanh thoát khỏi mạng lưới của ma vương, cổi mở thắt buộc của ngoại đạo. Nguyện chúng sanh, phép vua làm tội, bi thảm sầu muộn ngâm nấu bức bách, đều thoát được cả. Nguyện chúng sanh ăn uống no đủ, sau đó lại được xây dựng bằng cái vui cứu cánh của pháp vị. Nguyện chúng sanh, như sở thích của họ, mọi thứ y phục tùy ý mong muốn đầy đủ tất cả(30).

Lại nguyện tất cả chúng sanh, sống lâu, giàu có, quan chức, con trai con gái, cầu gì cũng toại nguyện cả. Nguyện tất cả quốc  độ, trăm sự quái dị, chín cái chết ngang trái, tám thứ chướng nạn, ba thứ tai họa(31), nước khác xâm lăng quấy nhiễu, đạo tặc làm phản làm loạn, hết thảy nạn dữ như vậy tiêu mất tất cả ; quốc độ yên ổn, gió mưa điều hòa, lúa má thành thục, mọi người vô bịnh, vui vẻ, hạnh nguyện bồ đề sáng chói hơn lên trong từng ý nghĩ, cứu giúp người khác đau khổ thì luôn luôn tưởng như cứu vớt bản thân.

Lại nguyện đời đời kiếp kiếp, sanh ra ở đâu cũng không rơi nhằm những chỗ biên thùy, mọi rợ, mà lại sinh vào gia đình chánh tín ; tướng mạo đoan nghiêm, trí tuệ biện tài ; viễn ly ác pháp, thân cận thiện hữu ; kiên trì giới hạnh, kiến lập đại thừa. Lại nguyện đời đời kiếp kiếp,  sanh ra ở đâu cũng chấn hưng pháp Phật, phá hủy lưới ma ; phấn chí mà tu hành đầy đủ sáu ba la mật ; quảng tu cúng dường để trang nghiêm hai thứ phước tuệ, nhẫn nhục tinh tiến để thực hiện tuệ giác bồ đề.

Chúng con ngày nay nên nghĩ báo ân đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai, bằng cách h an lạc hết thảy chúng sanh. Vì thế mà chúng con chí tâm qui y đảnh lễ :

Nam mô, Bạc già phạt đế, bệ sát xã lũ rô – bệ lưu ly bát lạt bà – hát ra xà dã, đát tha yết đa dã, a ra hát đế, tam miệu tam bột đà da, đát diệt tha : Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ – bệ sát xã – tam một yết đế, sa ha. (3 lần)

Nam mô Dược sư hội thượng Phật Bồ tát. (3 lần)

 Hoàn kinh

(Tán Phật)
Kính lạy đức Dược sư,
chánh giác rất vi diệu,
ở cõi Tịnh lưu ly,
thuộc phía đông cõi này ;
Ngài thật khó nghĩ bàn,
đủ ba vô số kiếp,
và không ai sánh bằng,
với mười hiệu tôn xưng.
Trong nhân đã phát ra
mười hai môn đại nguyện
trong quả đã viên mãn
trăm ngàn loại tướng hảo ;
biển từ bi rộng lớn
khó ai lường cho nổi,
núi công đức cao cả
không thể khen cho cùng.
Nam mô đông phương Tịnh lưu ly giới, Dược sư lưu ly quang như lai, ứng cúng, chánh biến tri, minh hạnh túc, thiện thệ, thế gian giải, vô thượng sĩ, điều ngự trượng phu, thiên nhân sư, phật : thế tôn.

(Niệm Phật)
Nam mô Dược sư lưu ly quang phật. (30 đến 108 tiếng)
(từ đây sắp xuống, mỗi danh hiệu 3 tiếng)
Nam mô Nhật quang biến chiếu bồ tát. 
Nam mô Nguyệt quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Văn thù sư lợi bồ tát.
Nam mô Quan thế âm bồ tát.
Nam mô Ðắc đại thế bồ tát.
Nam mô Vô tận ý bồ tát.
Nam mô Bảo đàn hoa bồ tát.
Nam mô Dược vương bồ tát.
Nam mô Dược thượng bồ tát.
Nam mô Di lạc bồ tát.

( cầu nguyện 1. Cầu nguyện cho bản thân )
Ðệ tử tên xx pháp danh xx, đem công đức bái sám theo phương pháp sám hối “đạo tràng Dược sư”, cầu nguyện bịnh chướng tiêu trừ, phước thọ tăng trưởng, đời này thiện căn không bị trở ngại, kiếp sau đích thân tiếp nhận sự thọ ký tối thượng của Phật.

(2. cầu nguyện cho người khác)
Ðệ tử tên xx pháp danh xx, chí thành vì xx, pháp danh xx, bái sám theo phương pháp sám hối “đạo tràng Dược sư”, cầu nguyện xx nhờ công đức này mà bịnh chướng tiêu tan, phước thọ tăng thượng, chánh  tín không bị phá hoại, thiện căn không bị trở ngại, đời này thân cận phụng sự tam bảo, kiếp sau đích thân nhận được sự thọ ký của Phật.

(Hồi hướng)
Nguyện đem công đức này
hướng về khắp tất cả,
nguyện con và chúng sanh
đều trọn thành Phật đạo.

(Qui y Tam bảo)
Tự qui y Phật,
xin nguyện chúng sanh,
thể theo đạo cả,
phát lòng vô thượng.

Tự qui y Pháp,
xin nguyện chúng sanh,
thấu rõ kinh tạng,
trí tuệ như biển.

Tự qui y Tăng,
xin nguyện chúng sanh,
thống lý đại chúng,
hết thảy không ngại.

 Sám  Dược  sư – cuốn  sau

Khai kinh

(Tán lễ Phật)
Ðại từ đại bi
thương xót chúng sanh,
đại hỷ đại xả
cứu vớt muôn loài,
hào quang diệu tướng
dùng tự trang nghiêm,
chúng con chí thành
qui y đảnh lễ.
Nhất tâm đảnh lễ Phật bảo thường trú khắp cả mười phương.
Nhất tâm đảnh lễ Pháp bảo thường trú khắp cả mười phương.
Nhất tâm đảnh lễ Tăng bảo thường trú khắp cả mười phương.
Nhất tâm đảnh lễ bổn sư Thích ca mâu ni phật.
Nhất tâm đảnh lễ Dược sư lưu ly quang như lai.
Nhất tâm đảnh lễ kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai.
Nhất tâm đảnh lễ chư Phật Bồ tát trong pháp hội Dược sư.

(cúng hương)
Hương thơm tâm tánh
đủ cả năm phần,
vừa được đốt lên
bởi lửa bản thể,
thì cả pháp giới
đều được chan hòa,
phàm cùng với thánh
xông ướp tất cả ;
chính trong hương thơm
quyện lên như vậy,
mà các đức Phật
hiển lộ toàn thân.
Nam mô hương cúng dường bồ tát ma ha tát (3 lần).

(Chân ngôn làm sạch ngoại cảnh)
Án lam sa ha (21 lần)

(Chân ngôn làm sạch thân miệng ý)
Án sa phạ bà phạ thuật đà, sa phạ đạt ma sa phạ, bà phạ thuật độ hám (7 lần).

(Phát nguyện)
Kính lạy chư Thế tôn,
qui y các Phật đà,
nay con phát đại nguyện,
lễ bái Dược sư sám,
trên trả bốn ơn nặng,
dưới giúp ba đường khổ,
những người thấy nghe được,
đều phát tâm bồ đề,
báo thân này kết thúc,
cùng sanh các tịnh độ.

(Niệm hiệu  Phật)
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật. (3 lần)
Nam mô Dược sư hội thượng Phật Bồ tát. (3 lần)

 Phương pháp sám hối Dược sư tiêu tai Diên thọ”, cuốn sau

Chư Phật trong ba thì gian thương tưởng chúng sanh, dạy cho phương pháp sám hối đạo tràng Dược sư”, nên ngày nay chúng con đem tánh mạng mà qui y đảnh lễ hết thảy chư Phật :

Nam mô Tỳ lô giá na phật.
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật.
Nam mô Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Vô lượng thọ phật.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì quá khứ.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì hiện tại.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì vị lai.
Kính lạy kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Nhật quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Nguyệt quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Văn thù sư lợi bồ tát.
Nam mô Quan thế âm bồ tát.
Nam mô Ðắc đại thế bồ tát.
Nam mô Vô tận ý bồ tát.
Nam mô Bảo đàn hoa bồ tát.
Nam mô Dược vương bồ tát.
Nam mô Dược thượng bồ tát.
Nam mô Di lạc bồ tát.
Nam mô Tiêu tai chướng bồ tát.
Nam mô Tăng phước thọ bồ tát.
Kính lạy ba vạn sáu ngàn vị đại bồ tát dưới cây Tiếng nhạc.
Kính lạy các vị đại thánh tăng là tôn giả A nan và tám ngàn vị tỷ kheo.
Nam mô Cứu thoát bồ tát.

Ðảnh lễ chư Phật rồi lại sám hối tiếp. Ðệ tử chúng con, từ trên đến đây, đã sám hối rồi, bây giờ nên phát sanh tâm không dơ bẩn, tâm không giận dữ tác hại, nghĩa là đối với hết thảy chúng sanh khởi lên cái tâm lợi ích an lạc, từ bi hỷ xả và bình đẳng. Chính trong tâm nguyện như vậy mà nhiếp niệm chánh quán. Bằng cách không tuyệt kiết sử mà cũng không giữ kiết sử(32), quán các pháp không, như thật tướng.

Quán các pháp không là thế nào ? Hành giả xét kỹ, hiện tại một tâm niệm đây, chỉ là vọng tâm tùy duyên hiện khởi. Tâm như vậy, là do tâm mà thành tâm ? là không do tâm mà thành tâm ? là cũng do tâm, cũng không do tâm mà thành tâm ? là không phải do tâm, không phải không do tâm mà thành tâm ? là ở quá khứ, ở hiện tại hay ở vị lai ? là ở trong, ở ngoài hay ở trung gian ? có dấu vết gì ? ở phương chỗ nào ? Trong mọi sự tương quan như vậy mà tìm tâm, vẫn thấy cứu cánh không thể tìm được, như huyễn như mộng, không danh không tướng. Bấy giờ hành giả còn không thấy tâm là sinh tử, đâu có thấy tâm là niết bàn. Và không tìm được cái bị xét thì cũng không tìm được cái hay xét, không lấy không bỏ, không dựa không bám, cũng không trú ở nơi sự yên lặng, con đường ngôn ngữ đã tuyệt(33), hết thể trình bày nói phô. Xét tâm không thật là tâm thì tội phước không có chủ thể. Tội phước tánh không thì hết thảy các pháp toàn là không. Tâm không phải tâm, pháp chẳng ở  pháp. Sám hối như vậy gọi là sự sám hối to lớn, là sự sám hối phá hủy tâm thức. Vì lý do này, tâm này cũng như tâm khác thực sự lặng mất, niệm trước cùng với niệm sau toàn không trú ở. Như hư không mà hư không cũng không thể tìm được, sự không thể tìm được cũng không thể tìm được, tự nhiên siêu việt trên các tam muội, ánh sáng chiếu sáng, vạn pháp hiển hiện, thấu suốt tất cả, không còn chướng ngại, quảng đại như pháp tánh, cứu cánh như hư không. Nguyện xin được như sở nguyện, mãn bồ đề nguyện. Ðệ tử chúng con, ai nấy vận dụng tất cả tâm trí mà qui y đảnh lễ :

Nam mô Tỳ lô giá na phật.
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật.
Nam mô Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Vô lượng thọ phật.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì quá khứ.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì hiện tại.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì vị lai.
Kính lạy kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Nhật quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Nguyệt quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Văn thù sư lợi bồ tát.
Nam mô Quan thế âm bồ tát.
Nam mô Ðắc đại thế bồ tát.
Nam mô Vô tận ý bồ tát.
Nam mô Bảo đàn hoa bồ tát.
Nam mô Dược vương bồ tát.
Nam mô Dược thượng bồ tát.
Nam mô Di lạc bồ tát.
Nam mô Tiêu tai chướng bồ tát.
Nam mô Tăng phước thọ bồ tát.
Kính lạy ba vạn sáu ngàn vị đại bồ tát dưới cây Tiếng nhạc.
Kính lạy các vị đại thánh tăng là tôn giả A nan và tám ngàn vị tỷ kheo.
Nam mô Cứu thoát bồ tát.

Ðảnh lễ chư Phật rồi, lại kế tiếp xét thật tướng của tâm. Bất cứ lúc nào, bất cứ làm gì, dầu đi dầu đứng, dầu ra dầu vào, đại tiện tiểu tiện, rưới quét rửa giặt, thi vi cử động, cúi ngước xem nghe, đều nên một lòng tưởng niệm Tam bảo, xét tâm tánh không. Không được, dầu trong khoảnh khắc mà thôi, nhớ đến ngũ dục, đến việc đời, sinh tâm tà niệm.

Không cùng người nói năng bàn tán, buông thả giỡn cợt, nhìn sắc đẹp, nghe tiếng hay, bám dính cảnh trần, nổi nghiệp bất thiện, nổi ý niệm tạp mà thực chất là phiền não vô ký, không thể tu hành đúng như Phật pháp. Nếu quả tâm tâm liên tục, không rời phật tướng, không tiếc thân mạng, vì toàn thể chúng sanh mà tu hành phương pháp sám hối, thì thế gọi là chân thật, là nhất tâm tinh tiến, lấy Phật pháp mà trang hoàng. Do đó, chúng con lại chí thành, năm bộ phận gieo xuống sát đất mà qui y đảnh lễ Tam bảo thường trú :

Nam mô Tỳ lô giá na phật.
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật.
Nam mô Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Vô lượng thọ phật.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì quá khứ.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì hiện tại.
Kính lạy tất cả chư Phật cùng mười phương, khắp pháp giới, thuộc thì vị lai.
Kính lạy kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai.
Nam mô Nhật quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Nguyệt quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Văn thù sư lợi bồ tát.
Nam mô Quan thế âm bồ tát.
Nam mô Ðắc đại thế bồ tát.
Nam mô Vô tận ý bồ tát.
Nam mô Bảo đàn hoa bồ tát.
Nam mô Dược vương bồ tát.
Nam mô Dược thượng bồ tát.
Nam mô Di lạc bồ tát.
Nam mô Tiêu tai chướng bồ tát.
Nam mô Tăng phước thọ bồ tát.
Kính lạy ba vạn sáu ngàn vị đại bồ tát dưới cây Tiếng nhạc.
Kính lạy các vị đại thánh tăng là tôn giả A nan và tám ngàn vị tỷ kheo.
Nam mô Cứu thoát bồ tát.

Ðảnh lễ chư Phật rồi lại chí tâm sám hối. Ðệ tử chúng con cùng với pháp giới hết thảy chúng sanh, từ vô thỉ đến bây giờ, vì ba thứ chướng ngại vấn thắt và úp che tâm trí, nên đối với mọi cảnh tượng vọng sinh tham trước ; ngu si vô trí, thiếu mất tín tâm, đem thân miệng ý tạo đủ ác nghiệp, đến nỗi phỉ báng Phật pháp, phá phạm thi la, triển chuyển thường làm những việc bất lợi. Hoặc ở  tịnh địa(34) nhưng thánh quả chưa tròn đầy, lưu chú(35) nhỏ nhiệm nên tam muội khó kết quả. Nay gặp đức Dược sư lưu ly quang như lai là có thể trừ diệt tội  chướng mau chóng, thành tựu quả vị diệu giác(36). Nên con chí tâm qui hướng, cúi đầu trán, gieo chân thành, bộc bạch tội lỗi, cầu xin sám hối. Nguyện xin đấng Biển cả đại nguyện đại từ bi(37) bình đẳng nhiếp thọ, làm cho con, và pháp giới chúng sanh, nghiệp chướng cũ tự tiêu mất, mọi tai nạn đều thoát qua. Ðập võ vô minh, khô sông phiền não. Chánh kiến mở tỏ, diệu tâm sáng suốt. Ở yên nơi tuệ giác bồ đề, nên ánh sáng của bản thể luôn luôn vắng lặng(38) được hiện tiền. Không bịnh, yên vui, đúng như sở thích mong cầu, mọi đồ trang sức(39) tùy ý muốn gì có nấy. Giác quan tinh nhuệ, đa văn và lý giải thấu suốt. Giữ phạn hạnh một cách tinh thuần, nhập vào tam ma địa. Vận dụng vô lượng phương tiện của trí tuệ mà làm cho chúng sanh được mọi đồ dùng, không thiếu chi cả. Khéo tu đủ thứ bồ tát pháp hạnh, mau chứng vô thượng chánh đẳng bồ đề. Ðến lúc gần chết thì minh mẫn, yên lành, vui đẹp, quyết định sanh thế giới hệ Cực lạc của đức phật A di đà, thuộc về phía tây. Bằng s ị đại bồ tát. Tự nhiên hóa sinh trong hoa quí báu. Rồi tiếp nhận sự thọ ký của Phật, thực hiện vô lượng đà la ni môn. Nên hết thảy công đức đều thành tựu được cả. Sau đó phân hóa thân hình ra vô số, khắp cả thế giới hệ trong mười phương. Trong một niệm mà cúng dường hết thảy chư Phật khắp cả pháp giới, trong một niệm mà hiện đủ sức thần, độ thoát hết thảy chúng sanh khắp cả pháp giới, thành bậc vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Hư không mà cùng tận đi nữa, thệ nguyện của con trên đây cũng vẫn vô cùng. Sám hối phát nguyện rồi, chúng con qui y đảnh lễ hết thảy Tam bảo thường trú.

Nam mô, Bạc già phạt đế, bệ sát xã lũ rô – bệ lưu ly bát lạt bà – hát ra xà dã, đát tha yết đa dã, a ra hát đế, tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha : Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ – bệ sát xã – tam  một yết đế, sa ha. (3 lần)

Nam mô Dược sư hội thượng Phật Bồ tát. (3 lần)

Hoàn kinh

(Tán Phật)
Kính lạy đức Dược sư,
chánh giác rất vi diệu,
ở cõi Tịnh lưu ly,
thuộc phía đông cõi này ;
Ngài thật khó nghĩ bàn,
đủ ba vô số kiếp,
và không ai sánh bằng,
với mười hiệu tôn xưng.
Trong nhân đã phát ra
mười hai môn đại nguyện
trong quả đã viên mãn
trăm ngàn loại tướng hảo ;
biển từ bi rộng lớn
khó ai lường cho nổi,
núi công đức cao cả
không thể khen cho cùng.
Nam mô đông phương Tịnh lưu ly giới, Dược sư lưu ly quang như lai, ứng cúng, chánh biến tri, minh hạnh túc, thiện thệ, thế gian giải, vô thượng sĩ, điều ngự trượng phu, thiên nhân sư, phật : thế tôn.

(Niệm Phật)
Nam mô Dược sư lưu ly quang phật. (30 đến 108 tiếng)
(từ đây sắp xuống, mỗi danh hiệu 3 tiếng)
Nam mô Nhật quang biến chiếu bồ tát. 
Nam mô Nguyệt quang biến chiếu bồ tát.
Nam mô Văn thù sư lợi bồ tát.
Nam mô Quan thế âm bồ tát.
Nam mô Ðắc đại thế bồ tát.
Nam mô Vô tận ý bồ tát.
Nam mô Bảo đàn hoa bồ tát.
Nam mô Dược vương bồ tát.
Nam mô Dược thượng bồ tát.
Nam mô Di lạc bồ tát.

( cầu nguyện 1. Cầu nguyện cho bản thân )
Ðệ tử tên xx pháp danh xx, đem công đức bái sám theo phương pháp sám hối “đạo tràng Dược sư”, cầu nguyện bịnh chướng tiêu trừ, phước thọ tăng trưởng, đời này thiện căn không bị trở ngại, kiếp sau đích thân tiếp nhận sự thọ ký tối thượng của Phật.

(2. cầu nguyện cho người khác)
Ðệ tử tên xx pháp danh xx, chí thành vì xx, pháp danh xx, bái sám theo phương pháp sám hối “đạo tràng Dược sư”, cầu nguyện xx nhờ công đức này mà bịnh chướng tiêu tan, phước thọ tăng thượng, chánh  tín không bị phá hoại, thiện căn không bị trở ngại, đời này thân cận phụng sự tam bảo, kiếp sau đích thân nhận được sự thọ ký của Phật.

(Hồi hướng)
Nguyện đem công đức này
hướng về khắp tất cả,
nguyện con và chúng sanh
đều trọn thành Phật đạo.

(Qui y Tam bảo)
Tự qui y Phật,
xin nguyện chúng sanh,
thể theo đạo cả,
phát lòng vô thượng.

Tự qui y Pháp,
xin nguyện chúng sanh,
thấu rõ kinh tạng,
trí tuệ như biển.

Tự qui y Tăng,
xin nguyện chúng sanh,
thống lý đại chúng,
hết thảy không ngại.

Lược giải kinh dược sư

Mục lục Lược giải

Tài liệu. 155
Dịch giả. 157
Mệnh đề. 158
Cương yếu. 159
Lược giải 161
A1 mở đầu. 161
A2 nội dung, có 3 B. 164
B1. Danh hiệu. 164
B2. Bản nguyện. 168
B3. Công đức, có 7C. 174
C1. nói về y chánh trang nghiêm.. 174
C2. nói về đại dụng của danh hiệu, có 5 D. 177
D1. diệt sự tham lẫn mà được sự bố thí 177
D2. diệt sự phạm tội mà được sự giữ giới 179
D3. diệt sự ganh ghét mà được sự giải thoát 181
D4. diệt sự hại nhau mà được sự thương nhau. 182
D5. được sanh Cực lạc hay các sự chuyển sanh khác  184
C3. nói về đại dụng của chú. 188
C4. nói về đại dụng của sự phụng trì, có 3 D. 194
D1. Phật dạy tổng quát và ngài Văn thù phát nguyện. 194
D2. Phật chỉ cách thức và nói ích lợi 198
D3. Phật nói ích lợi trong sự khỏi nạn. 199
C5. nói là chỗ hiểu biết sâu xa của Phật 201
C6. nói cách tiêu tai diên thọ, có 5 D. 205
D1. chỉ cách tiêu tai diên thọ. 205
D2. chỉ thêm cách tiêu tai diên thọ, đặc biệt tiêu bịnh khổ  208
D3. lại còn tiêu quốc nạn. 210
D4. tiêu bất định nghiệp. 213
D5. tiêu cả định nghiệp. 215
C7. nói sự hộ vệ của Dạ xoa. 216
A3 kết thúc. 219
B1. nói tên kinh. 219
B2. chúng hội phụng hành. 220
Ghi chú. 222


Tài liệu

Tài liệu dùng để dịch giải kinh này gồm có :

  1. Phật thuyết quán đánh bạt trừ quá tội sanh tử đắc độ kinh quyển đệ thập nhị (Chính 21/532-536) ;
  2. Phật thuyết Dược sư như lai bản nguyện kinh (Chính 14/401-404) ;
  3. Dược sư lưu ly quang như lai bản nguyện công đức kinh (Chính 14/404-408) ;
  4. Dược sư lưu ly quang thất Phật bản nguyện công đức kinh (Chính 14/409-418) ;
  5. Dược sư kinh cổ tích (Vạn 35/172-178) ;
  6. Dược sư kinh trực giải (Vạn 35/179-196) ;
  7. Dược sư lưu ly quang như lai bản nguyện công đức kinh giảng ký (TH 28/2229-2408) ;
  8. Dược sư lưu ly quang như lai bản nguyện công đức kinh (bản in riêng, của cơ quan Lưu thông sách Phật ở Hương cảng) ;
  9. Dược sư lưu ly quang như lai bản nguyện công đức kinh (Trung Anh hợp san, của cơ quan Lưu thông sách Phật ở Hương cảng).

Ngoài 9 tài liệu trên đây, còn có Dược sư đăng diệm (Vạn 59/145-146) và 10 bản Nghi quỹ (Chính 19/20 – 67). Ðiều đáng nói và đáng tiếc là, theo Pđ 2838d, còn có tài liệu gọi là Dược sư kinh sớ của ngài Khuy cơ (đệ tử ngài Huyền tráng). Tài liệu này, nếu có, tất nhiên quan trọng bậc nhất. Nhưng hiện trong Ðại tạng kinh bản Ðại chính tân tu và Tục tạng kinh bản chữ Vạn đều không có.

Sau đây là những điều cần biết :

  1. Kinh này trước sau có 5 bản dịch : bản dịch 1 là tài liệu 1, dịch giả Cát hữu, dịch quãng 317 ; bản dịch 2 là Dược sư lưu ly quang kinh, dịch giả Tuệ giản, dịch quãng 457, bản này thất lạc ; bản dịch 3 là tài liệu 2, dịch giả Pháp hạnh, dịch năm 615 ; bản dịch 4 là tài liệu 3, dịch giả Huyền tráng, dịch năm 650 ; bản dịch 5 là tài liệu 4, dịch giả Nghĩa tịnh, dịch năm 707.
  2. Ðối chiếu đại khái về 4 bản dịch hiện còn trên đây thì cần ghi ngay ở đây là 2 chỗ : (l) tên 8 vị bồ tát là trích tài liệu 1 (Chính 21/533d) ; (2) chú là trích tài liệu 4 (Chính 14/414). Ðối chiếu này còn phải nói rõ hơn nơi mục dịch giả dưới đây.
  3. Bản văn tôi dịch là tài liệu 8, đối chiếu với bản chính là tài liệu 3 (bản dịch 4) và các tài liệu đã kê. Sự đối chiếu này sẽ nói rõ trong lược giải. Sở dĩ tôi chọn tài liệu 8 là vì bản này mới thường trì tụng.

Dịch giả

Thời đại nhà Ðường, Tam tạng pháp sư Huyền tráng dịch.

Niên đại của ngài Huyền tráng là 569-664. Kinh này dịch vào lúc ngài 55 tuổi, năm 650. Trên đây là tham khảo PHNC bài 18 trang 59-81. Bài này là bản niên phổ quí nhất của ngài Huyền tráng.

Nhưng, bản tài liệu 8 mà tôi căn cứ để dịch giải, đúng ra còn phải kê thêm các dịch giả Cát hữu và Nghĩa tịnh. Vì lẽ, như khoản B cần biết ở mục tài liệu trên đã nói, bản này có bổ túc 2 chỗ là tên 8 vị bồ tát và chú. Việc bổ túc ấy do ai thì tìm chưa thấy, nhưng chú thích số 11 và số 13 của Chính 14/406 (tài liệu 3, bản chính) cho biết có bản bổ túc như vậy. Sự bổ túc này đã lưu hành xưa nay.

Ðiều phải nói hơn nữa, là cả 2 chỗ bổ túc trong tài liệu 1 đã có. Riêng về chú, tài liệu 1 không những có (Chính 21/536t) mà nói có lý hơn cả tài liệu 4 (là nơi trích chú). Tài liệu 1 lại có trước nhất và sớm nhất, vào đầu thế kỷ 4 (317), còn tài liệu 4 có gần 4 thế kỷ sau (707). Vậy trích 2 chỗ nói trên mà bổ túc cho tài liệu chính (tài liệu 3, có năm 650) là rất phải.

Mệnh đề

Kinh Bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai.

Mệnh đề này có nghĩa là bản kinh nói về bản nguyện và công đức của đức Dược sư.

Bản nguyện, bản, nghĩa đen là gốc, trước, của mình. Nguyện là thề nguyền, chí nguyện. Cái nguyện gốc, trước và của mình (đức Dược sư), gọi là bản nguyện.

Công đức, ở đây, nghĩa giản dị nhất, công là công tu, đức là được : hiệu quả đạt được bởi công năng tu tập, gọi là công đức. Công đức ấy của đức Dược sư gồm có :

– Chánh báo y báo trang nghiêm, tức thân thể và vũ trụ trang nghiêm của ngài ;

– Danh hiệu của ngài ;

– Những ích lợi (diệu dụng hay thần lực) mà ngài ban cho chúng sanh, trong đó có sự tiêu tai diên thọ.

Trong 3 loại công đức trên đây, danh hiệu có khi được tách ra mà nói danh hiệu, bản nguyện và công đức.

Dược sư lưu ly quang như lai là danh hiệu đầy đủ của đức Dược sư. Dược sư, Phạn tự là Bệ sát xã lũ rô (Bhaishajyaguru), nghĩa  đen : thầy thuốc chữa bịnh. Lưu ly quang là dịch âm (lưu ly) và dịch nghĩa (quang) Phạn tự Bệ lưu ly bát lạt bà – hát ra xà dã (Vaiduryaprabha-rajaya), nghĩa đen : ánh sáng lưu ly. Lưu ly là dịch âm và gọi tắt tên một thứ ngọc đá. Ngọc này trong ngoài trong suốt màu xanh, vật gì gần nó cũng thành một màu ấy. Dược sư lưu ly quang như lai : một đức Như lai có danh hiệu là Thầy thuốc chữa bịnh, ánh sáng như ngọc lưu ly.

Cương yếu

Kinh này nội dung có 2 phần, là nói về bản nguyện và công đức của đức Dược sư. Phần danh hiệu chỉ là phần công đức tách ra.

Nhưng, nói về một đức Phật thì không phải chỉ có bản nguyện và công đức. Chỉ nói bản nguyện và công đức, vì đó là 2 phần nhân và quả của một đức Phật. Nhưng, nhân và quả của một đức Phật cũng không phải chỉ có bản nguyện và công đức. Chỉ nói bản nguyện và công đức là vì nhiều lý do, mà lý do quan trọng nhất là đề cao tha lực. Kinh này nói tự lực (sự hành trì của ta) thì ít, nói tha lực (sự gia hộ của Phật) mới nhiều. Mà nhân và quả của một đức Phật thì bản nguyện và công đức là 2 phần vì chúng sanh và cho chúng sanh, nên đặc biệt nêu lên.

Ðiều phải chú ý hơn hết là, như vừa nói, kinh này đề cao tha lực. Thật vậy, kinh này đề cao tha lực đến nỗi C5 trong B3 cho biết, sự gia hộ của Phật là điều thuộc “thậm thâm hành xứ” của Phật, điều của Phật làm và của Phật biết, chỉ “nhất sanh bồ tát” là bồ tát chỉ một đời nữa làm Phật mới tin và hiểu đúng như sự thực. Còn ngài A nan đi nữa mà tiếp nhận được là do uy lực của Phật, huống chi phàm phu chúng ta.


Lược giải

Như thường lệ, kinh này vẫn có 3 A : mở đầu, nội dung và kết thúc.

A1 mở đầu

Tôi nghe như vầy.

Một thời, đức Thế tôn du hóa các nước, đến thành Quảng nghiêm, dừng ở dưới cây Tiếng nhạc. Tám ngàn vị đại tỷ kheo, ba vạn sáu ngàn vị đại bồ tát, và các quốc vương, đại thần,  đạo sĩ cư sĩ tám bộ thiên long, loài người và loài không phải người, đại chúng vô lượng như vậy, cung kính vây quanh đức Thế tôn để được ngài thuyết pháp cho.

Tôi nghe như vầy (như thị ngã văn), nghĩa là “toàn bộ pháp thoại như thế này là do tôi nghe”. Câu này cũng có thể dịch tôi nghe như thế này, như vầy tôi nghe. Nhưng, như vầy là tiếng thổ ngữ, bất đắc dĩ mới dùng.

Ðạo sĩ (Bà la môn), Bà la môn đúng là giai cấp đạo sĩ, cũng như Sát đế lợi đúng là giai cấp võ sĩ. Tám bộ thiên long (thiên long bát bộ). Tám bộ là 8 loài : thiên, long, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lầu la, khẩn na la, ma hầu la dà (Phạn tự : deva, naga, yaksha, gandharva, asula, garuda, kimnara, mahoraga). Tám bộ này, thiên và long là 2 loại mà đứng đầu, nên hay nói “thiên long bát bộ”. Nếu chép “thiên long dược xoa” thì cũng nói 8 bộ mà chỉ kê ra 3 loại đầu. Riêng kinh này, nếu chép “thiên long dược xoa” cũng có lý, vì C7 của B3, loại dạ xoa liên hệ nhiều đến kinh này.

Lúc ấy, Mạn thù pháp vương tử vâng theo uy thần của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, trần vai áo bên trái, gối bên phải quì xuống sát đất, hướng về đức Phật, cong mình, chắp tay mà thưa, bạch đức Thế tôn, con xin ngài nói về tướng loại như thế này, đó là danh hiệu, bản nguyện vĩ đại và công đức thù thắng của chư Phật, làm cho người nghe tiêu trừ những sự chướng ngại do nghiệp lực tạo ra. Là vì con muốn lợi lạc cho mọi người trong thời kỳ Phật pháp tương tự xuất hiện. Ðức Thế tôn tán dương Mạn thù đồng tử, lành thay Mạn thù, lành thay, ông đem lòng thương rộng lớn thỉnh cầu Như lai nói về danh hiệu, bản nguyện và công đức của chư phật dể cứu vớt những kẻ bị nghiệp chướng buộc thắt, lợi lạc mọi người trong thời kỳ Phật pháp tương tự. Ôâng hãy nghe kỹ, suy nghĩ rất khéo, Như lai sẽ nói cho. Mạn thù bạch Phật, dạ, xin Phật chỉ dạy, chúng con thích thú mà nghe.

Mạn thù = Mạn thù thất lợi, Văn thù sư lợi, Văn thù : Manjushri. Pháp vương tử : thái tử của đấng Pháp vương. Chỉ ngài Mạn thù mới hay được gọi như vậy. Kinh này được hỏi bởi ngài Mạn thù, còn kinh Di đà do Phật tự nói chứ không ai hỏi được : hãy so sánh giữa 2 kinh, rồi so sánh giữa 2 kinh với các kinh, về sự mở đầu này mà thôi, cũng thấy được giá trị kinh này.

Tướng loại : sắc thái và bộ môn, tức danh hiệu, bản nguyện và công đức của chư Phật. Cũng có thể đọc “tương loại”, nghĩa là tương tự : tương tự giữa chư Phật, về danh hiệu, bản nguyện và công đức. Bản nguyện vĩ đại (bản đại nguyện) đúng ra phải dịch là đại nguyện gốc, trước. Thời kỳ Phật pháp tương tự (tượng pháp) Phật pháp có 3 thời kỳ. Trước thời kỳ này là thời kỳ Phật pháp nguyên chất (chánh pháp) và sau thời kỳ này là thời kỳ Phật pháp cuối cùng (mạt pháp). Nhưng tôi không tin kinh này chỉ nói cho người thuộc thời kỳ Phật pháp tương tự. Nói người thuộc thời kỳ này mới đa số tin và làm theo kinh này thì có lý hơn. Ðoạn văn trên có 2 chỗ dùng chữ tượng pháp (thời kỳ Phật pháp tương tự) là chỗ ngài Văn thù thỉnh và chỗ Phật khen. Chỗ trước, bản dịch 1 cũng dùng chữ tượng pháp (Chính 21/532g), bản dịch 3 dùng chữ lai thế chánh pháp hoại thời (Chính 14/401g), bản dịch 5 cũng dùng chữ tượng pháp (Chính 14/409t). Nhưng chỗ sau, bản dịch 1 chỉ dùng chữ nhất thế vô lượng chúng sanh (Chính 21/532g), bản dịch 3 chỉ dùng chữ chư thiên nhân (Chính 14/401g), bản dịch 5 chỉ dùng chữ vô lượng nghiệp chướng hữu tình (Chính 14/409g). Rất nên đối chiếu như vậy để thấy người mạt pháp không phải vô phần đối với kinh này.

Ðồng tử = kumara, nghĩa đen : trẻ thơ. Ở đây ý nghĩa là không có ý niệm dâm dục như tâm hồn trẻ thơ.

A2 nội dung, có 3 B

Lời thỉnh của ngài Văn thù và lời hứa của đức Thế tôn, trong văn mở đầu, đều nói danh hiệu, bản nguyện và công đức. Vậy nội dung kinh này nên chia ra 3 B : danh hiệu, bản nguyện và công đức của đức Dược sư.

B1. Danh hiệu

Phật dạy Mạn thù, phía đông, cách thế giới hệ này bởi những thế giới hệ   bằng số cát hơn mười sông Hằng, có một thế giới hệ tên Tịnh lưu ly. Ðức Phật ở đó danh hiệu là Dược sư lưu ly quang như lai, ứng cúng, chánh biến tri, minh hạnh túc, thiện thệ, thế gian giải vô thượng sĩ, điều ngự trượng phu, thiên nhân sư, phật : thế tôn.

Ðoạn này vắn tắt nhưng nói được 3  điều : chánh báo trang nghiêm của đức Dược sư, danh hiệu viên mãn của ngài, sau hết, mở đầu tổng quát cho nội dung kinh này (là nội dung nói về đức Dược sư). Tuy nói được đến 3 điều như vậy, phần danh hiệu viên mãn vẫn là phần chính.

Trước hết, thế giới hệ (thế giới) là chỉ  cho đại thiên thế giới, nên ngài Thái hư nói bằng với tinh vân hệ hay tinh hải hệ của thiên văn (TH 28/2326)(40), do đó, phải dịch là thế giới hệ mới đúng. Còn từ ngữ thế giới hay lầm lẫn với địa cầu. Mà địa cầu chỉ là một trong rất nhiều thành phần của tiểu thế giới(41). Ngàn tiểu thế giới là tiểu thiên thế  giới. Ngàn tiểu thiên thế giới là trung thiên thế giới. Ngàn trung thiên thế giới mới là đại thiên thế giới, có 1 tỷ tiểu thế giới (TH 28/2326).

Bây giờ nói danh hiệu của đức Dược sư. Danh hiệu “Dược sư lưu ly quang” đã cắt nghĩa. Nhưng, được gọi là một đức Phật, phải là đấng có 10 công đức lớn, tiêu biểu bởi 10 đức hiệu (dầu 10 công đức và 10 đức hiệu cũng chỉ nói tóm lược mà thôi). Mười đức hiệu, tài liệu chính (Chính 14/405) chép : như lai, ứng, chánh đẳng giác, minh hạnh viên mãn, thiện thệ, thế gian giải, vô thượng trượng phu, điều ngự sĩ, thiên nhân sư, phật : bạc già phạn. Chép như vậy thì có 3 điều cần chú ý.

Một, 10 đức hiệu, thông thường thì nguyên Phạn tự như sau :

  1. Tathagata,
  2. Arhat,
  3. Samyaksambuddha,
  4. Vidyacarana-sampanna,
  5. Sugata,
  6. Lokavid,
  7. Anuttara,
  8. Purusa-damya-sarathi,
  9. Sasta-deavamanusyanam,
  10. Buddha-lokanatha.

Dịch nghĩa và chấm câu như sau :

  1. Như lai,
  2. Ứng cúng,
  3. Chánh biến tri,
  4. Minh hạnh túc,
  5. Thiện thệ,
  6. Thế gian giải,
  7. Vô thượng sĩ,
  8. Ðiều ngự trượng phu,
  9. Thiên nhân sư,
  10. Phật – thế tôn.

Nhưng đức hiệu Thế tôn, nếu dịch âm là Phật đà – lộ ca na tha, và nguyên Phạn tự là Buddha-lokanatha, thì Phật – thế tôn là 1 đức hiệu, nếu dịch âm là Bạc già phạn, và nguyên Phạn tự là Bhagavan, thì Thế tôn là đức hiệu riêng : đấng có 10 đức hiệu nên tôn xưng là Thế tôn (Pđ 252t). Ở đây, nguyên Hoa văn dịch âm là Bạc già phạn, thì Phạn tự là Bhagavan, nên Thế tôn là đức hiệu riêng, và phải chấm câu như đã chấm.

Hai, có mấy chỗ dịch nghĩa cần lưu ý :
Ứng = ứng cúng ;
Chánh đẳng giác (chánh đẳng chánh giác) = Chánh biến tri ;
Minh hạnh viên mãn = Minh hạnh túc ;
Vô thượng trượng phu = Vô thượng sĩ ;
Ðiều ngự sĩ = Ðiều ngự trượng phu.

Ba, 10 đức hiệu này, quan trọng nhất là như lai, ứng cúng, chánh biến tri, nên trong kinh này, và nhiều chỗ khác, có khi chỉ nói 3 đức hiệu ấy.

B2. Bản nguyện

Mạn thù, đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, xưa kia, khi làm hạnh bồ tát, đã phát ra mười hai đại nguyện, cốt làm cho mọi người thực hiện mọi sự mong ước.

Ðại nguyện thứ nhất, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì bản thân ánh sáng rực rỡ, chiếu soi vô số thế giới hệ. Thân ấy lại được trang hoàng bằng bâm hai tướng tốt của bậc đại trượng phu, và tám mươi tướng phụ. Lại làm cho mọi người không khác gì với con.

Ðại nguyện thứ hai, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì thân như ngọc lưu ly, trong ngoài trong suốt, không chút vẩn đục, ánh sáng to lớn và chiếu tỏa xa rộng. Công đức đồ sộ, lại khéo an trú. Những tia sáng rực rỡ, dệt nhau như mạng lưới, và tráng lệ quá hơn nhật nguyệt. Chúng sanh tối tăm được soi sáng cả, nên tùy ý hướng mà làm mọi sự nghiệp.

Ðại nguyện thứ ba, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì vận dụng vô lượng trí tuệ và phương tiện, làm cho mọi người cùng được vô tận những vật hưởng dụng, không để cho ai có sự thiếu thốn.

Ðại nguyện thứ tư, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì những kẻ đi theo tà đạo đều được làm cho ở yên trong đạo giác ngộ, những người tu theo thanh văn duyên giác đều được xây dựng bằng pháp đại thừa.

Ðại nguyện thứ năm, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì vô số người tu hành phạn hạnh trong chánh pháp của con, con làm cho tất cả được giới thể không thiếu sót, trọn vẹn giới pháp ba loại. Giả sử phá phạm đi nữa, nghe danh hiệu con rồi là phục hồi thanh tịnh, không rơi vào đường dữ.

Ðại nguyện thứ sáu, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, những kẻ thân hình thấp kém, giác quan không đủ, xấu xí, u mê, mù điếc, câm ngọng, tay quắp, chân quẹo, lưng gù phung lác, điên cuồng, đủ thứ bịnh khổ, nhưng nghe danh hiệu con rồi, tất cả đều đẹp đẽ, thông minh, giác quan hoàn bị, hết mọi bịnh khổ.

Vạn 35/1 73a, dẫn kinh A tu la nói, Lưu ly quang bồ tát gặp Trí thắng phật thì bắt đầu phát ra đại nguyện tổng quát, nơi Bảo đảnh phật mới phát ra đại nguyện riêng biệt. Lại dẫn kinh Thập phương chư Phật hiện tiền, nói, nơi Thanh long quang phật phát ra 12 đại nguyện. Như vậy, văn từ 12 đại nguyện chữ “ngã” phải dịch “con”, vì là lời Bồ tát nguyện với Phật.

Tuệ giác vô thượng, nguyên Hoa văn ở đại nguyện 1 nói đủ là A nậu đa la tam niệu tam bồ đề (Anuttara – samyaka – sambodhi), ở 11 đại nguyện sau nói tắt là bồ đề. Ðó là tuệ giác của Phật. Nói được tuệ giác ấy có nghĩa là nói thành Phật. Lại khéo an trú (thân thiện an trú), chữ thân bỏ, vì nó đã là chủ từ cả đoạn văn này. Khéo an trú : khéo ngồi yên tịnh, khéo yên tịnh. Giới pháp ba loại (tam tụ giới) = giới pháp bồ tát, cùng lúc phải đủ nhiếp luật nghi (đoạn ác) nhiếp thiện pháp (tu thiện) nhiêu ích hữu tình (lợi người). Nghe danh hiệu con rồi là nói tắt. Nói đủ một chút thì “rồi, biết nhất tâm qui y, trì niệm, thì nhờ năng lực phước đức và uy thần của con… “

Ðại nguyện thứ bảy, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, những kẻ bị mọi thứ bịnh khổ hành hạ mà không ai cứu giúp, không nơi nương tựa, không có y sĩ, không có dược liệu, không có thân thuộc, không có nhà cửa, nghèo nàn lắm khổ, thì danh hiệu của con, một khi đi qua thính giác của họ, là bịnh khổ tan biến, thân tâm an lạc, nhà cửa, thân thuộc và đồ dùng, đầy dủ tất cả, cho đến thực hiện được tuệ giác vô thượng.

Ðại nguyện thứ tám, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, nếu có nữ nhân nào bị hành hạ bởi cả trăm thứ khổ sở của nữ nhân, nên cùng cực chán ngán, muốn thoát thân ấy, thì nghe danh hiệu con rồi, tất cả đều chuyển thân nữ nhân thành thân nam tử, đủ tướng trượng phu, cho đến thực hiện được tuệ giác vô thượng.

Ðại nguyện thứ chín, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì làm cho mọi người thoát khỏi mạng lưới của ma vương, cởi mở thắt buộc của ngoại dạo. Sa vào rừng rậm ác kiến thì sẽ được dẫn ra, đem đặt vào chánh kiến, và dần dần làm cho họ thực tập các hạnh bồ tát, để thực hiện một cách mau chóng tuệ giác vô thượng.

Ðại nguyện thứ mười, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng,  thì những kẻ bị phép vua ghi sổ, xích trói đánh khảo, giam nhốt lao ngục, sắp bị hành hình, cọng với vô lượng tai nạn khổ nhục, bi thảm sầu muộn khác nữa, ngâm nấu bức bách, làm cho cả cơ thể lẫn tâm trí đều chịu thống khổ, nhưng nghe danh hiệu của con, thì vì năng lực phước đức và uy thần  của con mà họ thoát hết mọi sự lo sợ khổ sở.

Ðại nguyện mười một, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, những kẻ bị đói khát hành hạ, vì cầu cái ăn mà làm mọi ác nghiệp, nhưng nghe được danh hiệu của con, nhất tâm thọ trì, thì trước hết con làm cho họ no đủ cơ thể bằng thực phẩm tuyệt diệu, sau đó con sẽ đem cái vui cứu cánh của pháp vị mà xây dựng cho họ.

Ðại nguyện người hai, nguyện con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, những kẻ nghèo thiếu y phục, ngày đêm khổ sở vì muỗi mòng lạnh nóng, nếu nghe danh hiệu của con mà nhất tâm thọ trì, thì như sở thích của họ, họ được liền những thứ y phục tuyệt diệu, lại được những đồ trang sức bằng vàng ngọc. Hoa vòng, hương xoa, âm nhạc hòa tấu và mọi kỹ thuật biểu diễn, tùy ý họ thích, con làm cho đầy đủ tất cả.

Mạn thù, dó là mười hai đại nguyện tối thượng, nhiệm mầu, của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, ứng cúng, chánh biến tri, đã lập ra khi còn làm hạnh bồ tát.

Trong đại nguyện thứ 7, nhà cửa thân thuộc (gia thuộc tư cụ), tài liệu 9 (Anh văn, trang 4 dòng 11) dịch là gia tộc, bạn bè. Cho đến thực hiện được tuệ giác vô thượng, câu này, và những văn ý tương tự, có 2 điểm cần chú ý : (a) chính sự sống và phương tiện để sống, đã được sau khi trì niệm danh hiệu Phật, cũng là công cụ dẫn đến sự thành Phật ; (b) chữ cho đến là nói tắt sự tu dần các hạnh bồ tát. Pháp vị : mùi vị chánh pháp. Chánh pháp đem lại hoan lạc thật, bền, và cho cả thân lẫn tâm, nên gọi là pháp vị.

B3. Công đức, có 7C

B3 này có 7C : 1. nói về y chánh trang nghiêm, 2. nói về đại dụng của danh hiệu, 3. nói về đại dụng của chú, 4. nói về đại dụng của sự phụng trì, 5. nói là chỗ hiểu biết sâu xa của Phật(42), 6. nói cách tiêu tai diên thọ, 7. nói sự hộ vệ của Dạ xoa. Tổng quát thì, bằng 7 cách nói, C3 này nói về y chánh, danh hiệu và diệu dụng, là 3 đại yếu công đức của đức Dược sư. Cũng nên nói thêm, công đức ấy là của đại nguyện, do đại nguyện thành tựu.

C1. nói về y chánh trang nghiêm

Nhưng văn này chỉ nói y báo trang nghiêm của đức Dược sư. Mà nói rất vắn tắt. Còn chánh báo trang nghiêm đã nói trong B1.

Mạn thù, những đại nguyện tối thượng của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai đã lập ra khi còn làm hạnh bồ tát, và những công đức trang nghiêm của thế giới hệ đức Phật ấy, Như lai diễn tả trong một đại kiếp, hay hơn một đại kiếp, cũng không thể cùng tận. Thế giới hệ của đức Phật ấy hoàn toàn thanh tịnh, không có nữ nhân, không có ác đạo, không có cả đến cái tiếng thống khổ. Ðất làm bằng ngọc lưu ly. Ðường ngăn bằng giây vàng. Thành, cửa thành, cung điện, lầu gác, mái hiên, cửa sổ, lưới giăng, toàn bằng bảy thứ quí báu. Y như thế giới hệ Cực lạc ở phía tây, công đức trang nghiêm không khác gì cả.

Ðại kiếp (kiếp), kiếp này là đại kiếp. (TH 28/2326). Kiếp, Phạn tự là kalpa, âm : kiếp ba, nghĩa : trường thời (thời kỳ dài). Kiếp có tiểu, trung và đại. Sự sống con người từ 10 tuổi, cứ mỗi trăm năm tăng 1 tuổi, tăng đến 84.000 tuổi gọi là 1 tăng. Sự sống con người từ 84.000 tuổi, cứ mỗi trăm năm giảm 1 tuổi, giảm đến 10 tuổi gọi là 1 giảm. Mỗi 1 tăng hay mỗi 1 giảm gọi là tiểu kiếp ; mỗi 1 tăng và giảm gọi là trung kiếp (4 thời kỳ thành, trú, hoại, không, mỗi thời kỳ có 20 trung kiếp) ; 4 thời kỳ (nghĩa là 80 lần tăng và giảm) là 1 đại kiếp : đó là thuyết Câu xá luận. Mỗi 1 tăng và giảm mới là tiểu kiếp ; 20 tiểu kiếp (20 lần tăng và giảm) mới là trung kiếp, 4 thời kỳ thành, trú, hoại, không, mỗi thời kỳ có 1 trung kiếp, 4 thời kỳ (nghĩa là 80 lần tăng và giảm) là 1 đại kiếp : đó là thuyết Trí độ luận. Cả 2 thuyết đồng nhau về số lượng của đại kiếp.

Ðường ngăn bằng giây vàng là chỉ hay lề đường bằng vàng. Lưới giăng : kể cả các đường xoi hồi văn. Bảy thứ quí báu : kinh Di đà nói là vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ xích châu, mã não (suvarna, rupya, vaidurya, sphatika, musara galva, rohita-mukta, asmagarbha).

Thế giới hệ ấy có hai vị đại bồ tát, thứ nhất danh hiệu Nhật quang biến chiếu, thứ hai danh hiệu Nguyệt quang biến chiếu. Ðó là hai vị đứng đầu chúng bồ tát nhiều vô số lượng của thế giới hệ ấy, thứ lớp kế vị thành Phật, và cùng có khả năng nắm giữ kho tàng ngọc báu chánh pháp của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai. Thế nên, Mạn thù, những thiện nam hay thiện nữ có đức tin hãy nguyện sanh thế giới hệ của đức Phật ấy. 

Thứ lớp kế vị thành Phật (thứ bổ Phật xứ), nghĩa đen : kế tiếp bổ vào chỗ Phật. Thứ bổ Phật xứ cũng gọi tắt là bổ xứ : bổ vào chỗ Phật. Lại hay thêm “nhất sanh bổ xứ”: một đời nữa là bổ vào chỗ Phật. Thêm bớt gì cũng chỉ một nghĩa : vị bồ tát chỉ  còn một đời nữa là thành Phật, thay vào chỗ  đức Phật của mình. Vị bồ tát như vậy gọi là bổ xứ bồ tát. Vì còn hệ thuộc một đời nên cũng gọi là nhất sanh sở hệ bồ tát. Như bổ xứ bồ tát của đức Thích ca là đức Di lạc, của đức Di đà là đức Quan âm, của đức Dược sư là đức Nhật quang (và sau đó là đức  Nguyệt quang).

Nguyện sanh thế giới hệ của đức Phật ấy, chú ý : sanh, chứ không phải vãng sanh. Nói vãng sanh chỉ để dễ hiểu. Mười phương quốc độ đều duy Tâm sở hiện. Tâm uế thì sanh uế độ, Tâm tịnh thì sanh tịnh độ. Sanh nghĩa là hiện khởi, hiện hành.

C2. nói về đại dụng của danh hiệu, có 5 D

Ðại dụng ấy đâu phải chỉ năm ba việc. Sau đây chỉ là nói 5 việc làm điển hình mà thôi.

D1. diệt sự tham lẫn mà được sự bố thí

Lúc ấy, đức Thế tôn lại bảo Mạn thù đồng tử, Mạn thù, có những kẻ không nhận thức cái lẽ thiện ác, chỉ giữ thói tham lẫn mà không biết bố thí và phước báo bố thí. Ngu muội, không có trí tuệ, thiếu cả đức tin. Dồn chứa tài sản vàng ngọc cho nhiều, nỗ lực mà giữ. Thấy người xin đến, lòng họ không vui. Giả sử bất đắc dĩ mà bố thí, thì lúc đó đau tiếc sâu xa như cắt thịt mình. Lại còn lắm kẻ tham lẫn, dồn chứa tài sản, mà đối với bản thân của họ, họ còn không hưởng dụng, huống chi có thể đem cho cha mẹ, vợ con, tôi tớ, người làm hay kẻ đến xin. Những kẻ ấy, sinh mạng kết thúc ở đây thì sanh trong thế giới quỉ đói hay súc vật. Nhưng xưa kia, khi ở trong loài người, từng được thoáng nghe danh hiệu của đức Dược sư lưu ly quang như lai, nên ngày nay, dẫu ở trong ác đạo, vẫn thoáng nhớ danh hiệu của đức Như lai ấy, và ngay khi nhớ thì chết ở ác đạo mà sanh lại loài người, được sự nhớ đời trước nên sợ nỗi khổ ác đạo mà không ham dục lạc, thích bố thí và ca tụng người bố thí. Có gì cũng không tiếc. Dần dần tiếp theo, đầu mắt, tay chân, máu thịt, và những bộ phận khác của cơ thể, còn có thể đem cho người đến xin, huống chi những thứ tiền tài sản vật khác. 

 Người làm (tác sứ) : người làm việc cho mình, người của mình sai sử. Ngay khi nhớ thì chết ở ác đạo mà sanh lại loài người, được sự nhớ đời trước nên sợ nỗi khổ ác đạo mà không ham dục lạc, thích bố thí và ca tiếng người bố thí, đó là những hiệu quả tốt của sự nhớ lại danh hiệu Phật. Ở trong ác đạo mà nhớ lại được danh hiệu Phật mới khó. Nên chết liền ở ác đạo và nhớ đời trước ở đó chính là phước báo. Rồi dần dần có gì cho nấy, cho cả của ở trong là tư tưởng, sức lực, uy thế và cơ thể, thì đó là hành bồ tát đạo và cũng là hiệu quả của sự nhớ lại danh hiệu Phật. 

D2. diệt sự phạm tội mà được sự giữ giới

Mạn thù, có kẻ dầu thọ giới pháp với Như lai mà lại phá giới pháp ấy. Có kẻ không phá giới pháp mà phá qui tắc. Có kẻ đối với giới pháp và qui tắc tuy được sự không phá hoại, nhưng lại phá hoại chánh kiến. Có kẻ không phá hoại chánh kiến mà bỏ phế đa văn, nên đối với nghĩa lý sâu xa của kinh Phật nói không thể lý giải. Có kẻ tuy đa văn mà thượng mạn : vì thượng mạn úp che tâm trí nên cho mình phải, bảo người trái, ghét chê cả chánh pháp, làm bè đảng với ma. Những kẻ ngu si như vậy tự mình đã làm theo tà kiến, lại làm cho vô số người khác rơi xuống hố lớn nguy hiểm. Những kẻ ấy đáng lý trôi lăn vô cùng trong địa ngục, súc sanh và loài quỉ. Nhưng nếu được nghe danh hiệu của đức Dược sư lưu ly quang như lai, thì bỏ ngay tánh ác tu các pháp lành, và sẽ không sa vào các ác đạo. Giả sử có kẻ vẫn không thể bỏ ngay tánh ác, tu các pháp lành, và phải sa vào ác đạo đi nữa, thì nhờ uy lực đại nguyện của đúc Dược sư lưu ly quang như lai mà làm cho họ thoáng nghe được danh hiệu của ngài, sinh mạng kết thúc ở ác đạo, sanh lại trong loài người, được chánh kiến, tinh tiến, và ý thích khéo thuần hóa, nên thoát ly gia đình, đi đến phi gia đình, ở trong pháp Như lai mà thọ giới, giữ giới, không có phạm giới mà lại chánh kiến, đa văn, lý giải nghĩa lý cực kỳ sâu xa mà lại viễn ly thượng mạn, không chê chánh pháp, không làm bạn ma, dần dần tu hành các hạnh bồ tát và đầy đủ một cách mau chóng.

Qui tắc cũng là giới luật mà gồm hết các phần uy nghi và “kiền độ”, nói tóm, là mọi qui định về tất cả sự tổ chức và sinh hoạt của hàng xuất gia. Thượng mạn = tăng thượng mạn, là sự kiêu ngạo cho mình đã được pháp tăng thượng. Ở đây là tự thị sự đa văn cho là đã thấu triệt. Ðáng lý trôi lăn vô cùng, đáng lý, nguyên văn là ưng, nghĩa đen : nên, phải, lẽ ra, đáng lý. Mà nói như vậy là gần như nói định nghiệp. Vậy mà nghe (và trì) danh hiệu Phật thì sự đáng lý ấy không còn nữa, chứn g tỏ diệu dụng của danh hiệu Phật thật lớn và mạnh. Nhờ uy lực đại nguyện của đức Dược sư lưu ly quang như lai mà làm cho họ thoáng nghe được danh hiệu của ngài, nên chú ý văn và nghĩa của câu “nhờ uy lực đại nguyện “… “Làm cho họ thoáng nghe” (linh kỳ hiện tiền tạm văn), đủ thì phải dịch : làm cho họ hiện tại thoáng nghe. Hiện tại đây là đang lúc sa vào ác đạo. Ði đến phi gia đình (thú ư phi gia) thấy có người dịch từ Paly là sống không gia đình. Làm bạn ma : làm bè đảng với ma. Ma đây là ma vương.

D3. diệt sự ganh ghét mà được sự giải thoát

Mạn thù, có những kẻ tham lẫn ganh ghét, tán tụng bản thân, công kích kẻ khác, nên sẽ sa vào ba ác đạo, nhiều lần ngàn năm chịu mọi sự khổ sở khốc liệt. Chịu khổ sở khốc liệt rồi,  sinh mạng kết thúc ở đó mà đến sanh trong loài người, thì làm trâu bò, lừa ngựa, lạc đà, thường bị đánh đập, đói khát hành hạ, lại luôn luôn mang nặng, chở nhiều, và đi theo đường phải đi ; hoặc được làm người thì sinh nơi hèn hạ, làm tôi tớ người, bị người sai sử, thường mất tự do. Nhưng nếu xưa kia, khi còn làm người, từng nghe danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, thì do nhân lành ấy mà nay nhớ lại, chí tâm qui y, nhờ thần lực của Ngài mà thoát hết khổ sở, giác quan tinh nhuệ, trí tuệ đa văn, thường cầu thắng pháp, thường gặp thiện hữu, đứt hẳn lưới ma, đập vỏ vô minh, khô sông phiền não, giải thoát hết thảy sinh lão bịnh tử, lo buồn khổ não.

Trâu bò (ngưu), Hoa văn thì trâu bò gì cũng là ngưu, phân biệt chăng là thủy ngưu hoàng ngưu mà thôi. Thắng pháp : chánh pháp hơn hết.

D4. diệt sự hại nhau mà được sự thương nhau

Mạn thù, có những kẻ tính thích chống đối, ly gián, đấu tranh, kiện tụng, gây bực tức và rối loạn cho bản thân và kẻ khác. Ðem cả thân thể, lời nói và ý nghĩ mà tạo ra và thêm lớn đủ thứ ác nghiệp. Gây mãi cho nhau những sự bất lợi để mưu hại lẫn nhau. Cáo triệu những vị thần rừng núi, cây cối mồ mả, giết sinh vật lấy máu huyết mà cúng tế dạ xoa, la sát, viết tên người mình oán, làm hình và ảnh của người ấy, đem chú thuật tàn ác mà thư, ếm phù chú, dùng thuốc độc, chú quỉ khởi thi –  dùng mọi cách này mà làm đứt sinh mạng người ấy, làm chết thân họ. Người ấy nếu được nghe danh hiệu của đức Dược sư lưu ly quang như lai, thì mọi việc dữ trên không cách nào hại được. Lại cùng kẻ kia, tất cả đôi bên đều nổi dậy từ tâm đối với nhau, làm lợi ích an lạc mà không còn ý thức thương tổn hay tâm lý ghét giận. Ðôi bên cùng vui đẹp. Ðối với những thứ mình hưởng thụ, ai cũng thích vừa đủ thì thôi, không muốn lấn nhau, chỉ làm lợi ích cho nhau.

Gây mãi cho nhau những sự bất lợi để mưu hại lẫn nhau… (triển chuyển thường vi bất nhiêu ích sự, hỗ tương mưu hại) cũng có thể dịch : gây mãi cho nhau những sự bất lợi, mưu hại lẫn nhau, bằng cách… Dạ xoa (dược xoa = yaksha) một loại quỉ ăn thịt người, mạnh, nhanh, khó lường, ở trên mặt đất, trong không gian và trên chư thiên. La sát ( = raksasa) tên chung các ác quỉ, ăn uống máu thịt loài người, phi trong không hoặc đi trên đất, giống cái rất đẹp (và gọi là raksasi).

Thuốc độc (cổ đạo) : đồ độc luyện có thuật, với ác ý. Chú quỉ khởi thi nghĩa là chú cho thây chết đứng dậy. Dùng chú Vetala tụng mà chú cho thây chết đứng dậy, bảo đi giết người, gọi là quỉ khởi thi (Phạn : krtya, Paly : kicca). Người ấy nếu được nghe danh hiệu…, người ấy là “người mình oán” ở trên, là người bị thù oán. Lại cùng kẻ kia…, kẻ kia là kẻ thù oán, kẻ đã dùng mọi cách mà hại người ở trên. Ðôi bên cùng vui đẹp (các các hoan duyệt) cũng có thể dịch nôm na là ai nấy đều vui vẻ. Thích vừa đủ thì thôi (hỷ túc = tri túc) dịch không thừa thì chỉ là thích đủ.

D5. được sanh Cực lạc hay các sự chuyển sanh khác

Mạn thù, trong bốn chúng tỷ kheo, tỷ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, và những thiện nam thiện nữ khác có đức tin thuần tịnh, nếu ai có khả năng thọ trì Bát quan trai giới, bằng cách hoặc cả năm hoặc ba tháng, thọ trì giới ấy. Rồi đem thiện căn này nguyện sanh thế giới hệ Cực lạc ở phía tây, chỗ A di đà phật, để được nghe chánh pháp của ngài, nhưng chưa quyết định. Nếu nghe danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, thì đến khi sinh mạng kết thúc, có tám vị đại bồ tát danh hiệu Văn thù sư lợi bồ tát, Quan thế âm bồ tát, Ðắc đại thế bồ tát, Vô tận ý bồ tát, Bảo đàn hoa bồ tát, Dược vương bồ tát, Dược thượng bồ tát và Di lạc bồ tát, tám vị đại bồ tát này lướt không gian mà đến, chỉ đường cho người ấy. Tức thì người ấy tự nhiên hóa sinh trong hoa sen bằng các thứ ngọc, và đủ mọi màu sắc xen lẫn với nhau, của thế giới hệ Cực lạc.

Cả năm (nhất niên) : trọn một năm, mỗi năm. Cả năm thọ trì Bát quan trai giới là mỗi tháng trong một năm thọ trì 6 ngày : 8, 14, 15, 23, 29, 30 (tháng thiếu thì lui lại các ngày 28, 29). Ba tháng là mỗi năm thọ trì Bát quan trai giới bằng cách chay tịnh 3 tháng : giêng, năm và chín.

Danh hiệu 8 vị đại bồ tát là trích bản dịch 1 (Chính 21/533d) mà bổ túc. Danh hiệu ấy, Phạn tự như sau, trích tài liệu 9.

Manjushri,
Avalokitesvara,
Maha srhama prapta,
Akohayamati,
Pouh thang tha (Hoa văn),
Bhaishajyaraja,
Bhaisajyasamudgata,
Maitreya.

Ðoạn này nói danh hiệu của đức Dược sư làm cho những người nguyện sanh Cực lạc được quyết định sanh thế giới hệ ấy. Ðoạn dưới đây nói danh hiệu của Ngài làm cho người sanh lên cõi trời, hoặc làm cho người chuyển nữ thành nam :

Cũng có người nhờ sự ấy mà sanh lên cõi trời. Tuy sanh lên cõi trời, nhưng thiện căn xưa cũng chưa cùng tận, và không còn sanh lại tại các ác đạo. Mà sự sống lâu trên cõi trời chấm hết thì sanh lại trong nhân gian. Bằng cách hoặc sanh làm luân vương, thống nhiếp cả bốn đại châu, uy đức tự tại, xây dựng vô lượng trăm ngàn chúng sanh vào mười thiện nghiệp. Hoặc sanh vào dòng sát đế lợi, bà la môn, cư sĩ, đại gia, nhiều tiền tài, lắm vàng ngọc, kho bồ tràn đầy, thân hình và tướng mạo đều đẹp đẽ trang nghiêm, bà con và bạn bè cùng đầy đủ, trí tuệ thông minh, sức lực mạnh mẽ như đại lực sĩ. Nếu là phụ nữ mà được nghe danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, nhất tâm thọ trì, thì về sau không còn chịu lại thân thể phụ nữ.

Sự ấythiện căn xưa đều chỉ cho việc thọ trì Bát quan trai giới cả năm hay ba tháng nói trên. Ðại gia : gia đình thế tộc hoặc tôn xưng phụ nữ (đại gia = đại cô). Luân vương = chuyển luân vương. Luân vương có 7 thứ quí báu, nhưng quan trọng là bánh xe (luân). Luân vương có 4 : bánh vàng, bánh bạc, bánh đồng, bánh sắt. Luân vương có bánh xe vàng thì thống trị cả 4 đại châu : đông là Thắng thần châu, nam là Thiệm bộ châu, tây là Ngưu hóa châu, bắc là Câu lô châu. Các vị luân vương khác, bánh xe sắt chỉ thống trị 1 đại châu phía nam,  bánh xe đồng chỉ thống trị 2 đại châu phía nam và phía tây, còn bánh xe bạc chỉ thống trị 3 đại châu phía nam, phía tây và phía đông.

Mười thiện nghiệp là đình chỉ 10 ác nghiệp :

Thân        không sát sanh, không trộm cướp, không dâm dục,

Miệng      không nói dối trá, không nói thêu dệt, không nói hai lưỡi, không nói thô ác,

Ý             không tham lam, không sân hận, không tà kiến,

C3. nói về đại dụng của chú

Trọn phần này trích bản dịch 5) (Chính 14/414g) mà bổ túc.

Mạn thù, khi đức Dược sư lưu ly quang như lai thành tựu tuệ giác vô thượng bồ đề, thì do năng lực đại nguyện xưa mà quán sát chúng sanh bị mọi bịnh khổ, như những bịnh gầy ốm, co quắp, tiêu khô, vàng nóng, hoặc bị trúng bùa ếm, thuốc độc, hoặc chết non, chết ngang trái. Muốn làm cho họ tiêu trừ những bịnh khổ ấy, sở cầu mãn nguyện, nên bấy giờ đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai nhập định danh hiệu Diệt trừ mọi khổ não của chúng sanh. Nhập định ấy rồi, từ trong nhục kế phóng ra ánh sáng lớn. Trong ánh sáng này diễn ra đà la ni vĩ đại sau đây : Nam mô, Bạc già phạt dế, bệ sát xã lũ rô – bệ lưu ly bát lạt bà – hát ra xà dã, đát tha yết đa dã, a ra hát đế, tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha : Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ – bệ sát xã – tam một yết đế, sa ha. Khi trong ánh sáng diễn ra đà la ni vĩ đại ấy rồi, đại địa chấn động, phóng ánh sáng lớn, hết thảy chúng sanh bịnh khổ tiêu trừ, hưởng được cái vui yên ổn. Mạn thù, nếu thấy nam tử hay nữ nhân, ai bị bịnh khổ, thì nên nhất tâm vì bịnh nhân ấy mà luôn luôn tinh khiết, tắm rửa, súc miệng, rồi đem thực phẩm, dược phẩm, hay nước không có trùng, trì chú này một trăm lẻ tám biến, cho họ uống, ăn, thì bịnh khổ họ có tiêu tan tất cả. Nếu có cần gì, chí tâm tụng niệm thì cũng được như vậy, lại không bịnh, thêm tuổi và sau khi sinh mạng kết thúc thì sanh thế giới hệ của đức Dược sư lưu ly quang như lai, được sự không còn thoái chuyển cho đến tuệ giác bồ đề. Vì vậy, Mạn thù, nếu có nam tử nữ nhân nào đối với đức Dược sư lưu  ly quang như lai mà chí tâm, tha thiết, cung kính, cúng dường, thì hãy thường trì chú này, đừng để phế bỏ, quên mất.

 Trước hết, đây là mấy chỗ cần âm thích. Thuốc độc (cô độc = cô đạo) : coi lại trang 105. Chết ngang trái (hoạnh tử), hoạnh là phi lý, bất trắc, dữ dội ; hoạnh tử là chết không đáng, ngang trái, dữ dội hay bất trắc. Ðà la ni (dharani) dịch tổng trì, có nghĩa nắm giữ toàn thể. Ở đây, đà la ni là chú, 1 trong 4 đà la ni (văn, nghĩa, chú, nhẫn). Chú mà gọi đà la ni, vì chú do thiền định phát khởi và tổng trì vô lượng văn nghĩa, vô lượng công đức. Mật giáo còn nói, đà la ni dịch là minh (đà la ni do ánh sáng của Phật diễn ra) là chú (hiệu nghiệm như thần, diệt trừ tai họa) là mật ngữ (không thể hiểu nổi) là chân ngôn (lời nói chân thật của Phật). Luôn luôn tinh khiết, dịch luôn luôn là vì có bản chép chữ thường vào đây. Nhưng tuồng như không cần phải như vậy. Trừ trường hợp muốn như vậy.

Bây giờ có 4 chi tiết quan trọng cần nói.

Chi tiết thứ I, theo bản dịch 1 (Chính 21/536) thì tên 12 đại tướng Dạ xoa và chú này đều do Cứu thoát bồ tát nói. Xét văn ý xuất xứ trên, và văn ý của chú, thấy như vậy có lý hơn.

Chi tiết thứ 2, sau đây là Phạn tự của chú, trích tài liệu 9, phần Anh văn, trang 11 : Namo bhagavate bhaishajyaguru vaiduryaprabha rajaya tathagataya arhate samyaksambuddhaya tadyatha. Om bhaishajye bhaishajye bhaishajya samudgate svaha.

Chi tiết thứ 3, Vạn 35/189a nói, Nam mô (namo) dịch qui y. Bạc già phạt đế  (bhaigavate) dịch thế tôn. Bệ sát xã lũ rô (bhaishajyaguru) dịch Dược sư. Bệ lưu ly bát lạt bà – hát ra xà dã (vaiduryaprabha-rajaya) dịch âm và nghĩa là lưu ly quang. Ðát tha yết da dã (tathagataya) dịch như lai. A ra hát đế (arhate) dịch ứng cúng. Tam miệu tam bột đà da (samyaksambuddhaya) dịch chánh biến tri. Ðát diệt tha (tadyatha) dịch tức thuyết chú viết. Liên lạc lại, có nghĩa : Qui kính đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, ứng cúng, chánh biến tri, nói chú như sau. Từ chữ Án đến chữ sa ha mới là chú, mật ngữ.

Chi tiết thứ 4, tôi cắt in ảnh nơi 2 trang phụ sau đây : a. nguyên Phạn tự cổ của chú này (và 1 câu tiểu

 
chú), cắt Vạn 35/196a ; b. nguyên Phạn tự cổ, và một lối dịch âm khác, của chú này, cắt Chính 19/21

C4. nói về đại dụng của sự phụng trì, có 3 D

Ðại dụng này cũng không phải chỉ năm ba việc. Sau đây chỉ là nói điển hình mà thôi.

D1. Phật dạy tổng quát và ngài Văn thù phát nguyện

Mạn thù, nếu nam tử hay nữ nhân có đức tin thuần tịnh, được nghe danh hiệu của đức Dược sư lưu ly quang như lai, ứng cúng, chánh biến tri, nghe rồi trì niệm. Sáng sớm đánh răng, tắm rửa, súc miệng sạch sẽ, đem các thứ hương hoa, trong đó có hương đốt, hương xoa, và diễn tấu kỹ nhạc mà cúng dường hình tượng của ngài. Ðối với kinh này, hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, nhất tâm thọ trì, nghe học nghĩa lý. Ðối với pháp sư giảng giải kinh này, cũng nên cúng dường, mọi đồ giúp sống thân thể mà mình có, hãy cúng dường đầy đủ, đừng để vị ấy thiếu thốn. Như vậy thì được chư Phật hộ niệm, sở cầu mãn nguyện, cho đến thực hiện tuệ giác bồ đề.

Lời này, cũng như trọn C3 ở trên, vẫn trích Chính 14/414d, nhưng đã đổi những chữ “bảy đức Phật như trên” (như thượng thất Phật) thành những chữ “đức Dược sư lưu ly quang” (Dược sư lưu ly quang). Lời này chỉ tài liệu 4 (bản dịch 5) có.

Lời này Phật dạy tổng quát về sự cúng dường hình tượng đức Dược sư, cúng dường kinh Dược sư, và cúng dường pháp sư giảng dạy kinh ấy. Ích lợi của sự cúng dường như trên là được chư Phật hộ niệm. Hộ niệm : gia hộ, tưởng nhớ, truyền cảm hứng. Ðược chư Phật hộ niệm nên cầu gì được nấy, cho đến thực hiện tuệ giác bồ đề (nghĩa là thành Phật). Tuệ giác bồ đề, chữ tuệ giác là thêm cho dễ hiểu, thật ra chính bồ đề là tuệ giác. Nhưng nói bồ đề chỉ là nói tắt A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Trong lời trên, còn nên chú ý câu diễn tấu kỹ nhạc (tác chúng kỹ nhạc). Cứ như chỗ tôi hiểu, thì tác chúng kỹ nhạc có 2 nghĩa hẹp và rộng. Hẹp thì chỉ có nghĩa hòa tấu các nhạc khí. Rộng thì có nghĩa biểu diễn các kỹ thuật, trong đó có sự hòa tấu nhạc khí.

Lúc ấy Mạn thù đồng tử bạch Phật, bạch đức Thế tôn, con nguyện khi thời kỳ Phật pháp tương tự xuất hiện, thì dùng mọi cách làm cho những thiện nam hay thiện nữ có đức tin thanh tịnh được nghe danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai. Cho đến trong lúc ngủ, con cũng đem danh hiệu Ngài thức tỉnh thính giác của họ. Bạch đức Thế tôn, đối với kinh này thì thọ trì đọc tụng hay tuyên thuyết khai thị cho người, tự chép hay bảo người chép, cung kính tôn trọng, đem hiến cúng những thứ hương hoa, hương xoa, hương vụn, hương đốt, vòng hoa, chuỗi ngọc, tràng phan, bảo cái, và kỹ thuật biểu diễn, trong đó có âm nhạc. Lấy tơ lụa có năm màu sắc làm bao mà đựng. Quét rưới chỗ thanh tịnh, trần thiết dá cao mà để. Thì khi ấy bốn đại thiên vương, cùng tùy thuộc của họ, và vô số trăm ngàn thiên chúng, đều đến chỗ đó mà cúng dường, hộ vệ. Bạch đức Thế tôn, những chỗ kinh bảo này lưu hành, có ai thọ trì được, thì vì bản nguyện, công đức, và danh hiệu được nghe, của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, mà nên biết chỗ ấy không còn chết ngang trái, không còn bị những quỉ thần ác đoạt mất tinh chất. Ðã bị đoạt thì được lại như cũ, thân tâm an lạc.

Khi thời kỳ Phật pháp tương tự xuất hiện, là khi tượng pháp xuất hiện. Nhưng tra các bản dịch, câu này khác nhau như sau : Bản dịch 1 “Phật khứ thế hậu’ (Chính 21/533d), bản dịch 3 “hậu thời” (Chính 14/403t) ; bản dịch 5 “mạt pháp” (Chính 14/4 14d). Sở dĩ tôi quan tâm và tra kỹ, vì như trước tôi đã nói, tôi không tin kinh này chỉ nói cho người tượng pháp.

Dá cao (cao tòa) tòa là cái dá, cái ghế hay bàn. Bốn đại thiên vương : đông là Trì quốc (Dhritarastra), nam là Tăng trưởng (Virudhaka), tây là Quảng mục (Virupaksa), bắc là Ða văn (Dhanada hay Vaisramana) ; 4 vị này hộ vệ 4 đại châu loài người nên gọi là 4 thiên vương hộ thế (hộ vệ thế gian). Tinh chất (tinh khí), tài liệu 9 (Anh văn, trang 13) và Pđ 2511t đều có ý nói là khí lực tinh thần của con người. Tôi cho chữ này chỉ có nghĩa đen thông thường, nghĩa là nói về tinh khí thật. Nhưng, để bớt thô, tôi đã đổi tinh khí ra tinh chất. Còn muốn hiểu chữ tinh khí với nghĩa rộng thì như Pđ 349d dẫn kinh Ðại tập 52 nói, tinh khí có 3, là của đất, của chúng sanh và của pháp ; 3 thứ này được tăng trưởng bởi sự dưỡng dục Phật pháp, xí nhiên Tam bảo chủng cho tồn tại lâu dài ở thế gian.

D2. Phật chỉ cách thức và nói ích lợi

Phật dạy, Mạn thù, đúng như vậy, đúng như ông nói. Mạn thù, nếu có thiện nam thiện nữ đức tin thuần tịnh, muốn cúng dường đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, thì trước hết, hãy tạo lập hình tượng của ngài, trần thiết tòa thanh tịnh mà đặt để. Rãi các thứ hoa, đốt các thứ hương, đem các thứ tràng phan mà trang hoàng chỗ ấy. Bảy ngày đêm thọ Bát quan trai giới, ăn đồ ăn thanh tịnh. Tắm gội cho sạch và thơm, mặc y phục sạch sẽ. Nên phát sanh tâm không dơ bẩn, tâm không giận dữ tác hại. Nghĩa là đối với hết thảy chúng sanh khởi lên cái tâm lợi ích an lạc, từ bi hỷ xả và bình đẳng. Rồi tấu nhạc và ca tụng, nhiễu quanh tượng phật Dược sư lưu ly quang như lai theo chiều hướng bên phải. Lại nên tưởng niệm bản nguyện và công đức của đức Như lai ấy, đọc tụng kinh này, tư duy nghĩa ý và diễn giảng khai thị. Như vậy thì mọi sở cầu đều toại ý : cầu sống lâu được sống lâu, cầu giàu có được giàu có, cầu quan chức được quan chức, cầu con trai được con trai, cầu con gái được con gái.

Cách thức phụng thờ tượng và thọ trì kinh của đức Dược sư mà đoạn này chỉ, ngoài hình thức cần có, còn có sự thọ trì Bát quan trai giới, và khởi tâm từ bi lợi ích đối với toàn thể. Như vậy có nghĩa mọi việc phải xuất từ tâm lý vị tha. Còn lợi ích thực hiện được thì có 2 phần : phần được phước (đoạn này nói) và phần khỏi nạn (đoạn sau nói). Phần được phước thì phúc lộc thọ đủ cả. Lại rất nên thêm sự cầu nguyện làm thành việc đáng làm, “cầu làm thành việc gì thì làm thành việc ấy”.

D3. Phật nói ích lợi trong sự khỏi nạn

Nếu ai bỗng nhiên bị ác mộng, thấy đủ cảnh tượng khủng khiếp, hoặc bị những giống chim quái dị đến tập hợp lại, hoặc chỗ ở có cả trăm sự quái dị xuất hiện, kẻ ấy nếu đem những đồ tuyệt diệu cung kính cúng dường đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, thì những ác mộng và những cảnh tượng khủng khiếp, những sự không cát tường, ẩn mất tất cả, không thể tác hại. Nếu ai bị những sự hãi sợ như thủy tai, hỏa hoạn, khí giới, độc chất, chơi vơi giữa chừng, sa xuống chỗ hiểm, voi dữ, sư tử, cọp, sói, gấu, bi, rắn độc, bò cạp, rít, sâu, muỗi, nhặng, mà chí tâm tưởng niệm được đức phật Dược sư lưu ly quang như lai, cung kính cúng dường, thì mọi sự hãi sợ đều thoát được cả. Nếu ai bị nước khác xâm lăng, quấy nhiễu, nội bộ trộm cướp phản loạn, tưởng niệm cung kính đức Như lai ấy, cũng thoát hết thảy.

Ðoạn này khỏi 3 tai nạn : mọi sự quái dị, mọi sự hãi sợ và quốc gia bất an. Sau đây có vài chỗ cần âm thích. Ðộc chất (độc) cũng bao gồm độc khí. Sâu (do diên) – Thereuonema tuberculata. Nước khác xâm lăng quấy nhiễu, không những đối với lãnh thổ mà còn đối với chính trị, văn hóa và kinh tế (TH 28/2372).

Mạn thù, nếu có thiện nam thiện nữ đức tin thuần tịnh, cho đến hết đời, không thờ vị trời nào khác, chỉ nhất tâm qui y Phật Pháp Tăng, thọ trì giới pháp, như năm giới, mười giới, bốn trăm giới của bồ tát, hai trăm năm mươi giới của tỷ kheo, năm trăm giới của tỷ kheo ni. Nhưng đối với giới pháp của họ thọ trì, hoặc có kẻ phá phạm nên sợ đọa lạc ác đạo. Nếu biết chuyên tâm trì niệm danh hiệu đức phật Dược sư lưu ly quang như lai, cung kính cúng dường, thì quyết chắc không phải lãnh chịu đời sống trong ba ác đạo.

Ðây là khỏi tai nạn đọa lạc ác đạo nếu phạm giới. Nhưng phạm giới mà biết sợ đọa lạc ác đạo nên trì niệm danh hiệu đức Dược sư, mới khỏi tai nạn ấy. Còn không biết sợ hay vẫn tái phạm mãi thì lại khác.

Nếu có nữ nhân nào, lúc gần sinh sản, chịu đựng đau dớn cùng cực, mà biết chí tâm trì niệm danh hiệu, lễ bái, ca tụng, cung kính, cúng dường đức Như lai ấy, thì mọi nỗi đau đớn tan biến tất cả. Ðứa con sinh ra, mọi bộ phận của thân hình đều hoàn bị, sắc tướng của thân hình ấy đẹp và nghiêm, ai thấy cũng hoan hỷ, giác quan tinh nhuệ, trí tuệ thông minh, yên ổn, ít bịnh, không có một kẻ không phải người đoạt mất tinh chất của đứa con ấy.

Ðây là khỏi sản nạn. Mẹ đã khỏi nạn mà con sinh ra cũng hoàn hảo. Kẻ không phải người (phi nhân) là những loài không phải loài người.

C5. nói là chỗ hiểu biết sâu xa của Phật

Lúc ấy đức Thế tôn bảo tôn giả A nan, công đức mà đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai có, mà Như lai đã ca tụng, là chỗ hiểu biết cực kỳ sâu xa của chư Phật, khó mà lý giải, ông tin được không? Tôn giả A nan bạch Phật, bạch đức Thế tôn uy đức cao cả, đối với khế kinh Ngài dạy, con không sinh tâm nghi ngờ. Tại sao, vì thân thể, lời nói và ý nghĩ của các đức Như lai, không động tác nào mà không thanh tịnh. Bạch đức Thế tôn, vầng nhật nguyệt kia có thể làm cho rơi rụng, và Tu di, hòn núi chúa tể trong các hòn núi, cũng có thể làm cho nghiêng đổ, nhưng lời nói của chư Phật thì không thể làm cho khác đi được. Tuy nhiên, bạch đức Thế tôn, có những kẻ đức tin không đủ, nghe nói chỗ hiểu biết cực kỳ sâu xa của chư Phật thì nghĩ, tại sao chỉ trì niệm một danh hiệu Phật của đức Dược sư lưu ly quang như lai mà thu hoạch bao nhiêu công đức và ích lợi vượt bậc như vậy. Vì sự không tin này mà quay lại phỉ báng. Những kẻ ấy suốt đêm trường mất lợi lạc lớn, đọa lạc ác đạo, trôi lăn không cùng. Phật dạy tôn giả A nan, những kẻ ấy nếu nghe dược danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, chí tâm thọ trì, không sinh nghi hoặc, mà vẫn đọa lạc ác đạo là điều không có. A nan, đó là chỗ hiểu biết cực kỳ sâu xa của chư Phật, khó thể tin và hiểu. Nay ông tiếp nhận được, phải biết toàn là do uy lực Như lai. A nan, hết thảy Thanh văn, Ðộc giác, và các vị Bồ tát chưa bước lên thập địa, đều không thể tin và hiểu một cách đúng như sự thực, chỉ trừ các vị Bồ tát còn hệ thuộc một đời mà thôi. A nan, thân thể loài người khó mà có được, sự tin tưởng tôn kính Tam bảo càng khó mà có dược, nhưng nghe danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai lại khó được hơn những sự khó được ấy. A nan, vô lượng bồ tát hạnh, vô lượng thiện phương tiện, và vô lượng quảng đại nguyện, của đức Dược sư lưu ly quang như lai, trong một đại kiếp hay hơn một đại kiếp, Như lai nói một cách đầy đủ, thì đại kiếp ấy có thể kết thúc mau chóng, còn hạnh nguyện và phương tiện của đức Phật này vẫn không cùng tận.

Kết thúc kinh Di đà, đức Phật nói như sau, “Xá lợi phất, như ta bây giờ xưng tụng công đức bất khả tư nghị của chư Phật, thì chư Phật ấy cũng xưng tụng công đức bất khả tư nghị của ta, bằng cách nói rằng, đức phật Thích ca mâu ni làm được cái việc rất khó, hiếm có, là có thể ở trong thời kỳ dữ dội của quốc độ Sa bà, thời kỳ đầy cả 5 thứ vẩn đục là thời kỳ vẩn đục, kiến thức vẩn đục, tâm lý vẩn đục, con người vẩn đục và đời sống vẩn đục, mà thực hiện tuệ giác vô thượng bồ đề, lại còn vì mọi người nói cái pháp mà toàn thể thế gian khó tin này. Xá lợi phất, ông nên biết ta đã ở trong thời kỳ dữ dội đầy cả 5 thứ vẩn đục mà làm việc khó làm, ấy là thực hiện tuệ giác vô thượng, lại vì toàn thể thế gian nói cái pháp khó tin này, thì đó là việc rất khó”. Hãy đối chiếu đoạn văn này với đoạn văn trên, cũng thấy phần nào tình ý của Phật.

Chỗ hiểu biết cực kỳ sâu xa của chư Phật (chư Phật thậm thâm hành xứ), bản dịch 3 (Chính 14/403g) và bản dịch 5 (Chính 14/415g) đều dịch “thậm thâm cảnh giới”. Vậy hành xứ = cảnh giới. Ngài Thái hư nói, hành xứ có 2 nghĩa : một, hành xứ là chỗ biết của phật ; hai, hành xứ là chỗ làm của Phật (TH 28/2376). Ở đây, công đức của đức Dược sư, trong đó có ích lợi mà danh hiệu của ngài đem lại cho chúng sanh, là chỗ chỉ Phật làm và Phật biết, nên gọi là “thậm thâm hành xứ”. Hành xứ tuy có đủ 2 nghĩa như vậy, nhưng nghĩa sau dễ hiểu nên tôi đã dịch “chỗ hiểu biết”.

Ðêm trường (trường dạ) : thì gian dài. Ở đây chỉ cho cảnh giới sanh tử : vừa dài dặc vừa tối tăm (vì vô minh mà thiếu cả chánh tín). Bồ tát còn hệ thuộc một đời mà thôi (nhất sanh sở hệ bồ tát) coi âm thích “thứ lớp kế vị thành Phật”, trang 102. Nhưng 1 đời có 2 : (a) các vị đẳng giác bồ tát chỉ còn 1 đời ứng thân nữa là thành Phật, mới thật là 1 đời ; (b) các vị thập địa bồ tát tuệ mạng báo thân liên tục, không còn phân đoạn sanh tử, nên cũng có thể gọi là 1 đời. Thiện phương tiện = thiện xảo phương tiện.

C6. nói cách tiêu tai diên thọ, có 5 D
D1. chỉ cách tiêu tai diên thọ

Lúc ấy trong chúng hội có một vị đại sĩ danh hiệu Cứu thoát, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trần vai áo bên phải, gối bên phải quì xuống sát đất, cong mình, chắp tay mà bạch Phật, bạch đức Thế tôn uy đức cao cả, khi thời kỳ Phật pháp tương tự xuất hiện, có những kẻ bị mọi thứ bịnh hoạn làm cho nguy khốn. Bịnh mãi, gầy ốm, ăn uống không được, cổ và môi đều khô nóng. Nhìn mọi phía đều đen tối. Tướng chết xuất hiện. Cha mẹ, anh em, bà con, bạn bè, quen biết, khóc lóc vây quanh. Nhưng bản thân bịnh nhân thì tuy vẫn nằm chỗ của mình, mà lại thấy sứ giả Diêm vương dẫn thần thức của mình đến trước vị vua chấp pháp này. Nguyên mọi ngưòí đều có vị thần cùng sanh, tùy việc họ làm, tội cũng như phước, ghi chép đầy đủ, và bấy giờ trao cả cho Diêm vương. Diêm vương tra hỏi kẻ ấy, tính việc họ làm, tùy tội và phước mà xử phán. Chính trong lúc này, thân thuộc hay quen biết của bịnh nhân, nếu biết vì họ mà qui y đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, cung thỉnh chư Tăng đọc tụng kinh này, đốt cây đèn bảy tầng, treo phan thần “tiếp nối mạng sống” bằng năm màu. Thì hoặc có kẻ nơi đây thần thức về được, và như trong chiêm bao, tự thấy rõ ràng. Hoặc trải qua bảy ngày, hoặc hai mươi mốt ngày, hoặc ba mươi lăm ngày, hoặc bốn mươi chín ngày, khi thần thức về được thì như từ chiêm bao thức dậy, tự nhớ biết tất cả quả báo của thiện nghiệp ác nghiệp. Nhờ tự chứng kiến nghiệp báo, nên đến nỗi gặp phải tai nạn cho sinh mạng, cũng không tạo tác ác nghiệp. Vì vậy, những thiện nam thiện nữ đức tin thuần tịnh, hãy thọ trì danh hiệu của đức Dược sư lưu ly quang như lai, tùy sức có thể mà cung kính cúng dường.

Thời kỳ Phật pháp tương tự (Tượng pháp) chỉ bản dịch 5 cũng dùng chữ này (Chính 14/415g), còn bản dịch 1 không dùng chữ gì (Chính 21/535g), bản dịch 3 dùng chữ “vị lai thế” (Chính 14/403d). Nhìn mọi phía đều đen tối (kiến chư phương ám) là tả hiện tượng sắp chết, mà là cái chết đọa lạc ác đạo. Diêm vương (Diệm ma pháp vương = Yama-raja) dịch nghĩa là Phược : trói buộc tội nhân, Bình đẳng vương : bình đẳng trị tội. Diêm vương là tổng quản địa ngục. Sứ giả Diêm vương (Diệm ma sứ) là lính quỉ mà Diêm vương sai bắt dẫn những kẻ làm ác. Khác với thiên sứ của Diêm vương, thiên sứ ấy là các sự già bịnh và chết. Vị vua chấp pháp (Diệm ma pháp vương) là Diêm vương : Diêm vương chấp chưởng pháp quyền ở địa ngục, nên gọi như vậy.

Thần thức : nghiệp thức và trung hữu. Vị thần cùng sanh (câu sanh thần) : thần năm tháng ngày giờ sinh hay bản thức. Bản thức là tổng thể dị thục, lại tiếp nhận huân tập và chấp trì chủng tử của nghiệp, nên gọi là thần câu sanh. Vạn 35/177a nói, do nghiệp lực mà ý thức bịnh nhân hiện 4 tướng : sứ giả Diêm vương, thần thức của mình, Diêm vương và thần cùng sanh. Có kẻ nơi đây (hoặc hữu thị xứ), thị xứ (nơi đây) là ngay nơi cái lúc làm phước đây, do người thân làm cho bịnh nhân sắp chết. Thần thức về được (bỉ thức đắc hoàn) : sinh mạng là bản thức liên tục chấp trì, chết là ý thức hết khởi phân biệt, sống là ý thức lại khởi phân biệt. Về hay không về, chỉ có nghĩa ý thức tái tục phân biệt hay gián đoạn phân biệt. Nhưng bản thức biến nhất thế xứ. Chết chỗ này sanh chỗ kia là “tiền dị thục ký tận, phục sanh dư dị thục”. Không làm gì có sự đi, về, qua, lại (TH 28/2388). Như trong chiêm bao, tự thấy rõ ràng, là tự thấy rõ ràng như thấy trong chiêm bao. Tự thấy rõ ràng là tự thấy rõ những hình phạt mình bị phán chịu ở địa ngục, lại càng tự thấy rõ người thân làm phước cho mình. Sự tự thấy này, cũng như sự tự nhớ của những người mới chết 7 đến 49 ngày, và tự thấy tự nhớ rồi dẫu nguy đến tánh mạng cũng không dám làm ác, toàn là do thần lực của đức Dược sư.

D2. chỉ thêm cách tiêu tai diên thọ, đặc biệt tiêu bịnh khổ

Lúc ấy tôn giả A nan hỏi bồ tát Cứu thoát, thiện nam tử, nên bằng cách nào cung kính cúng dường đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai ? Phan và đèn “tiếp nối mạng sống” nên làm cách nào ? Bồ tát Cứu thoát nói, đại đức, nếu bịnh nhân muốn thoát bịnh khổ, nên vì họ mà bảy ngày đêm thọ trì Bát quan trai giới. Nên đem đồ ăn, đồ uống và đồ dùng, tùy sức liệu biện mà cúng dường Tỷ kheo tăng. Ngày đêm sáu buổi lễ bái cúng dường đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai. Ðọc tụng kinh này bốn mươi chín biến. Ðốt bốn mươi chín ngọn đèn. Tạo hình tượng đức Như lai ấy bảy vị. Trước mỗi hình tượng để bảy ngọn đèn, cái lượng mỗi ngọn đèn lớn như bánh xe. Và đến bốn mươi chín ngày đêm, ánh sáng không dứt. Còn làm phan năm màu thì dài bốn mươi chín gang tay. Nên phóng sanh đến bốn mươi chín giống khác nhau. Như vậy thì có thể qua được tai nạn nguy khốn, không bị mọi thứ ngang trái và quỉ dữ tác hại.

Gom các đoạn trước và đoạn này nữa, cách thức tiêu tai diên thọ có cái mà ngày nay gọi là đàn Dược sư. Ðàn này gồm có 2 phần chính là phan và đèn. Phan bằng vải 5 màu, dài 49 gang. Ðèn có 7 tầng, mỗi tầng thiết 1 hình tượng đức Dược sư và đốt 7 ngọn đèn càng lớn càng tốt(43). Thì gian là 49 ngày đêm, treo phan, đốt đèn, lạy tượng Dược sư mỗi ngày đêm 6 lần cách đều, trì kinh Dược sư 49 ngày đêm mỗi ngày đêm 1 biến. Thân thì tắm rửa sạch sẽ, mặc đồ sạch (và mới càng tốt). Miệng thì súc rửa sạch sẽ, ăn uống đồ thanh tịnh (nhất là nói càng phải thanh tịnh). Ý thì phát khởi từ bi, muốn ích lợi cho tất cả một cách bình đẳng. Trong thì gian 49 ngày làm đàn Dược sư như vậy còn làm 3 việc nữa : thọ trì Bát quan trai giới, tùy sức cúng dường Tỷ kheo tăng, và phóng sanh đến 49 loại (mỗi loại 49 con, hay 49 ngày đêm phóng sanh 1 lần).

Sau đây là mấy chỗ cần âm thích. Ngày đêm sáu buổi lễ bái cúng dường đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, hãy chú ý chữ lễ bái cúng dường : nhiều lúc nghĩa là lễ bái và cúng dường, nhiều lúc nghĩa là đem sự lễ bái mà cúng dường. Ở đây có cả hai nghĩa. Phóng sanh : phóng thả sinh vật, tiếng tắt của từ ngữ phóng tạp loại chúng sanh (hay phóng chư sinh mạng). Phóng sanh đến 49 loại khác nhau (phóng tạp loại chúng sanh chi tứ thập cửu), sát thì phải dịch : phóng thả sinh vật nhiều loại lẫn lộn đến 49 thứ. Ngang trái (hoạnh) hoạnh là họa hoạnh : tai họa phi lý, bất trắc, dữ dội.

D3. lại còn tiêu quốc nạn

Ðại đức A nan, nếu giai cấp Sát đế lợi các vị vua đã làm lễ quán đảnh, khi tai nạn nổi dậy, như dân chúng bịnh dịch, nước khác lấn ép, nước mình phản nghịch, tinh tú quái dị, nhật thực nguyệt thực, gió mưa trái thì, quá thì không mưa, thì giai cấp Sát đế lợi, các vị vua đã làm lễ quán đảnh, lúc ấy, hãy phát khởi tâm từ bi đối với tất cả chúng sanh, ân xá những người bị giam bị nhốt, và theo cách cúng dường tôi  đã nói trên mà cúng dường đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai. Nhờ thiện căn như vậy, và nhờ năng lực bản nguyện của đức Như lai ấy, mà làm cho quốc độ của họ tức khắc yên ổn, gió mưa điều hòa, lúa má thành thục, mọi người vô bịnh, vui vẻ. Trong quốc độ của họ không có những loại thần Dạ xoa bạo ác, tác hại chúng sanh. Mọi hiện tượng dữ ẩn mất tất cả và tức thì. Còn giai cấp Sát đế lợi, và những vị vua đã làm lễ quán đảnh, thì sự sống, tướng tốt, sức mạnh, vô bịnh và tự do, đều dược tăng thêm. Nếu hoàng hậu, hoàng phi, đông cung, vương tử, đại thần, phụ chánh, thể nữ, bách quan và dân chúng, bị bịnh làm khổ, và bị những tai nạn khác, cũng nên làm phan thần năm màu và đốt đèn sáng liên tục, phóng các loại có sinh mạng, rải những bông hoa đủ màu, đốt những hương thơm nổi tiếng, thì bịnh hết, nạn khỏi.

Sát đế lợi = Kshatriya, là điền chủ, vương chủng ; giai cấp võ sĩ, 1 trong 4 giai cấp của xã hội Ấn thời cổ, làm vua và đại thần. Vua đã làm lễ quán đảnh, quán đảnh, nghĩa đen là rưới nước lên đỉnh đầu. Nước này lấy ở sông biển 4 hướng, ý chúc thống trị 4 phương thiên hạ. Làm lễ quán đảnh là như ngày nay làm lễ da miện. Giai cấp Sát đế lợi, các vị vua đã làm lễ quán đảnh (Sát đế lợi quán đảnh vương đẳng), rất nên hiệu và dịch là vị vua đã làm lễ quán đảnh thuộc giai cấp Sát đế lợi. Cách cúng dường đã nói trên là cách vừa nói ở đoạn trên đoạn này. Nhờ thiện căn như vậy và nhờ năng lực bản nguyện của đức Như lai ấy, câu này đáng lý đoạn nào cũng phải có. Mọi sự tiêu tai diên thọ và mọi sở cầu sở nguyện mà được thực hiện, là nhờ tự lực được tha lực gia hộ (như câu này nói).

Phụ chánh (phụ tướng) theo TH 28/2394 thì là tả phụ hữu bật, đứng đầu quần thần. Tài liệu 9 (Anh văn, trang 18, dòng 24) dịch là tham nghị viên hay cố vấn của triều đình. Thể nữ (trung cung thể nữ), trung cung là hoàng hậu, trung cung thể nữ là thể nữ của hoàng hậu. Tài liệu 9 (Anh văn, trang 18 dòng 26) dịch là các vị phu nhân thân cận hoàng hậu. Bách quan, quan chức tỉnh vùng. Phóng các loại có sinh mạng (phóng chư sinh mạng) là phóng sanh. Các loại có sinh mạng là chúng sanh (ở đây là các loại sinh vật).

D4. tiêu bất định nghiệp

Lúc ấy tôn giả A nan lại hỏi bồ tát Cứu thoát, thiện nam tử, tại sao mạng sống đã hết mà có thể làm cho tăng thêm ? Bồ tát Cứu thoát nói, đại đức, ngài không nghe đức Thế tôn nói có chín sự chết ngang trái hay sao? Vì chín  sự chết này mà tôi khuyên làm phan và đèn ” tiếp nối mạng sống”, tu các phước đức. Nhờ tu các phước đức mà trọn đời không trải qua một cơn đau đớn hoạn nạn nào cả. Tôn giả A nan hỏi, chín sự chết ngang trái là gì? Bồ tát Cứu thoát nói, có kẻ bị bịnh tuy nhẹ, nhưng không thầy, không thuốc, không ai coi sóc. Gặp thầy thì lại bị cho thuốc không đúng, nên thật không đáng chết mà chết một cách ngang trái. Lại tin thầy bà yêu nghiệt của tà ma ngoại đạo thuộc phạm vi  thế gian nói vớ vẩn về họa phước, nên đâm ra sợ hãi dao động. Tâm thì không tự chánh nó lại, lại đi bói hỏi để tìm lấy tai họa. Giết hại sinh vật mà giải tấu thần minh, vái yêu quái để xin làm phước giúp đỡ, mong muốn thêm tuổi nhưng chung cục không thể  đạt dược. Ngu si mê lầm, tin theo cái thấy cong và ngược, nên làm chết mình một cách ngang trái, nhập vào ñịa ngục, không có kỳ hạn thoát ra. Ðó là sự chết ngang trái thứ nhất. Thứ hai, một cách ngang trái bị phép vua giết. Thứ ba, săn bắn, chơi bời, đam mê tửu sắc, phóng túng vô độ, một cách ngang trái bị những kẻ không phải người đoạt mất tinh chất. Thứ tư, một cách ngang trái bị lửa đốt. Thứ năm, một cách ngang trái bị nước chìm. Thứ sáu, một cách ngang trái bị các giống thú dữ ăn. Thứ bảy, một cách ngang trái rơi xuống sườn núi. Thứ tám, một cách ngang trái trúng chết bởi thuốc độc, ếm vái, chú thư, quỉ khởi thi. Thứ chín, chết một cách ngang trái vì đói khát nguy khốn, không được đồ ăn thức uống. Ðó là sự chết ngang trái mà đức Thế tôn nói vắn tắt có chín thứ như vậy. Ngoài ra còn có vô số những sự ngang trái khác, khó nói cho đủ.

Tu các phước đức là thọ trì Bát quan trai giới, tùy sức cúng dường Tỷ kheo tăng, và phóng sanh đến 49 loại. Tâm thì không tự chánh nó lại, lại đi bói hỏi để tìm lấy tai họa (tâm bất tự chánh, bốc vấn mích họa), bản dịch 1 (Chính 21/535d) dịch “tâm bất tự chánh, bất năng tự định, bốc vấn mích họa” (tâm không tự chánh, không thể tự định, đi bói hỏi mà tìm lấy tai họa). Giải tấu : giải bày, tâu thưa. Cái thấy cong và ngược (tà đảo kiến) là tà kiến.

D5. tiêu cả định nghiệp

Ðại đức A nan, Diêm vương lãnh xét sự ghi chép về sách tịch của thế gian. Ai bất hiếu cha mẹ, làm năm tội nghịch, hủy nhục Tam bảo, phá phép vua tôi, làm hỏng tánh giới, thì Diêm vương theo tội nặng nhẹ xét mà phạt. Vì lý do ấy, nay tôi khuyến cáo mọi người đốt đèn, treo phan, phóng sanh, tu phước, làm cho họ qua khỏi khốn khổ, không gặp mọi sự hoạn nạn.

Ghi chép về sách tịch thế gian là ghi tội phước như trước đã nói. Tánh giới: giới năng. Nhưng tất cả bản chính đều chép “tín giới”, nghĩa là chánh tín và tịnh giới. Làm hỏng tín giới là tà kiến và phạm giới, là phá kiến và phá giới. Treo phan (tạo phan), tạo là chế tạo, bày ra, dựng lên. Ở đây nên hiểu là treo, dựng. Tu phước : như đã nói (trang 118) có 3, nay phóng sanh kể rồi thì còn 2, là cúng dường Tỷ kheo tăng và thọ trì Bát quan trai giới.

C7. nói sự hộ vệ của Dạ xoa.

Lúc ấy trong chúng hội có mười hai  vị đại tướng Dạ xoa, cùng có mặt ở  đó, là đại tướng Cung tỳ la, đại tướng Phạt chiết la, đại tướng Mê xí la, đại tướng An để la, đại tướng Ngạnh nễ la, đại tướng San để la, đại tướng Nhân đạt la, đại tướng Ba di la, đại tướng Ma hổ la, đại tướng Chân đạt la, đại tướng Chiêu đỗ la, đại tướng Tỳ yết la. Mười hai vị đại tướng Dạ xoa này, mỗi vị có bảy ngàn Dạ xoa làm tùy thuộc, cùng lúc cất tiếng bạch Phật, bạch đức Thế tôn, chúng con bây giờ nhờ uy lực của Ngài mà nghe được danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, không còn nỗi sợ hãi về ác đạo nữa. Chúng con đốc suất nhau, cùng nhau nhất tâm, suốt đời qui y Phật Pháp Tăng, thệ nguyện gánh vác hết thảy chúng sanh, tạo cho họ cái lợi chân thật, cái vui lợi ích. Tùy thôn làng, thị thành, thủ đô, và trong rừng thanh vắng, của bất cứ xứ nào, mà hoặc có kinh này lưu hành, hoặc có kẻ trì niệm danh hiệu của đức Dược sư lưu ly quang như lai, cung kính cúng dường Ngài, thì chúng con, và tùy thuộc của chúng con, hộ vệ người ấy, làm cho họ thoát mọi khổ nạn, mọi ước nguyện đều thỏa mãn. Hoặc ai bị bịnh khổ mà cầu thoát qua, thì cũng nên đọc tụng kinh này, dùng tơ sợi năm màu mà kết tên chúng con. Ðược toại nguyện rồi mới tháo kết ấy.

Lúc ấy đức Thế tôn tán dương các đại tướng Dạ xoa, rằng lành thay các tướng Ðại dạ xoa, lành thay, các người nghĩ báo ân đức cửa đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, thì thường nên như vậy mà lợi ích an lạc hết thảy chúng sanh.

Danh sách 12 đại tướng Dạ xoa, kể theo Phạn tự thì như sau.

  1. Kumbhira,
  2. Vajra,
  3. Mihira,
  4. Andira,
  5. Majira,
  6. Shandira,
  7. Indra,
  8. Pajra,
  9. Makura,
  10. Sindura,
  11. Catura,
  12. Vikarala.

Ðó  là trích tài liệu 9 (Anh văn, trang 20, dòng 23). Nhưng dịch nghĩa thì tìm không ra. Chỉ tìm thấy 2 danh sách sau đây.

(a) 1. Cực úy dược xoa đại tướng,

  1. Kim cang dược xoa đại tướng,
  2. Chấp nghiêm dược xoa đại tướng,
  3. Chấp tinh dược xoa đại tướng,
  4. Chấp phong dược xoa đại tướng,
  5. Cư xứ dược xoa đại tướng,
  6. Chấp lực dược xoa đại tướng,
  7. Chấp ẩm dược xoa đại tướng,
  8. Chấp ngôn dược xoa đại tướng,
  9. Chấp tường dược xoa đại tướng,
  10. Chấp động dược xoa đại tướng,
  11. Viên tác dược xoa đại tướng.

(b) 1. Khả úy đại tướng,

  1. Kim cang đại tướng,
  2. Hộ pháp đại tướng,
  3. Hộ tỷ đại tướng,
  4. Chánh pháp đại tướng,
  5. La sát đại tướng,
  6. Ðế sử đại tướng,
  7. Lang long đại tướng,
  8. Canh phương đại tướng,
  9. Chiết thuỳ đại tướng,
  10. Hộ thế đại tướng,
  11. Cần nộ đại tướng,

Danh sách (a) trích Chính 19/51g và 60t ; danh sách (b) trích Chính 19/67t.

Lợi chân thật (nghĩa lợi) cái lợi chân chính, chắc thật, hợp chân lý. Thủ đô (quốc ấp).

Ðoạn này cho thấy Dạ xoa mà thệ nguyện gánh vác chúng sanh, hộ vệ mọi người, là do uy lực của đức Dược sư, là công đức của ngài. Trong đoạn này, cuối cùng, còn đưa ra một cách trừ bịnh nữa. Tra đọc các tài liệu sẽ thấy cách ấy cũng rất quan trọng.

A3 kết thúc

B1. nói tên kinh

Bấy giờ tôn giả A nan bạch Phật, bạch đức Thế tôn, nên mệnh danh như thế nào về pháp môn này, và chúng con nên phụng trì kinh này như thế nào ? Phật dạy tôn giả A nan, pháp môn này nên mệnh danh Nói về bản nguyện công đức của đức Dược sư lưu ly quang như lai, cũng nên mệnh danh Nói về sự kết nguyện thần chú để lợi ích chúng sanh của mười hai thần tướng, lại nên mệnh danh Bạt trừù hết thảy nghiệp chướng. Nên phụng trì như vậy.

Phụng trì như vậy (như thị trì) chỉ có nghĩa đơn giản là nhớ như vậy. Muốn xa hơn chút nữa thì “hãy phụng trì theo ý nghĩa mệnh danh như vậy”.

B2. chúng hội phụng hành

Khi đức Thế tôn nói lời này rồi, các vị đại bồ tát cùng các vị đại thanh văn, quốc vương, đại thần, đạo sĩ, cư sĩ, thiên chúng, long chúng, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lầu la, khẩn na la, ma hầu la dà, loài người và loài không phải người, toàn thể đại chúng như vậy, nghe những điều Phật dạy, ai cũng cực kỳ hoan hỷ, tín thọ phụng hành.

Thiên chúng… ma hầu la dà là 8 bộ thiên long. Loài người và loài không phải người (nhân phi nhân), TH 28/2406 nói, thanh văn, quốc vương, vân vân, là loài người ; thiên chúng, long chúng, vân vân, là loài không phải người. Pđ 270t giải thích lại khác : (a) là khẩn na la, vì như người mà không phải người ; (b) chỉ cho tất cả 8 bộ, vì vốn không phải người, nhưng đến Phật thì hiện hình người cả. Theo lối giải thích này, “nhân phi nhân” nên dịch “loài như người mà không phải người”. Nhưng xét văn ý kinh này, qua những chỗ nói “phi nhân”, thì thấy TH 28/2406 nói đúng với kinh này hơn.

Ghi chú

(1) A Xà thế Vương = Ajatasatru. Con vua Tần bà ta la (Binsbisara) xứ Ma kiệt đà (Magadha). Bạn với Ðề bà đạt đa (Devadatta). Cầm tù cha mẹ, lên ngôi thôn tính các tiểu quốc, dựng nền móng thống nhất ấn độ. Vì tội hại cha mà cả mình nổi mụt (thứ mụt chữ Tàu dịch là sang, có nghĩa là một loại ung thư). Nhưng đến Phật sám hối thì lành, nên qui y Ngài. Ông là hộ pháp cho cuộc kiết tập pháp tạng lần thứ nhất.

Ương quật ma la = Angulimalaya. Theo tà thuyết giết người được niết bàn. Giết được 999, cắt mỗi người 1 ngón tay, kết vòng đội trên đầu. Thiếu 1 người mới đủ số phải có là 1000, nên đuổi giết mẹ. Phật thương mà cứu và thuyết pháp cho. Ương quật sám hối, xuất gia, đắc quả La hán liền. Chuyện vị này nhiễm đầy tính chất và phong thái Thiền tông và đốn ngộ.

(2) Câu trên của kinh Di đà, câu dưới của kinh Dược sư.

(3) Từ đây trích Chính 14/414g.

(4) Trích Chính 14/414g đến đây.

(5) Tiêu tai diên thọ : tiêu tan tai họa, kéo dài sự sống.

(6) Nguyên văn đoạn này không chỉnh. Nếu sát thì phải dịch “Lúc ấy đức Dược sư lưu ly quang như lai từ bi cứu vớt, nói kinh Bản nguyện công đức này”.

(7) Nguyên văn “sát lợi” = sát đế lợi, giai cấp làm vua và đại thần.

(8) Các sự tiêu tai tăng thọ, cũng như sự cúnghương (Nam mô hương cúng dường bồ tát) đều có năng lực như bồ tát, nên gọi như vậy.

(9) = tà kiến : lý thuyết các học phái ngoại đạo.

(10) Thân với mạng là 2 thứ. Thân lấy tứ đại làm thể, mạng lấy thọ, noãn và thức làm thể.

(11) Qui mạng đảnh lễ đức Dược sư lưu ly quang như lai… thế tôn, ở thế giới hệ Tịnh lưu ly thuộc phía đông.

(12) Cha mẹ, chúng sanh, quốc chúa và Tam bảo gồm sư trưởng) (cho tại gia) ; hay cha mẹ, sư trưởng, quốc chúa và thí chủ (gồm chúng sanh ) (cho xuất gia).

(13) Dục giới, sắc giới, không giới (vô sắc giới).

(14) Phiền não, vọng nghiệp, khổ báo (hoặc, nghiệp, khổ).

(15) Ái : lầm sự, như tham lam, sân hận…  Kiến : lầm lý, như ngã kiến, tà kiến…

(16) Phân đoạn và biến dịch.

(17) Pháp thân, bát nhã và giải thoát.

(18) Giết cha, giết mẹ, giết La hán, làm thân 292 Phật đổ máu, phá Tăng hòa hợp. Hoặc phá hủy vật của Tam bảo, phỉ báng và trở ngại Phật pháp, ngược đãi người xuất gia, phạm 1 trong 5 thứ trên, phủ nhận nghiệp báo mà làm ác mãi.

(19) = Sila : giới (thanh lương, tánh thiện).

(20) = Tà kiến

(21) Thật tướng của nhất thừa = tướng thực của giáo lý duy nhất. Tướng thực ở đây (có khi chỉ dùng chữ tướng mà thôi) phải hiểu theo từ ngữ và tư tưởng của ngài La thập : tướng thực thì không còn thực đối với giả, không còn tướng đối với tánh…

(22) = Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt.

(23) = kinh Dược sư (cũng có thể gồm kinh khác tương tự).

(24) Cùng cực tinh tiến (kiều cần), kiều là cất cao, tốt nhiều, khởi phát, nên dịch như vậy. Cũng có thể dịch phát khởi tinh tiến.

(25) Tạo phan (tạo phan), tạo là chế tạo, là bày ra, dựng lên. Ở đây nên hiểu theo 2 nghĩa sau.

(26) ôn và dịch đều là bịnh thời khí và truyền nhiễm. Bịnh ấy, mùa đông gọi là ôn, mùa hạ gọi là dịch.

(27) Ý nói sự hay đọa ác đạo (chứ không dễ sanh loài người, chư thiên) cũng là quả báo sót lại (di báo = dư báo) của chúng sanh.

(28) Quỉ khởi thi (phi thi tà quỉ) Phi thi tà quỉ có thể dịch thây chết phi chạy, ma quỉ lếu láo, nhưng rất nên chỉ dịch là quỉ khởi thi, vì đó là chữ và việc của kinh Dược sư. Quỉ khởi thi : coi trang 105

(29) = đạo bồ đề.

(30) Ðoạn này tóm lược 12 đại nguyện.

(31) 8 chướng nạn (bát nạn) : 8 nơi và sự trở ngại sự thấy Phật nghe Pháp, là địa ngục, ngạ quỉ súc sanh, câu lô châu, trường thọ thiên, đui điếc câm ngọng (giác quan không đủ), thế trí biện thông, trước hay sau Phật. 3 tai họa (tam tai) là tiểu tam tai : chiến tranh, nhiễm độc và nhân mãn (của “kiếp giảm”, không phải bình thường). Nhưng bát nạn tam tai ở đây chỉ một ít và bình thường thôi.

(32) Không giữ kiết sử (bất trú sử hải) sát thì phải dịch, không ở trong biển kiết sử.

(33) = ngôn ngữ đạo đoạn. Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt, là điển ngữ của ngài Long thọ (Trung luận). Nghĩa đen : con đường ngôn ngữ đã tuyệt, cái chỗ tâm hành đã mất. Ý : bất khả tư nghị, siêu việt tư duy và mô tả.

(34) Chỗ của tỷ kheo ở mà vô tội, gọi là tịnh địa.

(35) Lưu chú : sự sinh diệt liên tục trong từng sát na (đơn vị thì gian, chỉ bằng hay mau hơn sự thoạt hiện hoặc sự thoạt biến của một ý nghĩ).

(36) Chỉ dưới Phật một bậc.

(37) = đức Dược sư.

(38) Ðiển ngữ là “thường tịch thường chiếu’, tả bản thể luôn luôn vắng lặng tức luôn luôn chiếu soi. Cũng gọi là “thường tịch quang” : ánh sáng của bản thể luôn luôn vắng lặng. Trong 9 lạy về tứ thánh Cực lạc có chữ “thường tịch quang độ”, nghĩa : quốc độ ánh sáng của bản thể luôn luôn vắng lặng, ý nói chính bản thể ấy là quốc độ của pháp thân. Nguyên văn ở đây viết thường quang là viết tắt (đáng lý phải viết thường tịch quang).

(39) Không phải chỉ là đồ trang sức mà thôi. Mà là đồ trang sức toàn thể đời sống và cuộc đời.

(40) Thiên hà (lớn hơn ngân hà mà trong đó có thái dương hệ) ?

(41) TH 28/232719 nói, Ðại phạn thiên (chúa trời), kẻ thành trước tiên trong “thành kiếp” và hoại sau hết trong “hoại kiếp”, làm chủ tiểu thế giới. Và như vậy, Ðại phạn thiên sống 60 lần tăng và giảm (60 tiểu kiếp, theo Trí độ luận).

(42) Rất nên thêm “chỗ làm và biết sâu xa”…

(43) Bản dịch 1 (Chính 21/535g) nói cây đèn 7 tầng, mỗi tầng 7 ngọn đèn (thất tằng chi đăng, nhất tằng thất đăng). 


[hết]




KINH KIM CƯƠNG – Thượng nhân Thích Trí Quang dịch giải

| 1. Chánh Văn | 2. Dẫn Nhập | 3. Lược Giải |

phần tụng niệm

Kinh
Kim cương bát nhã ba la mật

Dịch giải: Tỷ kheo Trí Quang
2531 – 1987

Duyệt xong,
Mười bảy tháng năm, 2537 – 1993
Trí quang


Nghĩa lý kinh Kim cương
là ngoài tầm nghĩ bàn,
phước đức kinh Kim cương
cũng siêu việt như vậy.
Nay con được tụng niệm
cầu nguyện cùng chúng sinh
ở trong cảnh giới này
mà thấy phi cảnh giới,
và chính nơi thân này
mà thấy là Phật thân.

23.10.2531
Trí quang


Kính lạy đức Thích ca mâu ni thế tôn, cùng hết thảy Phật bảo.

Kính lạy kinh Kim cương bát nhã ba la mật, cùng hết thảy Pháp bảo.

Kính lạy tôn giả Thiện hiện, cùng hết thảy Tăng bảo.

Kinh Kim cương bát nhã ba la mật

(1)
(1-8) Tôi nghe như vầy :
Một thời Thế tôn
ở nước Xá vệ,
trong khu lâm viên
Chiến thắng Thiện thí,
cùng với một ngàn
hai trăm năm chục
vị đại tỷ kheo.

(2)
(9-22) Vào lúc bấy giờ
gần đến giờ ăn,
nên đức Thế tôn
sửa y, cầm bát,
đi vào khất thực
trong thành Xá vệ.
Tuần tự khất thực
trong thành này rồi,
Ngài về chỗ ở
ăn uống xong xuôi,
thu dọn y bát,
rửa sạch hai chân
và trải đồ lót
lót chỗ mà ngồi.

(3)
(23-48) Lúc ấy Thiện hiện,
một vị trưởng lão,
cũng có ở trong
các đại tỷ kheo.
Từ chỗ mình ngồi,
trưởng lão đứng dậy,
vắt một vạt y,
để trần vai phải,
đầu gối bên phải
quì xuống chấm đất,
hai tay chắp lại
cung kính mà thưa :
kính bạch Thế tôn,
Ngài thật hiếm có ;
Ngài khéo nâng đỡ
cho các Bồ tát,
lại khéo giao phó
cho các Bồ tát.
Kính bạch Thế tôn,
thiện nam thiện nữ
đã phát tâm nguyện
vô thượng bồ đề,
thì phải làm sao
để ở tâm ấy ?
Và phải làm sao
để sửa tâm mình ?

(4)
(49-70) Ðức Thế tôn dạy :
tốt lắm Thiện hiện ;
thật đúng như lời
trưởng lão đã nói,
Như lai rất khéo
nâng đỡ Bồ tát,
Như lai rất khéo
giao phó Bồ tát.
Do vậy, trưởng lão,
hãy nghe cho kỹ,
Như lai sẽ nói
cho các vị biết
thiện nam thiện nữ
phát tâm bồ đề
thì bằng cách nào
trú ở tâm ấy,
và bằng cách nào
sửa chữa tâm mình.
Trưởng lão thưa rằng,
dạ, bạch Thế tôn,
chúng con ước muốn
được nghe Ngài dạy.

(5)
(71-102) Trưởng lão Thiện hiện
Bồ tát thì phải
sửa chữa tâm mình
bằng tuệ giác này :
Bao nhiêu chúng sinh
hoặc sinh bằng trứng,
hoặc sinh bằng thai,
sinh bằng ẩm thấp,
sinh bằng biến hóa,
hoặc có hình sắc
hoặc không hình sắc,
hoặc có tư tưởng,
hoặc không tư tưởng,
có không tư tưởng,
ta làm hết thảy
đều được nhập vào
niết bàn hoàn toàn
mà giải thoát cả.
Làm cho vô lượng
vô số chúng sinh
niết bàn như vậy,
mà thật không thấy
có chúng sinh nào
được niết bàn cả.
Tại sao như vậy ?
trưởng lão Thiện hiện,
vì nếu Bồ tát
mà vẫn còn có
ý tưởng ngã, nhân,
chúng sinh, thọ giả
thì Bồ tát ấy
không phải Bồ tát.

(6)
(103-144) Trưởng lão Thiện hiện
đối với các pháp,
Bồ tát không nên
trú ở đâu cả
mà làm bố thí :
không ở nơi sắc
mà làm bố thí,
không ở nơi thanh
hương, vị, xúc, pháp,
mà làm bố thí.
Trưởng lão Thiện hiện,
Bồ tát hãy nên
bố thí như thế :
không ở đâu cả.
Tại sao như vậy,
vì nếu Bồ tát
không ở đâu cả
mà làm bố thí
thì được phước đức
không thể lường được.
Trưởng lão Thiện hiện,
ông nghĩ thế nào,
không gian hướng đông
có lường được không ?
Không, bạch Thế tôn.
Trưởng lão Thiện hiện,
không gian hướng nam,
hướng tây hướng bắc,
và cả bốn góc,
cả trên cả dưới,
có lường được không ?
Càng không, bạch Ngài.
Trưởng lão Thiện hiện,
Bồ tát bố thí
mà không ở đâu
thì được phước đức
cũng y như thế
không thể lường được.
Trưởng lão Thiện hiện,
Bồ tát chỉ nên
trú ở theo lời
Như lai dạy đây.

(7)
(145-164) Trưởng lão Thiện hiện
ông nghĩ thế nào,
đối với Như lai,
có thể hay không
thấy bằng đặc tướng ?
Không, bạch Thế tôn,
không thể thấy Ngài
bằng các đặc tướng ;
tại sao như vậy,
vì theo Ngài dạy
thì các đặc tướng
là phi đặc tướng.
Ðức Thế tôn bảo
trưởng lão Thiện hiện,
hễ có đặc tướng
thì đặc tướng ấy
toàn là giả dối,
nếu thấy đặc tướng
là phi đặc tướng
thì thấy Như lai.

(8)
(165-234) Trưởng lão Thiện hiện ;
bạch đức Thế tôn,
có thể có ai
nghe pháp thoại này
mà sinh đức tin
đúng chân lý không ?
Ðức Thế tôn dạy,
đừng hỏi như vậy,
trưởng lão Thiện hiện ;
sau khi Như lai
nhập niết bàn rồi,
năm trăm năm sau,
có ai giữ giới,
làm phước, tu tuệ,
thì với pháp thoại
như thế này đây,
có thể tin tưởng
đúng với chân lý.
Trưởng lão phải biết
những người như vậy
không chỉ gieo trồng
gốc rễ điều lành
nơi một đức Phật,
nơi hai đức Phật,
nơi ba bốn năm
đức Phật mà thôi,
mà đã gieo trồng
gốc rễ điều lành
ở nơi vô số
ngàn vạn đức Phật.
Những người như vậy
mà được nghe đến
pháp thoại thế này
thì dầu đến nỗi
chỉ một ý niệm
tin tưởng trong sáng,
Như lai cũng vẫn
biết và thấy rõ
họ thực hiện được
vô lượng phước đức.
Tại sao như vậy,
vì những người này
không còn có nữa
ý tưởng ngã nhân
chúng sinh thọ giả,
không còn có nữa
ý tưởng về pháp
và về phi pháp.
Nếu những người này
còn có ý tưởng
là còn ngã nhân
chúng sinh thọ giả,
còn ý tưởng pháp
là còn ngã nhân,
chúng sinh thọ giả,
còn tưởng phi pháp
là còn ngã nhân
chúng sinh thọ giả.
Vì lý do ấy,
đừng nắm lấy pháp,
lại càng đừng nên
nắm lấy phi pháp.
Do ý nghĩa này
Như lai thường nói,
các vị Tỷ kheo
hãy nhận thức rằng
pháp Như lai nói
tựa như chiếc bè :
pháp còn phải bỏ,
huống chi phi pháp ?

(9)
(235-262) Trưởng lão Thiện hiện,
ông nghĩ thế nào,
phải chăng Như lai
được vô thượng giác ?
phải chăng Như lai
có sự thuyết pháp ?
Trưởng lão thưa rằng
kính bạch Thế tôn,
theo con hiểu biết
ý của Ngài nói,
thì không thể có
một pháp khẳng định
để được mệnh danh
là vô thượng giác,
cũng không thể có
một pháp khẳng định
để được gọi là
Thế tôn thuyết pháp.
Tại sao như vậy,
vì Pháp Ngài nói
không thể nắm lấy
không thể diễn tả,
không phải là pháp
không phải phi pháp
lý do là vì
hết thảy hiền thánh
toàn do Vô vi
biểu hiện khác biệt.

(10)
(263-300) Trưởng lão Thiện hiện,
ông nghĩ thế nào,
có ai đem cho
đủ hết bảy loại
vàng ngọc chất đầy
đại thiên thế giới,
thì người cho ấy
được phước nhiều không ?
rất nhiều, bạch Ngài ;
vì phước đức ấy
Ngài đã nói là
tính phi phước đức,
thế nên Ngài nói
phước đức rất nhiều.
Trưởng lão Thiện hiện,
nhưng nếu có ai
từ pháp thoại này
tiếp nhận ghi nhớ
dầu là chỉ được
chỉnh cú bốn câu,
và biết đem nói
cho bao người khác,
thì phước người ấy
vẫn hơn người trước.
Tại sao như vậy,
vì lẽ, trưởng lão,
hết thảy Phật đà
cùng với Phật pháp
– Pháp vô thượng giác
của các Phật đà –
toàn là xuất ra
từ pháp thoại này.
Trưởng lão Thiện hiện,
gọi là Phật pháp
thì Như lai nói
là phi Phật pháp,
thế nên Như lai
nói là Phật pháp.

(11)
(301-392) Trưởng lão Thiện hiện,
ông nghĩ thế nào,
vị Tu đà hoàn
có ý nghĩ rằng
ta được đạo quả
Tu đà hoàn chăng ?
Trưởng lão thưa Ngài
không, bạch Thế tôn ;
tại sao như vậy,
vì Tu đà hoàn
là Vào dòng nước,
thế nhưng thật ra
không có cái gì
nhập vào đâu cả :
không nhập sắc thanh,
hương, vị, xúc, pháp,
nên được mệnh danh
là Tu đà hoàn.
Trưởng lão Thiện hiện,
ông nghĩ thế nào,
vị Tư đà hàm
có ý nghĩ rằng
ta được đạo quả
Tư đà hàm chăng ?
Trưởng lão thưa Ngài
không, bạch Thế tôn ;
tại sao như vậy,
vì Tư đà hàm
là Một trở lại,
thế nhưng thật ra
không có cái gì
một lần trở lại,
nên được mệnh danh
là Tư đà hàm.
Trưởng lão Thiện hiện,
ông nghĩ thế nào,
vị A na hàm
có ý nghĩ rằng
ta được đạo quả
A na hàm chăng ?
Trưởng lão thưa Ngài,
không, bạch Thế tôn ;
tại sao như vậy,
vì A na hàm
là Không trở lại,
thế nhưng thật ra
không có cái gì
không còn trở lại,
nên được mệnh danh
là A na hàm.
Trưởng lão Thiện hiện,
ông nghĩ thế nào,
vị A la hán
có ý nghĩ rằng
ta được đạo quả
A la hán chăng ?
Trưởng lão thưa Ngài,
không, bạch Thế tôn ;
tại sao như vậy,
vì lẽ thật ra
không có cái gì
là A la hán,
nên được mệnh danh
là A la hán.
Kính bạch Thế tôn,
nếu vị La hán
nghĩ rằng mình được
đạo quả La hán,
thì như thế là
chấp trước ngã nhân,
chấp trước chúng sinh,
chấp trước thọ giả.
Bạch Ngài, Ngài nói
trong số những người
được định Không cãi,
con là hơn hết,
con là La hán
ly dục bậc nhất ;
nhưng con không có
ý nghĩ mình là
một vị La hán
ly dục bậc nhất.
Nếu con còn nghĩ
mình là La hán,
thì Ngài không nói
Thiện hiện là người
thích thú làm theo
chánh định Không cãi ;
vì con không còn
làm theo gì cả,
nên Ngài nói con
theo định Không cãi.

(12)
(393-402) Ðức Thế tôn bảo
trưởng lão Thiện hiện,
ông nghĩ thế nào,
Như lai xưa kia
nơi đức Nhiên đăng,
được pháp gì chăng ?
Không, bạch Thế tôn ;
nơi đức Nhiên đăng,
thực sự Thế tôn
không được pháp gì.

(13)
(403-426) Trưởng lão Thiện hiện,
ông nghĩ thế nào,
phải chăng Bồ tát
trang hoàng cõi Phật ?
Không, bạch Thế tôn ;
lý do là vì
trang hoàng cõi Phật,
sự trang hoàng ấy
Thế tôn đã nói
là phi trang hoàng,
thế nên Ngài nói
đó là trang hoàng.
Do vậy, trưởng lão,
Bồ tát đại sĩ
hãy sinh cái tâm
trong sạch như vầy :
không ở nơi sắc
mà sinh tâm ra,
không ở nơi thanh,
hương, vị, xúc, pháp,
mà sinh tâm ra ;
hãy đừng ở vào
bất cứ chỗ nào
mà sinh tâm ra.

(14)
(427-438) Trưởng lão Thiện hiện,
ví dụ có người
thân thể cao lớn
như núi Tu di,
ông nghĩ thế nào,
thân ấy lớn không ?
rất lớn, bạch Ngài ;
tại sao, bởi vì
Ngài nói thân lớn
là phi thân lớn,
thế nên Ngài nói
đó là thân lớn.

(15)
(439-506) Trưởng lão Thiện hiện,
giả thiết sông Hằng
có bao nhiêu cát,
thì mỗi hạt cát,
là một sông Hằng,
ông nghĩ thế nào,
số cát tất cả
sông Hằng như vậy
nhiều hay không nhiều ?
rất nhiều, bạch Ngài ;
số lượng sông Hằng
đã là vô số,
huống chi số cát
những sông Hằng ấy.
Trưởng lão Thiện hiện,
với lời nói thật,
Như lai hôm nay
nói với trưởng lão :
giả sử thiện nam
hay thiện nữ nào
đem hết bảy loại
vàng ngọc chất đầy
thế giới đại thiên
nhiều như số cát
những sông Hằng ấy
mà làm bố thí,
thì phước họ được
là nhiều hay ít ?
Trưởng lão kính thưa,
rất nhiều, bạch Ngài.
Trưởng lão Thiện hiện,
nếu có thiện nam
hay thiện nữ khác
với pháp thoại này,
tiếp nhận ghi nhớ
dầu chỉ bốn câu,
và biết đem nói
cho bao người khác,
thì phước người này
hơn phước người trước.
Thêm nữa, trưởng lão,
chỗ nào giảng dạy
pháp thoại như vầy,
dầu chỉ bốn câu,
trưởng lão cũng phải
nhận thức chỗ ấy,
tất cả thế giới
chư thiên nhân loại
và a tu la
đều nên hiến cúng
chùa tháp Như lai.
Huống chi có người
tiếp nhận ghi nhớ,
đọc xét văn nghĩa,
tụng được thuộc lòng,
giảng nói cho người
trọn pháp thoại này ;
trưởng lão phải biết
người ấy đạt được
cái pháp tối thượng
hiếm có bậc nhất,
và những địa điểm
người ấy giảng dạy
pháp thoại như vầy
là có Như lai
hay có các vị
đệ tử cao trọng.

(16)
(507-532) Vào lúc bấy giờ
trưởng lão Thiện hiện
bạch đức Thế tôn,
pháp thoại như vầy
nên gọi tên gì ?
chúng con cần phải
ghi nhớ thế nào ?
Ðức Thế tôn dạy,
trưởng lão Thiện hiện,
pháp thoại như vầy
nên gọi tên là
Kim cương bát nhã
ba la mật đa,
trưởng lão hãy nhớ
pháp thoại như vầy
qua danh hiệu ấy.
Tại sao như vậy,
trưởng lão Thiện hiện,
bởi vì bát nhã
ba la mật đa
thì Như lai nói
là phi bát nhã
ba la mật đa,
thế nên Như lai
nói là bát nhã
ba la mật đa.

(17)
(533-540) Trưởng lão Thiện hiện,
ông nghĩ thế nào,
Như lai có sự
thuyết pháp hay không ?
Trưởng lão thưa Ngài,
không, bạch Thế tôn,
Thế tôn không có
thuyết pháp gì cả.

(18)
(541-558) Trưởng lão Thiện hiện,
ông nghĩ thế nào,
thế giới đại thiên
có bao vi trần,
số lượng nhiều không ?
rất nhiều, bạch Ngài.
Trưởng lão Thiện hiện,
những vi trần ấy,
Như lai nói chúng
là phi vi trần,
thế nên Như lai
nói là vi trần.
Và bao thế giới,
Như lai cũng nói
những thế giới ấy
là phi thế giới,
thế nên Như lai
nói là thế giới.

(19)
(559-572) Trưởng lão Thiện hiện
trong ý của ông
ông nghĩ thế nào,
có thể hay không
nhìn thấy Như lai
bằng ba mươi hai
đặc tướng siêu nhân ?
Không, bạch Thế tôn ;
tại sao như vậy,
vì các đặc tướng
thì Thế tôn nói
là phi đặc tướng,
thế nên Thế tôn
nói là đặc tướng.

(20)
(573-586) Trưởng lão Thiện hiện,
nếu có thiện nam
hay thiện nữ nào
đem thân mạng mình
bằng cát sông Hằng
mà bố thí cả,
và có người khác
với pháp thoại này
tiếp nhận ghi nhớ
dầu chỉ bốn câu,
và đem giảng nói
cho bao người khác,
thì phước người này
quá nhiều hơn nữa.

(21)
(587-662) Vào lúc bấy giờ
trưởng lão Thiện hiện,
nghe pháp thoại này
lĩnh hội sâu xa,
lòng đầy xúc cảm,
rơi lụy mà khóc.
Trưởng lão thưa rằng,
thật quá hiếm có,
kính bạch Thế tôn ;
Ngài đã tuyên thuyết
pháp thoại cực sâu.
Từ khi có được
con mắt tuệ giác
cho đến ngày nay,
con chưa nghe được
pháp thoại như vầy.
Bạch Ngài, có ai
nghe pháp thoại này
tin tưởng trong sáng
và phát sinh được
cái tuệ giác thật,
thì biết người ấy
đạt được công đức
hiếm có bậc nhất.
Kính bạch Thế tôn,
tuệ giác thật ấy
thì Ngài nói là
phi tuệ giác thật,
thế nên Ngài nói
là tuệ giác thật.
Kính bạch Thế tôn,
hôm nay con được
nghe pháp thoại này,
tin tưởng lĩnh hội,
tiếp nhận ghi nhớ,
thì không khó mấy.
Nhưng nếu tương lai,
năm trăm năm sau
người nào nghe được
pháp thoại như vầy,
tin tưởng, lĩnh hội,
tiếp nhận, ghi nhớ,
mới hiếm có nhất.
Tại sao như vậy,
bởi vì người ấy
thì không còn có
ý tưởng ngã nhân
chúng sinh thọ giả –
Ý tưởng ngã nhân
chúng sinh thọ giả
là phi ý tưởng :
phi mọi ý tưởng
thì thế gọi là
chư Phật như lai.
Ðức Thế tôn dạy
trưởng lão Thiện hiện,
thật đúng như vậy :
nếu có người này
được nghe pháp thoại
Bát nhã như vầy
mà không kinh ngạc,
cũng không sợ hãi,
thì biết người ấy
cực kỳ hiếm có.
Tại sao, trưởng lão,
bởi vì Bát nhã
chính là tối thượng
ba la mật đa,
và Như lai nói
cái pháp tối thượng
ba la mật đa
là phi tối thượng
ba la mật đa,
thế nên Như lai
nói là tối thượng
ba la mật đa.

(22)
(663-696) Trưởng lão Thiện hiện,
cái pháp nhẫn nhục
ba la mật đa,
Như lai cũng nói
là phi nhẫn nhục
ba la mật đa,
thế nên Như lai
nói là nhẫn nhục
ba la mật đa.
Tại sao trưởng lão,
vì như xưa kia,
trong khi Như lai
bị Ca lị vương
cắt thịt khắp nơi
tay chân Như lai,
Như lai không có
ý tưởng ngã nhân
chúng sinh thọ giả.
Nếu lúc bấy giờ
Như lai còn có
ý tưởng ngã nhân
chúng sinh thọ giả
thì phải sinh ra
giận dữ oán hận.
Trưởng lão Thiện hiện,
Như lai lại nhớ
trong thì quá khứ,
có năm trăm đời
Như lai đã làm
tiên nhân Nhẫn nhục.
Vào lúc bấy giờ,
Như lai cũng không
ý tưởng ngã nhân
chúng sinh thọ giả.

(23)
(697-758) Vì lý do ấy,
trưởng lão Thiện hiện,
Bồ tát thì phải
rời mọi ý tưởng
mà phát huy tâm
vô thượng bồ đề ;
đừng ở nơi sắc
mà sinh tâm ra,
đừng ở nơi thanh,
hương, vị, xúc, pháp,
mà sinh tâm ra.
Hãy sinh cái tâm
không ở đâu cả.
Nếu tâm ở đâu
thì chính như thế
là phi trú ở.
Vì lý do này,
Như lai nói rằng
Bồ tát thì phải
không ở sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp,
mà làm bố thí.
Trưởng lão Thiện hiện,
Bồ tát thì vì
ích lợi chúng sinh
một cách khắp cả
mà hãy bố thí
theo cách như vậy.
Vì Như lai nói
ý tưởng chúng sinh
là phi ý tưởng,
Như lai cũng nói
hết thảy chúng sinh
là phi chúng sinh.
Trưởng lão Thiện hiện,
Như lai là người
nói phải, nói chắc,
nói như sự thật,
nói không lừa đảo,
nói không mâu thuẫn.
Trưởng lão Thiện hiện,
Pháp mà Như lai
đã chứng ngộ được,
cái Pháp như vậy
không phải chắc chắn,
không phải trống rỗng.
Trưởng lão Thiện hiện,
Bồ tát nếu tâm
ở nơi mọi thứ
mà làm bố thí,
thì như một người
vào trong bóng tối,
không còn thấy được
một thứ gì hết ;
Bồ tát nếu tâm
không ở mọi thứ
mà làm bố thí,
thì như một người
đã có mắt sáng,
lại có ánh sáng
mặt trời soi rõ,
nên thấy đủ cả.

(24)
(759-776) Trưởng lão Thiện hiện,
trong thì vị lai,
nếu có thiện nam
hay thiện nữ nào,
đối với pháp thoại
Bát nhã như vầy,
tiếp nhận ghi nhớ,
đọc xét văn nghĩa,
tụng được thuộc lòng,
nói cho người khác,
thì thế là được
Như lai sử dụng
tuệ giác Như lai
mà biết rất rõ,
và thấy rất rõ,
rằng người như vậy
ai cũng đạt được
vô lượng công đức.

(25)
(777-848) Trưởng lão Thiện hiện,
nếu có thiện nam
hay thiện nữ nào
buổi sáng đã đem
hằng sa thân mạng
mà bố thí cả,
buổi trưa cũng đem
hằng sa nhân mạng
mà bố thí nữa,
buổi chiều lại đem
hằng sa nhân mạng
mà bố thí luôn,
và sự bố thí
thân mạng như vậy
làm đến trăm ngàn
vạn ức thời kỳ ;
và có người khác
nghe pháp thoại này,
trong lòng tin tưởng
chứ không đối kháng,
thì phước người này
hơn phước người trước,
huống chi có người
sao chép ấn hành
tiếp nhận ghi nhớ,
đọc xét văn nghĩa,
tụng được thuộc lòng,
nói cho người khác.
Trưởng lão Thiện hiện,
chính yếu mà nói
thì bài pháp thoại
Bát nhã như vầy
có những công đức
ngoài tầm nghĩ bàn,
ước lượng, đối chiếu,
siêu việt giới hạn ;
Như lai nói cho
những người đi theo
giáo pháp đại thừa,
nói cho những người
đi theo giáo pháp
đại thừa tối thượng.
Ai có năng lực
tiếp nhận ghi nhớ,
đọc xét văn nghĩa,
tụng được thuộc lòng,
trình bày phong phú
cho bao người khác,
thì chính Như lai
biết rõ người ấy,
thấy rõ người ấy,
đạt được công đức
không thể ước lượng,
không thể đối chiếu,
không có giới hạn,
ngoài tầm nghĩ bàn.
Những người như vậy
có thể gánh vác
tuệ giác vô thượng
của ta, Như lai.
Tại sao như thế,
trưởng lão Thiện hiện,
bởi vì những ai
ưa pháp tiểu thừa,
vẫn còn ngã nhân,
chúng sinh thọ giả,
thì với pháp này
không thể lắng nghe,
tiếp nhận ghi nhớ,
đọc xét văn nghĩa,
tụng được thuộc lòng,
nói cho người khác.

(26)
(848-862) Trưởng lão Thiện hiện,
bất cứ chỗ nào,
hễ có bản kinh
Kim cương bát nhã,
thì cả thế giới
chư thiên, nhân loại
và a tu la,
đều nên hiến cúng.
Nên biết chỗ ấy
chính là chùa tháp
tôn thờ Như lai ;
hãy lạy, đi nhiễu,
tung rãi các loại
bông hoa, hương liệu.

(27)
(863-878) Thêm nữa, trưởng lão,
bất cứ thiện nam
hay thiện nữ nào
học hỏi ghi nhớ,
nghiên cứu, tụng thuộc
kinh Kim cương này
mà bị khinh dễ,
thì biết người ấy
tội ác đời trước
đáng sa chỗ dữ,
nhưng vì đời này
bị người khinh dễ
thì tội ác đó
tiêu tan hết cả,
người ấy sẽ được
tuệ giác vô thượng.

(28)
(879-934) Trưởng lão Thiện hiện,
Như lai nhớ lại
quá khứ vô số
55
thời kỳ vô số,
trước khi Như lai
gặp đức Nhiên đăng,
thì đã gặp được
tám trăm bốn ngàn
vạn ức trăm triệu
chư Phật như lai,
đối với Ngài nào
Như lai cũng đồng
thừa sự hiến cúng
chứ không bỏ qua.
Nhưng nếu có ai
ở trong thời kỳ
cuối cùng sau này,
mà có năng lực
học hỏi, ghi nhớ,
nghiên cứu tụng thuộc
bản kinh Kim cương
bát nhã này đây,
thì bao công đức
người ấy đạt được,
công đức Như lai
phụng sự chư Phật
không bằng phần trăm,
phần ngàn vạn ức,
đến nỗi toán pháp
và ví dụ nữa,
cũng không bằng được
một phần nào cả.
Trưởng lão Thiện hiện,
nếu có thiện nam
hay thiện nữ nào
ở trong thời kỳ
cuối cùng sau này,
mà có khả năng
tiếp nhận, ghi nhớ,
nghiên cứu, tụng thuộc
bản kinh Kim cương
bát nhã như vầy,
bao nhiêu công đức
mà họ đạt được,
nếu Như lai nói
một cách đầy đủ,
thì tất có kẻ
nghe mà nổi khùng,
bối rối, hoài nghi,
không thể tin được.
Trưởng lão Thiện hiện,
phải nhận thức rằng
ý nghĩa Kim cương
không thể nghĩ bàn,
hiệu quả cũng vậy
không thể nghĩ bàn.

(29)
(935-970) Vào lúc bấy giờ
trưởng lão Thiện hiện
kính bạch Thế tôn,
thiện nam thiện nữ
đã phát tâm nguyện
vô thượng bồ đề,
thì phải làm sao
để ở tâm ấy ?
và phải làm sao
để sửa tâm mình ?
Ðức Thế tôn dạy,
trưởng lão Thiện hiện,
thiện nam thiện nữ
phát tâm bồ đề,
thì sửa tâm mình
bằng tuệ giác này :
ta phải làm cho
hết thảy chúng sinh
được niết bàn rồi
mà thật không thấy
một chúng sinh nào
được niết bàn cả.
Lý do là vì
Bồ tát mà có
ý tưởng ngã nhân
chúng sinh thọ giả,
thì như thế là
không phải Bồ tát.
Tại sao như vậy,
trưởng lão Thiện hiện,
bởi vì thật ra
không có pháp gì
là người phát tâm
vô thượng bồ đề.

(30)
(971-1042) Trưởng lão Thiện hiện,
ông nghĩ thế nào,
nơi đức Nhiên đăng,
phải chăng Như lai
có một pháp gì
gọi là đạt được
vô thượng bồ đề ?
Không, bạch Thế tôn ;
theo chỗ con hiểu
ý nghĩa đã được
Thế tôn dạy cho
thì khi Ngài ở
nơi đức Nhiên đăng,
không có pháp gì
gọi là đạt được
vô thượng bồ đề.
Ðức Thế tôn dạy,
đúng vậy, Thiện hiện,
đúng là không có
pháp gì gọi là
Như lai đạt được
vô thượng bồ đề.
Nếu có pháp gì
gọi là Như lai
đạt được tuệ giác
vô thượng bồ đề,
thì đức Nhiên đăng
đã không ghi nhận,
rằng trong tương lai
ông thành Phật đà,
danh hiệu gọi là
Thích ca mâu ni ;
vì thật không có
pháp gì gọi là
Như lai đạt được
vô thượng bồ đề,
nên đức Nhiên đăng
mới ghi nhận cho,
bằng cách nói rằng
ông thành Phật đà
danh hiệu gọi là
Thích ca mâu ni
tại sao như vậy ?
vì chữ Như lai
chính là nghĩa Như
của tất cả pháp.
Nếu có ai nói
Như lai đạt được
vô thượng bồ đề,
thì nói như vậy
là không chính xác,
bởi vì, trưởng lão,
thật ra không có
pháp gì gọi là
Như lai đạt được
vô thượng bồ đề,
sự đạt được ấy
không phải chắc chắn,
không phải trống rỗng.
Vì lý do này,
Như lai tuyên ngôn
rằng tất cả pháp
toàn là Phật pháp.
Trưởng lão Thiện hiện,
tất cả pháp ấy
Như lai đã nói
phi tất cả pháp,
nên Như lai nói
là tất cả pháp.

(31)
(1043-1068) Trưởng lão Thiện hiện,
ví như có người
thân thể cao lớn…
Trưởng lão Thiện hiện
liền bạch Thế tôn,
thân cao lớn ấy
thì Ngài đã nói
phi thân cao lớn,
thế nên Ngài nói
là thân cao lớn.
Trưởng lão Thiện hiện,
Bồ tát cũng vậy :
Bồ tát mà nói
ta phải làm cho
vô số chúng sinh
dều được niết bàn,
thì không được gọi
là vị Bồ tát ;
trưởng lão Thiện hiện,
bởi vì thật ra
không có pháp gì
gọi là Bồ tát.
Vì thế Như lai
nói tất cả pháp
không phải ngã nhân
chúng sinh thọ giả.

(32)
(1069-1086) Trưởng lão Thiện hiện,
nếu Bồ tát nói
ta phải trang hoàng
cõi Phật của ta,
thì không được gọi
là vị Bồ tát.
Tại sao, trưởng lão,
trang hoàng cõi Phật
thì Như lai nói
là phi trang hoàng,
thế nên Như lai
nói là trang hoàng.
Trưởng lão Thiện hiện,
Bồ tát thấu triệt
về sự vô ngã,
Như lai mới nói
vị ấy đích thực
là vị Bồ tát.

(33)
(1087-1138) Trưởng lão Thiện hiện,
ông nghĩ thế nào,
có đúng Như lai
hiện có mắt thịt,
mắt trời phải không ?
Phải, bạch Thế tôn,
Ngài có mắt thịt
và có mắt trời.
Có đúng Như lai
hiện có mắt tuệ,
mắt pháp phải không ?
Phải, bạch Thế tôn,
Ngài có mắt tuệ
và có mắt pháp.
Như lai hiện có
mắt Phật phải không ?
Phải, bạch Thế tôn,
Ngài có mắt Phật.
Trưởng lão Thiện hiện,
ông nghĩ thế nào,
cát trong sông Hằng
Như lai cũng nói
là cát phải không ?
Phải, Ngài nói cát.
Ông nghĩ thế nào,
có bao nhiêu cát
trong một sông Hằng
thì có sông Hằng
bằng số cát ấy,
và những cõi Phật
bằng với số cát
những sông Hằng này
thì nhiều hay không ?
Rất nhiều, bạch Ngài.
Trưởng lão Thiện hiện,
bao nhiêu tâm tưởng
tất cả chúng sinh
trong những cõi Phật
được nói như vậy,
Như lai biết hết.
Tại sao, trưởng lão,
Như lai nói rằng
bao tâm tưởng ấy
là phi tâm tưởng,
thế nên Như lai
nói là tâm tưởng :
Tâm tưởng quá khứ
không thể nhận được,
tâm tưởng hiện tại
không thể nhận được,
tâm tưởng vị lai
không thể nhận được.

(34)
(1139-1156) Trưởng lão Thiện hiện,
giả sử có ai
đem hết vàng ngọc
đầy cõi đại thiên
mà bố thí cả,
người này vì thế
được phước nhiều không ?
Rất nhiều, bạch Ngài,
người này vì thế
được phước rất nhiều.
Trưởng lão Thiện hiện,
nếu phước có thật
thì Như lai đã
không nói phước nhiều,
nhưng vì phước ấy
thật là phi phước,
thế nên Như lai
nói là phước nhiều.

(35)
(1157-1196) Trưởng lão Thiện hiện,
ông nghĩ thế nào,
có thể hay không
nhìn thấy Như lai
bằng cái sắc thân
toàn hảo đặc tướng ?
Không, bạch Thế tôn,
không nên nhìn Ngài
bằng cái sắc thân
toàn hảo đặc tướng.
Tại sao như vậy,
vì cái sắc thân
toàn hảo đặc tướng
thì Thế tôn nói
là phi sắc thân
toàn hảo đặc tướng,
đó là lý do
tại sao Thế tôn
nói là sắc thân
toàn hảo đặc tướng.
Trưởng lão Thiện hiện,
ông nghĩ thế nào,
có thể hay không
nhìn thấy Như lai
bằng các đặc tướng
toàn hảo tất cả ?
Không, bạch Thế tôn,
không nên nhìn Ngài
bằng các đặc tướng
toàn hảo tất cả.
Tại sao như vậy,
vì các đặc tướng
toàn hảo tất cả
thì Thế tôn nói
là phi đặc tướng
toàn hảo tất cả,
đó là lý do
tại sao Thế tôn,
nói là đặc tướng
toàn hảo tất cả.

(36)
(1197-1216) Trưởng lão Thiện hiện,
đừng nói Như lai
có cái ý nghĩ
Như lai thuyết pháp.
Ðừng nói như vậy.
Lý do tại sao,
vì nói Như lai
có sự thuyết pháp
thì thế chính là
phỉ báng Như lai.
Nói thế tức là
không khéo lĩnh hội
ý nghĩa đã được
Như lai tuyên thuyết.
Trưởng lão Thiện hiện,
gọi là thuyết pháp
là thật không có
pháp gì để thuyết,
như thế mới được
gọi là thuyết pháp.

(37)
(1217-1234) Lúc ấy Thiện hiện,
người lấy tuệ giác
mà làm tính mạng,
kính bạch Thế tôn,
có thể có ai
trong thì vị lai
nghe Pháp như vầy
mà tin tưởng không ?
Ðức Thế tôn dạy,
những người như vậy
không phải chúng sinh
hay không chúng sinh ;
tại sao, trưởng lão,
gọi là chúng sinh
thì Như lai nói
là phi chúng sinh,
vì thế Như lai
gọi là chúng sinh.

(38)
(1235-1264) Trưởng lão Thiện hiện,
kính bạch Thế tôn,
Thế tôn đạt được
vô thượng bồ đề,
thật ra là sự
phi đạt được chăng ?
Ðúng, đúng như vậy,
trưởng lão Thiện hiện ;
Như lai đối với
vô thượng bồ đề
không có chút gì
gọi là đạt được
nên được gọi là
vô thượng bồ đề.
Thêm nữa, trưởng lão,
Pháp thì đồng đẳng,
không bất đồng đẳng,
thế nên gọi là
vô thượng bồ đề :
không có ngã nhân
chúng sinh thọ giả
mà làm pháp lành,
thế thì đạt được
vô thượng bồ đề.
Trưởng lão Thiện hiện,
gọi là pháp lành
thì Như lai nói
là phi pháp lành,
thế nên Như lai
gọi là pháp lành.

(39)
(1265-1282) Trưởng lão Thiện hiện,
có người đem cho
bảy loại vàng ngọc
chất đống bằng với
những núi Tu di
trong cõi đại thiên,
và có người khác
tiếp nhận ghi nhớ
dầu chỉ bốn câu
bản kinh Bát nhã
ba la mật này,
và nói cho người,
thì phước người trước
không bằng phần trăm,
phần ngàn vạn ức,
toán pháp, ví dụ,
cũng không bằng được
một phần nào cả.

(40)
(1283-1308) Trưởng lão Thiện hiện,
các vị đừng nói
Như lai nghĩ rằng
Như lai giải thoát
các loại chúng sinh ;
trưởng lão Thiện hiện,
đừng nghĩ như vậy,
vì thật không có
một chúng sinh nào
Như lai giải thoát.
Nếu có chúng sinh
Như lai giải thoát,
thì thế chính là
Như lai đã có
ý tưởng ngã nhân
chúng sinh thọ giả.
Trưởng lão Thiện hiện,
ý tưởng về ngã
thì Như lai nói
phi ý tưởng ngã,
nhưng người tầm thường
thì bảo là ngã.
Trưởng lão Thiện hiện,
người tầm thường ấy
Như lai nói là
người phi tầm thường.

(41)
(1309-1348) Trưởng lão Thiện hiện,
ông nghĩ thế nào,
phải chăng có thể
nhìn thấy Như lai
bằng ba mươi hai
đặc tướng siêu nhân ?
Kính bạch Thế tôn,
theo chỗ con hiểu
nghĩa của Ngài dạy,
không thể nhìn Ngài
bằng ba mươi hai
đặc tướng siêu nhân.
Ðức Thế tôn dạy,
trưởng lão Thiện hiện,
thật đúng như vậy,
bởi vì nếu nhìn
ba mươi hai nét
đặc tướng siêu nhân
mà cho có thể
nhìn thấy Như lai
thì Chuyển luân vương
cũng là Như lai.
Thế nên không thể
nhìn thấy Như lai
bằng ba mươi hai
đặc tướng siêu nhân ;
hãy nhìn Như lai
bằng cách nhìn thấy
tất cả đặc tướng
là phi đặc tướng.
Bãy giờ Thế tôn
nói chỉnh cú này :
“Nếu đem sắc tướng
nhìn thấy Như lai,
hoặc đem âm thanh
nhận thức Như lai,
thì những người ấy
đã đi lạc đường,
không còn có thể
thấy biết Như lai”.

(42)
(1349-1360) Trưởng lão Thiện hiện,
nếu ông nghĩ rằng
Như lai không do
đặc tướng toàn hảo
mà được tuệ giác
vô thượng bồ đề,
thì này trưởng lão,
đừng nghĩ như vậy,
rằng ta, Như lai,
không do đặc tướng
toàn hảo mà được
vô thượng bồ đề.

(43)
(1361-1372) Trưởng lão Thiện hiện,
nếu ông nghĩ rằng
những người phát tâm
vô thượng bồ đề
nói rằng các pháp
là tiêu diệt hẳn,
thì đừng nghĩ thế,
tại sao, bởi vì
những người phát tâm
vô thượng bồ đề
đối với các pháp
không nói tiêu diệt.

(44)
(1373-1400) Trưởng lão Thiện hiện,
một vị Bồ tát
đem cho tất cả
bảy loại vàng ngọc
chất đầy thế giới
như cát sông Hằng ;
vị Bồ tát khác
biết tất cả pháp
toàn là vô ngã,
thành được sức Nhẫn,
thì Bồ tát này
hơn Bồ tát trước.
Lý do là vì,
trưởng lão Thiện hiện,
Bồ tát thì không
tiếp nhận phước đức.
Trưởng lão Thiện hiện
kính bạch Thế tôn,
tại sao Bồ tát
không nhận phước đức
Bởi vì, Thiện hiện,
Bồ tát làm hết
mọi sự phước đức,
thế nhưng không nên
tham đắm phước đức,
Như lai do vậy
nói là không nhận
mọi sự phước đức.

(45)
(1401-1412) Trưởng lão Thiện hiện,
nếu nói Như lai
có đến, có đi,
có ngồi, có nằm,
thì người nói ấy
không hiểu ý nghĩa
Như lai đã nói.
Tại sao như vậy,
bởi vì Như lai
không đến từ đâu,
không đi về đâu,
nên gọi Như lai.

(46)
(1413-1530) Trưởng lão Thiện hiện,
có ai nghiền nát
thế giới đại thiên
thành ra vi trần,
thì ông nghĩ sao,
những vi trần ấy
là nhiều hay ít ?
Rất nhiều, bạch Ngài.
Tại sao, bởi vì
những vi trần ấy
nếu là thật có,
thì Ngài không nói
là những vi trần –
Thế nhưng vi trần
thì Ngài đã nói
là phi vi trần,
do đó Ngài nói
là những vi trần.

(47)
(1069-1086) Và bạch Thế tôn,
cái mà Ngài nói
thế giới đại thiên
là phi thế giới,
vì thế nên được
gọi là thế giới.
Tại sao như vậy,
bởi vì nếu nói
thế giới thật có,
thì đó chỉ là
ý tưởng hợp nhất –
Ý tưởng hợp nhất
thì Ngài nói phi
ý tưởng hợp nhất,
nên được gọi là
ý tưởng hợp nhất.
Ðức Thế tôn dạy,
trưởng lão Thiện hiện,
ý tưởng hợp nhất
thì không là gì
để mà nói cả,
nhưng người tầm thường
đam mê dính mắc
cái sự như vậy.

(48)
(1455-1478) Trưởng lão Thiện hiện,
nếu có ai nói
Thế tôn nói về
ý tưởng ngã nhân
chúng sinh thọ giả,
thì này trưởng lão,
ông nghĩ thế nào,
người đó có hiểu
ý nghĩa Như lai
đã nói hay không ?
Không, bạch Thế tôn,
người ấy không hiểu
ý nghĩa đã được
Thế tôn nói ra.
Lý do tại sao,
vì Thế tôn nói
ý tưởng ngã nhân
chúng sinh thọ giả
thì tức là phi
ý tưởng ngã nhân
chúng sinh thọ giả,
thế nên gọi là
ý tưởng ngã nhân
chúng sinh thọ giả.

(49)
(1479-1494) Trưởng lão Thiện hiện,
những người phát tâm
vô thượng bồ đề,
thì với các pháp
hãy biết như vậy,
hãy thấy như vậy,
tin tưởng, lĩnh hội
cũng là như vậy :
đừng nên trú ở
nơi ý tưởng pháp.
Trưởng lão Thiện hiện,
nói ý tưởng pháp
thì Như lai nói
phi ý tưởng pháp,
vì thế mới gọi
là ý tưởng pháp.

(50)
(1495-1512) Trưởng lão Thiện hiện,
nếu có người nào
đem cho tất cả
bảy loại vàng ngọc
chất đầy vô lượng
vô số thế giới,
và có người khác,
không kể thiện nam
hay là thiện nữ,
đối với pháp thoại
Bát nhã như vầy,
tiếp nhận ghi nhớ,
nghiên cứu tụng thuộc,
diễn tả cho người,
thì dầu chỉ được
chỉnh cú bốn câu,
phước họ đạt được
vẫn hơn người trước.

(51)
(1513-1528) Diễn tả cho người
bằng cách thế nào ?
Bằng cách đừng nắm
ý tưởng về pháp,
mà như sự Như
chứ không dao động.
Tại sao mà phải
diễn tả cách ấy ?
Bởi vì tất cả
các pháp hữu vi
toàn là giống như
chiêm bao, ảo thuật,
bóng nước, ảnh tượng,
sương mai, điện chớp ;
rất cần phải có
cái nhìn như vậy.

(52)
(1529-1344) Khi đức Thế tôn
tuyên thuyết hoàn tất
bản kinh Kim cương
bát nhã này rồi,
trưởng lão Thiện hiện,
các vị tỷ kheo
và tỷ kheo ni,
những cận sự nam
và cận sự nữ,
toàn thể thế giới
chư thiên, nhân loại,
và a tu la,
được nghe những điều
Thế tôn tuyên thuyết,
ai cũng hoan hỷ,
tín thọ, phụng hành.

hồi hướng

Nghĩa lý kinh Kim cương
là ngoài tầm nghĩ bàn,
phước đức kinh Kim cương
cũng siêu việt như vậy.
Nay con được tụng niệm
cầu nguyện cùng chúng sinh
ở trong cảnh giới này
mà thấy phi cảnh giới,
và chính nơi thân này
mà thấy là Phật thân.

Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni thế tôn (3 lần)
Kính lạy đức Thích ca mâu ni thế tôn, cùng hết thảy Phật bảo.
Kính lạy kinh Kim cương bát nhã ba la mật, cùng hết thảy Pháp bảo.
Kính lạy tôn giả Thiện hiện, cùng hết thảy Tăng bảo.


| 1. Chánh Văn | 2. Dẫn Nhập | 3. Lược Giải |



| 1. Chánh Văn | 2. Dẫn Nhập | 3. Lược Giải Kim Cương |

bảng viết tắt

Chính   Ðại tạng kinh bản Ðại chính tân tu.
Vạn      Tục tạng kinh bản chữ Vạn.
Td        Hoa dịch Kim cương của ngài Cưu ma la thập (đầu thế kỷ 5)
Bd        Hoa dịch Kim cương của ngài Bồ đề lưu chi (đầu thế kỷ 6).
Chd      Hoa dịch Kim cương của ngài Chân đế (giữa thế kỷ 6)
Cd        Hoa dịch Kim cương của ngài Cấp đa (cuối thế kỷ 6)
Hd       Hoa dịch Kim cương của ngài Huyền tráng (giữa thế kỷ 7)
ND       Hoa dịch Kim cương của ngài Nghĩa tịnh (đầu thế kỷ 8)
Ecd      Anh dịch Kim cương của Edward Conze, Luân đôn, 1957. Bản dịch của Lệ pháp.

Ghi chú : Td, Bd, Chd, Cd và Nd, mang số hiệu của Chính như sau : 235, 236, 237, 238 và 239, cùng nằm trong Chính 8/748-775. Hd thì thuộc số hiệu 220, Chính 7/980-985.

mục lục phần dẫn nhập

1. Kinh Kim cương  107
2. Tài liệu tham khảo để dịch giải Kim cương  109
3. Vài dòng về dịch chủ La thập và ngài Tăng triệu  110
4. Cách dịch và cách giải Kim cương được áp dụng  111
5. Ðại thể của Kim cương  113
6. Ðối tượng của Kim cương  115
7. Nội dung của Kim cương  118
     a. Ý nghĩa danh hiệu Kim cương bát nhã ba la mật 118
     b. Ngã chấp trong Kim cương  119
     c. Bát nhã của Kim cương  122
     d. Phát tâm, trú tâm và hàng tâm   124
8. Kim cương : đại thừa với tiểu thừa  125
     a. Vấn đề Phật 125
     b. Vấn đề chúng sinh thành Phật 126
     c. Vấn đề niết bàn  127
9. Thực hành Kim cương  129
10. Vị trí của Kim cương  130

 

dẫn nhập

Dẫn nhập này quá hơn những lời hướng dẫn. Ở đây thực sự giải thích những gì cần làm trước như vậy về Kim cương.

1. Kinh Kim cương

Trong văn chương Trung hoa, Kim cương và Tịnh danh của ngài La thập dịch, được ưa thích không những từ phía quần chúng mà còn từ phía trí thức. Phật tử hay người ngoài đều như vậy. Nhưng trong hai kinh ấy, Kim cương được ưa thích hơn. Liêu trai cho thấy tác giả của nó ưa thích Kim cương đến thế nào. Ðó là chỉ nói một tác phẩm dị thường.

Trong sự tụng niệm, Kim cương với Pháp hoa của ngài La thập dịch được tụng niệm nhiều nhất, ở các xứ Phật giáo văn hệ Trung hoa. Nhưng trong hai kinh ấy, Kim cương cũng được tụng niệm nhiều hơn.

Trong linh nghiệm, những sự ấy xảy ra ở Trung hoa và còn được ghi lại thì Kim cương có 113 tờ so với 37 tờ của Pháp hoa. Tất cả đều nằm trong Vạn 149/38-150. Trong số này, các tờ 60-73 là trích Thái bình quảng ký, sách ngoài, có tiếng.

Ðặc biệt nhất, Kim cương liên hệ trọn vẹn đối với lục tổ Huệ năng, một hiện tượng rất độc đáo của Phật giáo Trung hoa. Truyện kể khá rõ trong Pháp bảo đàn (Chính 48/337- 364) và đại khái như vầy. Có một chàng tiều phu không biết chữ, chưa vợ con, còn mẹ già. Một hôm nhân bán củi mà được nghe tụng Kim cương, liền đốn ngộ. Hỏi, được biết ngũ tổ Hoằng nhẫn dạy ai cũng nên tụng kinh ấy. Tiều phu liền thu xếp cho mẹ già, lặn lội đến Hoàng mai yết kiến ngũ tổ. Rồi một đêm, tế nhị và bí mật, ngũ tổ lấy ca sa trương ra che kín thiền thất, đem Kim cương giảng cho. Giảng đến câu “hãy đừng ở vào bất cứ nơi nào mà sinh tâm ra” (đoạn 13) thì tiều phu đại ngộ tất cả các pháp không ngoài tự tánh, và thưa rằng không ngờ tự tánh vốn tự trong sáng, không ngờ tự tánh vốn bất sinh diệt, không ngờ tự tánh vốn tự đủ cả, không ngờ tự tánh vốn không dao động, không ngờ tự tánh vốn sinh vạn pháp. Ðó là cuộc truyền ngôi tổ vị thứ sáu, anh chàng tiều phu liền thành lục tổ Huệ năng. Sau này lục tổ khuyên người làm theo chánh định Bát nhã bằng cách tụng niệm Kim cương, với lời nói giản dị : lúc nào chỗ nào tâm cũng đừng ngu, ngu một chút là bát nhã mất một chút, trí một chút là bát nhã sinh một chút.

Với văn dịch của Td, Kim cương hoa văn quả thật ý càng cao từ càng giản, giản mà hoa. Ðọc tụng cảm thấy tiêu sái, khoái sảng, thấy chẳng có gì mà không bỏ nổi, chẳng có gì mà không làm được.

2. Tài liệu tham khảo để dịch giải Kim cương 

Chính văn mà tôi dịch giải là Td. Nhưng để hiểu chính văn này, cần phải tham khảo sáu bản dịch khác mà bảng viết tắt đã liệt kê [xem bản viết tắt]. Các bản chú thích phải tham khảo là của ngài Tăng triệu ; của các đại sĩ Vô trước, Thế thân và Công đức thi ; của các đại sư Trí giả, Cát tạng và Khuy cơ ; của các đại sư Trí nghiễm, Ðức thanh, Trí húc và Thái hư cũng có tham khảo. Văn bản của các vị trên đây nằm trong Chính 25 và 33, trong Vạn 38 và 39, riêng của đại sư Thái hư có đến ba bản, nằm trong toàn thư tập 11.

Ðọc kỹ các bản dịch khác mới càng thấy Td được tôn sùng rất phải. Cũng nhờ đọc các bản dịch khác mới hiểu Td rõ ràng. Các bản dịch khác, Hd có lẽ bị thêm vài chỗ ; và khá kỳ, nhưng quí, là Cd cố ý không đảo trang, nhuận sắc.

3. Vài dòng về dịch chủ La thập và ngài Tăng triệu

Ai liên hệ đến Phật giáo văn hệ Trung hoa đều biết ngài La thập, nhất là biết lối dịch thượng thặng của “ông vua giới phiên dịch” ấy (từ ngữ của Lương Khải Siêu, Phật học nghiên cứu bài 6). Sinh bình ngài có một sự tự than : nếu đặt bút viết A tỳ đạt ma của đại thừa thì Ca chiên diên không bằng, nhưng ở đất Tần thì viết làm gì (Chính 55/101). Khi lâm chung, thệ nguyện nếu phiên dịch không sai ý Phật thì hỏa thiêu rồi lưỡi vẫn còn, và quả nhiên lưỡi vẫn còn. Sau đó có người cho biết những gì ngài dịch chỉ được một phần mười những gì ngài thuộc lòng (Chính55/102). Ngài thọ 70 tuổi, mất năm quí sữu (dương lịch 413) ngày 13 tháng 4 (ngài Tăng triệu ghi trong lời viếng thầy, Chính 52/264). Thì gian phiên dịch chỉ được 12 năm (401-412), tạm ghi theo Lương Khải Siêu (Phật học nghiên cứu, phụ lục bài 1).

Còn ngài Tăng triệu thì là Nhan Hồi và Tăng Sâm của ngài La thập, đứng đầu tứ thánh thập triết. Ngoài sự cọng tác việc dịch của thầy, ngài còn chú thích và trước thuật. Chú thích hiện còn hai bản là Kim cương và Tịnh danh, trước thuật hiện còn, gọi là Triệu luận. Với Triệu luận, cho đến nay ngài vẫn đứng đầu trong sự lĩnh hội Bát nhã, và ngoài đời thì cũng với Triệu luận, ngài đi vào văn học gia và văn học sử Trung hoa.

Riêng bản chú thích Kim cương thì Trung hoa thất lạc lâu lắm. Nhật bản năm 1688 mới phát hiện và ấn hành. Bản chú thích này nếu không phải viết lúc ngài La thập đang còn thì sau đó cũng không lâu, vì ngài Tăng triệu không thọ, mất lúc 31 tuổi, cùng năm với thầy (Chính 50/365). Chỉ tiếc là tôi có tìm mà chưa thấy khi ngài La thập dịch Kim cương thì ai là người bút thọ, ai là người viết tựa mà tôi tin là có, và dịch vào năm nào.

4. Cách dịch và cách giải Kim cương được áp dụng

Như đã nói, chính văn mà tôi dịch giải là Td. Lý do không những vì Td là định bản Kim cương, mà còn vì càng so sánh với các bản dịch khác càng thấy nên lấy Td làm chính văn. Ðại sư Khuy cơ, đệ tử đắc truyền của ngài Huyền tráng, mà khi chú thích Kim cương cũng chú thích Td, không chú thích bản dịch của thầy mình (Hd), như vậy cũng đủ biết giá trị của Td.

Về cách dịch, để dễ tụng, tôi cố ý dịch mỗi câu bốn chữ và mỗi đoạn không lẽ câu. Tổng cọng có 52 đoạn, 1544 câu. Tuy nhiên, để mỗi dòng một câu thì dễ tụng mà đọc không dễ hiểu như bình thường các câu liền nhau trong một dòng, nên phần tụng niệm tôi để mỗi dòng một câu, mà phần giải thích thì để các câu liền nhau như tảng văn thường. Trở lại nói cách dịch câu và đoạn như trên. Cách ấy thật mất thì giờ và công sức. Nhưng điều ấy không đáng nói. Ðiều đáng nói là dịch như vậy thì phải bớt hay phải thêm những chỗ không đáng bớt hoặc không đáng thêm, thậm chí có chỗ còn hại ý nghĩa không nhỏ, chưa nói có lúc vụng về một cách không đáng. Ấy thế nhưng tôi vẫn áp dụng cách dịch này ở đây, vì cốt cho dễ tụng.

Lối giải thì những gì cần phải giải thích trước và chung thì phải làm như vậy trong phần Dẫn nhập này, rồi sau đó giải thích chính văn. Giải thích chính văn thì bằng ba mục là phân khoa, ghi chú và lược giải. Dĩ nhiên chỗ nào không cần thì thôi một hay hai trong ba mục ấy. Riêng mục ghi chú sẽ gồm có sự khảo dị, đối chiếu với các bản dịch khác, ở những chỗ nào cần phải làm như vậy.

Cũng phải nói trước ở đây về mục phân khoa, tức phân chia và tiêu đề các tiết mục mà lập thành Mục lục. Các tiết mục này, phần đại thể thì tôi theo ngài Tăng triệu, và sẽ được nói sau đây, còn phần hệ thuộc thì tôi phải tự làm lấy. Phân chia và tiêu đề các tiết mục cũng là cách giải thích, nhưng là cách giải thích nói lên nhiều nhất ý kiến chính của người giải thích. Nhất là trường hợp Kim cương trùng văn không ít, nhưng phân chia và tiêu đề thì thấy liền văn giống mà ý khác. Tôi biết như vậy, nhất là muốn dịch giải Kim cương một cách hết lòng cẩn trọng, nên không phải muốn khoe khoang hay lập dị và tự làm như vừa nói. Tự làm chỉ vì sở tri lượng của tôi phải tự làm mà thôi.

5. Ðại thể của Kim cương

Ngài Tăng triệu nói chủ yếu của kinh này là không tuệ, nên đại thể có ba phần : Các đoạn 1-15 nói cảnh không (nhưng ý nói cảnh, chưa nói tuệ) ; các đoạn 16-28 nói tuệ không (nhưng chỉ nói tuệ, chưa nói người) ; các đoạn 29-52 nói người không (tức là Bồ tát không). Văn tự ba phần tự biểu hiện như thế, nên trước sau tuy có phần giống nhau mà thật ra ý nghĩa không giống. Trong bốn thời Phật thuyết Bát nhã, kinh này là thời đầu tiên. Lời ước lược, nghĩa phong phú, cái ý sâu kín khó mà thấy được (Vạn 38/208B).

Không tuệ là tuệ Bát nhã : tuệ giác như thật tri kiến về Như (coi ghi chú 11 của Dẫn nhập), nghĩa là không còn ngã chấp nên gọi là không tuệ. Không tuệ ấy như thật tri kiến về đối tượng của nó thì gọi là cảnh không, như thật tri kiến về bản thân của nó thì gọi là tuệ không, như thật tri kiến về chủ thể của nó (về người tu không tuệ) thì gọi là người không. Ba phần như vậy tôi đổi từ ngữ như sau và đã ghi trong Mục lục : kim 1 như thật tri kiến về đối tượng, kim 2 như thật tri kiến về tuệ giác, kim 3 như thật tri kiến về chủ thể.

Nhưng ba tiết mục đại thể này không được ngài Tăng triệu phân chia tiết mục hệ thuộc, nên việc ấy, như đã nói, tôi phải tự làm. Và vì vậy mà có sự tách các đoạn 1 đến 6 làm kinh 1 mở đầu, tách các đoạn 49 đến 52 làm kinh 3 kết thúc, còn các đoạn 7 đến 48 là kinh 2 nội dung gồm cả ba phần đại thể nói trên. Việc này không vì khuôn sáo mà vì chia tiết mục đại thể và hệ thuộc thì văn kinh tự có như vậy.

Ðiều phải nói thêm, và đây mới thật là đại thể của Kim cương, ấy là từ đại thể trên mà nhìn và nói cách khác cho thật sát văn kinh, thì đại thể kinh này có hai phần. Phần 1, với hai câu hỏi đáp mở đầu, cho thấy phải có Bát nhã loại bỏ ngã chấp mới phát nguyện và phát huy bồ đề tâm một cách chính xác. Phần 2, từ đó cho đến cuối, cho thấy Bát nhã ấy loại bỏ ngã chấp như thế nào. Cả hai phần này cùng với chi tiết như Mục lục ghi (mà đổi số chút ít) chứ không chi khác.

6. Ðối tượng của Kim cương

Kinh này Phật cốt dạy cho ai ? Trong phần mở đầu, trừ Nd và Ecd sau 1250 vị tỷ kheo ghi thêm chúng đại bồ tát, tất cả các bản khác chỉ ghi 1250 vị tỷ kheo mà thôi. Thêm nữa, trong phần kết thúc, Bd, Nd và Ecd ghi thêm bồ tát đại sĩ, nhưng các bản khác chỉ ghi bốn chúng và chư thiên, nhân loại, a tu la, và chỉ ghi ở đây chứ không ghi trong phần mở đầu. Như vậy đối tượng chủ yếu của Kim cương là các vị tỷ kheo, nói cách khác là các vị Thanh văn.

Ở đây nên so sánh với Pháp hoa. Pháp hoa lấy Thanh văn làm đối tượng, xác quyết là họ chưa được niết bàn hoàn toàn. Niết bàn hoàn toàn là phải như Phật. Họ từng là đệ tử được Phật dạy cho làm Phật chứ không phải làm La hán. Kim cương cũng vậy mà không vậy. Cái tim của Thanh văn là vô ngã, Kim cương cho thấy họ chưa vô ngã. Kim cương không phủ nhận Thanh văn bằng cách cho họ thấy họ tăng thượng mạn, tự tôn tự mãn với vị trí mà Phật giả định – dầu đến đoạn 25, Kim cương cũng nói vì sự ấy mà họ không tin nổi Kim cương. Thế nhưng Kim cương không phủ nhận gì hết, mà chỉ cốt dạy cho Thanh văn cái tuệ giác Bát nhã để họ tự nhìn thấy cái ngã mà tận trừ, bước tới. Do vậy, Kim cương ít nói lý pháp mà nói hạnh pháp và nói quả pháp nhiều hơn : nói ngay cái tuệ giác, cái việc tu hành và đắc quả của tuệ giác ấy.

Nhưng trên đây chỉ là một cách xét. Xét cách khác thì đối tượng Kim cương là Bồ tát. Bồ tát ở đây có hai. Một là các vị Thanh văn đã hay có thể chuyển thành Bồ tát ; Bồ tát như vậy là như đã nói trên đây. Hai là Bồ tát theo Bồ tát thừa ; các vị này, qua sự đối thoại với ngài Tu bồ đề, Phật đã nói đến từ đầu đến cuối kinh này.

Bồ tát là gì ? Trong văn chương tư tưởng bình dân của Ấn độ, Bồ tát là mẫu người lý tưởng. Tựa như quân tử của Trung hoa, Bồ tát của Ấn độ cũng vậy mà hơn vậy : minh triết, dũng liệt, xả thân, cứu đời… Phật giáo thì đời Phật, và ngay loài người, cũng có các vị Bồ tát nổi tiếng. Thắng man phu nhân… nhóm Hiền hộ… và Duy ma, một người không những là Bồ tát mà còn là Bồ tát bất khả tư nghị. Thêm nữa, nói về Bồ tát thì rõ ràng có cái khuynh hướng cho tại gia cũng quan trọng, chưa nói có khi quan trọng hơn ; nói về Bồ tát hạnh thì rõ ràng quan trọng là bố thí, nhẫn nhục và tuệ giác ; và căn bản của mọi sự trên đây là phát bồ đề tâm, chữ phát vừa có nghĩa phát nguyện vừa có nghĩa phát huy. Bồ tát là như vậy, nhưng đứng về mặt Tam bảo thì Bồ tát phải làm tỷ kheo mới được ngang với tỷ kheo, với Thanh văn, và cũng là Tăng bảo ; chỉ đứng về mặt làm Phật thì Bồ tát mới được nhận là phật tử đích thực, mới là người sẽ đạt đến địa vị của Phật.

Bồ tát, như vậy, không thể không có Bát nhã -không thể còn có ngã chấp mà được gọi là Bồ tát, mà làm được việc của Bồ tát. Ðối tượng Bồ tát của Kim cương là như vậy.

7. Nội dung của Kim cương

Ở đây sẽ đi sâu vào một vài chi tiết mà qua đó càng thấy nội dung kinh này, ngoài nội dung đã thấy qua hai điều 5 và 6 ở trên.

a. Ý nghĩa danh hiệu Kim cương bát nhã ba la mật

Kim cương là chất kim cương, ở đây lấy chất ấy ví dụ cho sự khó phá hủy. Bát nhã là tuệ giác như thật tri kiến về Như (coi ghi chú 11 của Dẫn nhập). Ba la mật là rời bỏ, vượt đến : rời bỏ bờ bến bên này là vượt đến bờ bến bên kia, tức là nói đến sự toàn hảo. Kim cương bát nhã ba la mật có hai nghĩa.

Nghĩa thứ 1, kim cương ví dụ cho ngã chấp; tuệ giác toàn hảo có năng lực phá hủy cái ngã chấp khó phá hủy đó, nên gọi tuệ giác ấy là Kim cương bát nhã ba la mật. Hd và Nd thêm hai chữ năng đoạn (Năng đoạn kim cương bát nhã ba la mật : Năng đoạn kim cương chi bát nhã ba la mật) thì chỉ làm cho nghĩa thứ 1 này rõ hơn để khỏi lầm rằng Kim cương bát nhã ba la mật có nghĩa thứ 2 dưới đây.

Nghĩa thứ 2, kim cương ví dụ cho chính tuệ giác ; tuệ giác toàn hảo có cái năng lực khó phá hủy là phá hủy được ngã chấp, nên tuệ giác ấy gọi là Kim cương bát nhã ba la mật.

Như vậy danh hiệu kinh này cho thấy kinh này cốt nói năng lực của Bát nhã và nói ngã chấp mà năng lực ấy phá

hủy.

b. Ngã chấp trong Kim cương

Kim cương nói về ngã chấp bằng bốn tướng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Tướng, các bản khác dịch tưởng hay chấp, vậy tướng là ý tưởng, tức khái niệm. Về bốn tướng, thứ tự có thể không phải là ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, như Td và Bd ghi, mà là như sau, theo các bản dịch khác : ngã, chúng sinh, thọ giả, nhân.

Ngã thì bản nào cũng dịch là ngã. Chúng sinh thì Hd là hữu tình. Thọ giả thì Hd là mạng giả. Nhân thì Hd chỉ dịch âm là bổ đặc dà la (dịch nghĩa : sát thủ thú), Chd là thọ giả (chữ thọ là chịu), Nd là cánh cầu thú. Do sự cắt nghĩa của đại sĩ Thế thân (Chính 25/783 và 876) mà biết ngã là khái niệm tự ngã, chúng sinh là khái niệm sinh thể (hay khái niệm liên tục), thọ giả là khái niệm đời sống (hay khái niệm tồn tại), nhân là khái niệm tái sinh.

Nếu sắp thứ tự ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả thì đọc và hiểu dễ hơn, nhưng dầu muốn dầu không, thứ tự ấy cũng hàm ý nghĩa ngã nhân là tự tha (tôi với anh), và chính hàm ý này lại khẳng định tự ngã hơn lên.

Ngoài bốn tướng này, Hd còn nói sĩ phu, ý sinh, ma nạp bà, tác giả, thọ giả. Trong 5 chữ này chữ ma nạp bà đáng nói. Chữ ấy có người nói phải dịch là thắng ngã (Phật học đại từ điển 2569), và nhân đấy nên nói lược về ngã chấp.

Ngoại đạo ban đầu nói chỉ ông trời Ðại phạn hay ông trời Ðại tự tại mới có trước, tự có, rồi sinh ra và chi phối tất cả, nghĩa là chỉ ông trời ấy mới là ngã. Kế đến, ông trời ấy biến thành phiếm thần : cái bản thể phổ biến của ông trời ấy phú cho mỗi người mỗi vật đều có một phần ; phần ấy đồng nhất với ông trời, vậy là ông trời = bản ngã = tự ngã. Tự ngã này biểu thị lắm đặc tính tự tại chủ thể (tự chủ và chủ đạo) dưới những danh xưng như những ký hiệu về nó : chúng sinh, thọ giả, nhân, v/v. Ðó là ngã chấp của kiến thức lý thuyết. Kiến thức lý thuyết ấy thật ra bắt nguồn rồi suy diễn từ ngã chấp của mỗi người chúng ta, chưa nói của cả mọi loài động vật. Ngã chấp ấy chỉ là và chính là ý thức cái tôi : cái tôi tự chủ (ngã tướng), cái tôi mà do nó nên tôi là một sinh thể liên tục mà có tâm thức (chúng sinh tướng), là một sinh mạng có đời sống và sống hết đời (thọ giả tướng), là một linh hồn sẽ tái sinh những đời khác y như đời này (nhân tướng). Cái tôi như vậy không mấy ai nghe nói đến, chứ chưa nói không mấy ai biết nói đến, nhưng không vì vậy mà sự tự ý thức về nó không có. Trong ý thức bình thường rằng tôi đây, tôi khác anh đây, cũng như anh đấy, anh không phải tôi đấy, thì ý thức này chính là ý thức về ngã, càng đơn sơ bao nhiêu càng sâu dày bấy nhiêu. Ngã như vậy là bản năng hơn là kiến thức, nên động vật hạ đẳng nhất cũng có chứ đừng nói loài người. Ngã này là đệ thất thức, và mới đáng nói (vì Thanh văn cũng vẫn còn), hơn là nói đến ngã chấp của ngoại đạo (mà Thanh văn đã hết). Ngã này không phải chỉ là ngã trong hai thứ ngã với pháp, mà là ngã trong cả hai thứ ấy là nhân ngã và pháp ngã. Nói giản dị, hễ có ngã thì nhìn vào đâu cũng thấy ta ; thấy không phải ta chính là phản diện khẳng định sự thấy ta. Ngã này mới là cái ngã của Kim cương nói đến, cái ngã mà chỉ có Bát nhã mới hủy diệt được.

c. Bát nhã của Kim cương

Kim cương nói Phật có năm thứ mắt, hai thứ nghĩa đen, ba thứ nghĩa bóng. Hai thứ nghĩa đen là nhục nhãn với thiên nhãn. Nhục nhãn nhìn không suốt qua chướng ngại vật và bóng tối, nhìn không xa, thiên nhãn trái lại, nhưng thứ nào cũng nhìn thấy hình sắc như người với trời. Nói như người với trời mà thật ra không như rất nhiều : Phật thấy hình sắc mà không bị hình sắc lừa dối, không như người với trời thấy hình sắc nhưng thật ra chỉ nhìn thấy đối tượng. Ba thứ nghĩa bóng là tuệ nhãn, tức nhất thế trí, thấy thực thể ; pháp nhãn, tức đạo chủng trí, thấy cách tu ; Phật nhãn, tức nhất thế chủng trí, thấy hết thực thể, tướng dụng, cách tu. Tất cả năm thứ mắt này là Bát nhã toàn hảo của Phật trong Kim cương. Nhưng sơ khởi Phật dạy cho người nghe kinh này thì chính yếu là tuệ nhãn. Cách dạy nói khá nhiều là sở ngôn (nói rằng, gọi là) tức phi (là phi, là không phải) và thị danh (thế nên nói là, vì lý do ấy nên nói là). Dĩ nhiên sở ngôn, tức phi và thị danh không phải là một ước lệ nhất quán trong Kim cương, nhưng quá rõ ràng thể thấy cách dạy này nhiều chỗ giống nhau, và không thể không có tính cách nhất quán. Không những như vậy, mà đoạn 10 chữ phi có kèm chữ tính (tính phi phước đức), và Hd đoạn 14, không những “thân lớn ấy ngài nói là phi thân lớn, vì thế nên Ngài nói là thân lớn” mà còn thêm, “chứ không phải vì là thân lớn mà Ngài nói là thân lớn”.

Cách dạy như vậy cho thấy, ví dụ, chúng ta nói A thì Phật nói A đó là phi-A, và đó là tại sao Ngài nói là A (chứ không phải vì A là A mà Phật nói là A). Như vậy phi-A không phải là B, mà là A tự siêu việt, có trường hợp là tự phủ nhận, có trường hợp vừa tự phủ nhận vừa tự siêu việt. Vậy Phi là thế nào ?

Ở chỗ khác, Phi là duyên sinh tính không, là đương sinh vô sinh, hay thấp một chút là mộng ảo bào ảnh (mà đoạn 51 của Kim cương cũng nói đến, trong trình độ này). Nhưng ở Kim cương thì Phi có cái ngữ khí trực chỉ : Phi là như thật tri kiến các pháp toàn là Như. Nói giản dị một chút, Phi là siêu việt : siêu việt khái niệm và diễn tả. Cho nên A là phi-A (là Như), và đó là lý do tại sao Phật nói là A ; nói A như vậy thì không phải như ngã chấp chỉ thấy biết A là A và vì vậy mà nói là A.

Phi, như thế, là Bát nhã của Kim cương, như thật thấy biết nên thấy biết gì cũng Phi, hủy bỏ cái ngã thấy biết gì cũng là ngã cả.

d. Phát tâm, trú tâm và hàng tâm

Phát tâm, nói rõ là phát tâm bồ đề, nói rõ hơn nữa là phát tâm vô thượng bồ đề, và nói rõ nhất là phát tâm vô thượng chánh đẳng giác. Vô thượng chánh đẳng giác (a nậu đa la tam miệu tam bồ đề) là tuệ giác biết đúng, biết hết và biết hơn tất cả. Tuệ giác ấy là Bát nhã, là tuệ giác của Phật. Phát nguyện cầu mong tuệ giác ấy, đồng thời phát huy tuệ giác ấy, thì gọi là phát tâm – Phát huy trọn vẹn tuệ giác ấy là trở thành Phật đà. Phát nguyện và phát huy tâm bồ đề như vậy có hai lý do, và do đó có hai việc làm, ấy là vì thương nỗi đau khổ của chúng sinh mà nỗ lực cứu độ, vì xót sự suy tàn của chánh pháp mà nỗ lực duy trì.

Phát tâm như vậy là căn bản của đại thừa, là làm theo đại thừa (nên thay vì phát tâm bồ đề, có bản dịch là phát thú đại thừa). Phát tâm thì phải trú tâm và hàng tâm. Trú là đứng vững, là trú ở. Hàng là buộc đầu hàng, là chiến thắng, sửa chữa. Trú tâm là trú ở nơi sự phát tâm, hàng tâm là hủy diệt ngã chấp. Nói cách khác, trú tâm hàng tâm là vận dụng Bát nhã. Như vậy chủ đích Kim cương là dạy Bát nhã để phát tâm, trú tâm và hàng tâm. Ðó là nội dung căn bản của kinh này.

Ở tiểu thừa, tuệ giác các vị Thanh văn hủy diệt ngã chấp chỉ là ngã chấp lý thuyết như ngoại đạo nói, còn ngã chấp bản năng mà chúng sinh có thì Thanh văn còn tự mãn tự tôn là vẫn còn loại ngã chấp ấy. Do vậy, sự phát tâm, trú tâm và hàng tâm đã nói trên không được có ở các vị Thanh văn. Kim cương dẫn tiến Thanh văn, cũng   dẫn tiến Bồ tát, là dẫn tiến cái điều căn bản này đây.

8. Kim cương : đại thừa với tiểu thừa

Vấn đề không phải cần đặt ra do một số luận điệu gần đây liên hệ đến đại thừa tiểu thừa, mà vấn đề đặt ra để một mặt nhìn nội dung Kim cương rõ hơn nữa, mặt khác cần nói đến mấy vấn đề căn bản của đại thừa tiểu thừa, ít nhất cũng nói mở đầu và vắn tắt.

a. Vấn đề Phật

Tiểu thừa thì nhất thiết cho Phật cũng chỉ là một vị La hán. Căn cứ gần như duy nhất chỉ vì trong mười đức hiệu của Phật có đức hiệu La hán, và vì khi năm vị tỷ kheo thành La hán đầu tiên thì Phật nói thế gian có sáu vị La hán. Thật quá dễ dàng để thấy căn cứ như vậy không xứng đáng là căn cứ để nói Phật cũng là và chỉ là một vị La hán.

La hán tương đồng được một phần với Phật về đoạn đức (giải thoát), nhưng không tương đồng được phần nào với Phật về trí đức (tuệ giác) và ân đức (độ sinh). La hán không có 10 lực, 18 bất cọng và nhiều pháp khác của Phật, mà đó là những pháp số không phải chỉ đại thừa nêu lên. Trong tín ngưỡng, bốn bất hoại tín tin Phật riêng, tin Tăng riêng ;và ba ngôi báu cho thấy Phật bảo không thể là Tăng bảo. Trong qui chế, Phật không đồng chúng kiết ma tác pháp tăng sự. Thành thật luận (của tiểu thừa) đã nói rõ như vậy (Chính 32/258).

b. Vấn đề chúng sinh thành Phật

Tiểu thừa không công nhận, ngay cả trong thì gian, rằng ai cũng có thể thành La hán, có đâu công nhận ai cũng trở thành Phật đà. Ðại thừa thì sự công nhận này là một trong những căn bản quan trọng, đặc biệt quan trọng cho tín niệm độ sinh.

c. Vấn đề niết bàn

Hai vấn đề trên nói theo ngôn ngữ Kim cương thì Như lai là Như, chúng sinh là phi chúng sinh (nghĩa là cũng Như). Do vậy, cả hai vấn đề dẫn đến vấn đề Niết bàn, vì Niết bàn là Như chứ không chi khác.

Tiểu thừa hay nói mình không đề cập bản thể, có khi còn loạn hơn, cho bản thể là không có, là biến chế từ ngoại đạo. Nhưng có lúc cũng thấy ra bản thân của mình, và đỉnh cao của mình là Niết bàn, dầu nói hoa mỹ đến đâu cũng không khỏi bị cho là hư vô, đoạn kiến. Ấy thế nên gần đây hay đề cao Như lai (Tathata). Như lai, đúng ra là Như, ở tiểu thừa gần như không nói đến, trừ ra nói đến trong chữ Như lai, và Thành thật luận nói thừa như thật đạo lai thành chánh giác (Chính 32/242) ; càng không xác định rằng Như lai là sự thật, là bản thể trung thực. đại thừa, như Kim cương, với chữ Phi, cho thấy Như lai là cả hai : là bản thể trung thực và vì bản thể này mà sự thật các pháp không phải những gì ngã chấp thấy là thật. Nói giản dị, Như là bản thể siêu việt của các pháp. Như ấy là Niết bàn.

Ở tiểu thừa, Niết bàn được chứng dưới hai dạng : dạng thứ nhất đoạn tập đế mà còn khổ đế, dạng thứ hai khổ đế cũng không còn. Thuật ngữ gọi hai dạng này là hữu dư y và vô dư y. Nhưng Niết bàn rồi, nói nôm na, cái thân thuộc khổ đế này chết rồi, thì sau đó là thế nào ? Ở đây chỉ còn diễn tả bằng mấy cách mà đáng nói là vài cách sau đây. Cách thứ nhất, có người rành xương người chết. Ngươì chết đã là gì, và là gì sau khi chết, người ấy cầm xương mà gõ là biết hết. Nhưng có một loại xương người ấy cầm gõ không thể biết là gì cả, vì đó là xương La hán : La hán không còn sinh ra nữa nên người ấy không thể biết là gì như đã biết các loại xương khác. Cách thứ hai là nói Như lai phi chung phi bất chung – thì đại thừa mới cắt nghĩa được cách nói này có ý nghĩa gì.

Ðại thừa không nhận Niết bàn như trên là cứu cánh. Niết bàn như trên, và đức Phật có Niết bàn như trên, gần như không thể nói là liên quan đến sự tồn tại của chánh pháp và sự giải thoát của chúng sinh.

Ðại thừa nói căn bản của Niết bàn là Như. Thực thể chúng sinh là Như nên Phật mới có thể làm cho Niết bàn thể hiện. Niết bàn ấy là vô trú niết bàn : vì có đại bi nên không ham niết bàn, vì có đại trí nên không bị sinh tử – đại nguyện tự tại ở trong sinh tử mà hóa độ chúng sinh. Niết bàn của đại thừa là như vậy. Nên trong đoạn mở đầu Kim cương đã nói đến Niết bàn, rồi trong đoạn gần cuối Kim cương nói rõ rằng tâm nguyện bồ đề thì không nói đoạn diệt.

9. Thực hành Kim cương

Những điều đã trình bày ở trên cho thấy thực hành theo Kim cương là như thế nào. Phát tâm, trú tâm và hàng tâm là quan trọng nhất. Thực hành theo Kim cương là như thế. Và như đã thấy, phát tâm, trú tâm và hàng tâm là vô trú bát nhã, được diễn đạt bằng chữ Phi.

Sánh với chữ Không của toàn bộ Bát nhã, chữ Vượt qua (yết đế) của bát nhã tâm kinh, thì chữ Phi của Kim cương bát nhã hoạt bát hơn nhiều lắm. Chữ Phi được thực hành bằng luận chứng sơ khởi là bài chỉnh cú cuối cùng của Kim cương, quán sát các pháp hữu vi như mộng ảo bào ảnh. Nhưng chữ Phi cũng có thể thực hành từ sơ khởi đến chung cục theo phong cách của Thiền tông. Theo phong cách ấy thì thấy gì cũng phi cả. Nhất là phi cả cái Phi. Phi thì không vướng mắc vào đâu cả, nhất là vướng mắc vào phóng đãng, phóng khí, tự nhiên, nhác, nhát, thoái chuyển, lệch hướng. Phi thì làm cho tâm trí và tâm hồn rỗng thông như không gian mà phong phú như hoa lá. Mình với cuộc đời phi tức mà cũng phi ly, siêu nhiên cũng như tục lụy đều không vướng mắc.

Loài cọp cũng như loài mèo, khi bị ném lên trong không thì có cái khả năng chuyển mình để rơi xuống vẫn chạm đất bằng bốn chân. Chúng không thương tổn hay phải chết vì sự rơi xuống, dầu rơi xuống từ cao. Thiền tông lấy hình ảnh này làm một bài học cho co n người rơi vào cuộc đời này. Bài học quan trọng ở chỗ ta có chuyển mình được như cọp với mèo hay không. Chữ Phi là sự chuyển mình ấy.

10. Vị trí của Kim cương

Sự phát tâm và sự niết bàn của Kim cương vừa nói trên đây cho thấy đại thừa không đặt sự tồn tại của chánh pháp ngoài sự lợi ích của cuộc đời, không đặt sự toàn giác ngoài sự độ sinh. Do vậy, đại thừa thích ứng mọi xã hội. Nhưng nội cách nói sở ngôn, tức phi và thị danh mà thôi, Kim cương đã cho thấy đại thừa thích ứng như thế nào. Ðại thừa không như phàm phu và tiểu thừa thấy A vì A là A : thấy có hay thấy không đều thấy theo cái ngã bản năng – Và chính vì thế mà tai họa cho cuộc đời, chính vì thế mà lý tưởng vị tha cũng thành ra đỉnh cao vị kỷ. Ðại thừa thấy vì A là phi-A nên mới là A : biến mọi hoạt động của bản năng thành mọi hoạt dụng của đại thừa. Thích ứng như vậy là Bát nhã của Kim cương được hoạt dụng vào sự thích ứng. Thì sự thích ứng không những có, mà còn có một cách hoạt bát chứ không phải tha hóa, không phải tục hóa. Khả năng này được đặt thành vấn đề, và là vấn đề chính yếu, thì đại thừa và Kim cương của đại thừa phải được quan tâm nghiêm chỉnh.


| 1. Chánh Văn | 2. Dẫn Nhập | 3. Lược Giải |



| 1. Chánh Văn | 2. Dẫn Nhập | 3. Lược Giải |

3. LƯỢC GIẢI KIM CƯƠNG

mục lục lược giải

lược giải Kim cương  132
Kinh 1.- mở đầu  132
             Kim 1.- mở đầu như các kinh khác (đoạn 1) 132
             Kim 2.- mở đầu bằng hai câu hỏi đáp căn bản (đoạn 2-6) 134
Kinh 2.- nội dung  143
             Kim 1.- như thật tri kiến về đối tượng  143
             Kim 2.- như thật tri kiến về tuệ giác  164
             Kim 3 : như thật tri kiến về chủ thể  183
Kinh 3.- Kết thúc  213
             Kim 1.- kết thúc ứng với 2 câu hỏi đáp căn bản  213
             Kim 2.- kết thúc như các kinh khác (đoạn 52) 218

lược giải Kim cương

Phân khoa.-

Kim cương được dịch thành 1544 câu, 52 đoạn, phân khoa có năm lớp, đánh dấu bằng 5 chữ : kinh, kim, cương bát, nhã. Kim cương có ba kinh, kinh 1 mở đầu, kinh 2 nội dung, kinh 3 kết thúc.

Kinh 1.- mở đầu

có hai kim : kim 1 mở đầu như các kinh khác, kim 2 mở đầu bằng hai câu hỏi đáp căn bản.

Kim 1.- mở đầu như các kinh khác (đoạn 1)

Chính văn.-

  1. Tôi nghe như vầy : Một thời Thế tôn ở nước Xá vệ (1), trong khu lâm viên Chiến thắng Thiện thí (2), cùng với một ngàn hai trăm năm chục vị đại tỷ kheo (3).

Ghi chú.-

(1) nước Xá vệ.- Xá vệ vốn là tên thủ đô nước Kiều tát la (nên gọi là thành Xá vệ). Sau vì để khác với nước Kiều tát la ở nam bộ Ấn nên lấy tên Xá vệ làm quốc hiệu luôn. Xá vệ có nghĩa là Nổi tiếng. Thời Phật, đây là nước của Ba tư nặc vương, thuộc tây bắc bộ Ấn.

(2) Chiến thắng thiện thí.- Chiến thắng (hay Thắng) là dịch nghĩa tên vương tử Kỳ đà. Thiện thí (khéo cho) hay Cấp cô độc (chu cấp những người cô độc) là dịch nghĩa tên trưởng giả Tu đạt đa. Chiến thắng Thiện thí, hay (Thắng cấp cô độc) là liên danh hai người này để gọi khu vườn rừng mà họ chung nhau hiến Phật. Ở đó có tinh xá Kỳ viên, nơi Phật thuyết Kim cương.

(3) Sau câu này, Nd và Ecd thêm : và các đại bồ tát.

Phân khoa.-

Kim 2.- mở đầu bằng hai câu hỏi đáp căn bản (đoạn 2-6)

Chính văn.-

  1. Vào lúc bấy giờ gần đến giờ ăn, nên đức Thế tôn sửa y, cầm bát (1), đi vào khất thực trong thành Xá vệ. Tuần tự khất thực (2) trong thành này rồi, Ngài về chỗ ở, ăn uống xong xuôi, thu dọn y bát, rửa sạch hai chân và trải đồ lót lót chỗ mà ngồi (3).

Ghi chú.-

(1) Sửa y, cầm bát.- Y là y ca sa, bát là bát ứng khí

(2) Tuần tự khất thực.-là khất thực hết đường này đến đường khác, hết nhà này qua nhà khác, không lựa chọn, dầu được hiến cúng hay không, và chưa giáp vòng thì không trở lại trên một đường, đến lại nơi một nhà.

(3) Trải đồ lót lót chỗ mà ngồi.-(a) Dịch rõ như vậy là tham chiếu Cd. Chỗ ngồi của Phật có thể do Ngài tự sắp, hoặc do người sắp cho như Nd và Ecd dịch, nhưng ai sắp đi nữa thì trước khi ngồi, Phật cũng tự trải tọa cụ lót chỗ ấy rồi mới ngồi. Phép của tỷ kheo là như vậy. (b) sau câu này, các bản dịch khác đều thêm : “mà ngồi xếp bằng, thẳng mình, tập trung tư tưởng như đối trước mặt. Các vị tỷ kheo đến chỗ Ngài, lạy ngang chân và đi quanh Ngài ba vòng rồi ngồi xuống một bên”. Có người chú thích tập trung tư tưởng như đối trước mặt là Phật nhập đại định Bát nhã, và thuyết Kim cương là sự biểu hiện kỳ diệu của đại định này. Thêm và cắt nghĩa như vậy không khỏi khuôn sáo và mất đi sự giản dị của Phật đáng có ở đây.

Lược giải.-

Tả Phật như đoạn này là nói Phật vì chúng sinh nên không ở niết bàn mà ở sinh tử, và ở sinh tử thì Ngài cũng chịu cái thân đói khát ăn uống, cũng làm một vị tỷ kheo, và là vị tỷ kheo rất gương mẫu. Tất cả điều này chính là vô trú bát nhã (vô trú niết bàn) của đại thừa mà Phật đem ra nâng đỡ và giao phó cho Bồ tát, một cách đích thân biểu thị chứ không phải chỉ cần lời nói.

Chính văn.-

  1. Lúc ấy Thiện hiện (1), một vị trưởng lão, cũng có ở trong các đại tỷ kheo. Từ chỗ mình ngồi, trưởng lão đứng dậy, vắt một vạt y, để trần vai phải, đầu gối bên phải quì xuống chấm đất, hai tay chắp lại, cung kính mà thưa : kính bạch Thế tôn, Ngài thật hiếm có ; Ngài khéo nâng đỡ (2) cho các Bồ tát, lại khéo giao phó (3) cho các Bồ tát. Kính bạch Thế tôn, thiện nam thiện nữ đã phát tâm nguyện vô thượng bồ đề (4), thì phải làm sao để ở tâm ấy ? và phải làm sao để sửa tâm mình ? (5)

Ghi chú.-

(1) Thiện hiện.- Là chữ Hd dịch nghĩa tên ngài Tu bồ đề. Các vị khác dịch Không sinh, Thiện cát, Thiện thật, Diệu sinh, đều cùng nghĩa. Ngài Thiện hiện là vị lĩnh hội về Không hơn hết trong các vị đại đệ tử của Phật.

(2) Nâng đỡ.- Chính văn là hộ niệm, nghĩa đen là giữ gìn thương tưởng, trong đó có hàm ý truyền đạt cảm hứng.

(3) Giao phó.- Chính văn là phó chúc, nghĩa đen là phó thác căn dặn

(4) Phát tâm nguyện vô thượng bồ đề.- Có bản dịch phát thú đại thừa (khởi hành bằng đại thừa), có bản dịch cả hai từ ngữ : phát tâm bồ đề mà tu hành đại thừa hay ở trong đại thừa mà phát tâm bồ đề. Thật ra nên dịch một trong hai từ ngữ thôi, vì hai từ ngữ ấy chỉ có một nghĩa. Dầu vậy dịch phát bồ đề tâm thì sát chữ nghĩa của chính văn hơn cả, nhất là ăn khớp với câu đáp của Phật ở sau.

(5) a.- Cả hai ghi chú 4 ở trên và 5 ở đây phải coi lại Dẫn nhập điều 7 mục d. b.- các bản dịch khác có 3 câu hỏi : ở thế nào, tu thế nào và sửa thế nào. Thêm tu thế nào là thừa, vì ở với sửa là tu, nhất là thêm như vậy thì phân ba câu đáp của Phật rất miễn cưỡng.

Lược giải.-

Ngài Thiện hiện nhận thấy sự nâng đỡ và giao phó như đoạn 2 đã tả, nên hỏi như đoạn 3 ở đây – Hỏi để Phật nâng đỡ và giao phó bằng lời nói, rõ thêm cho sự nâng đỡ và giao phó không lời ở trên. Kim cương là sự nâng đỡ và giao phó bằng thân miệng của Phật giành cho các vị có tư cách Bồ tát. Hai câu hỏi ở đây, và hai câu đáp của Phật quán triệt toàn bộ Kim cương như vậy.

Chính văn.-

  1. Ðức Thế tôn dạy : tốt lắm Thiện hiện ; thật đúng như lời trưởng lão đã nói, Như lai rất khéo nâng đỡ Bồ tát, Như lai rất khéo giao phó Bồ tát. Do vậy, trưởng lão, hãy nghe cho kỹ, Như lai sẽ nói cho các vị biết thiện nam thiện nữ phát tâm bồ đề thì bằng cách nào trú ở tâm ấy, và bằng cách nào sửa chữa tâm mình. Trưởng lão thưa rằng, dạ, bạch Thế tôn, chúng con ước muốn được nghe ngài dạy.
  2. Trưởng lão Thiện hiện, Bồ tát thì phải sửa chữa tâm mình bằng tuệ giác này : Bao nhiêu chúng sinh hoặc sinh bằng trứng, hoặc sinh bằng thai, sinh bằng ẩm thấp, sinh bằng biến hóa, hoặc có hình sắc hoặc không hình sắc, hoặc có tư tưởng, hoặc không tư tưởng, có không tư tưởng (1), ta làm hết thảy đều được nhập vào niết bàn hoàn toàn (2) mà giải thoát (3) cả. Làm cho vô lượng vô số chúng sinh niết bàn như vậy, mà thật không thấy có chúng sinh nào được niết bàn cả. Tại sao như vậy ? trưởng lão Thiện hiện, vì nếu Bồ tát mà vẫn còn có ý tưởng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả thì Bồ tát ấy không phải Bồ tát.
  3. Trưởng lão Thiện hiện đối với các pháp (1), Bồ tát không nên trú ở (2) đâu cả mà làm bố thí (3) : không ở nơi sắc mà làm bố thí, không ở nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp (4), mà làm bố thí. Trưởng lão Thiện hiện, Bồ tát hãy nên bố thí như thế : không ở đâu cả. Tại sao như vậy, vì nếu Bồ tát không ở đâu cả mà làm bố thí thì được phước đức không thể lường được. Trưởng lão Thiện hiện, ông nghĩ thế nào, không gian hướng đông có lường được không ? Không, bạch Thế tôn. Trưởng lão Thiện hiện, không gian hướng nam, hướng tây hướng bắc, và cả bốn góc, cả trên cả dưới, có lường được không ? Càng không, bạch Ngài. Trưởng lão Thiện hiện, Bồ tát bố thí mà không ở đâu thì được phước đức cũng y như thế không thể lường được. Trưởng lão Thiện hiện, Bồ tát chỉ nên trú ở theo lời Như lai dạy đây.

Ghi chú đoạn 5.-

(1) Có không tư tưởng.- Dịch sát và rõ : hoặc không phải có tư tưởng, không phải không tư tưởng.

(2) Niết bàn hoàn toàn.- Là vô dư niết bàn. Ðối lại, niết bàn chưa toàn là hữu dư niết bàn. Chưa toàn là mới hết tập đế, hoàn toàn là hết khổ đế nữa.

(3) Giải thoát.- Ở đây chính văn là diệt độ (dứt tuyệt, vượt qua). Giải thoát hay diệt độ đều là nghĩa của chữ niết bàn.

(4) Ý tưởng ngã nhân chúng sinh thọ giả.- Coi lại Dẫn nhập điều 7 mục b.

Ghi chú đoạn 6.-

(1) Pháp.- Pháp ở đây chỉ cho sáu cảnh nói ở dưới, nhưng cũng có nghĩa rộng hơn là chỉ cho vạn hữu, bao gồm hết thảy tâm vật, ngã pháp, nhiễm tịnh, có không… Trong nghĩa rộng này, pháp không những là những thứ cụ thể, mà những sự lệ thuộc những thứ ấy cũng là pháp. Nên cây bút là pháp, mà cây bút ấy dài hay ngắn, cũ hay mới, đẹp hay xấu, hữu ích hay vô dụng, cũng là pháp cả. Một ý tưởng cũng vậy, nó là một pháp, nhưng nó là thiện hay ác, lợi hay hại, đúng hay sai, cũng toàn là pháp. Pháp, như vậy, là không đơn thuần ; mỗi pháp chính là và nghĩa là một khái niệm, biểu thị sự tổ hợp bao nhiêu là dữ kiện, đối chiếu, kinh nghiệm… Thế nên có, không, phi có, phi không, toàn là pháp cả, và vì thế, nên các pháp đều tự nói lên cái Phi của mỗi pháp.

(2) Trú ở.- Ở đây nghĩa là đam mê, vướng mắc, lấy làm đất đứng, làm yếu tố hỗ trợ.

(3) Bố thí.- Theo các vị chú giải, bố thí ở đây, và những chỗ tương tự, là gồm cả các pháp ba la mật khác nữa, trừ ba la mật căn bản là bát nhã. Không ở nơi sắc đến hương vị xúc pháp.- Sắc thanh hương vị xúc pháp, tạm dịch hình sắc, âm thanh, hơi hướng, mùi vị, tiếp xúc và ấn tượng. Ở đây cũng nên dịch một chiều : sắc đẹp, tiếng hay, hơi thơm, mùi ngon, xúc khoái, bóng thích. Sáu thứ này hay gọi là 6 trần (6 loại bụi bặm làm mờ tâm trí), hoặc gọi là 6 cảnh (6 đối cảnh của 6 thức). Sáu thứ này bao gồm mọi tài sản ở trong (là thân thể, sức lực, tư tưởng), và tài sản ở ngoài (tiền của, tư liệu để sống, hưởng thụ). Trú ở 6 trần mà bố thí là cho người những thứ ấy mà kể, mà ỷ, nhất là cầu kết quả (mong được những thứ ấy mà nhiều và tốt hơn lên). Không trú ở mà bố thí là thuận theo bản thể không keo lẫn nên cho mà không thấy người cho, của cho và người nhận. Trú ở là ngã chấp, không trú ở là bát nhã.

Lược giải đoạn 4-6.-

Phật đáp câu hỏi sửa tâm như thế nào bằng cách nói nguyện độ chúng sinh mà không thấy có chúng sinh là người được hóa độ, có mình là người hóa độ. Vì thấy như vậy là ngã chấp, không thể hóa độ chúng sinh. Phật đáp câu hỏi ở tâm như thế nào bằng cách nói là đừng ở đâu cả thì thế chính là ở nơi tâm nguyện bồ đề đó. Cách nói như hai câu đáp này cho thấy phát tâm ở đây là tín thành tựu phát tâm sắp lên trong Khởi tín luận ; sự không trú ở đâu cả là phương tiện thứ 1 của sự tín thành tựu phát tâm, là sự làm của sự giải hành phát tâm. “Không ở đâu cả thì như thế chính là ở nơi tâm nguyện bồ đề”, đó là vô trú bát nhã. Vô trú bát nhã ấy là căn bản ; từ sau các đoạn 2-6 mở đầu sắp đi, cho đến các đoạn 49-51 kết thúc ứng với các đoạn mở đầu này, chỉ là và toàn là vô trú bát nhã ấy. Mặt khác, bản năng chúng sinh là đam mê mới hoạt động : có trú ở mới có mọi sự, dầu là sự lý tưởng. Kim cương cho thấy bản năng ấy là ngã chấp; ngã chấp ấy được tập chuyển hóa, lọc bỏ, thì mọi hoạt động trở thành diệu dụng đại thừa.

Phân khoa.-

Kinh 2.- nội dung

có 3 kim : kim 1 như thật tri kiến về đối tượng, kim 2 như thật tri kiến về tuệ giác, kim 3 như thật tri kiến về chủ thể.

Kim 1.- như thật tri kiến về đối tượng

có 3 cương : cương 1 như thật tri kiến về Phật, cương 2 như thật tri kiến về Pháp, cương 3 như thật tri kiến Tăng.

Cương 1.- như thật tri kiến về Phật

có 2 bát : bát 1 như thật tri kiến về Phật, bát 2 đức tin của pháp thoại.

Bát 1.- như thật tri kiến về Phật (đoạn 7)

Chính văn.-

  1. Trưởng lão Thiện hiện, ông nghĩ thế nào, đối với Như lai, có thể hay không thấy bằng đặc tướng (1) ? Không, bạch Thế tôn, không thể thấy Ngài bằng các đặc tướng ; tại sao như vậy, vì theo Ngài dạy thì các đặc tướng là phi đặc tướng. Ðức Thế tôn bảo trưởng lão Thiện hiện, hễ có đặc tướng thì đặc tướng ấy toàn là giả dối, nếu thấy đặc tướng là phi đặc tướng thì thấy Như lai (2).

Ghi chú.-

(1) Ðặc tướng.- Ở đây chính văn là thân tướng, dịch đủ là tổng thể hoàn hảo mọi đặc tướng siêu nhân ; tức là chỉ cho cái thân trượng lục cua Phật đủ 32 tướng đại trượng phu (hay đại sĩ phu). Chư thiên, các loài khác, loài người mà trong đó có các vị Thanh văn và các vị Bồ tát mới phát tâm, chỉ thấy Phật qua cái thân này – cái thân mà nay hay gọi là đức Phật trong lịch sử. Hễ có đặc tướng đến thì thấy Như lai.- Ðặc tướng ở đây, chính văn là tướng, tham chiếu các bản dịch khác thì biết tướng ấy chỉ cho đặc tướng của Phật, mặc dầu chữ tướng ấy có thể bao gồm mọi hiện tượng. Giả dối ở đây là nói dối, gian trá, lừa phỉnh. Như lai ở đây nói Phật là biểu tượng của Như (coi ghi chú 1 của đoạn 30 và mục c điều 7 của Dẫn nhập). Trọn câu này được biết là Td dịch tắt, và vì vậy rất độc đáo, chuyển văn bao nhiêu sát ý bấy nhiêu, hơn hẳn các bản dịch khác như sau : đặc tướng toàn hảo đi nữa cũng là giả dối, phi đặc tướng mới là trung thực ; như vậy nên đem đặc tướng là phi đặc tướng mà nhìn Như lai (nên nhìn Như lai bằng cách thấy đặc tướng là phi đặc tướng ; Ecd sót câu này).

Lược giải.-

Vô trú bát nhã trước hết như thật tri kiến về Phật, qua đặc tướng của Ngài. Thì thấy đặc tướng ấy là phi đặc tướng mới thấy Ngài. Ở đây không cần đem hóa thân và pháp thân ra mà giải thích.

Phân khoa.-

Bát 2.- đức tin của pháp thoại (đoạn 8)

Chính văn.-

  1. Trưởng lão Thiện hiện ; bạch đức Thế tôn, có thể có ai nghe pháp thoại (1) này mà sinh đức tin đúng chân lý không ? Ðức Thế tôn dạy, đừng hỏi như vậy, trưởng lão Thiện hiện ; sau khi Như lai nhập niết bàn rồi, năm trăm năm sau (2), có ai giữ giới, làm phước, tu tuệ (3), thì với pháp thoại như thế này đây, có thể tin tưởng đúng với chân lý. Trưởng lão phải biết những người như vậy không chỉ gieo trồng gốc rễ điều lành nơi một đức Phật, nơi hai đức Phật, nơi ba bốn năm đức Phật mà thôi, mà đã gieo trồng gốc rễ điều lành ở nơi vô số ngàn vạn đức Phật. Những người như vậy mà được nghe đến pháp thoại thế này thì dầu đến nỗi chỉ một ý niệm tin tưởng trong sáng, Như lai cũng vẫn biết và thấy rõ (4) họ thực hiện được vô lượng phước đức. Tại sao như vậy, vì những người này không còn có nữa ý tưởng ngã nhân chúng sinh thọ giả, không còn có nữa ý tưởng về pháp và về phi pháp (5). Nếu những người này còn có ý tưởng chúng sinh thọ giả, còn ý tưởng pháp là còn ngã nhân, chúng sinh thọ giả, còn tưởng phi pháp là còn ngã nhân chúng sinh thọ giả. Vì lý do ấy, đừng nắm lấy pháp, lại càng đừng nên nắm lấy phi pháp. Do ý nghĩa này Như lai thường nói, các vị Tỷ kheo hãy nhận thức rằng pháp Như lai nói tựa như chiếc bè : pháp còn phải bỏ, huống chi phi pháp (6) ?

Ghi chú.-

(1) Pháp thoại.- Chính văn là ngôn thuyết chương cú, nói nôm na là bài thuyết pháp, hội thoại về pháp. Pháp thoại ở đây chỉ kinh Kim cương này, nhưng xác hơn thì là pháp thoại vừa nói đoạn trên.

(2) Năm trăm năm sau.- có ba chỗ nói đến là các đoạn 8, 21, 28. Ðối chiếu ba chỗ ấy của Td, lại đối chiếu Td với các bản khác, thì biết các bản khác có ý nói 500 năm sau là 500 năm thứ 5 của 5 lần 500 năm sau Phật nhập diệt ; còn Td thì hai chỗ sau có thể cũng là ý này, nhưng ở đây và chỗ khác như Ðại trí độ luận, thì 500 năm sau có ý chỉ cho hậu bán thiên kỷ thứ nhất sau khi Phật nhập diệt, tức 500 năm thứ 2 trong 5 lần 500 năm. Ý này cũng không cốt nói chánh pháp tượng pháp gì, mà thật sự là thì gian các bộ phái tiểu thừa rộn ràng đến nỗi rõ ràng là đấu tranh kiên cố.

(3) Có ai giữ giới, làm phước, tu tuệ.- Chính văn Td chỉ có giữ giới và làm phước. Tu tuệ là căn cứ các bản khác mà bổ túc. Td tại sao không có tu tuệ thì không biết được, chỉ biết nói giữ giới, làm phước và tu tuệ mới tin nổi Kim cương là nói thông thường, còn chỉ nói giữ giới, làm phước, là có ý nói những sự này sẽ phát tuệ, có khi phát đột ngột, thần kỳ nữa : điều này thì đáng quan tâm.

(4) Như lai cũng vẫn biết và thấy rõ.- Ðược biết nói rõ là Như lai đem tuệ giác của Như lai mà biết rõ, Như lai đem mắt Phật của Như lai mà thấy rõ. Phước đức Kim cương phi con mắt và tuệ giác của Phật thì không dễ thấy ra và biết hết.

(5) Tại sao như vậy đến và về phi pháp.- Ðoạn này Td như vậy là chỉ có 3 : ngã, pháp, phi pháp. Các bản khác dịch 5, thêm tưởng, phi tưởng. Có thể Td cho hai thứ này cũng là pháp và phi pháp nên lược bỏ – Như thế xét ra có lý hơn về văn cũng như ý. Nghĩa của ba thứ ngã, pháp, phi pháp, coi ghi chú 6 dưới đây. “Nếu những người này” đến “huống chi phi pháp”.- Chiếc bè để từ bờ nguy hiểm bên này vượt qua bờ an toàn bên kia. Pháp của Phật dạy là như chiế c bè ấy. Bờ bên này là sinh tử, bờ bên kia là niết bàn. Dòng sông là ác pháp phiền não. Qua bên kia rồi bỏ bè mới lên bờ được – trừ ra sau đó dùng bè ấy trở lại đưa người khác cùng qua với. Pháp là thiện pháp của Phật dạy, đối lại, phi pháp là ác pháp mà thiện pháp đối trị. Phi pháp tệ hơn pháp. Như vậy pháp và phi pháp trong ba thứ (hay năm thứ) trên, cắt nghĩa cao và hay đến mấy mà không ăn khớp với từ và ý của ví dụ thì vẫn thấy khó thông. Nay tạm lấy ý của bồ tát Công đức thi (Chính 25/889) và đại sư Tăng triệu (Vạn 38/200B) mà cắt nghĩa như sau, khá thấp và dễ. Ngã là ngã chấp (gồm cả nhân, chúng sinh và thọ giả của ngã chấp ấy). Pháp là chấp có (gồm cả thường kiến của ngoại đạo và pháp số 5 uẩn của tiểu thừa). Phi pháp là chấp không (gồm cả đoạn kiến của ngoại đạo và ác thủ không của đại thừa). Cả ba ý tưởng này toàn là ngã mà biến thể (nên chính văn nói còn ý tưởng, còn ý tưởng pháp, còn ý tưởng phi pháp, thì toàn là còn ngã nhân chúng sinh thọ giả). Vậy ý tưởng là phi pháp, bát nhã là pháp, pháp này đối trị phi pháp kia, khi phi pháp kia hết rồi thì pháp này cũng hết.

Lược giải.-

Còn ý tưởng là còn ngã, còn ngã thì khẳng định thế nào cũng là ngã biến thể, phủ định đến mấy vẫn là ngã biến thể. Tin bát nhã là nhận thức và đã bắt đầu không còn như vậy. Không còn như vậy thì phước đức làm ra mới gọi là thiện pháp (đoạn 38).

Phân khoa.-

Cương 2.- như thật tri kiến về Pháp

có 2 bát : bát 1 như thật tri kiến về Pháp, bát 2 phước đức của pháp thoại.

Bát 1.- như thật tri kiến về Pháp

Chính văn.-

  1. Trưởng lão Thiện hiện, ông nghĩ thế nào, phải chăng Như lai được vô thượng giác (1) ? phải chăng Như lai có sự thuyết pháp (2) ? Trưởng lão thưa rằng kính bạch Thế tôn, theo con hiểu biết ý của Ngài nói, thì không thể có một pháp khẳng định để được mệnh danh là vô thượng giác, cũng không thể có một pháp khẳng định để được gọi là Thế tôn thuyết pháp. Tại sao như vậy, vì Pháp (3) Ngài nói không thể nắm lấy không thể diễn tả, không phải là pháp, không phải phi pháp (4) lý do là vì hết thảy hiền thánh (5) toàn do Vô vi biểu hiện khác biệt (6).

Ghi chú.-

(1) Vô thượng giác.- là gọi tắt từ ngữ vô thượng chánh đẳng giác (a nậu đa la tam miệu tam bồ đề).

(2) Phải chăng Như lai được vô thượng giác ? phải chăng Như lai có sự thuyết pháp ?.- hai câu hỏi này cho thấy Phật pháp (hay Pháp) có hai : một, Phật pháp là pháp của Phật chứng, tức những công đức mà Phật thực hiện : là tuệ giác vô thượng, và Như của tuệ giác ấy chứng ngộ ; là thuộc tính của tuệ giác ấy, như 10 lực, 18 bất cọng, v/v. Hai, Phật pháp là pháp của Phật nói, tức những giáo lý mà Phật khai thị, những tiếng nói diễn đạt pháp của Phật chứng.

(3) Pháp.- Pháp ở đây là Như (Vô vi). Coi ghi chú 2 ở trên (điều một) và ghi chú 6 ở dưới.

(4) Không phải là pháp, không phải phi pháp.- Không phải những khái niệm khẳng định hay phủ định theo sự chấp trước

(5) Hiền thánh.- là mượn thành ngữ của Trung hoa mà dịch. Dịch rõ có lẽ nên nói là các vị giải thoát (chưa toàn và hoàn toàn).

(6) Toàn do Vô vi biểu hiện khác nhau.- Biểu hiện là chữ của Hd và các bản khác. Vô vi Chd là Vô vi chân như, do đó biết Vô vi ở đây là Như (coi ghi chú 1 của đoạn 30). Tùy sự hội nhập Chân như vô vi chưa toàn hay đã toàn mà biểu hiện các địa vị giải thoát chưa toàn hay đã toàn.

Lược giải.-

Cũng như Phật, Pháp của Phật chứng và thuyết, và cả hiền thánh, những vị tu học Pháp ấy, toàn là biểu hiện của Như, siêu việt nhận thức, diễn đạt, và đối tượng của nhận thức, diễn đạt : hãy như thật tri kiến về Pháp.

Phân khoa.-

Bát 2.- phước đức của Pháp thoại (đoạn 10)

Chính văn.-

  1. 1 Trưởng lão Thiện hiện, ông nghĩ thế nào, có ai đem cho (1) đủ hết bảy loại vàng ngọc chất đầy đại thiên thế giới (2), thì người cho ấy được phước nhiều không ? rất nhiều, bạch Ngài ; vì phước đức ấy Ngài đã nói là tính phi phước đức (3), thế nên Ngài nói phước đức rất nhiều. Trưởng lão Thiện hiện, nhưng nếu có ai từ pháp thoại này tiếp nhận ghi nhớ dầu là chỉ được chỉnh cú bốn câu (4), và biết đem nói cho bao người khác, thì phước người ấy vẫn hơn người trước. Tại sao như vậy, vì lẽ, trưởng lão, hết thảy Phật đà cùng với Phật pháp (5) – Pháp vô thượng giác của các Phật đà – toàn là xuất ra từ pháp thoại (6) này. Trưởng lão Thiện hiện, gọi là Phật pháp (7) thì Như lai nói là phi Phật pháp, thế nên Như lai nói là Phật pháp (8).

Ghi chú.-

(1) Chỉ Cd và Ecd thêm : hiến cúng các đức Như lai, Ứng cúng, Chánh biến tri. Nhưng không thêm như vậy thì hơn.

(2) Ðại thiên thế giới.- Gọi đủ là tam thiên đại thiên thế giới : thế giới hệ gồm một tỷ thế gìới, Ecd nói tương đương thiên hà.

(3) Tính phi phước đức.- Chính văn là phi phước đức tính. Chữ tính ở đây là chữ duy nhất đi với chữ Phi. Tra xét thì Td quả có, không phải sau này thêm vào. Nhưng các bản khác không có. Như vậy có lẽ nên hiểu Td đặt chữ tính ở đây để nhắc ta nhớ đến Như, dẫu rằng chữ Phi (siêu việt) đã là nói đến Như.

(4) Chỉnh cú bốn câu.- Chính văn là tứ cú kệ, chỉ cho đơn vị trong lối tính chữ xưa của kinh sách Phật giáo Ấn, cứ 32 chữ, bất cứ bắt đầu từ đâu, là một kệ 4 câu, mỗi câu 8 chữ. Nói chỉnh cú bốn câu cũng như nói một đoạn có ý nghĩa chính yếu của pháp thoại.

(5) Phật pháp.- Coi ghi chú 7 dưới đây.

(6) Pháp thoại.- Ở đây vừa chỉ đoạn kinh này vừa chỉ bản kinh này, nhưng chỉ bản kinh này nhiều hơn.

(7) Phật pháp.- Coi ghi chú 2 (điều một) của đoạn 9 ở trên.

(8) Thế nên Như lai nói là Phật pháp.- Câu này Td không có, Bd cũng vậy, nhưng các bản còn lại đều có, nên phải bổ túc. Xét có thì đúng hơn.

Lược giải.-

Phước đức học, nhớ, tụng và giảng Kim cương mà Phật nói là nhiều, vì phước đức ấy siêu việt phước đức : vì phước đức ấy là Như. Nhưng điều này chỉ nói phía người học, nhớ, tụng và giảng, lý do nhiều còn vì Kim cương là mẹ sinh ra của Phật và tuệ giác của Phật.

Phân khoa.-

Cương 3.- như thật tri kiến về Tăng

có 3 bát : bát 1 như thật tri kiến về Thanh văn, bát 2 như thật

tri kiến về Bồ tát, bát 3 phước đức của pháp thoại.

Bát 1.- như thật tri kiến về Thanh văn (đoạn 11)

Chính văn.-

  1. 11. Trưởng lão Thiện hiện, ông nghĩ thế nào, vị Tu đà hoàn có ý nghĩ rằng ta được đạo quả Tu đà hoàn chăng ? Trưởng lão thưa Ngài, không, bạch Thế tôn ; tại sao như vậy, vì Tu đà hoàn là Vào dòng nước (1), thế nhưng thật ra không có cái gì nhập vào đâu cả : không nhập sắc thanh, hương, vị, xúc, pháp, nên được mệnh danh là Tu đà hoàn (2). Trưởng lão Thiện hiện, ông nghĩ thế nào, vị Tư đà hàm có ý nghĩ rằng ta được đạo quả Tư đà hàm chăng ? Trưởng lão thưa Ngài, không, bạch Thế tôn ; tại sao như vậy, vì Tư đà hàm là Một trở lại (3), thế nhưng thật ra không có cái gì một lần trở lại, nên được mệnh danh là Tư đà hàm. Trưởng lão Thiện hiện, ông nghĩ thế nào, vị A na hàm có ý nghĩ rằng ta được đạo quả A na hàm chăng ? Trưởng lão thưa Ngài, không, bạch Thế tôn ; tại sao như vậy, vì A na hàm là Không trở lại (4), thế nhưng thật ra không có cái gì không còn trở lại, nên được mệnh danh là A na hàm. Trưởng lão Thiện hiện, ông nghĩ thế nào, vị A la hán có ý nghĩ rằng ta được đạo quả A la hán chăng ? Trưởng lão thưa Ngài, không, bạch Thế tôn ; tại sao như vậy, vì lẽ thật ra không có cái gì là A la hán, nên được mệnh danh là A la hán (5). Kính bạch Thế tôn, nếu vị La hán nghĩ rằng mình được đạo quả La hán, thì như thế là chấp trước ngã nhân, chấp trước chúng sinh, chấp trước thọ giả (6). Bạch Ngài, Ngài nói trong số những người được định Không cãi (7), con là hơn hết, con là La hán ly dục bậc nhất ; nhưng con không có ý nghĩ mình là một vị La hán ly dục bậc nhất. Nếu con còn nghĩ mình là La hán, thì Ngài không nói Thiện hiện là người thích thú làm theo chánh định Không cãi (8) ; vì con không còn làm theo gì cả, nên Ngài nói con theo định Không cãi.

Ghi chú.-

(1) Vào dòng nước.- Là nghĩa của chữ dự lưu hay nhập lưu : ngược với dòng đời mà nhập vào dòng giải thoát.

(2) Trừ Td, Bd và Chd, các bản còn lại, sau câu này còn thêm : Nếu Tư đà hoàn nghĩ rằng ta được đạo quả Tu đà hoàn, thì thế là chấp ngã nhân chúng sinh thọ giả. Thêm như vậy thật cần thiết và chính xác. Câu này còn phải có sau ba đạo quả kế tiếp. Td chỉ có sau đạo quả La hán, như vậy có lẽ biểu thị ba đạo quả trước không có là dịch lược đi.

(3) Một trở lại.- là nghĩa của chữ nhất lai : một lần nữa trở lại nhân gian và lục dục thiên.

(4) Không trở lại.- là nghĩa của chữ bất lai hay bất hoàn : không còn như nhất lai.

(5) Nên được mệnh danh là A la hán.- là lấy Hd mà bổ túc.

(6) Nếu vị La hán đến chấp trước thọ giả.- Là nói La hán tự mãn tự đắc thì thế chính là ngã chấp. Câu này phải có nơi ba đạo quả trước và cùng nghĩa.

(7) Ðịnh không cãi.- Một phép định có đặc tính an bình, không xung đột.

(8) Làm theo chánh định không cãi.- Làm theo, chính văn là hành, cũng có thể dịch đi theo. Có bản dịch trú : ở trong, cùng nghĩa. Nhưng ở trong hay đi theo, làm theo gì cũng có nghĩa là sống trong, sống theo.

Lược giải.-

Nghĩa của câu .hết thảy hiền thánh toàn do Vô vi biểu hiện khác biệt. (đoạn 9) càng phải được nói ở đây, khi như thật tri kiến về bốn đạo quả Thanh văn : bốn đạo quả ấy cũng là Phi, là biểu hiện của Như. Là ở đây có nghĩa phải là. Vì nếu các vị Thanh văn, trong đó đặc biệt La hán, còn nghĩ mình chứng quả nào hay được pháp gì, thì ý nghĩ ấy chính là ngã chấp.

Phân khoa.-

Bát 2.- như thật tri kiến về Bồ tát

có 3 nhã : nhã 1 như thật tri kiến về Bồ tát hạnh quả của Phật, nhã 2 như thật tri kiến về Bồ tát hạnh, nhã 3 như thật tri kiến về Bồ tát quả.

Nhã 1.- như thật tri kiến về Bồ tát hạnh quả của Phật (đoạn 12)

Chính văn.-

  1. 1 Ðức Thế tôn bảo trưởng lão Thiện hiện, ông nghĩ thế nào, Như lai xưa kia nơi đức Nhiên đăng, được pháp gì chăng ? Không, bạch Thế tôn ; nơi đức Nhiên đăng, thực sự Thế tôn không được pháp gì.

Lược giải.-

Như thật tri kiến về Bồ tát hạnh quả của Phật bằng cách nhìn lại một mẫu của hạnh quả ấy, ấy là lúc Ngài gặp đức Nhiên đăng. Việc này sẽ nói rõ hơn đoạn 30.

Phân khoa.-

Nhã 2.- như thật tri kiến về Bồ tát hạnh (đoạn 13)

Chính văn.-

  1. 1 Trưởng lão Thiện hiện, ông nghĩ thế nào, phải chăng Bồ tát trang hoàng cõi Phật (1) ? Không, bạch Thế tôn ; lý do là vì trang hoàng cõi Phật, sự trang hoàng ấy Thế tôn đã nói là phi trang hoàng, thế nên Ngài nói đó là trang hoàng. Do vậy, trưởng lão, Bồ tát đại sĩ hãy sinh cái tâm trong sạch như vầy : không ở nơi sắc mà sinh tâm ra, không ở nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp, mà sinh tâm ra (2) ; hãy đừng ở vào bất cứ chỗ nào mà sinh tâm ra (3).

Ghi chú.-

(1) Trang hoàng cõi Phật.- Cõi Phật, chính văn là Phật độ, gồm một hay nhiều đại thiên thế giới làm một cõi mà một đức Phật làm hóa chủ. Cõi Phật như vậy, trong nghĩa hóa thân hóa độ thì không nhất thiết phải là tịnh độ như Cực lạc hay uế độ như Sa bà, mà là hoàn toàn tùy bản nguyện của đức Phật hóa chủ ; nhưng trong nghĩa báo thân báo độ thì tất cả đều là tịnh độ, và tịnh độ Sa bà thì coi Pháp hoa các phẩm 11 và 16. Còn trang hoàng cõi Phật là Bồ tát hạnh. Nói tổng quát, Bồ tát hạnh là tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sinh : làm sạch thế giới, làm nên chúng sinh.

(2) Riêng Hd ở đây có thêm và tóm tắt như sau : không ở nơi lục trần, không ở nơi phi lục trần.

(3) Tương truyền lục tổ Huệ năng nghe ngũ tổ Hoằng nhẫn giảng đến câu này thì đốn ngộ, thốt lên năm tiếng không ngờ nổi tiếng (coi dẫn nhập điều 1), tỏ ra hiểu Kim cương một cách xứng đáng là đốn ngộ của một vị tổ sư.

Lược giải.-

Bồ tát hạnh là vô trú bát nhã hoạt hiện mọi việc làm sạch thế giới và làm nên chúng sinh. Hãy như thật tri kiến như vậy về Bồ tát hạnh.

Phân khoa.-

Nhã 3.- như thật tri kiến về Bồ tát quả (đoạn 14)

Chính văn.-

  1. 1 Trưởng lão Thiện hiện, ví dụ có người thân thể cao lớn như núi Tu di, ông nghĩ thế nào, thân ấy lớn không ? rất lớn, bạch Ngài ; tại sao, bởi vì Ngài nói thân lớn là phi thân lớn, thế nên Ngài nói đó là thân lớn (1).

Ghi chú.-

(1) Tại sao, bởi vì đến đó là thân lớn.- Ðoạn này Td lược mà độc đáo. Hd như sau, cũng rõ : tại sao, vì thân lớn thì Ngài nói thân lớn ấy là phi thân lớn ; (vì là phi thân lớn) nên gọi là thân lớn, chứ không phải vì là thân lớn mà gọi là thân lớn.

Lược giải.-

Bồ tát quả là gì ? Là chủ đích mà Bồ tát hạnh nhắm đến. Chủ đích ấy là Như, là Phật thân. Trong ngôn ngữ Kim cương, thân chúng sinh cũng là phi thân, là tự siêu việt, là Như. Ðoạn 14 này giả dụ có cái thân lớn, và vì thân lớn là phi thân (là Như) mà gọi là thân lớn, chứ không phải vì thân lớn mà gọi là thân lớn. Như vậy thân nhỏ cũng là phi thân (cũng là Như) : cũng là thân lớn, cũng là Phật thân. Tăng triệu đại sư giải thích đoạn này chỉ có mấy chữ (Vạn 38/79), tôi viết lại giản dị như sau : biết thân này là phi thân thì thân này là Phật thân.

Phân khoa.-

Bát 3.- phước đức của pháp thoại (đoạn 15)

Chính văn.-

  1. 1 Trưởng lão Thiện hiện, giả thiết sông Hằng có bao nhiêu cát, thì mỗi hạt cát, là một sông Hằng, ông nghĩ thế nào, số cát tất cả sông Hằng như vậy nhiều hay không nhiều ? rất nhiều, bạch Ngài ; số lượng sông Hằng đã là vô số, huống chi số cát những sông Hằng ấy. Trưởng lão Thiện hiện, với lời nói thật, Như lai hôm nay nói với trưởng lão : giả sử thiện nam hay thiện nữ nào đem hết bảy loại vàng ngọc chất đầy thế giới đại thiên nhiều như số cát những sông Hằng ấy mà làm bố thí (1), thì phước họ được là nhiều hay ít ? Trưởng lão kính thưa, rất nhiều, bạch Ngài. Trưởng lão Thiện hiện, nếu có thiện nam hay thiện nữ khác với pháp thoại (2) này, tiếp nhận ghi nhớ dầu chỉ bốn câu (3), và biết đem nói cho bao người khác (4), thì phước người này hơn phước người trước. Thêm nữa, trưởng lão, chỗ nào giảng dạy pháp thoại như vầy, dầu chỉ bốn câu, trưởng lão cũng phải nhận thức chỗ ấy, tất cả thế giới chư thiên nhân loại và a tu la đều nên hiến cúng chùa tháp Như lai. Huống chi có người tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng nói cho người (5) trọn pháp thoại này ; trưởng lão phải biết người ấy đạt được cái pháp tối thượng hiếm có bậc nhất, và những địa điểm người ấy giảng dạy pháp thoại như vầy (6) là có Như lai hay có các vị đệ tử cao trọng.

Ghi chú.-

(1) Trừ Chd và Td, các bản khác thêm vào câu này như sau : mà phụng hiến Phật. Nhưng không thêm thì đúng hơn.

(2) Ðoạn 15 này có bốn chữ pháp thoại, đều có nghĩa như ghi chú 6 của đoạn 10.

(3) Bốn câu.- là nói tắt câu chỉnh cú 4 câu. Các đoạn sau đây, chỗ nào có chữ ấy thì cũng đồng nghĩa.

(4) Ðem nói cho bao người khác.- Ðem nói là giới thiệu, loan báo và giảng dạy.

(5) Giảng nói cho người.- Td thiếu câu này, đối chiếu phần trên thì thấy. Nên phải lấy Chd, Cd và Hd mà bổ túc. Nghĩa : coi ghi chú 4 ở trên.

(6) Và những địa điểm người ấy giảng dạy pháp thoại như vầy.- Dịch sát chính văn là : những địa điểm có bản kinh này. Dịch sát như vậy không ăn khớp lắm với văn ý ở trên.

Phân khoa.-

Kim 2.- như thật tri kiến về tuệ giác

có 2 cương : cương 1 như thật tri kiến về tuệ giác, cương 2 như thật tri kiến về sự tin của tuệ giác ấy.

Cương 1.- như thật tri kiến về tuệ giác

có 4 bát : bát 1 như thật tri kiến về bản thân của tuệ giác, bát 2 như thật tri kiến về đức tin của tuệ giác,bát 3 như thật tri kiến về chi tiết của tuệ giác, bát 4 phước đức của pháp thoại.

Bát 1.- như thật tri kiến về bản thân của tuệ giác

có 4 nhã : nhã 1 như thật tri kiến về bản thân của tuệ giác, nhã 2 như thật tri kiến về tuệ giác Phật dạy, nhã 3 như thật tri kiến về cái thân Phật dùng để dạy tuệ giác ấy, nhã 4 phước đức của pháp thoại.

Nhã 1.- như thật tri kiến về bản thân của tuệ giác (đoạn 16)

Chính văn.-

  1. 1 Vào lúc bấy giờ trưởng lão Thiện hiện bạch đức Thế tôn, pháp thoại (1) như vầy nên gọi tên gì ? chúng con cần phải ghi nhớ thế nào ? Ðức Thế tôn dạy, trưởng lão Thiện hiện, pháp thoại như vầy nên gọi tên là Kim cương bát nhã ba la mật đa (2), trưởng lão hãy nhớ pháp thoại như vầy qua danh hiệu ấy. Tại sao như vậy, trưởng lão Thiện hiện, bởi vì bát nhã ba la mật đa thì Như lai nói là phi bát nhã ba la mật đa, thế nên Như lai nói là bát nhã ba la mật đa (3).

Ghi chú.-

(1) Pháp thoại.- Trong đoạn này, những chữ này chỉ cho bản kinh này mặc dầu bản kinh này chưa phải kết thúc ở đây.

(2) Kim cương bát nhã ba la mật đa.- tên kinh này được nói trong đoạn này thì Chd, Cd, Nd và Ecd không có chữ Kim cương. Td Kim cương bát nhã ba la mật đa, Hd Năng đoạn Kim cương bát nhã ba la mật đa. Nghĩa : coi Dẫn nhập điều 7 mục a.

(3) Thế nên Như lai nói là bát nhã ba la mật đa.- là lấy Hd và Cd mà bổ túc.

Lược giải.-

Ðoạn này không phải kết thúc như thường lệ các kinh khác. Ðoạn này Phật đặt tên kinh là Bát nhã ba la mật đa (trí độ) để dạy cho ngài Tu bồ đề như thật tri kiến về bản thân của bát nhã ấy ; Bát nhã mà gọi là Bát nhã là vì phi Bát nhã : vì tự siêu việt chính nó, vì là Như.

Phân khoa.-

Nhã 2.- như thật tri kiến về tuệ giác Phật dạy (đoạn 17-18)

Chính văn.-

  1. 1 Trưởng lão Thiện hiện, ông nghĩ thế nào, Như lai có sự thuyết pháp hay không ? Trưởng lão thưa Ngài, không, bạch Thế tôn, Thế tôn không có thuyết pháp gì cả. 18. Trưởng lão Thiện hiện, ông nghĩ thế nào, thế giới đại thiên có bao vi trần (1), số lượng nhiều không ? rất nhiều, bạch Ngài. Trưởng lão Thiện hiện, những vi trần ấy, Như lai nói chúng là phi vi trần, thế nên Như lai nói là vi trần.Và bao thế giới (2), Như lai cũng nói những thế giới ấy là phi thế giới, thế nên Như lai nói là thế giới.

Ghi chú đoạn 18.-

(1) Vi trần.- Nghĩa đen là bụi nhỏ. Cũng gọi là cực vi : phân tử nhỏ nhất. Trong lý thuyết vài học phái cổ của Ấn cho vi trần là phân tử tối sơ của cấu trúc vũ trụ. Xa hơn chút nữa, sau đó có học phái cho vi trần không chỉ thuần là vật lý mà còn là phân tử tối sơ của cấu trúc tâm lý. Các bộ phái Phật giáo tiểu thừa cũng có kẻ gần như có tư tưởng ấy. Nhưng đại thừa thì cho vi trần không là tối sơ hay tối hậu gì hết, mà chỉ là sự phân tích tưởng tượng rằng đó là phân tử vật lý nhỏ nhất trong cấu trúc vũ trụ.

(2) Thế giới.- Thế là thì gian, giới là không gian, đó là định nghĩa của Lăng nghiêm. Nên thế giới là vũ trụ. Lược giải đoạn 17-18.- Ðoạn 17 nói tắt đoạn 9 ở trước và đoạn 36 ở sau. Nhưng lời nói như nhau mà ý không đồng. Ðoạn 17 này cốt nói tuệ giác bát nhã biết Pháp của Phật thuyết là phi Pháp. Và cái biết, như cái được biết của nó, cũng là phi biết. Ðoạn 18 cho thấy, cái biết biết Phật thuyết và Pháp của Phật thuyết là như vậy, và cũng là như vậy mà biết về phân tử và vũ trụ của phân tử : biết cái cấu trúc khổng lồ đè nặng tâm thức con người ấy cũng chỉ là Phi. Hãy như thật tri kiến như vậy về bát nhã Phật dạy.

Phân khoa.-

Nhã 3.- như thật tri kiến về cái thân Phật dùng để dạy tuệ giác ấy (đoạn 19)

Chính văn.-

  1. 1 Trưởng lão Thiện hiện trong ý của ông, ông nghĩ thế nào, có thể hay không nhìn thấy Như lai bằng ba mươi hai đặc tướng siêu nhân (1) ? Không, bạch Thế tôn ; tại sao như vậy, vì các đặc tướng thì Thế tôn nói là phi đặc tướng, thế nên Thế tôn nói là đặc tướng.

Ghi chú.-

(1) 32 đặc tướng siêu nhân.- Coi lại đoạn 7, ghi chú 1.

Lược giải.-

Cái thân mà Phật dùng để thuyết bát nhã ở đây là thân trượng lục, thân 32 tướng tốt. Nhưng thân ấy là phi thân, là Như. Như vậy nếu thấy 32 tướng là Như thì thế là thấy Phật bằng 32 tướng. Bát nhã thấy là như vậy, và chính cái thấy ấy đã là như vậy.

Phân khoa.-

Nhã 4.- phước đức của pháp thoại (đoạn 20)

Chính văn.-

  1. Trưởng lão Thiện hiện, nếu có thiện nam hay thiện nữ nào đem thân mạng mình bằng cát sông Hằng mà bố thí cả, và có người khác với pháp thoại này tiếp nhận ghi nhớ dầu chỉ bốn câu, và đem giảng nói cho bao người khác, thì phước người này quá nhiều hơn nữa.

Phân khoa.-

Bát 2.- như thật tri kiến về đức tin của tuệ giác (đoạn 21)

Chính văn.-

  1. 21. Vào lúc bấy giờ, trưởng lão Thiện hiện nghe pháp thoại này, lĩnh hội sâu xa, lòng đầy xúc cảm, rơi lụy mà khóc. Trưởng lão thưa rằng, thật quá hiếm có, kính bạch Thế tôn ; Ngài đã tuyên thuyết pháp thoại cực sâu. Từ khi có được con mắt tuệ giác cho đến ngày nay, con chưa nghe được pháp thoại như vầ Bạch Ngài, có ai nghe

pháp thoại này tin tưởng trong sáng và phát sinh được cái tuệ giác thật (1), thì biết người ấy đạt được công đức hiếm có bậc nhất. Kính bạch Thế tôn, tuệ giác thật ấy thì Ngài nói là phi tuệ giác thật, thế nên Ngài nói là tuệ giác thật (2). Kính bạch Thế tôn, hôm nay con được nghe pháp thoại này, tin tưởng lĩnh hội, tiếp nhận ghi nhớ, thì không khó mấy. Nhưng nếu tương lai, năm trăm năm sau người nào nghe được pháp thoại như vầy, tin tưởng, lĩnh hội, tiếp nhận, ghi nhớ, mới hiếm có nhất. Tại sao như vậy, bởi vì người ấy thì không còn có ý tưởng ngã nhân chúng sinh thọ giả – Ý tưởng ngã nhân chúng sinh thọ giả là phi ý tưởng : phi mọi ý tưởng thì thế gọi là chư Phật như lai (3). Ðức Thế tôn dạy trưởng lão Thiện hiện, thật đúng như vậy : nếu có người này được nghe pháp thoại Bát nhã như vầy mà không kinh ngạc, cũng không sợ hãi, thì biết người ấy cực kỳ hiếm có. Tại sao, trưởng lão, bởi vì Bát nhã chính là tối thượng ba la mật đa (4), và Như lai nói cái pháp tối thượng ba la mật đa là phi tối thượng ba la mật đa, thế nên Như lai nói là tối thượng ba la mật đa.

Ghi chú.-

(1) Tuệ giác thật.- Chính văn là thật tướng, Hd dịch chân thật tưởng, có nghĩa là tuệ giác chính xác. Chữ này thích hợp ở đây.

(2) Chính văn của từ ngữ này vẫn là thật tướng. Coi ghi chú 1 ở trên.

(3) Phi mọi ý tưởng, thì thế gọi là chư Phật như lai.- Ðược biết Td câu này cũng chuyển mà dịch, và vì vậy mà rất độc đáo. Không chuyển thì như Hd : bởi vì chư Phật tách rời tất cả ý tưởng.

(4) Bởi vì Bát nhã chính là tối thượng ba la mật đa.- Bát nhã ba la mật đa : tuệ giác toàn hảo. Tối thượng ba la mật đa : tuyệt đối toàn hảo, một tên khác của Bát nhã. Câu trên đây là lấy các bản dịch khác mà bổ túc. Nhưng bổ túc thật đủ thì phải là : bởi vì Bát nhã chính là tối thượng ba la mật đa. Tối thượng ba la mật đa mà Như lai nói thì chư vị Như lai cũng nói là tối thượng ba la mật đa.

Lược giải.-

Ðức tin của Bát nhã cũng như Bát nhã, đức tin mà bản thân của nó là chư Phật : siêu việt mọi ý tưởng.

Phân khoa.-

Bát 3.- như thật tri kiến về chi tiết của tuệ giác

có 2 nhã : nhã 1 như thật tri kiến về nhẫn nhục, nhã 2 như thật tri kiến về bố thí.

Nhã 1.- như thật tri kiến về nhẫn nhục (đoạn 22)

Chính văn.-

  1. Trưởng lão Thiện hiện, cái pháp nhẫn nhục ba la mật đa (1), Như lai cũng nói là phi nhẫn nhục ba la mật đa, thế nên Như lai nói là nhẫn nhục ba la mật đa (2). Tại sao trưởng lão, vì như xưa kia, trong khi Như lai bị Ca lị vương cắt thịt khắp nơi tay chân Như lai, Như lai không có ý tưởng ngã nhân chúng sinh thọ giả. Nếu lúc bấy giờ Như lai còn có ý tưởng ngã nhân chúng sinh thọ giả thì phải sinh ra giận dữ oán hận. Trưởng lão Thiện hiện, Như lai lại nhớ trong thì quá khứ, có năm trăm đời Như lai đã làm tiên nhân Nhẫn nhục. Vào lúc bấy giờ, Như lai cũng không ý tưởng ngã nhân chúng sinh thọ giả.

Ghi chú.-

(1) Nhẫn nhục ba la mật đa.- Nghĩa là sự chịu đựng toàn hảo.

(2) Thế nên Như lai nói là nhẫn nhục ba la mật đa.- là lấy Hd mà bổ túc.

Lược giải.-

Bồ tát hạnh có sáu sự toàn hảo gọi là lục độ. Căn bản của lục độ là trí độ (bát nhã), năm độ còn lại là chi tiết của căn bản ấy. Trong năm độ còn lại, liên hệ nhất với ngã chấp là thí độ và nhẫn độ. Nhẫn độ là xả bỏ tự ngã (bỏ thân), thí độ là xả bỏ ngã sở (bỏ của). Ðoạn này Phật lấy tiền thân của mình để dạy hãy như thật tri kiến như thế nào về nhẫn độ.

Phân khoa.-

Nhã 2.- như thật tri kiến về bố thí (đoạn 23)

Chính văn.-

  1. Vì lý do ấy, trưởng lão Thiện hiện, Bồ tát thì phải rời mọi ý tưởng mà phát huy tâm vô thượng bồ đề (1) ; đừng ở nơi sắc mà sinh tâm ra, đừng ở nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp, mà sinh tâm ra (2). Hãy sinh cái tâm không ở đâu cả. Nếu tâm ở đâu thì chính như thế là phi trú ở (3). Vì lý do này, Như lai nói rằng Bồ tát thì phải không ở sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, mà làm bố thí. Trưởng lão Thiện hiện, Bồ tát thì vì ích lợi chúng sinh một cách khắp cả mà hãy bố thí theo cách như vậy. Vì Như lai nói ý tưởng chúng sinh là phi ý tưởng (4), Như lai cũng nói hết thảy chúng sinh là phi chúng sinh (5). Trưởng lão Thiện hiện, Như lai là người nói phải, nói chắc, nói như sự thật, nói không lừa đảo, nói không mâu thuẫn. Trưởng lão Thiện hiện, Pháp mà Như lai đã chứng ngộ được, cái Pháp như vậy không phải chắc chắn, không phải trống rỗng (6). Trưởng lão Thiện hiện, Bồ tát nếu tâm ở nơi mọi thứ mà làm bố thí, thì như một người vào trong bóng tối, không còn thấy được một thứ gì hết ; Bồ tát nếu tâm không ở mọi thứ mà làm bố thí, thì như một người đã có mắt sáng, lại có ánh sáng mặt trời soi rõ, nên thấy đủ cả.

Ghi chú.-

(1) Rời mọi ý tưởng mà phát huy tâm vô thượng bồ đề.- Nghĩa là phát huy tuệ giác tối thượng bằng cách tách rời mọi thứ khái niệm phản ảnh ngã chấp.

(2) Ðừng ơ nơi sắc đến mà sinh tâm ra.- Câu này có thể dịch tắt : đừng ở nơi lục trần mà sinh tâm ra. Hd còn thêm : đừng ở nơi phi lục trần mà sinh tâm ra.

(3) Phi trú ở.- Chữ Phi ở đây là sự tự phủ nhận.

(4) Ý tưởng chúng sinh la phi ý tưởng.- ý tưởng chúng sinh, chính văn là tướng, chỉ có nghĩa là ý tưởng. Dịch ý tưởng chúng sinh là lấy các bản khác mà bổ túc. Ý tưởng chúng sinh là phi ý tưởng, chữ Phi ở đây, coi ghi chú 3 ở trên.

(5) Phi chúng sinh.- Chữ Phi ở đây vừa tự phủ nhận vừa tự siêu việt. Coi thêm lược giải của đoạn 37.

(6) Không phải chắn chắn, không phải trống rỗng.- Nói nôm na là không thật không dối, nói cách khác là không khẳng định không phủ định, nói tổng quát là siêu việt mọi phạm trù đối kháng nhau.

Lược giải.- Ðoạn này dạy như thật tri kiến về thí độ : người cho, vật cho và người nhận, kể cả ý tưởng về ba thứ này, toàn là Phi : siêu việt mọi phạm trù có không. Trong phần đầu của đoạn này, từ vì lý do ấy đến vô thượng bồ đề là phi người cho, từ đừng ơ nơi sắc đến mà làm bố thí là phi vật cho, từ trưởng lão Thiện hiện đến là phi chúng sinh là phi người nhận. Bố thì bằng vô trú bát nhã như vầy bổ túc hơn nữa cho đoạn 6 đã nói.

Phân khoa.-

Bát 4.- phước đức của pháp thoại

Chính văn.-

  1. Trưởng lão Thiện hiện, trong thì vị lai, nếu có thiện nam hay thiện nữ nào, đối với pháp thoại Bát nhã như vầy, tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, nói cho người khác (1), thì thế là được Như lai sử dụng tuệ giác Như lai mà biết rất rõ, và thấy rất rõ (2), rằng người như vậy ai cũng đạt được vô lượng công đức.

Ghi chú.-

(1) Nói cho người khác.- là lấy các bản khác mà bổ túc.

(2) Và thấy rất rõ.- Ðủ thì phải là : và Như lai sử dụng mắt Phật của Như lai mà thấy rất rõ.

Phân khoa.-

Cương 2.- như thật tri kiến về sự tin của tuệ giác ấy

có 4 bát : bát 1 như thật tri kiến về sự tin đặc biệt, bát 2 như thật tri kiến về địa điểm đặc biệt, bát 3 như thật tri kiến về phước đức đặc biệt.

Bát 1.- như thật tri kiến về sự tin đặc biệt (đoạn 25)

Chính văn.-

  1. Trưởng lão Thiện hiện, nếu có thiện nam hay thiện nữ nào buổi sáng đã đem hằng sa thân mạng mà bố thí cả, buổi trưa cũng đem hằng sa nhân mạng mà bố thí nữa, buổi chiều lại đem hằng sa nhân mạng mà bố thí luôn, và sự bố thí thân mạng như vậy làm đến trăm ngàn vạn ức thời kỳ (1) ; và có người khác nghe pháp thoại này, trong lòng tin tưởng chứ không đối kháng, thì phước người này hơn phước người trước, huống chi có người sao chép ấn hành, tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, nói cho người khác. Trưởng lão Thiện hiện, chính yếu mà nói thì bài pháp thoại Bát nhã như vầy có những công đức ngoài tầm nghĩ bàn, ước lượng, đối chiếu, siêu việt giới hạn ; Như lai nói cho những người đi theo giáo pháp đại thừa (2), nói cho những người đi theo giáo pháp đại thừa tối thượng (3). Ai có năng lực tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, trình bày phong phú cho bao người khác, thì chính Như lai biết rõ người ấy, thấy rõ người ấy, đạt được công đức không thể ước lượng, không thể đối chiếu, không có giới hạn, ngoài tầm nghĩ bàn. Những người như vậy có thể gánh vác tuệ giác vô thượng của ta, Như lai. Tại sao như thế, trưởng lão Thiện hiện, bởi vì những ai ưa pháp tiểu thừa (4), vẫn còn ngã nhân, chúng sinh thọ giả, thì với pháp này không thể lắng nghe, tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, nói cho người khác.

Ghi chú.-

(1) Thời kỳ.- là dịch chữ kiếp. Kiếp là kiếp ba : thời kỳ dài. Thời kỳ này có ba loại : lớn, gìữa, nhỏ.

(2) Ðại thừa.- Cỗ xe vĩ đại.

(3) Ðại thừa tối thượng.- Chính văn là tối thượng thừa : cỗ xe trên hết.

(4) Những ai ưa pháp tiểu thừa.- là các vị Thanh văn.

Lược giải.-

Tiểu thừa Thanh văn còn ngã chấp là vì tự mãn với niết bàn tiểu thừa. Sự tự mãn ấy chính là ngã chấp không những theo bản năng mà cũng còn theo lý thuyết. Ngã chấp như vậy nên chữ Phi của Kim cương là “mũi dao tổn thương con tim của họ”. Do vậy, hãy như thật tri kiến về đức tin Bát nhã : tin nổi Bát nhã là theo nổi đại thừa.

Phân khoa.-

Bát 2.- như thật tri kiến về địa điểm đặc biệt (đoạn 26)

Chính văn.-

  1. Trưởng lão Thiện hiện, bất cứ chỗ nào, hễ có bản kinh Kim cương bát nhã, thì cả thế giới chư thiên, nhân loại và a tu la, đều nên hiến cúng. Nên biết chỗ ấy chính là chùa tháp tôn thờ Như lai ; hãy lạy, đi nhiễu, tung rãi các loại bông hoa, hương liệu.

Phân khoa.-

Bát 3.- như thật tri kiến về hiệu năng đặc biệt (đoạn 27)

Chính văn.-

  1. Thêm nữa, trưởng lão, bất cứ thiện nam hay thiện nữ nào học hỏi ghi nhớ, nghiên cứu, tụng thuộc kinh Kim cương này mà bị khinh dễ, thì biết người ấy tội ác đời trước đáng sa chỗ dữ, nhưng vì đời này bị người khinh dễ thì tội ác đó tiêu tan hết cả, người ấy sẽ được tuệ giác vô thượng.

Lược giải.-

Hiệu năng Kim cương được nói như đoạn này thì thật rõ và gần như độc đáo. Phải là kinh như Kim cương mới có cái hiệu năng tiêu diệt ngay trong đời này những ác nghiệp đã thuần thục. Hãy như thật tri kiến như vậy để khỏi ngờ và sợ khi thấy đọc tụng Kim cương mà hay bị những sự bất như ý.

Phân khoa.-

Bát 4.- như thật tri kiến về phước đức đặc biệt (đoạn 28)

Chính văn.-

  1. Trưởng lão Thiện hiện, Như lai nhớ lại quá khứ vô số thời kỳ vô số (1), trước khi Như lai gặp đức Nhiên đăng, thì đã gặp được tám trăm bốn ngàn vạn ức trăm triệu chư Phật như lai, đối với Ngài nào Như lai cũng đồng thừa sự hiến cúng chứ không bỏ qua. Nhưng nếu có ai ở trong thời kỳ cuối cùng sau này, mà có năng lực học hỏi, ghi nhớ, nghiên cứu tụng thuộc bản kinh Kim cương bát nhã này đây, thì bao công đức người ấy đạt được, công đức Như lai phụng sự chư Phật không bằng phần trăm, phần ngàn vạn ức, đến nỗi toán pháp và ví dụ nữa, cũng không bằng được một phần nào cả. Trưởng lão Thiện hiện, nếu có thiện nam hay thiện nữ nào ở trong thời kỳ cuối cùng sau này, mà có khả năng tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, tụng thuộc bản kinh Kim cương bát nhã như vầy, bao nhiêu công đức mà họ đạt được, nếu Như lai nói một cách đầy đủ, thì tất có kẻ nghe mà nổi khùng, bối rối, hoài nghi, không thể tin được. Trưởng lão Thiện hiện, phải nhận thức rằng ý nghĩa Kim cương không thể nghĩ bàn, hiệu quả cũng vậy không thể nghĩ bàn.

Ghi chú.-

(1) Thời kỳ vô số.- là a tăng kỳ kiếp.

Lược giải.-

Phật đem chính phước đức của mình mà đề cao phước đức Kim cương : phước đức Kim cương siêu việt là vì ý nghĩa Kim cương siêu việt.

Phân khoa.-

Kim 3 : như thật tri kiến về chủ thể

có 2 cương, cương 1 như thật tri kiến về chủ thể, cương 2 như thật tri kiến về chủ thể mà loại bỏ tà kiến.

Cương 1, như thật tri kiến về chủ thể

có 3 bát : bát 1 như thật tri kiến chủ thể về nhân và quả của Bồ tát, bát 2 như thật tri kiến chủ thể về Phật quả của Bồ tát, bát 3 phước đức của pháp thoại.

Bát 1.- như thật tri kiến chủ thể về nhân và quả của Bồ tát

có 5 nhã, nhã 1 như thật tri kiến về chủ thể phát tâm vô thượng bồ đề, nhã 2 như thật tri kiến về chù thể thực hiện vô thượng bồ đề, nhã 3 như thật tri kiến về Bồ tát hạnh thực hiện vô thượng bồ đề, nhã 4 như thật tri kiến về tuệ của vô thượng bồ đề, nhã 5 như thật tri kiến về phước của vô thượng bồ đề

Nhã 1.- như thật tri kiến về chủ thể phát tâm vô thượng bồ đề (đoạn 29)

Chính văn.-

  1. Vào lúc bấy giờ, trưởng lão Thiện hiện kính bạch Thế tôn, thiện nam thiện nữ đã phát tâm nguyện vô thượng bồ đề, thì phải làm sao để ở tâm ấy ? và phải làm sao để sửa tâm mình ? Ðức Thế tôn dạy, trưởng lão Thiện hiện, thiện nam thiện nữ phát tâm bồ đề, thì sửa tâm mình bằng tuệ giác này : ta phải làm cho hết thảy chúng sinh được niết bàn rồi mà thật không thấy một chúng sinh nào được niết bàn cả. Lý do là vì Bồ tát mà có ý tưởng ngã nhân chúng sinh thọ giả, thì như thế là không phải Bồ tát. Tại sao như vậy, trưởng lão Thiện hiện, bởi vì thật ra không có pháp gì là người phát tâm vô thượng bồ đề.

Lược giải.-

Ðoạn này văn tự gần như lặp lại đoạn 5, nhưng cốt ý nói bát nhã không thấy có mình là người phát tâm vô thượng bồ đề.

Phân khoa.-

Nhã 2.- như thật tri kiến về chủ thể thực hiện vô thượng bồ đề (đoạn 30)

Chính văn.-

  1. Trưởng lão Thiện hiện, ông nghĩ thế nào, nơi đức Nhiên đăng, phải chăng Như lai có một pháp gì gọi là đạt được vô thượng bồ đề ? Không, bạch Thế tôn ; theo chỗ con hiểu ý nghĩa đã được Thế tôn dạy cho thì khi Ngài ở nơi đức Nhiên đăng, không có pháp gì gọi là đạt được vô thượng bồ đề. Ðức Thế tôn dạy, đúng vậy, Thiện hiện, đúng là không có pháp gì gọi là Như lai đạt được vô thượng bồ đề. Nếu có pháp gì gọi là Như lai đạt được tuệ giác vô thượng bồ đề, thì đức Nhiên đăng đã không ghi nhận, rằng trong tương lai ông thành Phật đà, danh hiệu gọi là Thích ca mâu ni ; vì thật không có pháp gì gọi là Như lai đạt được vô thượng bồ đề, nên đức Nhiên đăng mới ghi nhận cho, bằng cách nói rằng ông thành Phật đà danh hiệu gọi là Thích ca mâu ni – tại sao như vậy ? vì chữ Như lai chính là nghĩa Như của tất cả pháp (1). Nếu có ai nói Như lai đạt được vô thượng bồ đề, thì nói như vậy là không chính xác (2), bởi vì, trưởng lão, thật ra không có pháp gì gọi là Như lai đạt được vô thượng bồ đề, sự đạt được ấy không phải chắc chắn, không phải trống rỗng. Vì lý do này, Như lai tuyên ngôn rằng tất cả pháp toàn là Phật pháp. Trưởng lão Thiện hiện, tất cả pháp ấy Như lai đã nói phi tất cả pháp, nên Như lai nói là tất cả pháp.

Ghi chú.-

(1) Vì chữ Như lai chính là nghĩa Như của tất cả pháp.- Hd thêm : Như lai là dị danh của chân như chân thật, Như lai là dị danh của pháp tánh vô sinh, Như lai là dị danh của con đường vĩnh diệt, Như lai là dị danh của bất sinh tuyệt đối. Cd cũng thêm như vậy. Thêm như vậy rõ ràng là thêm thắt và rất kém cả văn lẫn ý. Như lai là nghĩa Như, dịch như vậy, và nguyên bản như vậy, thì văn và ý đều độc đáo. Như là Như thế. Như, nói đủ là Chân như : trung thực như thế. Mà Như Thế thì nghĩa là ở đâu, lúc nào, người nào, vật gì, cũng vốn như thế, toàn như thế, và vẫn như thế, chứ không khác đi vì phân biệt, khái niệm. Nói cách khác, Như Thế là các pháp tự siêu việt mọi sự sai khác. Như Thế là thực thể của Phật (cũng như của các pháp), Phật là biểu tượng của thực thể ấy, nên nói Như lai và Như.

(2) Thì nói như vậy là không chính xác.- là lấy Hd mà bổ túc.

Lược giải.-

Ðoạn 30 này đã được nói lược ở đoạn 12, nhưng đoạn ấy cốt nói bát nhã không thấy có bồ tát hạnh quả của Phật, còn đoạn này cốt nói bát nhã không thấy có cái người thực hiện vô thượng bồ đề.

Phân khoa.-

Nhã 3.- như thật tri kiến về Bồ tát hạnh thực hiện vô thượng bồ đề (đoạn 31-32)

Chính văn.-

  1. 31. Trưởng lão Thiện hiện, ví như có ngưởi thân thể cao lớ.. Trưởng lão Thiện hiện liền bạch Thế tôn, thân cao lớn ấy thì Ngài đã nói phi thân cao lớn, thế nên Ngài nói là thân cao lớn. Trưởng lão Thiện hiện, Bồ tát cũng vậy : Bồ tát mà nói ta phải làm cho vô số chúng sinh đều được niết bàn, thì không được gọi là vị Bồ tát ; trưởng lão Thiện hiện, bởi vì thật ra không có pháp gì gọi là Bồ tát. Vì thế Như lai nói tất cả pháp không phải ngã nhân chúng sinh thọ giả.
  2. Trưởng lão Thiện hiện, nếu Bồ tát nói ta phải trang hoàng cõi Phật của ta, thì không được gọi là vị Bồ tát. Tại sao, trưởng lão, trang hoàng cõi Phật thì Như lai nói là phi trang hoàng, thế nên Như lai nói là trang hoàng. Trưởng lão Thiện hiện, Bồ tát thấu triệt về sự vô ngã (1), Như lai mới nói vị ấy đích thực là vị Bồ tát.

Ghi chú.-

(1) Sự vô ngã.- Chính văn là vô ngã pháp. Tra cứu tất cả bản dịch, biết đích chính văn ấy có nghĩa cái pháp vô ngã, chứ không phải vô ngã vô pháp. Sự vô ngã ở đây là vô nhân ngã và vô pháp ngã, chứ không phải chỉ là vô ngã khác với vô pháp.

 

Lược giải đoạn 31-32.-

Cả hai đoạn này cốt nói bát nhã không thấy có cái người làm bồ tát hạnh : đoạn 31 nói sự làm nên chúng sinh, đoạn 32 nói sự làm sạch thế giới. Ðoạn 31, văn phần đầu gần như lặp lại đoạn 14, nhưng đoạn 14 cốt nói Phật thân là phi Phật thân (thân lớn là phi thân lớn), còn đoạn 31 này nói Bồ tát là phi Bồ tát (thân lớn là phi thân lớn). Ðoạn 32 cũng vậy, văn như đoạn 13 mà ý cốt không nói cái người làm sạch thế giới.

Phân khoa.-

Nhã 4.- như thật tri kiến về tuệ của vô thượng bồ đề (đoạn 33)

Chính văn.-

  1. Trưởng lão Thiện hiện, ông nghĩ thế nào, có đúng Như lai hiện có mắt thịt, mắt trời phải không ? Phải, bạch Thế tôn, Ngài có mắt thịt và có mắt trời. Có đúng Như lai hiện có mắt tuệ, mắt pháp phải không ? Phải, bạch Thế tôn, Ngài có mắt tuệ và có mắt pháp. Như lai hiện có mắt Phật phải không ? Phải, bạch Thế tôn, Ngài có mắt Phật. Trưởng lão Thiện hiện, ông nghĩ thế nào, cát trong sông Hằng Như lai cũng nói là cát phải không ? Phải, Ngài nói cát. Ông nghĩ thế nào, có bao nhiêu cát trong một sông Hằng thì có sông Hằng bằng số cát ấy, và những cõi Phật bằng với số cát những sông Hằng này thì nhiều hay không ? Rất nhiều, bạch Ngài. Trưởng lão Thiện hiện, bao nhiêu tâm tưởng (1) tất cả chúng sinh trong những cõi Phật được nói như vậy, Như lai biết hết. Tại sao, trưởng lão, Như lai nói rằng bao tâm tưởng ấy là phi tâm tưởng, thế nên Như lai nói là tâm tưởng : Tâm tưởng quá khứ không thể nhận được, tâm tưởng hiện tại không thể nhận được, tâm tưởng vị lai không thể nhận được.

Ghi chú.-

(1) Tâm tưởng.- Hd rõ là tâm tưởng diễn biến (tâm lưu chú).

Lược giải.-

Về ngũ nhãn của Phật, Dẫn nhập điều 7 mục c đã nói sơ lược. Nay nói sơ lược hơn nữa, theo ngôn ngữ Kim cương. Thấy A (sở ngôn) là nhục nhãn và thiên nhãn. Thấy A là phi-A (tức phi) là tuệ nhãn. Vì A là phi-A nên nói là A (thị danh) là pháp nhãn. Phật nhãn viên mãn và siêu việt tất cả. Ngũ nhãn như vậy nên biết bình thường như các Phật cũng thấy biết, thấy biết cái biến hóa và siêu tốc nhất như tâm lý Phật càng thấy biết – thấy biết tận cùng số lượng, thực chất.

Phân khoa.-

Nhã 5.- như thật tri kiến về phước của vô thượng bồ đề (đoạn 34)

Chính văn.-

  1. Trưởng lão Thiện hiện, giả sử có ai đem hết vàng ngọc đầy cõi đại thiên mà bố thí cả, người này vì thế được phước nhiều không ? Rất nhiều, bạch Ngài, người này vì thế được phước rất nhiều. Trưởng lão Thiện hiện, nếu phước có thật thì Như lai đã không nói phước nhiều, nhưng vì phước ấy thật là phi phước, thế nên Như lai nói là phước nhiều.

Lược giải.-

Phước của vô thượng bồ đề là thuận tánh mà tu hành và diệu dụng. Tức như Khởi tín luận nói thuận theo sự không trú ở của chân như mà không trú ở sinh tử và niết bàn…, thuận theo chân như không tham lẫn mà bố thí…

Phân khoa.-

Bát 2.- như thật tri kiến chủ thể về Phật quả của Bồ tát

có 4 nhã, nhã 1 như thật tri kiến về Phật thân, nhã 2 như thật tri kiến về Phật thuyết, nhã 3 như thật tri kiến về Phật hóa, nhã 4 như thật tri kiến về Phật pháp.

Nhã 1.- như thật tri kiến về Phật thân (đoạn 35)

Chính văn.-

  1. Trưởng lão Thiện hiện, ông nghĩ thế nào, có thể hay không nhìn thấy Như lai bằng cái sắc thân toàn hảo đặc tướng ? Không, bạch Thế tôn, không nên nhìn Ngài bằng cái sắc thân toàn hảo đặc tướng. Tại sao như vậy, vì cái sắc thân toàn hảo đặc tướng thì Thế tôn nói là phi sắc thân toàn hảo đặc tướng, đó là lý do tại sao Thế tôn nói là sắc thân toàn hảo đặc tướng. Trưởng lão Thiện hiện, ông nghĩ thế nào, có thể hay không nhìn thấy Như lai bằng các đặc tướng toàn hảo tất cả ? Không, bạch Thế tôn, không nên nhìn Ngài bằng các đặc tướng toàn hảo tất cả. Tại sao như vậy, vì các đặc tướng toàn hảo tất cả thì Thế tôn nói là phi đặc tướng toàn hảo tất cả, đó là lý do tại sao Thế tôn, nói là đặc tướng toàn hảo tất cả.

Lược giải.-

Ðây là lần thứ 3 trong 5 lần, các đoạn 7, 19, 35, 41, 42) đã và còn nói về sự thấy Phật bằng tướng hảo. Nhưng 5 lần như vậy văn đồng mà ý khác. Ở đây, đoạn 35, là như thật tri kiến về cái chủ thể có cái thân đầy đủ tướng hảo và có tướng hảo đầy đủ.

Phân khoa.-

Nhã 2.- như thật tri kiến về Phật thuyết (đoạn 36)

Chính văn.-

  1. Trưởng lão Thiện hiện, đừng nói Như lai có cái ý nghĩ Như lai thuyết pháp. Ðừng nói như vậy. Lý do tại sao, vì nói Như lai có sự thuyết pháp thì thế chính là phỉ báng Như lai. Nói thế tức là không khéo lĩnh hội ý nghĩa đã được Như lai tuyên thuyết. Trưởng lão Thiện hiện, gọi là thuyết pháp là thật không có pháp gì để thuyết, như thế mới được gọi là thuyết pháp.

Lược giải.-

Thuyết pháp không những chỉ là thuyết rằng Pháp là Phi (Như) : là siêu việt ngôn thuyết, mà ngay cái người thuyết pháp cũng là Phi. Ðó là như thật tri kiến về Phật thuyết pháp và Pháp của Phật thuyết.

Phân khoa.-

Nhã 3.- như thật tri kiến về Phật hóa (đoạn 37)

Chính văn.-

  1. Lúc ấy Thiện hiện, người lấy tuệ giác mà làm tính mạng, kính bạch Thế tôn, có thể có ai trong thì vị lai nghe Pháp như vầy mà tin tưởng không ? Ðức Thế tôn dạy, những người như vậy không phải chúng sinh hay không chúng sinh ; tại sao, trưởng lão, gọi là chúng sinh thì Như lai nói là phi chúng sinh, vì thế Như lai gọi là chúng sinh (1).

Ghi chú.-

(1) Ðược biết trọn đoạn này là lấy Bd mà bổ túc, nguyên Td không có. Người làm việc này là ai thì không rõ. Các bản dịch khác sau Bd đều có đoạn này. Xét cả văn và ý thì thấy bổ túc rất phải.

Lược giải.-

Người thuyết Pháp và Pháp được thuyết như thế nào thì người nghe Pháp cũng vậy. Người nghe Pháp không phải là chúng sinh (vì là Phi, là Như), dầu hiện không phải là không chúng sinh (vì chưa tự biết là Phi, là Như). Phật hóa là giáo hóa cho họ biết sự không tự biết ấy. Hãy như thật tri kiến như vậy về Phật hóa và người được Phật hóa.

Phân khoa.-

Nhã 4.- như thật tri kiến về Phật pháp (đoạn 38)

Chính văn.-

  1. Trưởng lão Thiện hiện, kính bạch Thế tôn, Thế tôn đạt được vô thượng bồ đề, thật ra là sự phi đạt được chăng ? Ðúng, đúng như vậy, trưởng lão Thiện hiện ; Như lai đối với vô thượng bồ đề không có chút gì gọi là đạt được nên được gọi là vô thượng bồ đề. Thêm nữa, trưởng lão, Pháp thì đồng đẳng, không bất đồng đẳng (1), thế nên gọi là vô thượng bồ đề : không có ngã nhân chúng sinh thọ giả mà làm pháp lành, thế thì đạt được vô thượng bồ đề. Trưởng lão Thiện hiện, gọi là pháp lành thì Như lai nói là phi pháp lành, thế nên Như lai gọi là pháp lành.

Ghi chú.-

(1) Pháp thì đồng đẳng, không bất đồng đẳng.- Chính văn là thị pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ, dịch sát : Pháp ấy bình đẳng, không có cao thấp. Hd rõ hơn : Pháp ấy bình đẳng, không bất bình đẳng. Nghĩa : Pháp là Như, tự Nó không có gì là không Như, không có gì sai khác vì ngã chấp.

Lược giải.-

Pháp là pháp vô thượng bồ đề của Phật, là Phật pháp. Pháp ấy là Như, siêu việt mọi khái niệm mà độc chất là ngã chấp. Thiện pháp đạt đến Pháp ấy cũng là Như biểu hiện – là thuận tánh khởi dụng.

Phân khoa.-

Bát 3.- phước đức của pháp thoại (đoạn 39)

Chính văn.-

  1. Trưởng lão Thiện hiện, có người đem cho bảy loại vàng ngọc chất đống bằng với những núi Tu di trong cõi đại thiên, và có người khác tiếp nhận ghi nhớ dầu chỉ bốn câu bản kinh Bát nhã ba la mật này, và nói cho người, thì phước người trước không bằng phần trăm, phần ngàn vạn ức, toán pháp, ví dụ, cũng không bằng được một phần nào cả.

Phân khoa.-

Cương 2.- như thật tri kiến về chủ thể mà loại bỏ tà kiến

có hai bát : bát 1 như thật tri kiến mà loại bỏ tà kiến, bát 2 loại bỏ tà kiến mà hội nhập như thật tri kiến.

Bát 1.- như thật tri kiến mà loại bỏ tà kiến

có hai nhã : nhã 1 như thật tri kiến mà loại bỏ tà kiến thường còn, nhã 2 như thật tri kiến mà loại bỏ tà kiến đoạn diệt.

Nhã 1.- như thật tri kiến mà loại bỏ tà kiến thường còn (đoạn 40-41)

Chính văn.-

  1. Trưởng lão Thiện hiện, các vị đừng nói Như lai nghĩ rằng Như lai giải thoát các loại chúng sinh ; trưởng lão Thiện hiện, đừng nghĩ như vậy, vì thật không có một chúng sinh nào Như lai giải thoát. Nếu có chúng sinh Như lai giải thoát, thì thế chính là Như lai đã có ý tưởng ngã nhân chúng sinh thọ giả. Trưởng lão Thiện hiện, ý tưởng về ngã thì Như lai nói phi ý tưởng ngã (1), nhưng người tầm thường thì bảo là ngã. Trưởng lão Thiện hiện, người tầm thường ấy Như lai nói là người phi tầm thường (2).

Ghi chú.-

(1) Phi ý tưởng ngã.- Nghĩa là chính thực chất ngã chấp tự phủ nhận lấy nó. Ngã ở đây bao gồm tất cả ngã nhân chúng sinh thọ giả : bao gồm tất cả nhân ngã và pháp ngã

(2) Phi người tầm thường.- Sau câu này Hd thêm : thế nên gọi là những người tầm thường. Người tầm thường : phàm phu của Td hay ngu phu dị sinh của Hd. Người tầm thường phi người tầm thường là chúng sinh phi chúng sinh : chúng sinh vốn là Như (coi lược giải đoạn 37). Ðại sư Tăng triệu chú thích : phàm phu phi phàm phu nên có thể giáo hóa cho thành thánh giả (Vạn 38/217A).

Lược giải.-

Loại bỏ ngã chấp thường còn (chấp có) có hai đoạn. Ðây là đoạn thứ nhất cốt nói nếu Phật thấy có chúng sinh được mình hóa độ (cũng như nếu thấy có mình hóa độ chúng sinh) thì cái thấy ấy là ngã chấp : chấp thường, chấp có.

Chính văn.-

  1. 41. Trưởng lão Thiện hiện, ông nghĩ thế nào, phải chăng có thể nhìn thấy Như lai bằng ba mươi hai đặc tướng siêu nhân ? Kính bạch Thế tôn, theo chỗ con hiểu nghĩa của Ngài dạy, không thể nhìn Ngài bằng ba mươi hai đặc tướng siêu nhân. Ðức Thế tôn dạy, trưởng lão Thiện hiện, thật đúng như vậy, bởi vì nếu nhìn ba mươi hai nét đặc tướng siêu nhân mà cho có thể nhìn thấy Như lai thì Chuyển luân vương cũng là Như Thế nên không thể nhìn thấy Như lai bằng ba mươi hai đặc tướng siêu nhân ; hãy nhìn Như lai bằng cách nhìn thấy tất cả đặc tướng là phi đặc tướng (1). Bấy giờ Thế tôn nói chỉnh cú này :

Nếu đem sắc tướng
nhìn thấy Như lai,
hoặc đem âm thanh
nhận thức Như lai,
thì những người ấy
đã đi lạc đường,
không còn có thể
thấy biết Như lai. (2).

Ghi chú.-

(1) Ðoạn 41 này tham chiếu Hd mà chuyển dịch chính văn của Td. Nếu dịch đúng chính văn Td thì như sau, vẫn dịch mỗi câu 4 chữ để ai muốn thì dùng :

Trưởng lão Thiện hiện,
ông nghĩ thế nào,
phải chăng có thể
nhìn thấy Như lai,
bằng ba mươi hai
đặc tướng siêu nhân ?
Trưởng lão thưa Ngài,
kính bạch Thế tôn,
đúng là có thể
nhìn thấy Thế tôn
bằng ba mươi hai
đặc tướng siêu nhân.
Ðức Thế tôn dạy,
trưởng lão Thiện hiện,
nếu nói có thể
đem ba mươi hai
đặc tướng siêu nhân
mà thấy Như lai,
thì Chuyển luân vương
cũng là Như lai.
Trưởng lão thưa ngài,
kính bạch Thế tôn,
theo con hiểu ý
đức Thế tôn dạy
thì thật không thể
nhìn thấy Thế tôn
bằng ba mươi hai
đặc tướng siêu nhân.

Td như vậy có thể Phạn bản của Td là như vậy, mà cũng có thể Td chuyển văn mà dịch cho rõ ý. Ý đó là sự chấp ngã (chấp thường, chấp có), là cái bản năng không dễ bỏ : ngài Tu bồ đề nghe Phật dạy đến đây rồi mà còn bộc lộ không tự kiểm cái chấp ấy đến như vậy – bộc lộ theo bản năng, không những thấy có mình nhìn Phật, thấy có Phật mình nhìn, mà nhìn thấy chỉ qua sắc tướng như người thường nhìn thấy. Nhưng nguyên Phạn bản Td như vậy hay Td chuyển văn như vậy, đằng nào cũng đã gây bối rối cho người đọc tụng, vì văn tự khác quá với các đoạn 7, 19 và 35, chưa kể 42. Nên tôi phải đối chiều Hd mà chuyển dịch. Hd tuy không làm rõ được nhiều cái ý như đã nói, nhưng không gây bối rối nào cả.

(2) Bài chỉnh cú này của Td, văn ý già dăn, không như các bản khác còn thêm 4 câu nữa : hãy nhìn thấy pháp tánh của Như lai là pháp thân của Như lai, pháp tánh thì siêu việt nhận thức nên người (đi lạc đường) ấy không thể biết được.

Lược giải.-

Ðây là đoạn thứ hai loại bỏ chấp thường còn (chấp có) : Nếu thấy Phật qua sắc tướng (hay tìm Phật qua âm thanh) như cái thấy (và cái nghe) của ngã chấp, thì ai có mang 32 tướng tốt (dầu không tốt bằng Phật) cũng là Phật cả.

Phân khoa.-

Nhã 2.- như thật tri kiến mà loại bỏ tà kiến đoạn diệt (đoạn 42-43)

Chính văn.-

  1. Trưởng lão Thiện hiện, nếu ông nghĩ rằng Như lai không do (1) đặc tướng toàn hảo mà được tuệ giác vô thượng bồ đề, thì này trưởng lão, đừng nghĩ như vậy, rằng ta, Như lai, không do đặc tướng toàn hảo mà được vô thượng bồ đề (2).

Ghi chú.-

(1) Không do.- Chữ không, chính văn là bất, có vị cho là không có (Vạn 83/327A hay Chính 33/152). Xét ý Td thì phải có (coi điều thứ ba của ghi chú 2 dưới đây).

(2) Ðoạn 42 này chỉ Nd không có, nhưng xét có thì đúng hơn. Ðoạn 42 này có 3 điều cần ghi chú. Ðiều thứ nhất, đoạn này loại bỏ ý nghĩ Phật không do đặc tướng mà thành Phật (nghĩa là nghĩ Phật là đoạn diệt hư vô), bởi vì 32 đặc tướng của Phật mỗi đặc tướng do cả trăm phước trang nghiêm, và Phật do phước ấy mà thành Phật, mà được Phật thân toàn hảo đặc tướng. Ðiều thứ hai, đoạn này các bản khác trái hẳn với Td. Hãy lấy Hd làm mẫu mà đối chiếu, như sau : Thiện hiện, ông nghĩ thế nào, Như lai chứng vô thượng giác là do các đặc tướng toàn hảo chăng ? Thiện hiện, đừng nghĩ như vậy, tại sao, bởi vì, Thiện hiện, Như lai không do các đặc tướng toàn hảo mà chứng vô thượng giác. Ðiều thứ ba, ngay Td mà bỏ chữ bất đi (coi ghi chú 1), và dịch ép câu chót, thì cũng cùng ý : Thiện hiện, nếu ông nghĩ rằng Như lai được vô thượng giác là do các đặc tướng toàn hảo (thì), Thiện hiện, đừng nghĩ như vậy, (vì) Như lai không do các đặc tướng toàn hảo mà chứng vô thượng giác. Nhưng xét ý đại sư Tăng triệu (Vạn 38/217B) thì đoạn 42 này phải hiểu và dịch như đã dịch, lại phải đặc vào tiết mục loại bỏ chấp đoạn diệt (chấp không). Nếu hiểu và dịch như các bản khác thì đoạn này là loại bỏ chấp thường còn (chấp có), và như vậy thì thừa (vì trùng ý với đoạn 14).

Lược giải.-

Loại bỏ chấp đoạn diệt (chấp không) cũng bằng hai đoạn. Ðây là đoạn thứ nhất, nói quả bất diệt (Phật đà bất diệt). Quả ấy là Phật thân đủ mọi tướng hảo : chính Phật thân này tự phủ nhận sự chấp không (chấp đoạn) rồi. Muốn hiểu Phật đà bất diệt như thế nào thì coi Pháp hoa phẩm 16.

Chính văn.-

  1. Trưởng lão Thiện hiện, nếu ông nghĩ rằng những người phát tâm vô thượng bồ đề nói rằng các pháp là tiêu diệt hẳn, thì đừng nghĩ thế, tại sao, bởi vì những người phát tâm vô thượng bồ đề đối với các pháp không nói tiêu diệt (1).

Ghi chú.-

(1) Không nói tiêu diệt.- Chính văn là bất thuyết đoạn diệt tướng, so với các bản khác và dịch đủ thì phải là không nhận thức qui định và tuyên bố các pháp là tiêu diệt.

Lược giải.-

Ðây là đoạn thứ hai loại bỏ chấp đoạn diệt (chấp không), bằng cách nói nhân bất diệt (Bồ tát bất diệt). Nhân ấy là phát tâm vô thượng bồ đề : chính sự phát tâm này tự phủ nhận sự chấp không (chấp đoạn rồi).

Phân khoa.-

Bát 2.- loại bỏ tà kiến mà hội nhập như thật tri kiến

có 4 nhã : nhã 1 hội nhập như thật tri kiến về nhân, nhã 2 hội nhập như thật tri kiến về quả, nhã 3 hội nhập như thật tri kiến về vũ trụ, nhã 4 hội nhập như thật tri kiến về bản thân. Phân khoa trên đây, có thể đổi từ ngữ mà nói một cách khác, nghĩa là nhìn một cách khác hơn nữa về 4 nhã này : nhã 1 hội nhập như thật tri kiến về nghiệp quả, nhã 2 hội nhập như thật tri kiến về thực thể, nhã 3 hội nhập như thật tri kiến về vũ trụ, nhã 4 hội nhập như thật tri kiến về bản thân. Cách nhìn như vầy có nghĩa đoạn 44 này cho thấy phi thường phi đoạn nên có nghiệp thì có nghiệp quả, đoạn 45 cho thấy phi thường phi đoạn nên bản thể vốn siêu việt, đoạn 46-47 cho thấy phi thường phi đoạn nên cảnh giới là phi cảnh giớii, đoạn 48 cho thấy phi thường phi đoạn nên bản thân là Phật thân. Cách nhìn như vầy sát ý hơn, nhưng kém sát văn, nhất là văn đoạn 44, nên tôi không dùng mà thấy phải nêu lên ở đây.

Nhã 1.- hội nhập như thật tri kiến về nhân (đoạn 44)

Chính văn.-

  1. Trưởng lão Thiện hiện, một vị Bồ tát đem cho tất cả bảy loại vàng ngọc chất đầy thế giới như cát sông Hằng ; vị Bồ tát khác biết tất cả pháp toàn là vô ngã, thành được sức Nhẫn, thì Bồ tát này hơn Bồ tát trước. Lý do là vì, trưởng lão Thiện hiện, Bồ tát thì không tiếp nhận phước đức. Trưởng lão Thiện hiện kính bạch Thế tôn, tại sao Bồ tát không nhận phước đức ? Bởi vì, Thiện hiện, Bồ tát làm hết mọi sự phước đức, thế nhưng không nên tham đắm phước đức, Như lai do vậy nói là không nhận mọi sự phước đức.

Ghi chú.-

(1) Vô ngã.- ngã ở đây bao gồm tất cả khái niệm về ngã là ngã nhân chúng sinh thọ giả, bao gồm tất cả cái ngã bản năng và cái ngã lý thuyết, bao gồm cả nhân ngã và pháp ngã.

(2) Sức nhẫn.- Chính văn là nhẫn, Hd thêm : kham nhẫn. Như vậy Nhẫn ở đây là chấp nhận. Chấp nhận cái gì ? Một, chấp nhận vô ngã chứ không chới với ; sự chấp nhận này là tuệ giác. Hai, chấp nhận nghịch cảnh chứ không thoái chuyển ; sự chấp nhận này là nhẫn nhục. Sự chấp nhận trước dẫn ra sự chấp nhận sau, và gồm cả hai sự Nhẫn này lại thì thấy vô ngã là vô sinh (Hd rõ như vậy) : không còn si mê phiền não. Nên sức Nhẫn ở đây gọi là Vô sinh pháp nhẫn. Ðiển hình sức Nhẫn này là tiền thân Phật được nói trong đoạn 22.

(3) Td như vầy thật rõ. Hd như sau, hãy đối chiếu để thấy : Nên nắm nhận mà không nên nắm nhận, thế nên nói là nên nắm nhận. Lược giải.- Hội nhận như thật tri kiến về nhân là thấy Vô sinh pháp nhẫn hoạt dụng thành cái phước đức siêu việt đam mê, cố thủ.

Phân khoa.-

Nhã 2.- Hội nhập như thật tri kiến về quả (đoạn 45)

Chính văn.-

  1. Trưởng lão Thiện hiện, nếu nói Như lai có đến, có đi, có ngồi, có nằm, thì người nói ấy không hiểu ý nghĩa Như lai đã nói. Tại sao như vậy, bởi vì Như lai không đến từ đâu, không đi về đâu, nên gọi Như lai.

Lược giải.-

Hội nhập như thật tri kiến về quả là thấy Như lai và Như : siêu việt mọi sự không Như.

Phân khoa.-

Nhã 3.- hội nhập như thật tri kiến về vũ trụ (đoạn 46-47)

Chính văn.-

  1. Trưởng lão Thiện hiện, có ai nghiền nát thế giới đại thiên thành ra vi trần, thì ông nghĩ sao, những vi trần ấy là nhiều hay ít ? Rất nhiều, bạch Ngài. Tại sao, bởi vì những vi trần ấy nếu là thật có, thì Ngài không nói là những vi trần – Thế nhưng vi trần thì Ngài đã nói là phi vi trần, do đó Ngài nói là những vi trần (1). 47. Và bạch Thế tôn, cái mà Ngài nói thế giới đại thiên là phi thế giới, vì thế nên được gọi là thế giới. Tại sao như vậy, bởi vì nếu nói thế giới thật có, thì đó chỉ là ý tưởng hợp nhất – Ý tưởng hợp nhất thì Ngài nói phi ý tưởng hợp nhất, nên được gọi là ý tưởng hợp nhất. Ðức Thế tôn dạy, trưởng lão Thiện hiện, ý tưởng hợp nhất thì không là gì để mà nói cả, nhưng người tầm thường đam mê dính mắc cái sự như vậy.

Ghi chú đoạn 46.-

(1) Những vi trần trong đoạn này, dịch đủ chữ của chính văn thì phải là khối lượng vi trần (vi trần chúng). Nhưng dịch như vậy không giữ được nguyên ý nói về phân tử, nên phải lược bỏ.

Ghi chú đoạn 47.-

(1) Cả hai đoạn 46 và 47 này, về văn tự thì vừa giống vừa nói rộng đoạn 18. Lược giải đoạn 46-47.- Cả hai đoạn 46-47 này là hội nhập như thật tri kiến về vũ trụ (về phân tử của vũ trụ và về vũ trụ của phân tử), thấy chúng không là gì để mà cãi và ham.

Phân khoa.-

Nhã 4.- hội nhập như thật tri kiến về bản thân (đoạn 48)

Chính văn.-

  1. Trưởng lão Thiện hiện, nếu có ai nói Thế tôn nói về ý tưởng ngã nhân chúng sinh thọ giả, thì này trưởng lão, ông nghĩ thế nào, người đó có hiểu ý nghĩa Như lai đã nói hay không ? Không, bạch Thế tôn, người ấy không hiểu ý nghĩa đã được Thế tôn nói ra. Lý do tại sao, vì Thế tôn nói ý tưởng ngã nhân chúng sinh thọ giả thì tức là phi (1) ý tưởng ngã nhân chúng sinh thọ giả, thế nên gọi là ý tưởng ngã nhân chúng sinh thọ giả.

Ghi chú.-

(1) Phi.- Ở đây có nghĩa là tự phủ nhận.

Lược giải.-

Hội nhập như thật tri kiến về bản thân là thâm tín Bát nhã. Thâm tín Bát nhã thì thường nghĩ nhớ bản thân, nhất là bản thân trong ngã chấp, vốn là và vẫn là Phi, là Như.

Phân khoa.-

Kinh 3.- Kết thúc

có 2 kim : kim 1 kết thúc ứng với hai câu hỏi đáp căn bản, kim 2 kết thúc như các kinh khác.

Kim 1.- kết thúc ứng với 2 câu hỏi đáp căn bản

có 3 cương : cương 1 kết thúc ứng với 2 câu hỏi đáp căn bản, cương 2 khuyến cáo tu học và diễn tả Kim cương, cương 3 chì cách diễn tả Kim cương.

Cương 1.- kết thúc ứng với 2 câu hỏi đáp căn bản (đoạn 49)

Chính văn.-

  1. Trưởng lão Thiện hiện, những người phát tâm vô thượng bồ đề, thì với các pháp hãy biết như vậy, hãy thấy như vậy, tin tưởng, lĩnh hội cũng là như vậy : đừng nên trú ở nơi ý tưởng pháp. Trưởng lão Thiện hiện, nói ý tưởng pháp thì Như lai nói phi ý tưởng pháp, vì thế mới gọi là ý tưởng pháp.

Ghi chú.-

(1) Các pháp.- Pháp ở đây là tổng quát cả 3 mặt đối tượng, tuệ giác và chủ thể, mà đã được nói trong phần nội dung.

Lược giải.-

Ðừng nên trú ở nơi ý tưởng pháp. là lặp lại vô trú bát nhã đã nói suốt từ đoạn 2 đến đây, tổng kết kinh này ứng với hai câu hỏi đáp căn bản mở đầu trong đoạn 2-6.

Phân khoa.-

Cương 2.- khuyến cáo tu học và diễn tả Kim cương (đoạn 50)

Chính văn.-

  1. Trưởng lão Thiện hiện, nếu có người nào đem cho tất cả bảy loại vàng ngọc chất đầy vô lượng vô số thế giới, và có người khác, không kể thiện nam hay là thiện nữ, đối với pháp thoại Bát nhã như vầy, tiếp nhận ghi nhớ, nghiên cứu tụng thuộc, diễn tả cho người, thì dầu chỉ được chỉnh cú bốn câu, phước họ đạt được vẫn hơn người trước.

Lược giải.-

Pháp hạnh đối với Kim cương mà đoạn này và các đoạn tương tự ở trước đã khuyến cáo là sao chép ấn hành, tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, diễn nói cho người (thư tả, thọ trì, độc, tụng, vị tha nhân thuyết). Tựu trung, diễn nói hay diễn tả cho người là giới thiệu, loan báo và giảng dạy. Cách này được ghi thêm ở đoạn 51 dưới đây. Cách ấy cho thấy diễn tả Kim cương cho người thì chính mình phải có và sống theo tuệ giác Kim cương.

Phân khoa.-

Cương 3.- chỉ cách diễn tả Kim cương (đoạn 51)

Chính văn.-

  1. 51. Diễn tả cho người bằng cách thế nào ? Bằng cách đừng nắm ý tưởng về pháp, mà như sự Như chứ không dao động (1). Tại sao mà phải diễn tả cách ấy ?

Bởi vì tất cả
các pháp hữu vi
toàn là giống như
chiêm bao, ảo thuật,
bóng nước, ảnh tượng,
sương mai, điện chớp ;
rất cần phải có
cái nhìn như vậy.

Ghi chú.-

(1) Bằng cách đừng nắm ý tưởng về pháp, mà như sự Như chứ không giao động.- Câu này là một trong những câu độc đáo của Td Kim cương. Hãy đối chiếu với Hd sau đây : Như là không diễn tả chỉ bảo cho người, và vì thế nên gọi là diễn tả chỉ bảo cho người. Ðây là ý nghĩa của Td, “bằng cách đừng nắm ý tưởng về pháp” là vô trú bát nhã không thấy người nói, pháp được nói và người nghe. “Mà như sự Như chứ không dao động” là vô trú bát nhã thấy tất cả đều là Như, chứ không dao động theo những thứ không Như, những khái niệm về ngã, nhân ngã cũng như pháp ngã.

(2) Bài chỉnh cú này chỉ có sáu ví dụ, khác với các bản khác có 9 : tinh tú, ảo ảnh (của mắt bịnh), ngọn đèn, ảo thuật, sương mai, bóng nước, chiêm bao, điện chớp, đám mây. Trong sáu ví dụ của Td thì chiêm bao, ảo thuật, bóng nước, sương mai và điện chớp là năm ví dụ dễ hiểu nhất, và có thể vì vậy mà Td để nguyên. Còn ảnh tượng thì không có trong 9 ví dụ, rõ ràng chứng tỏ Td dùng chữ này để tổng quát bốn ví dụ toàn là ảnh tượng, đó là tinh tú, ảo ảnh, ngọn đèn và đám mây. Về ý nghĩa của 9 ví dụ thì nên coi sự giải thích của Thế thân đại sĩ (Chính 25/797 và 884). Nhưng ở đó chỉ giải thích theo biến kế chấp tánh : giải thích theo y tha khởi tánh thì phải tham khảo Nhiếp luận (Chính 31/140). Còn ý nghĩa sáu ví dụ của Td thì rõ ràng chỉ nói tổng quát rằng các pháp hữu vi toàn như mộng ảo bào ảnh – toàn là Phi với nghĩa tự phủ nhận : hãy quan sát như vậy mà diễn tả Kim cương. Nhưng đó là mới nói một mặt. mặt khác, cũng những ví dụ ấy mà cho thấy các pháp hữu vi toàn là Phi với nghĩa tự siêu việt, hoạt hiện và hoạt dụng một cách đa dụng và vô tận như mộng ảo bào ảnh : hãy quan sát như vậy mà diễn tả Kim cương.

Lược giải.-

Hãy diễn tả Kim cương bằng cách chính mình phải thường xuyên tưởng nhớ, chiêm nghiệm và diệu dụng đạo lý chữ Phi. Như thế đó là vô trú bát nhã mà hủy diệt ngã chấp cũng ở đó, phát tâm với hàng tâm và trú tâm cũng ở đó.

Phân khoa.-

Kim 2.- kết thúc như các kinh khác (đoạn 52)

Chính văn.-

  1. Khi đức Thế tôn tuyên thuyết hoàn tất bản kinh Kim cương bát nhã này rồi, trưởng lão Thiện hiện, các vị tỷ kheo và tỷ kheo ni, những cận sự nam và cận sự nữ, toàn thể thế giới chư thiên, nhân loại, và a tu la, được nghe những điều Thế tôn tuyên thuyết, ai cũng hoan hỷ, tín thọ, phụng hành.

[hết]





Kinh Phật: PHẨM HẠNH NGUYỆN PHỔ HIỀN – Thượng nhân Thích Trí Quang dịch giải

Phẩm Hạnh Nguyện Phổ Hiền

Trưởng Lão Thích Trí Quang dịch

GHI CHÚ:
Bản Phổ Hiền Hạnh Nguyện Vương Tạng ngữ là ứng với phần kệ của phẩm này. Nội dung không nhiều sai biệt, chỉ khác vài nơi ở cách phân câu và thứ tự.  Quí vị có thể hạ tải bản đối chiếu theo Tạng ngữ ở đây: [PDF - Phổ Hiền Hạnh Nguyện Vương - tạng-anh-pháp-viet]. Bảy hạnh Phổ Hiền thường nhắc trong Phật giáo Tây Tạng ứng với 12 câu kệ đầu, là phần sơ khởi của pháp tu Phổ Hiền. Đó là mượn phần sơ khởi của pháp tu Phổ Hiền làm pháp sơ khởi cho mọi công phu khác. Thiển ý, Hồng Như 

LỜI NÓI ĐẦU

Phẩm Hạnh nguyện Phổ Hiền nằm trong Đại tạng kinh bản Đại chính tân tu, cuốn 10, các trang 844 – 848. Đó là chính văn mà tôi căn cứ để dịch. Và dịch thì căn cứ ý kiến của đại sư Thái Hư, qua bản giảng lục của ngài, nằm trong Thái Hư toàn thư tập 23, các trang 1027 – 1096. Có một chi tiết nhỏ xin ghi ở đây, là kinh sách tôi dịch có mấy chỗ liên hệ đến phẩm này, nhất là Hồng danh; nhưng tùy chỗ nên ý dịch không khác mà lời dịch phải khác chút ít.

Dịch phẩm này tôi không làm mục lục mà kể như đã có. Vì phần trường hàng thì dễ thấy, còn phần chỉnh cú thì coi các ghi chú 15, 16, 17, 18, 21, 24, sẽ thấy phân khoa rõ ràng.

Sánh với 4 hoằng thệ của đức Thích Tôn tuy vắn tắt bậc nhất mà đầy đủ bậc nhất, thì 10 hạnh nguyện của đức Phổ Hiền thật không bằng. Nhưng 10 hạnh nguyện ấy cũng thật đặc biệt. Tựu trung có người cho “tùy hỷ công đức” có gì khó khăn và quan trọng đâu; nhưng nếu biết con người có thể chết cho người mà khó thể khen người một câu, thì đủ biết hạnh nguyện ấy quan trọng biết bao cho tâm lý người tu.

Phẩm này có sự đặc biệt bậc nhất là hồi hướng Cực lạc. Tôi dịch là vì sự đặc biệt ấy.

*

Phẩm này, nay sao lục vào sau Pháp Hoa để trì tụng, là vì phẩm 28 cuối kinh ấy nói tu học Pháp Hoa là do thần lực Phổ Hiền, là đi theo đường đi Phổ Hiền (tức 10 đại nguyện vương), là được Phật đưa tay xoa đầu.

Trí Quang

Nhất tâm đảnh lễ Nam mô Hoa Nghiêm giáo chủ Tỳ Lô Giá Na Như Lai;
Nhất tâm đảnh lễ Nam mô Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh;
Nhất tâm đảnh lễ Như Lai trưởng tử Phổ Hiền bồ tát ma ha tát. 

 Kinh Hoa Nghiêm
PHẨM HẠNH NGUYỆN PHỔ HIỀN[1]

Vào lúc bấy giờ, Phổ Hiền đại sĩ tán dương công đức siêu việt của đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai rồi, bảo chư vị bồ tát qua Thiện Tài đồng tử, rằng Thiện nam tử, công đức của đức Như Lai, giả sử chính tất cả chư vị Như Lai trong mười phương, trải qua những thời kỳ[2] nhiều bằng số lượng cực vi[3] của những thế giới đến số lượng hai lần không thể nói[4], diễn nói liên tục, cũng không thể cùng tận. Nếu muốn thành tựu công đức ấy thì phải tu tập mười hạnh nguyện rộng lớn. Mười hạnh nguyện ấy là những gì? Một là lễ kính Phật đà, hai là tán dương Như Lai, ba là hiến cúng rộng lớn, bốn là sám hối nghiệp chướng, năm là tùy hỷ công đức, sáu là xin chuyển pháp luân, bảy là xin Phật ở đời, tám là thường học theo Phật, chín là hằng thuận chúng sinh, mười là hồi hướng khắp cả.

Thiện Tài đồng tử thưa, kính bạch Đại sĩ, thế nào là lễ kính Phật đà? Cho đến thế nào là hồi hướng khắp cả?

Phổ Hiền đại sĩ bảo Thiện Tài đồng tử, Thiện nam tử, [thứ nhất] lễ kính Phật đà là đối với chư vị Thế Tôn nhiều bằng số lượng cực vi của tất cả thế giới khắp mười phương, suốt ba đời, cùng tận pháp giới và hư không giới, tôi nhờ sức mạnh hạnh nguyện Phổ Hiền mà tin hiểu sâu xa như đối diện trước mắt, và toàn đem ba nghiệp thân miệng ý trong sạch mà thường xuyên lễ kính. Nơi mỗi đức Thế Tôn, tôi biến thể thân hình nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới đến hai lần không thể nói, mỗi thân hình lạy khắp chư vị Thế Tôn nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới đến hai lần không thể nói. Hư không cùng tận, sự lễ kính của tôi mới cùng tận, nhưng hư không không thể cùng tận, nên sự lễ kính của tôi không có cùng tận; như vậy, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự lễ kính của tôi mới cùng tận, nhưng chúng sinh, nghiệp của chúng sinh, phiền não của chúng sinh, không có cùng tận, nên sự lễ kính của tôi cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na[5], không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, [ thứ hai ] tán dương Như Lai là bao nhiêu cực vi của những thế giới khắp mười phương, suốt ba đời, cùng tận pháp giới và hư không giới, mỗi cực vi ấy có chư vị Thế Tôn nhiều bằng số lượng cực vi của tất cả thế giới, mỗi đức Thế Tôn đều có hải hội[6] Bồ tát vây quanh. Tôi đem sự tin hiểu siêu việt, sâu xa, biết và thấy các Ngài như đối diện trước mắt. Tôi dùng những cái lưỡi nhiệm mầu hơn cả Đại biện tài thiên nữ, mỗi cái lưỡi xuất ra biển cả âm thanh vô tận, mỗi âm thanh xuất ra biển cả từ ngữ phong phú, ca tụng tán dương biển cả công đức của tất cả chư vị Như Lai, cùng tận thì gian không có gián đoạn, cùng tận pháp giới không có thiếu sót. Như vậy, hư không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự tán dương của tôi mới cùng tận; nhưng hư không cho đến phiền não không có cùng tận, nên sự tán dương của tôi cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, [ thứ ba ] hiến cúng rộng lớn là bao nhiêu cực vi của tất cả thế giới khắp mười phương, suốt ba đời, cùng tận pháp giới và hư không giới, mỗi cực vi có chư vị Thế Tôn nhiều bằng số lượng cực vi của tất cả thế giới, mỗi đức Thế Tôn có hải hội Bồ tát vây quanh, tôi nhờ sức mạnh hạnh nguyện Phổ Hiền mà tin hiểu sâu xa, biết và thấy các ngài như đối diện trước mắt. Tôi đem cúng phẩm thượng hạng và tinh tế mà hiến cúng. Mây hoa, mây vòng hoa, mây âm nhạc chư thiên, mây tàn lọng chư thiên, mây phục sức chư thiên, các loại hương liệu chư thiên, hương xoa, hương đốt, hương bột, những mây cúng phẩm như vậy hình lượng mỗi thứ bằng núi chúa Tu Di. Tôi lại đốt các loại đèn, đèn bơ, đèn dầu, các loại đèn dầu thơm, tim của mỗi thứ đèn lớn như núi Tu Di, dầu của mỗi thứ đèn nhiều như nước biển cả. Tôi đem những cúng phẩm như vậy mà hiến cúng thường xuyên. Thế nhưng, thiện nam tử, trong mọi sự hiến cúng, hiến cúng chánh pháp là hơn hết: hiến cúng bằng cách làm đúng lời Phật, hiến cúng bằng cách lợi ích chúng sinh, hiến cúng bằng cách giáo hóa chúng sinh, hiến cúng bằng cách chịu khổ thay cho chúng sinh, hiến cúng bằng cách siêng tu thiện căn, hiến cúng bằng cách không bỏ Bồ tát hạnh, hiến cúng bằng cách không rời Bồ đề tâm. Thiện nam tử, công đức vô lượng của sự hiến cúng trước, đối chiếu với một thoáng công đức của sự hiến cúng chánh pháp, thì không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, một phần ức, một phần triệu, một phần trăm của một cái lông, một phần của sự tính toán được, một phần của sự tính kể được, một phần của sự ví dụ được, một phần của cực vi, tất cả đều không bằng[7]. Tại sao? Vì chư vị Như Lai tôn trọng chánh pháp, vì làm đúng lời Phật thì xuất sinh chư Phật. Nếu các vị Bồ tát làm theo sự hiến cúng chánh pháp thì thế là thành tựu sự hiến cúng Như Lai, vì làm theo như vậy là hiến cúng chân thật. Như vậy, hư không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự hiến cúng rộng lớn và hơn hết của tôi mới cùng tận, nhưng hư không cho đến phiền não không thể cùng tận, nên sự hiến cúng của tôi cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, [thứ tư] sám hối[8] nghiệp chướng là Bồ tát tự nghĩ, trong bao thời kỳ quá khứ vô thỉ, tôi do tham sân si mà phát động thân miệng ý, làm những nghiệp dữ vô lượng vô biên. Nếu nghiệp dữ ấy có hình tướng thì cùng tận không gian cũng không thể dung chứa. Nay tôi đem cả ba nghiệp thân miệng ý trong sạch, đối trước chư vị Phật đà và chư vị Bồ tát trong những thế giới nhiều như cực vi và khắp cả pháp giới, thành tâm sám hối, sau không làm nữa, thường sống trong tịnh giới và các công đức. Như vậy, hư không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự sám hối của tôi mới cùng tận, nhưng hư không cho đến phiền não không thể cùng tận, nên sự sám hối của tôi cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, [thứ năm] tùy hỷ công đức là chư vị Như Lai nhiều bằng số lượng cực vi của tất cả thế giới khắp mười phương, suốt ba đời, cùng tận pháp giới và hư không giới, từ lúc mới phát tâm, vì Nhất thiết trí mà siêng tu cái khối phước đức, không tiếc tính mạng; trải qua thời kỳ nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới đến hai lần không thể nói, trong mỗi thời kỳ, bỏ đầu mắt tay chân nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới đến hai lần không thể nói; tất cả khổ hạnh khó làm như vậy viên mãn các Ba la mật, chứng nhập các Bồ tát trí, thành tựu Vô thượng Bồ đề, nhập vào Niết bàn, phân bủa xá lợi, bao nhiêu thiện căn ấy tôi tùy hỷ tất cả. Tất cả sáu đường và bốn loài chúng sinh trong hết thảy thế giới khắp cả mười phương, có bao nhiêu công đức, dầu chỉ bằng một cực vi, tôi cũng tùy hỷ tất cả. Khắp mười phương, suốt ba đời, tất cả các vị Thanh văn, Duyên giác, còn tu học, hết tu học, có bao nhiêu công đức, tôi cũng tùy hỷ tất cả. Vô lượng khổ hạnh khó làm, chí cầu Vô thượng Bồ đề, và công đức rộng lớn, của hết thảy Bồ tát tu hành, tôi cũng tùy hỷ tất cả. Như vậy, dầu hư không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự tùy hỷ của tôi cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, [thứ sáu] xin chuyển pháp luân là bao nhiêu cực vi của những thế giới khắp mười phương, suốt ba đời, cùng pháp giới và hư không giới, mỗi cực vi là một thế giới rộng lớn, nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới đến hai lần không thể nói. Trong mỗi thế giới ấy, mỗi sát na có chư vị Phật đà nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới đến hai lần không thể nói, đều thành bậc Đẳng chánh giác, với hải hội Bồ tát vây quanh; nhưng tôi toàn đem ba nghiệp thân miệng ý, dùng mọi phương cách, mà thiết tha khuyên mời các ngài chuyển đẩy diệu pháp luân. Như vậy, dẫu hư không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự thường xuyên khuyên mời chư Phật chuyển đẩy chánh pháp luân của tôi cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, [thứ bảy] xin Phật ở đời là đối với bao nhiêu chư vị Như Lai nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới khắp mười phương, suốt ba đời, cùng tận pháp giới và hư không giới, ý muốn thị hiện nhập vào Niết bàn, đối với chư vị Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác, còn tu học, hết tu học, cho đến hết thảy các bậc thiện tri thức, tôi đều khuyên mời đừng nhập Niết bàn, hãy sống với những thời kỳ nhiều bằng số lượng cực vi của tất cả thế giới, để lợi ích yên vui cho tất cả chúng sinh. Như vậy, dẫu hư không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự khuyên mời này của tôi cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, [thứ tám] thường học theo Phật là như đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai của thế giới Sa bà này, ngay khi mới phát tâm, đã tinh tiến không thoái chuyển, đem thân mạng nhiều đến hai lần không thể nói mà bố thí; lột da làm giấy, chẻ xương làm bút, chích huyết làm mực, sao chép kinh điển chất bằng Tu di, vì tôn trọng chánh pháp mà thân mạng còn không tiếc, huống chi ngôi vua, hoàng thành, đô thị, thôn xóm, cung điện, hoa viên, lâm viên, và tất cả những vật sở hữu. Cọng với bao khổ hạnh khó làm khác, cho đến ngồi dưới Bồ đề thọ, thành tựu đại Bồ đề, thị hiện các thứ thần thông, phát khởi những sự biến hóa, biến thể các loại Phật thân, ở giữa các loại đại hội: hoặc ở giữa đạo tràng đại hội của chư vị đại Bồ tát, hoặc ở giữa đạo tràng đại hội của chư vị Thanh văn, Duyên giác, hoặc ở giữa đạo tràng đại hội của chư vị luân vương, quốc vương và hoàng gia của họ, hoặc ở giữa đạo tràng đại hội của sát đế lợi, bà la môn, trưởng giả, cư sĩ, cho đến hoặc ở giữa đạo tràng đại hội của tám bộ thiên long, nhân loại và loài khác, ở giữa những đại hội như vậy mà đem tiếng nói viên mãn vang lên như sấm lớn, tùy ý thích của chúng sinh mà thành thục cho họ; cho đến thị hiện nhập vào Niết bàn, tất cả [những việc Phật làm] như vậy tôi đều theo mà học tập. Y như đối với đức Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na hiện nay, thì cũng như vậy mà đối với hết thảy chư vị Như Lai nhiều bằng số lượng cực vi của tất cả thế giới khắp mười phương, suốt ba đời, cùng tận pháp giới và hư không giới, trong từng sát na, tôi toàn theo mà học tập. Như vậy, dầu hư không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự thường học theo Phật của tôi cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, [thứ chín] hằng thuận chúng sinh là bao nhiêu chúng sinh trong biển cả thế giới khắp mười phương, cùng tận pháp giới và hư không giới, có những chủng loại khác nhau: có những loại sinh bằng trứng, bằng thai, bằng thấp khí, bằng biến thể, có những loại dựa vào đất nước lửa gió mà sinh sống, có những loại dựa vào hư không hay các loại cỏ cây mà sinh sống; đủ loại cách sinh, đủ loại màu sắc, đủ loại hình dáng, đủ loại tướng mạo, đủ loại tuổi thọ, đủ loại chủng tộc, đủ loại tên gọi, đủ loại tâm tính, đủ loại thấy biết, đủ loại ưa thích, đủ loại ý thức, đủ loại cử động, đủ loại phục sức, đủ loại ẩm thực; ở nơi đủ loại làng xóm, đô thị, kinh thành, cung điện; cho đến tất cả tám bộ thiên long, nhân loại và loài khác, không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, có hình sắc, không hình sắc, có tư tưởng, không tư tưởng, không phải có tư tưởng, không phải không có tư tưởng; tất cả chủng loại như vậy, đối với họ tôi đều tùy thuận cả: tôi phụng sự đủ cách, cung dưỡng đủ cách, kính như kính cha mẹ, thờ như thờ sư trưởng, thờ La hán, cho đến như thờ Như Lai, đồng đẳng không có gì khác cả. Bằng cách ai bịnh khổ thì tôi làm thầy thuốc giỏi, ai lạc đường thì tôi chỉ cho đường chính, trong đêm tối thì tôi làm ánh sáng, nghèo khốn thì tôi làm cho được kho tàng giấu trong lòng đất. Bồ tát hãy bình đẳng lợi ích chúng sinh như vậy, tại sao, vì Bồ tát có thể tùy thuận chúng sinh thì thế là tùy thuận hiến cúng Phật đà, tôn trọng phụng sự chúng sinh thì thế là tôn trọng phụng sự Như Lai, làm cho chúng sinh vui vẻ thì thế là làm cho Như Lai vui vẻ. Tại sao? Vì chư vị Như Lai thì lấy tâm đại bi làm bản thể, mà do chúng sinh mới có tâm đại bi, do tâm đại bi mới có tâm bồ đề, do tâm bồ đề mới thành Chánh giác. Tựa như đại thụ ở trong đồng nội hay sa mạc mênh mông, đại thụ ấy nếu rễ được nước thì nhánh lá hoa quả đều sum sê tươi tốt. Bồ đề đại thụ ở trong đồng nội sinh tử mênh mông cũng là như vậy, lấy chúng sinh làm rễ, lấy chư Phật chư Bồ tát làm hoa làm trái, đem nước đại bi lợi ích chúng sinh thì sinh ra hoa trái tuệ giác là chư Phật Bồ tát, tại sao, vì nếu Bồ tát đem nước đại bi lợi ích chúng sinh thì thế là thành tựu vô thượng bồ đề. Do vậy, bồ đề là thuộc về chúng sinh, không chúng sinh thì các vị Bồ tát không bao giờ có thể thành tựu vô thượng bồ đề. Thiện nam tử, đối với ý nghĩa ấy ông hãy lý giải như vầy: đối với chúng sinh mà tâm lý bình đẳng thì có thể thành tựu lòng đại bi viên mãn, đem lòng đại bi tùy thuận chúng sinh thì thế là thành tựu sự hiến cúng chư vị Như Lai. Bồ tát tùy thuận chúng sinh như vậy, dẫu hư không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự tùy thuận ấy cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, [thứ mười] hồi hướng khắp cả là từ sự lễ kính cho đến sự hồi hướng có bao công đức, tôi đều hồi hướng cho hết thảy chúng sinh cùng tận pháp giới và hư không giới, nguyện nhờ công đức ấy mà làm cho chúng sinh thường được yên vui, không mọi bịnh khổ, muốn làm việc ác thì bất thành tất cả, muốn tu điều thiện thì mau thành hết thảy, đóng chặt cửa ngõ của các nẻo ác, mở bày đường chính của nhân loại chư thiên và niết bàn. Nếu chúng sinh vì làm bao nghiệp dữ mà bị những quả khổ nặng nề thì tôi chịu thay hết cho họ, làm cho họ được giải thoát, cứu cánh thành đạt vô thượng bồ đề. Bồ tát tu tập sự hồi hướng như vậy, dầu hư không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự hồi hướng ấy cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.

Thiện nam tử, như vậy gọi là mười đại nguyện của Bồ tát đại sĩ viên mãn đầy đủ. Nếu các vị Bồ tát tùy thuận mà đi mau vào mười đại nguyện ấy thì có thể thành thục tất cả chúng sinh, thì có thể tùy thuận vô thượng bồ đề, thì có thể thành tựu đầy đủ biển cả hạnh nguyện của Phổ Hiền đại sĩ. Do vậy, Thiện nam tử, đối với ý nghĩa ấy ông hãy nhận thức như vầy: Nếu có thiện nam hay thiện nữ nào đem bảy thứ quí báu loại thượng hạng và tinh tế, cùng với đồ dùng đem lại hạnh phúc hơn hết cho nhân loại và chư thiên, đầy những thế giới nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới khắp cả mười phương, vô lượng vô biên, hai lần không thể nói, bố thí cho chúng sinh trong những thế giới cũng nhiều như trên, hiến cúng chư vị Phật đà và chư vị Bồ tát trong những thế giới cũng nhiều như trên, và trải qua những thời kỳ nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới cũng nhiều như trên, liên tục không ngừng; nhưng công đức người ấy đạt được, đem đối chiếu với công đức đạt được của người nghe mười nguyện vương này một lần lướt qua thính giác, thì công đức người trước không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, cho đến một phần cực vi cũng không bằng. Đối với mười đại nguyện này, có ai đem lòng tin sâu xa mà tiếp nhận, ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, cho đến chỉ sao chép được một bài chỉnh cú bốn câu[9], cũng mau chóng diệt được năm tội vô gián, bao nhiêu khổ não trong đời như thân bịnh tâm bịnh vân vân, cho đến tất cả nghiệp dữ nhiều bằng số lượng cực vi của thế giới cũng được tiêu diệt cả; tất cả quân đội của ma vương, quỷ ăn thịt người, quỷ bạo ác, quỷ ăn tinh khí, quỷ điên cuồng, quỷ ăn thịt người loại tự hóa sinh[10], những quỷ ác thần ác uống huyết ăn thịt như vậy đều tránh xa người ấy, hoặc có khi phát tâm thân gần hộ vệ. Thế nên người nào tụng được thuộc lòng mười nguyện vương thì đi trong đời này không có gì trở ngại. Người ấy như vầng trăng đã ra khỏi mây mù che khuất. Người ấy được chư vị Phật đà và chư vị Bồ tát tán dương ca tụng. Người ấy, tất cả nhân loại và chư thiên nên lạy và tôn kính. Người ấy, tất cả chúng sinh cùng nên hiến cúng. Người ấy khéo làm thân người, đầy đủ công đức của Phổ Hiền đại sĩ, không bao lâu sẽ như Phổ Hiền đại sĩ, mau chóng được cái sắc thân nhiệm mầu, đủ cả ba mươi hai tướng của bậc đại trượng phu. Người ấy nếu sinh trong nhân loại hay chư thiên thì ở đâu cũng thuộc dòng họ hơn hết, phá hoại được tất cả đường ác, tránh xa được tất cả bạn dữ, chế ngự được tất cả ngoại đạo, giải thoát được tất cả phiền não. Người ấy như sư tử chúa làm cho các loài thú vật phải khuất phục. Người ấy kham nhận sự hiến cúng của tất cả chúng sinh.

Lại nữa, người ấy khi sắp chết, sát na sau cùng thì tất cả giác quan đều hư hỏng, tất cả thân nhân đều rời bỏ, tất cả uy thế đều tan mất, [và dầu là vua đi nữa, lúc ấy] tể tướng, đại thần, nội cung, ngoại thành, voi ngựa, xe cộ, vàng ngọc, kho tàng trong lòng đất, tất cả không ai và không gì đi theo. Chỉ có mười nguyện vương này không hề rời bỏ người ấy, lúc nào cũng hướng dẫn trước mắt. Và trong một sát na, người ấy tức khắc được sinh thế giới Cực lạc. Sinh rồi tức khắc được thấy đức A Di Đà Phật, với các vị Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Phổ Hiền Bồ tát, Quan Tự Tại Bồ tát, Di Lạc Bồ tát, và các vị Bồ tát đồng đẳng, sắc tướng trang nghiêm, công đức toàn hảo, cùng nhau vây quanh Ngài. Người ấy lại tự thấy bản thân sinh trong hoa sen và được đức A Di Đà Phật thọ ký cho. Được thọ ký rồi, trải qua vô số trăm ngàn vạn ức triệu thời kỳ, khắp trong thế giới nhiều đến hai lần không thể nói, đem sức mạnh trí tuệ, tùy tâm ý chúng sinh mà ích lợi cho họ, và không bao lâu sẽ ngồi nơi Bồ đề tràng, chiến thắng quân đội của ma vương, thành bậc Đẳng Chánh Giác, chuyển đẩy diệu pháp luân, làm cho chúng sinh trong những thế giới nhiều bằng số lượng cực vi thế giới phát Bồ đề tâm, tùy trình độ của chúng sinh mà giáo hóa cho họ thành thục, cho đến cùng tận biển cả thời kỳ vị lai, lợi ích toàn diện cho tất cả chúng sinh. Thiện nam tử, những ai nghe và tin mười đại nguyện vương[11] này, tiếp nhận, ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng nói cho người, thì công đức người ấy có được, ngoại trừ chư vị Thế Tôn không ai biết hết. Thế nên các người nghe mười đại nguyện vương này đừng có hoài nghi, mà nên tiếp nhận cho chắc chắn, tiếp nhận rồi có thể đọc xét văn nghĩa, đọc xét văn nghĩa rồi có thể tụng được thuộc lòng, tụng được thuộc lòng rồi có thể ghi nhớ, cho đến sao chép, giảng nói cho người. Những người như vậy, ngay trong một sát na mà mọi hạnh nguyện đều viên thành, cái khối phước đức mà họ thu hoạch thì vô lượng vô biên. Trong biển khổ phiền não to lớn, họ cứu vớt cho chúng sinh thoát khỏi và cùng được vãng sanh thế giới Cực lạc của đức A Di Đà Phật.

Lúc bấy giờ Phổ Hiền đại sĩ muốn lập lại ý nghĩa đã nói, nên nhìn khắp tất cả khu vức mà nói những lời chỉnh cú sau đây:

(1)      Hết thảy chư Phật
trong ba thì gian
tại các thế giới
khắp cả mười phương,
tôi vận dụng cả
ba nghiệp trong sạch
kính lạy khắp cả
không có thiếu sót.

(2)      Năng lực uy thần
của hạnh Phổ Hiền
làm tôi hiện khắp
trước chư Như Lai,
một thân lại hiện
thân như cực vị,
lạy khắp chư Phật
cũng như cực vi.

(3)      Trong một cực vi
có chư Phật đà
nhiều bằng cực vị,
và đều ở trong
chúng hội Bồ tát;
cực vi tất cả
pháp giới vô tận
cũng là như vậy,
tâm tôi tin Phật
thật sâu và đầy.

(4)      Nên biển âm thanh
tôi vận dụng cả,
xuất ra vô tận
lời chữ nghiệm mầu,
cùng tận thời kỳ
của thì vị lai
tán dương biển cả
công đức của Phật.

(5)      Tôi đem vòng hoa
tốt đẹp hơn hết,
âm nhạc, hương hoa,
tàn lọng, bảo cái,
những đồ trang hoàng
hơn hết như vậy,
tôi đem hiến cúng
chư vị Như Lai.

(6)      Y phục hơn hết,
hương liệu hơn hết,
hương bột, hương đốt,
cùng với đèn đuốc,
tất cả đều như
Diệu cao núi lớn,
tôi đem hiến cúng
chư vị Như Lai.

(7)      Tôi đem cái biết
cao rộng hơn hết
tin tưởng sâu xa
tam thế chư Phật,
vận dụng sức mạnh
hạnh nguyện Phổ Hiền
mà khắp hiến cúng
chư vị Như Lai.

(8)      Bao nhiêu nghiệp dữ
xưa kia tôi làm,
đều bởi vô thỉ
những tham sân si,
động thân miệng ý
mà phát sinh ra,
ngày nay tôi nguyện
sám hối tất cả.

(9)      Mười phương hết thảy
các loại chúng sinh,
cùng với các vị
Thanh văn, Duyên giác,
Tu học tiếp tục,
Tu học hoàn tất,
tất cả Như Lai,
cùng với Bồ tát,
công đức có gì
tôi tùy hỷ cả.

(10)    Mười phương đâu có
Ngọn đèn thế giới
khi mới thành tựu
tuệ giác vô thượng,
tôi xin thỉnh cầu
tất cả các Ngài
chuyển đẩy bánh xe
diệu pháp tối thượng.

(11)    Chư vị Như Lai
muốn hiện niết bàn,
thì tôi chí thành
thỉnh cầu các Ngài
sống với đời kiếp
nhiều như cực vi,
để làm lợi lạc
hết thảy chúng sinh.

(12)    Lạy Phật, khen Phật
và hiến cúng Phật[i],
xin Phật ở đời
và chuyển pháp luân,
tùy hỷ, sám hối,
bao thiện căn ấy,
tôi đem hồi hướng
lợi ích chúng sinh
có nghĩa hồi hướng
nguyện thành trí Phật[ii].

(13)    Tôi theo mà học
chư vị Như Lai,
tu tập tất cả
hạnh nguyện Phổ Hiền,
phụng sự quá khứ
chư vị Như Lai,
cùng với hiện tại
chư vị Phật đà,

(14)    vị lai các bậc
Thầy của trời người,
bao nhiêu ý nguyện
đều viên mãn cả,
tôi nguyện học tập
tam thế chư Phật,
để mau hoàn thành
tuệ giác vô thượng.[iii]

(15)    Tất cả thế giới
khắp cả mười phương
rộng lớn trong sạch
nhiệm mầu trang nghiêm,
ở đâu cũng có
đại hội Bồ tát
bao quanh chư Phật,
trong khi chư Phật
cùng ngồi dưới cây
bồ đề đại thọ.

(16)    Cầu nguyện chúng sinh
khắp cả mười phương
thoát hết lo sợ
thường hưởng yên vui,
thu hoạch lợi ích
của Pháp sâu xa,
diệt trừ phiền não
không còn thừa sót[iv].

(17)    Khi tôi tu tập[v]
vì đại bồ đề
thì ở loài nào
cũng biết đời trước,
thường được xuất gia
nghiêm giữ tịnh giới,
không để giới thể
bị dơ bị vỡ
hay bị xuyên thủng
hoặc bị sơ suất[vi].

(18)    Tất cả chư thiên
cùng với quỷ thần,
hết thảy nhân loại
và bao loài khác,
bao nhiêu chúng sinh
bao nhiêu tiếng nói,
tôi dùng tiếng ấy
mà thuyết pháp cho.

(19)    Siêng tu các pháp
ba la mật đa
cực kỳ trong sáng,
thường xuyên chuyên chú
không để quên mất
tâm đại bồ đề,
diệt trừ dơ bẩn
không cho sót lại,
viên thành tất cả
hạnh nguyện nhiệm mầu.

(20)    Đối với mê lầm
cùng với nghiệp dữ,
đối với cảnh ngộ
hiện thân ma vương,
trong cõi đời này
mà được siêu thoát,
tựa như hoa sen
không hề dính nước,
cũng như nhật nguyệt
không vướng không gian.

(21)    Tận trừ toàn bộ
nỗi khổ đường dữ,
bình đẳng cho vui
bao loại sinh linh,
trải qua thời kỳ
nhiều như cực vi,
lợi ích mười phương
không có cùng tận.

(22)    Tôi hằng tùy thuận
các loại chúng sinh,
cùng tận thời kỳ
của thì vị lai,
thường xuyên tu tập
hạnh nguyện Phổ Hiền
cực kỳ rộng lớn,
viên mãn thành tựu
tuệ giác bồ đề
cực kỳ tối thượng.

(23)    Bao nhiêu những người
đồng hành với tôi,
nguyện ở chỗ nào
cũng thường gặp nhau,
thân miệng và ý
đều như nhau cả,
cùng nhau tu học
hết thảy hạnh nguyện.

(24)    Những thiện tri thức
lợi ích cho tôi,
chỉ dẫn cho tôi
hạnh nguyện Phổ Hiền,
cũng nguyện thường xuyên
được gặp gỡ nhau,
lại nguyện thường xuyên
hoan hỷ cho tôi.

(25)    Nguyện thường nhìn thấy
chư vị Như Lai,
cùng chư Bồ tát
vây quanh các Ngài,
đối với các Ngài
nguyện hiến cúng lớn,
cùng tận vị lai
không biết chán mệt.

(26)    Nguyện được duy trì
pháp mầu của Phật,
làm cho rực rỡ
hạnh nguyện bồ đề,
trong sạch rốt ráo
đường đi Phổ Hiền,
cùng tận vị lai
thường xuyên tu tập.

(27)    Ở trong tất cả
thế giới ba cõi,
tôi tu phước trí
thường xuyên vô tận,
định tuệ phương tiện
cùng với giải thoát,
được kho công đức
vô tận như vậy.

(28)    Mỗi một cực vi
có số thế giới
nhiều bằng cực vi,
mỗi một thế giới
có các đức Phật
khó thể nghĩ thấu,
mỗi một đức Phật
đều ở chính giữa
đại hội Bồ tát,
và tôi nhìn thấy
các Ngài thường nói
hạnh nguyện bồ đề.

(29)    Biển cả thế giới
khắp mười phương hướng,
biển cả thì gian
nhiều bằng đầu lông[vii],
biển cả Phật đà,
biển cả quốc độ,
biển cả thời kỳ
mà tôi tu hành.

(30)    Chư vị Như Lai
lời tiếng trong sáng,
mỗi tiếng đủ hết
biển cả âm thanh,
những lời tiếng ấy
tùy ý chúng sinh,
mỗi tiếng xuất ra
biển cả hùng biện.

(31)    Chư vị Như Lai
trong ba thì gian,
vận dụng vô tận
biển cả lời tiếng,
thường chuyển pháp luân
lý thú nhiệm mầu,
nhưng trí tuệ lực
sâu xa của tôi
có thể hội nhập
một cách toàn diện.

(32)    Tôi thấu hiểu được
toàn thể thời kỳ
của thì vị lai
là một sát na,
tôi cũng thấu hiểu
toàn thể thời kỳ
cả ba thì gian
là một sát na.

(33)    Trong một sát na
mà tôi thấy hết
tất cả chư Phật
trong ba thì gian,
tôi thường thấu hiểu
lĩnh vực của Phật
thể chứng các pháp
toàn như ảo thuật,
giải thoát cao sâu,
uy lực hùng mãnh.

(34)    Nơi mỗi cực vi
trên đầu sợi lông,
xuất hiện thế giới
quá khứ hiện tại
cùng với vị lai
cực kỳ trang nghiêm.
Thế giới mười phương
nhiều như cực vi
trên đầu sợi lông,
tôi thâm nhập cả
mà làm toàn thể
trang nghiêm trong sạch.

(35)    Cùng tận vị lai
có bao Phật đà
thành vô thượng giác
chuyển chánh pháp luân
mở mắt quần sinh
ở trong ba cõi,
việc Phật hoàn tất
thị hiện niết bàn,
tôi đều đi đến
thân gần phụng sự.

(36)    Năng lực thần thông
đến mau khắp cả,
năng lực đại thừa
biến thể toàn diện,
năng lực công đức
tu hết trí hạnh,
năng lực đại từ
che hết chúng sinh,

(37)    năng lực thắng phước
trang hoàng khắp nơi,
năng lực thắng trí
không hề vướng mắc,
năng lực uy thần
đủ mọi phương tiện[viii],
năng lực bồ đề
qui tụ hết thảy,

(38)    năng lực thiện nghiệp
làm sạch tất cả,
năng lực diệt trừ
tất cả phiền não,
năng lực chiến thắng
tất cả ma quân,
năng lực viên mãn
hạnh nguyện Phổ Hiền[ix];

(39)    trang hoàng sạch sẽ
biển cả thế giới,
giải thoát hết thảy
biển cả chúng sinh,
khéo léo phân biệt
biển cả các pháp,
nhập vào sâu xa
biển cả trí tuệ,

(40)    làm trong sáng hết
biển cả đại hạnh,
làm đầy đủ cả
biển cả đại nguyện,
thân gần hiến cúng
biển cả Phật đà,
tu không mệt mỏi
biển cả thời kỳ.

(41)    Bao nhiêu hạnh nguyện
tuệ giác tối thượng
của chư Như Lai
trong ba thì gian,
tôi tôn thờ cả
và tu đầy đủ:
vận dụng tất cả
hạnh nguyện Phổ Hiền
tôi giác ngộ được
vô thượng bồ đề.

(42)    Tất cả Như Lai
đều có trưởng tử,
cùng một danh hiệu
danh hiệu Phổ Hiền[x];
nay tôi hồi hướng
bao nhiêu thiện căn[xi],
nguyện bao trí tuệ
đồng đẳng các vị.

(43)    Cả thân miệng ý
thường xuyên trong sáng,
hạnh nguyện, quốc độ,
cũng đều như vậy:
trí tuệ đến thế
nên tên Phổ Hiền,
nguyện tôi đồng đẳng
với các vị ấy.

(44)    Tôi vì trong sáng
hạnh nguyện Phổ Hiền,
nên bao hạnh nguyện
của ngài Văn Thù,
tôi tu đủ cả
không có thiếu sót,
cùng tận vị lai
không hề mỏi mệt.

(45)    Sự tu của tôi
không có hạn lượng,
công đức đạt được
cũng không số lượng;
đứng vững ở trong
vô lượng hạnh nguyện,
tôi thấu triệt hết
bao thần thông lực.

(46)    Trí hạnh Văn Thù
cực kỳ dũng mãnh,
tuệ hạnh Phổ Hiền
cũng là như vậy;
nay tôi hồi hướng
bao nhiêu thiện căn,
để theo các ngài
thường xuyên tu học.

(47)    Các đại nguyện vương
tối thắng như vầy
được sự ca tụng
của chư Như Lai,
nay tôi hồi hướng
bao nhiêu thiện căn
để được hạnh nguyện
Phổ Hiền tối thượng[xii].

(48)    Nguyện tôi trong lúc
sinh mệnh sắp chết,
thì loại được cả
mọi sự trở ngại,
trực tiếp nhìn thấy
đức A Di Đà,
tức khắc được sinh
thế giới Cực lạc.

(49)    Tôi đã sinh ra
thế giới ấy rồi,
trước mắt thành tựu
đại nguyện vương này,
thành tựu đầy đủ
không có thiếu sót,
lợi lạc tất cả
thế giới chúng sinh.

(50)    Bồ tát hải hội
của đức Di Đà
ai cũng trong sạch,
còn tôi lúc ấy
hóa sinh ở trong
hoa sen tối thắng,
đích thân nhìn thấy
đức A Di Đà,
và ngài đối diện
thọ ký cho tôi
thành tựu tuệ giác
vô thượng bồ đề.

(51)    Nhờ ơn của ngài
thọ ký cho rồi,
tôi liền biến thể
vô số thân hình,
với trí tuệ lực
cực kỳ rộng lớn,
tôi làm lợi lạc
tất cả chúng sinh.

(52)    Hư không cho đến
phiền não cùng tận,
đại nguyện của tôi
mới có cùng tận,
nhưng bốn thứ ấy
không có cùng tận,
đại nguyện của tôi,
cũng không cùng tận.

(53)    Ai đem bảo vật
đầy cả thế giới
khắp mười phương hướng
mà hiến cúng Phật,
lại cho trời người
hạnh phúc tuyệt vời,
và làm như vậy
trải qua thời kỳ
bằng số cực vi
của mọi thế giới;

(54)    và ai đối với
đại nguyện vương này
một lần nghe đến
mà sinh tin tưởng,
với sự khao khát
Vô thượng Bồ đề,
thì được công đức
quá hơn người trước.

(55)    Và rồi xa rời
bạn bè xấu ác,
với lại xa hẳn
các nẻo đường dữ,
mau chóng nhìn thấy
đức A Di Đà,
và đủ hạnh nguyện
Phổ Hiền tối thượng.

(56)    Người ấy khéo được
đời sống đặc thù,
người ấy khéo sinh
ở trong loài người,
người ấy không lâu
sẽ được hoàn thành
hạnh nguyện y như
Phổ Hiền đại sĩ.

(57)    Nếu mà xưa kia
không có trí tuệ
nên tạo năm tội
địa ngục Vô gián,
nhưng nếu ngày nay
tụng đại nguyện vương
của đức Phổ Hiền,
thì một sát na
tiêu diệt tức thì
năm tội như vậy.

(58)    Lại còn toàn hảo
dòng họ, thành phần,
sắc tướng, trí tuệ,
quân đội ma vương[xiii]
và những ngoại đạo
không thể đánh đổ,
kham được ba cõi
cùng nhau hiến cúng.

(59)    Và mau đến ngồi
dưới Bồ đề thọ,
chiến thắng các đạo
quân đội ma vương,
thành Đẳng chánh giác
chuyển diệu pháp luân,
lợi lạc hết thảy
các loại chúng sinh.

(60)    Thế nên những ai
đối với hạnh nguyện
của đức Phổ Hiền
mà biết tiếp nhận,
ghi nhớ, đọc tụng,
và nói cho người,
thì được kết quả
chỉ Phật mới biết,
quyết định thực hiện
Vô thượng Bồ đề.

(61)    Người nào trì tụng
hạnh nguyện Phổ Hiền,
mà tôi nói về
chút ít thiện căn,
là một sát na
họ đủ tất cả
đại thanh tịnh nguyện
tác thành chúng sinh.

(62)       Hạnh nguyện Phổ Hiền
tối thượng của tôi,
vô biên thắng phước
tôi hồi hướng cả,
nguyện bao chúng sinh
đang còn chìm đắm,
mau chóng được sinh
thế giới Cực lạc
của đức Thế Tôn
A Di Đà Phật.

[i] Chính văn là “sở hữu lễ tán cúng dường Phật”. Câu này nếu nói rõ là sở hữu lễ Phật, tán Phật, cúng dường Phật. Vậy chữ Phật chữa thành chữ Phước là rất sai.

[ii] Mười hai bài chỉnh cú này nói về 8 đại nguyện: 1-2 là lễ kính Phật đà; 3-4 là 2 tán dương Như Lai; 5-7 là 3 hiến cúng rộng lớn; 8 là 4 sám hối nghiệp chướng; 9 là 5 tùy hỷ công đức; 10 là 6 xin chuyển pháp luân; 11 là 7 xin Phật ở đời; 12 là, theo ý đại sư Thái Hư, nói trước một cách tổng quát về đại nguyện 10 hồi hướng khắp cả.

[iii] Theo ý đại sư Thái Hư, các chỉnh cú 13-14 này là đại nguyện 8 thường học theo Phật.

[iv] ) Theo ý đại sư Thái Hư, các chỉnh cú 15-16 này là đại nguyện 9 hằng thuận chúng sinh

[v] Theo ý đại sư Thái Hư, các chỉnh cú 17-47 sau đây là đại nguyện 10 hồi hướng khắp cả, nói đầy đủ hơn. Tựu trung chia ra hai đoạn lớn: đoạn một, các chỉnh cú 17-38 là phát thêm 10 nguyện nhỏ, đoạn hai, các chỉnh cú 39-47 là tổng kết hồi hướng về 10 đại nguyện.

[vi] Lậu, dịch đúng là rỉ lọt, mà ở đây là sai sót, sơ hở, sơ suất.

[vii] Nghĩa là nhiều như cực vi trên đầu sợi lông.

[viii] Dịch đủ: Thiền định, trí tuệ, phương tiện.

[ix] Coi lại ghi chú 18. Ở đó đã nói các chỉnh cú 17-38 là phát thêm 10 nguyện nhỏ, đó là:
1. 17-18 là nguyện hộ vệ chánh pháp,
2. 19-20 là nguyện tự lợi lợi tha,
3. 21-22 là nguyện thành thục chúng sinh,
4. 23-24 là nguyện không rời đồng hành,
5. 25-26 là nguyện hiến cúng chánh pháp,
6. 27-28 là nguyện được lợi công đức,
7. 29-31 là nguyện chuyển đẩy pháp luân,
8. 32-33 là nguyện nhập cảnh giới Phật,
9. 34-35 là nguyện phụng sự chư Phật,
10. 36-38 là nguyện mau thành chánh giác.

[x] Coi lại ghi chú 3. Tất cả chữ Phổ Hiền, trong trường hàng cũng như chỉnh cú, có 3 nghĩa. Một, có khi chỉ cho đức Phổ Hiền, thì viết hoa. Hai, đa số chỉ cho tính cách phổ hiền, thì viết thường. Ba, có khi chỉ cho các đức Phổ Hiền khác, thì cũng viết hoa.

[xi] Chữ này, ở đây và ở dưới, là chỉ cho mười hạnh nguyện Phổ Hiền.

[xii] Coi lại ghi chú 18. Ở đó đã nói, theo ý đại sư Thái Hư, các chỉnh cú 39-47 là tổng kết hồi hướng về 10 đại nguyện. Gồm lại, các chỉnh cú 17-47 là nói về đại nguyện 10 hồi hướng khắp cả.

[xiii] Có 2 nghĩa, nghĩa chính là quân đội của ma vương thật; nghĩa nữa là dục vọng, cũng gọi là quân đội của ma vương. Chưa kể có nơi từ ngữ này còn nói đến cơ thể (ngũ âm) sự chết và phiền não.




Lama Tsongkhapa: XƯNG TÁN DUYÊN KHỞI

Tựa Đề Tạng Ngữ (Tibetan Title): རྟེན་འབྲེལ་བསྟོད་པ་བཞུགས་སོ། ། 
-Tác giả (author): Lama Tsongkhapa
-Việt ngữ: Hồng Như, bản thảo 12 tháng 5 năm 2019

Việt (Vietnamese) | Tạng (Tibetan) | Tạng-Việt-Anh (Tibetan-Vietnamese-English)

Xưng Tán Duyên Khởi

Lama Tông Khách Ba

Nam mô Guru Manjughoshaya (Kính lạy đức Văn Thù Diệu Âm)

1. Người nào thuyết pháp / từ sự chứng biết,
trí ấy, giáo ấy / không một ai hơn.
Con xin kính lễ / đức Phật tối thắng,
Bậc chứng rồi giảng / giáo pháp duyên sinh.

2. Cõi thế gian này / có bao suy thoái,
hết thảy đều từ / gốc rễ vô minh.
Đức Phật dạy rằng / bất kể là ai,
chứng được duyên sinh / là dẹp được cả.

3. Nên người có trí
đâu thể không hiểu
rằng pháp duyên sinh
chính là cốt tủy / giáo pháp Phật dạy.

4. Vậy xưng tán Phật
đâu có lối nào
mầu nhiệm hơn là
xưng tán bậc thuyết / giáo pháp duyên sinh.

5. “Việc gì đã tùy / nhân duyên sinh ra
thì việc ấy vốn / không có tự tánh.”
Có lời dạy nào / tuyệt diệu hơn là
lời dạy này đây.

6. Vì bám vào đó / mà kẻ ấu trĩ
ràng buộc biên kiến / càng thêm kiên cố;
cũng chính nơi đó / lại là cửa ngỏ
cho người có trí / xẻ lưới niệm khởi.

7. Pháp này nơi khác / chưa từng nghe qua
nên gọi Phật là / đạo sư duy nhất.
Nếu gọi ngoại đạo / [là bậc đạo sư] /
thì khác gì gọi / cáo là sư tử,
chỉ giống như lời / tâng bốc mà thôi.

8. Tuyệt thay đạo sư! Tuyệt thay chỗ nương!
Tuyệt thay luận sư! Tuyệt thay cứu độ!
Đối trước bậc Thầy / khéo thuyết duyên khởi,
con xin đảnh lễ.

9. Để giúp chữa bệnh / nên đấng Lợi Sinh
dạy cho hữu tình
lý luận vô song
xác định tánh không, / trái tim chánh pháp.

10. Lối duyên khởi này
nếu thấy mâu thuẫn / không thể xác minh
thì pháp của Phật
làm sao có thể / thông đạt cho được?

11. Với Phật, bao giờ
chứng được tánh không / qua nghĩa duyên khởi
sẽ thấy tuy rằng / không có tự tánh
vẫn tạo tác dụng, / không hề mâu thuẫn.

12. Phật dạy nếu như / thấy điều ngược lại,
ở trong tánh không / không có tác dụng
có tác dụng lại / không có tánh không,
sẽ phải rơi vào / vực sâu hung hiểm.

13. Vì lý do này / giáo pháp Phật dạy
hết mực đề cao / chứng ngộ duyên khởi;
không phải hoàn toàn / là không hiện hữu,
mà cũng không phải / là có tự tánh.

14. Sự tự-có như / hoa đốm giữa trời,
vì vậy không gì / là không tùy thuộc.
Nếu sự vật nhờ / chính mình mà có
thì không thể nào / tùy thuộc nhân duyên.

15. Nên Phật dạy rằng “vì không có gì
không từ duyên khởi
nên trừ phi là / không có tự tánh
bằng không chẳng có / pháp nào tồn tại.”

16. Phật dạy: “Tự tánh / không hề biến chuyển,
nên nếu các pháp / có chút tự tánh
thì quả niết bàn / không thể nào có,
niệm khởi cũng không / cách nào tịch diệt.”

17. Vì vậy nhiều lần / trước hàng trí giả
đức Phật nói bằng / tiếng sư tử hống,
rằng “sự vật vốn / tách lìa tự tánh”
Lời này đố ai / đủ sức phản biện.

18. Tự tánh mảy may / cũng không hề có,
mọi sự đều là / “tùy vào cái này
mà cái kia sinh.” / Có cần phải nói
rằng hai điều này / không hề mâu thuẫn?

19. “Vì hiện khởi nên
không vướng biên kiến.”
Chính vì đức Phật / khéo thuyết như vậy
nên gọi Ngài là / luận sư vô song.

20. “Hết thảy mọi sự / chân tánh vốn không”;
“từ điều này mà / quả kia sinh ra”:
hai khẳng định này hỗ trợ lẫn nhau
không hề mâu thuẫn.

21. Nhiệm mầu nào hơn?
kỳ diệu nào hơn?
Tán dương như vậy / mới là tán dương,
bằng không chẳng xứng.

22. Những ai vì bởi / mê muội khống chế
bất thuận với Phật / thì trước âm thanh
của không-tự-tánh / chẳng thể nào kham,
việc này không lạ.

23. Nhưng nếu tin nhận / kho tàng trân quí
của lời Phật dạy / về thuyết duyên khởi,
mà không kham nổi / tiếng gầm tánh không
mới thật lạ kỳ.

24. Lý duyên khởi là / cánh cửa vô thượng,
lối ngỏ dẫn vào / sự không-tự-tánh.
Nếu kẻ phàm phu / dựa danh duyên khởi
mà chấp tự tánh / thì phàm phu ấy

25. lạc mất lối ngỏ
mà chư thánh giả / đã từng khéo qua.
Đâu là phương tiện / đưa họ về lại
với con đường lành / khiến cho Phật vui?

26. “Tự tánh, không giả, / và không tùy thuộc”
cùng với “duyên sinh, / tùy thuộc, giả hợp”,
Làm sao có thể / qui về một chỗ
mà không mâu thuẫn?

27. Vì thế điều gì / từ duyên sinh ra,
mặc dù bản lai / vốn lìa tự tánh,
nhưng mà tướng hiện / lại giống như có,
nên Phật nói rằng / mọi sự hư huyễn.

28. Vì lý do này / nên con hiểu được
dù ai chống đối / với lời Phật dạy
vẫn không làm sao / xét đúng luận lý
mà tìm ra được / chút sơ hở nào.

29. Tại sao như vậy? / Vì lời giảng này
khiến cho sự vật—dù là thấy được /
hay không thể thấy— khả năng khẳng định /
hay là phủ định đều lìa rất xa.

30. Chính nhờ con đường / duyên khởi này đây,
thấy được lời Phật / thật không đâu sánh.
Vì lẽ này mà / khởi niềm xác quyết
Pháp nào của Phật / cũng đều đúng cả.

31. Phật chứng như nghĩa / rồi khéo nói ra,
những ai dụng công / theo gót chân Ngài,
bao nhiêu suy thoái / hết thảy đều xa,
bao gốc lỗi lầm / đều hồi đầu cả.

32. Còn người quay lưng / với lời Phật dạy
thì dù lao lực / trong thời gian dài
lỗi vẫn tăng thêm—như thể gọi mời—
là vì nương vào / tri kiến chấp ngã.

33. Tuyệt vời lắm thay! / Khi người có trí
hiểu sự khác biệt / giữa hai điều này
khi ấy đáy lòng / không thể nào không
sâu xa kính Phật.

34. Hãy khoan nói đến / vô lượng giáo pháp,
chỉ cần ý nghĩa / một nhánh nhỏ thôi,
dù chỉ đại khái / có được lòng tin,
cũng vẫn đạt được / niềm vui thù thắng.

35. Than ôi! con vì / tâm trí mê muội,
khối thiện đức ấy / qui y đã lâu,
thế nhưng cho dù / chỉ một mẩu nhỏ
cũng chưa hề có.

36. Tuy vậy, trước khi / sinh mạng một dòng
chảy cạn hết vào / miệng của Thần chết,
tín tâm nơi Phật / con được chút ít,
thiết nghĩ đó cũng / là điều đại hạnh.

37. Bậc thuyết duyên khởi / trong khắp giảng sư;
Trí chứng duyên khởi / trong khắp các trí;
Chỉ có Phật như / đế vương tôn thắng / trong cõi thế gian
mới khéo biết được, / người khác chẳng thể.

38. Bất kể là Phật / dạy cho pháp gì,
đều phát xuất từ / giáo lý duyên sinh
và đều hướng đến / mục tiêu niết bàn
Phật không hạnh nào / không khiến tịnh an.

39. Ôi! Giáo pháp Phật
rơi vào tai ai
đều khiến bình an,
hỏi ai lại chẳng / thiết tha giữ gìn.

40. Pháp này tận diệt / hết thảy đối địch;
làm tan biến hết / mâu thuẫn trước sau;
giúp cho toàn thành / cả hai lợi ích;
nhờ diệu pháp này / hoan hỉ càng tăng.

41. Chính vì vậy mà
Phật vô số kiếp / cho rồi lại cho:
khi thì cho thân / lúc lại cho mạng,
cho cả thân nhân, / thọ dụng tài sản.

42. Thấy được thiện đức / của giáo pháp này,/
con thật như là / con cá mắc câu,
từ nơi tim Phật / bị cuốn phăng vào.
Chẳng thể chính tai / nghe lời Phật dạy / thật là bất hạnh.

43. Nỗi thương tâm này / ray rức mãnh liệt,
níu mãi không buông / tâm trí của con.
Cũng tựa như là / trái tim người mẹ
giữ mãi không rời / đứa con thân yêu.

44. Mỗi khi con nhớ / đến lời Phật dạy,
là ý nghĩ này / lại hiện trong con:
“Bổn sư đứng giữa / vùng hào quang sáng,
tướng hảo chánh phụ / rực rỡ rạng ngời,

45. đã dùng Phạm Âm / mà thuyết như vậy.”
Ảnh Phật khi ấy / hiện ra trong con,
xoa dịu trái tim / rát bỏng mòn mỏi,
như trăng thanh mát / dịu cõi nóng khô.

46. Đối với giáo pháp / kỳ diệu này đây
phàm phu kém trí
thấy rối mịt mờ
như là cỏ bện.

47. Nhìn thấy cảnh này / con đã lắm lần
theo bậc trí giả
cố gắng nỗ lực
tìm rồi lại tìm / ý thật của Phật.

48. Khi ấy con học
rất nhiều kinh luận / tông môn trong ngoài,
tâm triền miên khổ
vì lưới hoài nghi.

49-51. Cỗ xe vô thượng / mà Phật để lại,
hai đầu có-không / đều lìa bỏ hết,
được đức Long-thọ—người Phật thọ ký—
giảng đúng như thật.
Vườn hoa kun-da / của luận Long thọ
ngời ánh nguyệt quang / của luận Nguyệt Xứng
trắng sáng rạng soi / tỏ tường khắp cả,
trí tuệ vô cấu / một khối tròn đầy,
du hành vô ngại / giữa trời giáo thuyết,
xóa tan tăm tối / trái tim chấp thủ,
ngàn sao tà thuyết / đều phải lu mờ.
Nhờ ơn đạo sư / thấy được điều này,
tâm con khi ấy / mới thật bình yên.

52. Trong mọi thiện hạnh / mà Phật đã làm, /
thuyết pháp là nhất. Pháp thuyết cũng vậy, /
là pháp này đây.  Vì vậy kẻ trí /
nên từ chỗ này mà nhớ đến Phật.

53. Theo gót đấng bổn sư / tôi xuất gia thanh tịnh
tu học lời Phật dạy / không để cho kém cỏi
Tỷ kheo này cố gắng / tu tập hạnh du già
để tỏ lòng tôn kính / với bậc Đại Chân Thật.

54. Gặp được giáo pháp này / của bậc Thầy vô thượng
hết thảy đều nhờ vào / lòng từ của Ân sư
Vậy công đức nơi đây / tôi nguyện xin hồi hướng
cho chúng sinh luôn được / bậc chân sư giữ gìn.

55. Pháp của đấng Lợi Sinh / nguyện cùng tận sinh tử
không bao giờ khuynh động / bởi ngọn gió tà niệm;
nguyện luôn đầy ắp người / chứng cảnh giới lời Phật
nhờ đó tâm xác quyết / tin tưởng đấng đạo sư.

56. Nguyện trì pháp Mâu ni,
sáng soi lý duyên khởi,
mọi đời kiếp về sau / xả bỏ cả thân mạng
không bao giờ xao lãng / dù chỉ thoáng chốc thôi.
 
57. “Bậc dẫn đường tối thượng / bỏ công khó vô lượng
mới đạt được pháp này
nay dùng cách nào đây / để hoằng dương chánh pháp?”/)
nguyện tôi ngày lẫn đêm / luôn quán xét điều này.

58. Khi nỗ lực như vậy / với đại nguyện trong sáng
Nguyện Phạm Thiên, Đế Thích, / cùng chư vị hộ thế
và hộ pháp như là / đức Mahakala
luôn nâng đỡ cho tôi / không bao giờ lơi nghỉ

Bài pháp tên “Tinh Túy Trí Khéo Thuyết” này do bậc Tỷ kheo Đa văn Losang Dragpa trước tác.
Hồng Như Thupten Munsel chuyển Việt ngữ từ Tạng ngữ (Kopan Monastery Prayer Book), tham khảo với các bản dịch Anh ngữ của Thupten Jinpa Kilty Galvin,  12 tháng 5 năm 2019

Việt (Vietnamese) | Tạng (Tibetan) | Tạng-Việt-Anh (Tibetan-Vietnamese-English



Việt (Vietnamese)| Tạng (Tibetan) | Tạng-Việt-Anh (Tibetan-Vietnamese-English)

རྟེན་འབྲེལ་བསྟོད་པ་བཞུགས་སོ། །

༡ ༽   གང་ཞིག་གཟིགས་ཤིང་གསུངས་པ་ཡི། །མཁྱེན་དང་སྟོན་པ་བླ་ན་མེད། །རྒྱལ་བ་རྟེན་ཅིང་འབྲེལ་བར་འབྱུང་། །གཟིགས་ཤིང་འདོམས་པ་དེ་ལ་འདུད། །
༢ ༽   འཇིག་རྟེན་རྒུད་པ་ཇི་སྙེད་པ། །དེ་ཡི་རྩ་བ་མ་རིག་སྟེ། །གང་ཞིག་མཐོང་བས་དེ་ལྡོག་པ། །རྟེན་ཅིང་འབྲེལ་བར་འབྱུང་བར་གསུངས། །
༣ ༽   དེ་ཚེ་བློ་དང་ལྡན་པ་ཡིས། །རྟེན་ཅིང་འབྲེལ་བར་འབྱུང་བའི་ལམ།ཁྱོད་ཀྱི་བསྟན་པའི་གནད་ཉིད་དུ། །ཇི་ལྟར་ཁོང་དུ་ཆུད་མི་འགྱུར༑
༤ ༽   དེ་ལྟ་ལགས་ན་མགོན་ཁྱོད་ལ། །བསྟོད་པའི་སྒོར་ནི་  སུ་ཞིག་གིས། །བརྟེན་ནས་འབྱུང་བ་གསུངས་པ་ལས། །ངོ་མཚར་གྱུར་པ་ཅི་ཞིག་རྙེད། །
༥ ༽   གང་གང་རྐྱེན་ལ་རག་ལས་པ། །དེ་དེ་རང་བཞིན་གྱིས་སྟོང་ཞེས། །གསུངས་པ་འདི་ལས་ཡ་མཚན་པའི། །ལེགས་འདོམས་ཚུལ་ནི་ཅི་ཞིག་ཡོད། །
༦ ༽   གང་དུ་བཟུང་བས་བྱིས་པ་རྣམས། །མཐར་འཛིན་འཆིང་བ་བརྟན་བྱེད་པ། །དེ་ཉིད་མཁས་ལ་སྤྲོས་པ་ཡི། །དྲ་བ་མ་ལུས་གཅོད་པའི་སྒོ། །
༧ ༽   བསྟན་འདི་གཞན་དུ་མ་མཐོང་བས། །སྟོན་པ་ཞེས་བྱ་ཁྱོད་ཉིད་དེ། །ཝ་སྐྱེས་ལ་ནི་སེང་གེ་བཞིན། །མུ་སྟེགས་ཅན་ལའང་གཅམ་བུའི་ཚིག།
༨ ༽   ཨེ་མའོ་སྟོན་པ་ཨེ་མའོ་སྐྱབས། །ཨེ་མའོ་སྨྲ་མཆོག་ཨེ་མའོ་མགོན། །རྟེན་ཅིང་འབྲེལ་འབྱུང་ལེགས་གསུངས་པའི། །སྟོན་པ་དེ་ལ་བདག་ཕྱག་འཚལ། །
༩ ༽   ཕན་མཛད་ཁྱོད་ཀྱིས་འགྲོ་བ་ལ། །སྨན་པའི་སླད་དུ་བཀའ་སྩལ་བ། །བསྟན་པའི་སྙིང་པོ་སྟོང་པ་ཉིད། །ངེས་པའི་རྒྱུ་མཚན་ཟླ་མེད་པ། །
༡༠ ༽   རྟེན་ཅིང་འབྲེལ་བར་འབྱུང་བའི་ཚུལ། །འགལ་བ་དང་ནི་མ་གྲུབ་པར། །མཐོང་བ་འདི་ཡིས་ཁྱོད་ཀྱི་ལུགས། །ཇི་ལྟར་ཁོང་དུ་ཆུད་པར་ནུས༑
༡༡ ༽   ཁྱོད་ནི་ནམ་ཞིག་སྟོང་པ་ཉིད། །རྟེན་འབྱུང་དོན་དུ་མཐོང་བ་ན། །རང་བཞིན་གྱིས་ནི་སྟོང་པ་དང་། །བྱ་བྱེད་འཐད་པའང་མི་འགལ་ཞིང་། །
༡༢ ༽   དེ་ལས་ལྡོག་པར་མཐོང་བ་ན། །སྟོང་ལ་བྱ་བ་མི་རུང་ཞིང་། །བྱ་དང་བཅས་ལ་སྟོང་མེད་པས། །ཉམ་ངའི་གཡང་དུ་ལྟུང་བར་བཞེད། །
༡༣ ༽   དེ་ཕྱིར་ཁྱོད་ཀྱི་བསྟན་པ་ལ། །རྟེན་འབྱུང་མཐོང་བ་ལེགས་པར་བསྔགས། །དེ་ཡང་ཀུན་ཏུ་མེད་པ་དང་། །རང་བཞིན་གྱིས་ནི་ཡོད་པས་མིན། །
༡༤ ༽   ལྟོས་མེད་ནམ་མཁའི་མེ་ཏོག་བཞིན། །དེས་ན་མ་བརྟེན་ཡོད་མ་ཡིན། །ངོ་བོས་གྲུབ་ན་དེ་འགྲུབ་པ། །རྒྱུ་དང་རྐྱེན་ལ་ལྟོས་པ་འགལ། །
༡༥ ༽   དེ་ཕྱིར་བརྟེན་ནས་འབྱུང་བ་ལས། །མ་གཏོགས་ཆོས་འགའ་ཡོད་མིན་པས། །རང་བཞིན་གྱིས་ནི་སྟོང་པ་ལས། །མ་གཏོགས་ཆོས་འགའ་མེད་པར་གསུངས། །
༡༦ ༽   རང་བཞིན་ལྡོག་པ་མེད་པའི་ཕྱིར། །ཆོས་རྣམས་རང་བཞིན་འགའ་ཡོད་ན། །མྱ་ངན་འདས་པ་མི་རུང་ཞིང་། །སྤྲོས་ཀུན་ལྡོག་པ་མེད་པར་གསུངས། །
༡༧ ༽   དེ་ཕྱིར་རང་བཞིན་རྣམ་བྲལ་ཞེས། །སེང་གེའི་སྒྲ་ཡིས་ཡང་ཡང་དུ། །མཁས་པའི་ཚོགས་སུ་ལེགས་གསུངས་པ། །འདི་ལ་སུ་ཡིས་འགོང་བར་ནུས། །
༡༨ ༽   རང་བཞིན་འགའ་ཡང་མེད་པ་དང་། །འདི་ལ་བརྟེན་ནས་འདི་འབྱུང་བའི། །རྣམ་བཞག་ཐམས་ཅད་འཐད་པ་གཉིས། །མི་འགལ་འདུ་བ་སྨོས་ཅི་དགོས། །
༡༩ ༽   བརྟེན་ནས་འབྱུང་བའི་རྒྱུ་མཚན་གྱིས། །མཐར་ལྟ་བ་ལ་མི་བརྟེན་ཞེས། །ལེགས་གསུངས་འདི་ནི་མགོན་ཁྱོད་ཀྱི། །སྨྲ་བ་བླ་ན་མེད་པའི་རྒྱུ། །
༢༠ ༽   འདི་ཀུན་ངོ་བོས་སྟོང་པ་དང་། །འདི་ལས་འདི་འབྲས་འབྱུང་བ་ཡི། །ངེས་པ་གཉིས་པོ་ཕན་ཚུན་དུ། །གེགས་མེད་པར་ནི་གྲོགས་བྱེད་པ། །
༢༡ ༽   འདི་ལས་ངོ་མཚར་གྱུར་པ་དང་། །འདི་ལས་རྨད་དུ་བྱུང་བ་གང་། །ཚུལ་འདིས་ཁྱོད་ལ་བསྟོད་ན་ནི། །བསྟོད་པར་འགྱུར་གྱི་གཞན་དུ་མིན། །
༢༢ ༽   རྨོངས་པས་བྲན་དུ་བཟུང་བ་ཡིས། །གང་ཞིག་ཁྱོད་དང་ཞེ་འགྲས་པ། །དེ་ཡིས་རང་བཞིན་མེད་པའི་སྒྲ། །མི་བཟོད་གྱུར་ལ་མཚར་ཅི་ཡོད།
༢༣ ༽   ཁྱོད་ཀྱི་གསུང་གི་གཅེས་པའི་མཛོད། །བརྟེན་ནས་འབྱུང་བར་ཁས་བླངས་ནས། །སྟོང་ཉིད་ང་རོ་མི་བཟོད་པ། །འདི་ལ་ཁོ་བོ་ངོ་མཚར་གྱུར། །
༢༤ ༽   རང་བཞིན་མེད་ལ་བཀྲི་བའི་སྒོ། །བླ་མེད་རྟེན་ཅིང་འབྲེལ་འབྱུང་གི།མིང་ཉིད་ཀྱིས་ནི་རང་བཞིན་དུ། །འཛིན་ན་ད་ཀོ་སྐྱེ་བོ་འདི། །
༢༥ ༽   འཕགས་མཆོག་རྣམས་ཀྱིས་ལེགས་བགྲོད་པའི། །འཇུག་ངོགས་ཟླ་དང་བྲལ་གྱུར་པ།ཁྱོད་དགྱེས་གྱུར་པའི་ལམ་བཟང་དེར། །
ཐས་གང་གིས་ནི་བཀྲི་བར་བྱ། །
༢༦ ༽   རང་བཞིན་བཅོས་མིན་ལྟོས་མེད་དང་། །རྟེན་འབྲེལ་ལྟོས་དང་བཅོས་མ་གཉིས། །ཇི་ལྟ་བུར་ན་གཞི་གཅིག་ལ། །མི་འགལ་འདུ་བ་ཉིད་དུ་འགྱུར། །
༢༧ ༽   དེ་ཕྱིར་བརྟེན་ནས་འབྱུང་བ་གང་། །རང་བཞིན་གྱིས་ནི་གདོད་མ་ནས། །རྣམ་པར་དབེན་ཡང་དེར་སྣང་བས། །འདི་ཀུན་སྒྱུ་མ་བཞིན་དུ་གསུངས།
༢༨ ༽   ཁྱོད་ཀྱིས་ཇི་ལྟར་བསྟན་པ་ལ། །རྒོལ་བ་འགས་ཀྱང་ཆོས་མཐུན་དུ། །གླགས་མི་རྙེད་པར་གསུངས་པ་ཡང་། །འདི་ཉིད་ཀྱིས་ནི་ལེགས་པར་འཁུམས། །
༢༩ ༽   ཅི་སླད་ཅེ་ན་འདི་བཤད་པས། །མཐོང་དང་མ་མཐོང་དངོས་པོ་ལ། །སྒྲོ་འདོགས་པ་དང་སྐུར་འདེབས་ཀྱི། །གོ་སྐབས་རིང་དུ་མཛད་ཕྱིར་རོ༑
༣༠ ༽   ཁྱོད་ཀྱི་སྨྲ་བ་ཟླ་མེད་པར། །མཐོང་བའི་རྒྱུ་མཚན་རྟེན་འབྱུང་གི།ལམ་འདི་ཉིད་ཀྱིས་གསུང་གཞན་ཡང་། །ཚད་མར་གྱུར་པར་ངེས་པ་སྐྱེ། །
༣༡ ༽   དོན་བཞིན་གཟིགས་ནས་ལེགས་གསུངས་པ།ཁྱོད་ཀྱི་རྗེས་སུ་སློབ་པ་ལ། །རྒུད་པ་ཐམས་ཅད་རིང་དུ་གྱུར། །ཉེས་ཀུན་རྩ་བ་ལྡོག་ཕྱིར་རོ།
༣༢ ༽   ཁྱོད་ཀྱི་བསྟན་ལས་ཕྱིར་ཕྱོགས་པས། །ཡུན་རིང་ངལ་བ་བསྟེན་བྱས་ཀྱང་། །ཕྱི་ཕྱིར་སྐྱོན་རྣམས་བོས་པ་བཞིན། །བདག་ཏུ་ལྟ་བ་བརྟན་ཕྱིར་རོ། །
༣༣ ༽   ཨེ་མའོ་མཁས་པས་འདི་གཉིས་ཀྱི།ཁྱད་པར་ཁོང་དུ་ཆུད་གྱུར་པ། །དེ་ཚེ་རྐང་གི་ཁོང་ནས་ནི།ཁྱོད་ལ་ཅི་ཕྱིར་གུས་མི་འགྱུར།
༣༤ ༽   ཁྱོད་གསུང་དུ་མ་ཅི་ཞིག་སྨོས། །ཆ་ཤས་རེ་ཡི་དོན་ཙམ་ལའང་། །འོལ་སྤྱི་ཙམ་གྱི་ངེས་རྙེད་པ། །དེ་ལའང་མཆོག་གི་བདེ་བ་སྟེར། །
༣༥ ༽   ཀྱི་ཧུད་བདག་བློ་རྨོངས་པས་བཅོམ། །འདི་འདྲའི་ཡོན་ཏན་ཕུང་པོ་ལ༑།རིང་ནས་སྐྱབས་སུ་སོང་གྱུར་ཀྱང་། །ཡོན་ཏན་ཆ་ཙམ་མ་འཚལ་ཏོ། །
༣༦ ༽   འོན་ཀྱང་འཆི་བདག་ཁར་ཕྱོགས་པའི། །སྲོག་གི་རྒྱུན་ནི་མ་ནུབ་པར།ཁྱོད་ལ་ཅུང་ཟད་ཡིད་ཆེས་པ། ། ཁྱོད་ལ་ཅུང་ཟད་ཡིད་ཆེས་པ། །འདི་ཡང་སྐལ་བ་བཟང་སྙམ་བགྱིད། །
༣༧ ༽   ༈སྟོན་པའི་ནང་ན་རྟེན་འབྲེལ་སྟོན་པ་དང་། །ཤེས་རབ་ནང་ན་རྟེན་འབྲེལ་ཤེས་པ་གཉིས། །འཇིག་རྟེན་དག་ན་རྒྱལ་བའི་དབང་པོ་བཞིན། །ཕུལ་བྱུང་ལེགས་པར་ཁྱོད་མཁྱེན་གཞན་གྱིས་མིན།
༣༨ ༽   ཁྱེད་ཀྱིས་ཇི་སྙེད་བཀའ་སྩལ་པ། །རྟེན་འབྲེལ་ཉིད་ལས་བརྩམས་ཏེ་འཇུག།དེ་ཡང་མྱ་ངན་འདའ་ཕྱིར་ཏེ། །ཞི་འགྱུར་མིན་མཛད་ཁྱོད་ལ་མེད། །
༣༩ ༽   ཀྱེ་མའོ་ཁྱོད་ཀྱི་བསྟན་པ་ནི། །གང་གི་རྣ་བའི་ལམ་སོང་བ༑།དེ་དག་ཐམས་ཅད་ཞི་འགྱུར་ཕྱིར། །ཁྱོད་བསྟན་འཛིན་པར་སུ་མི་གུས། །
༤༠ ༽   ཕས་རྒོལ་མཐའ་དག་འཇོམས་པ་དང་། །ལྟག་འོག་འགལ་འདུས་སྟོང་པ་དང་། །སྐྱེ་རྒུའི་དོན་གཉིས་སྟེར་བྱེད་པ། །ལུགས་འདིར་ཁོ་བོ་སྤྲོ་བ་འཕེལ། །
༤༡ ༽   འདི་ཡི་ཕྱིར་དུ་ཁྱོད་ཀྱིས་ནི། །ལ་ལར་སྐུ་དང་གཞན་དུ་སྲོག།སྡུག་པའི་གཉེན་དང་ལོངས་སྤྱོད་ཚོགས། །གྲངས་མེད་བསྐལ་པར་ཡང་ཡང་བཏང་། །
༤༢ ༽   གང་གི་ཡོན་ཏན་མཐོང་བ་ཡིས། །ལྕགས་ཀྱུས་ཉ་ལ་ཇི་བཞིན་དུ། །ཉིད་ཀྱིས་ཐུགས་དྲངས་ཆོས་དེ་ནི།ཁྱོད་ལས་མ་ཐོས་སྐལ་བ་ཞན། །
༤༣ ༽   དེ་ཡི་མྱ་ངན་ཤུགས་ཀྱིས་ནི། །སྡུག་པའི་བུ་ལ་མ་ཡི་ཡིད། །རྗེས་སུ་སོང་བ་ཇི་བཞིན་དུ། །བདག་གི་ཡིད་ནི་གཏོང་མི་བྱེད། །
༤༤ ༽   འདི་ལའང་ཁྱོད་གསུང་བསམ་པ་ན། །མཚན་དཔེའི་དཔལ་གྱིས་རབ་ཏུ་འབར། །འོད་ཀྱི་དྲ་བས་ཡོངས་བསྐོར་བའི། །སྟོན་པ་དེ་ཡི་ཚངས་དབྱངས་ཀྱིས། །
༤༥ ༽   འདི་ནི་འདི་ལྟར་གསུངས་སྙམ་དུ། །ཡིད་ལ་ཐུབ་པའི་གཟུགས་བརྙན་ནི། །ཤར་བ་ཙམ་ཡང་ཚ་བ་ཡིས། །གདུང་ལ་ཟླ་ཟེར་བཞིན་དུ་སྨན། །
༤༦ ༽   དེ་ལྟར་རྨད་དུ་བྱུང་བ་ཡི། །ལུགས་བཟང་དེ་ཡང་མི་མཁས་པའི། །སྐྱེ་བོས་བལ་པ་ཛ་བཞིན་དུ། །རྣམ་པ་ཀུན་ཏུ་འཛིངས་པར་བྱས༑
༤༧ ༽   །ཚུལ་འདི་མཐོང་ནས་བདག་གིས་ནི། །འབད་པ་དུ་མས་མཁས་པ་ཡི༑།རྗེས་སུ་འབྲངས་ནས་ཁྱོད་ཀྱི་ནི། །དགོངས་པ་ཡང་དང་ཡང་དུ་བཙལ། །
༤༨ ༽   དེ་ཚེ་རང་གཞན་སྡེ་པ་ཡི། །གཞུང་མང་དག་ལ་སྦྱངས་པ་ན། །ཕྱི་ཕྱིར་ཐེ་ཚོམ་དྲ་བ་ཡིས། །བདག་གི་ཡིད་ནི་ཀུན་ཏུ་གདུངས།
༤༩ ༽   ཁྱོད་ཀྱི་བླ་མེད་ཐེག་པའི་ཚུལ། །ཡོད་དང་མེད་པའི་མཐའ་སྤངས་ཏེ། །ཇི་བཞིན་འགྲེལ་པར་ལུང་བསྟན་པ། །ཀླུ་སྒྲུབ་གཞུང་ལུགས་ཀུནྡའི་ཚལ། །
༥༠ ༽   དྲི་མེད་མཁྱེན་པའི་དཀྱིལ་འཁོར་རྒྱས། །གསུང་རབ་མཁའ་ལ་ཐོགས་མེད་རྒྱུ། །མཐར་འཛིན་སྙིང་གི་མུན་པ་སེལ། །ལོག་སྨྲའི་རྒྱུ་སྐར་ཟིལ་གནོན་པ། །
༥༡ ༽   དཔལ་ལྡན་ཟླ་བའི་ལེགས་བཤད་ཀྱི། །འོད་དཀར་འཕྲེང་བས་གསལ་བྱས་པ། །བླ་མའི་དྲིན་གྱིས་མཐོང་བའི་ཚེ། །བདག་གི་ཡིད་ཀྱིས་ངལ་གསོ་ཐོབ། །
༥༢ ༽   མཛད་པ་ཀུན་ལས་གསུང་གི་ནི། །མཛད་པ་མཆོག་ཡིན་དེ་ཡང་ནི། །དེ་ཉིད་ཡིན་ཕྱིར་མཁས་པ་ཡིས། །འདི་ལས་སངས་རྒྱས་རྗེས་དྲན་བྱོས། །
༥༣ ༽   སྟོན་དེའི་རྗེས་སུ་རབ་ཏུ་བྱུང་གྱུར་ཏེ། །རྒྱལ་བའི་གསུང་ལ་སྦྱངས་པ་མི་དམན་ཞིང་། །རྣལ་འབྱོར་སྤྱོད་ལ་བརྩོན་པའི་དགེ་སློང་ཞིག།
དྲང་སྲོ་ཆེན་པོ་དེ་ལ་དེ་ལྟར་གུས། །
༥༤ ༽   སྟོན་པ་བླ་ན་མེད་པའི་བསྟན་པ་དང་། །མཇལ་བ་འདི་འདྲ་བླ་མའི་དྲིན་ཡིན་པས། །དགེ་བ་འདི་ཡང་འགྲོ་བ་མ་ལུས་པ། །
བཤེསགཉེན་དམ་པས་འཛིན་པའི་རྒྱུ་རུ་བསྔོ། །
༥༥ ༽   ཕན་མཛད་དེ་ཡི་བསྟན་པའང་སྲིད་པའི་མཐར། །ངན་རྟོག་རླུང་གིས་རྣམ་པར་མི་ཡོ་ཞིང་། །བསྟན་པའི་ངང་ཚུལ་ཤེས་ནས་སྟོན་པ་ལ། །ཡིད་ཆེས་རྙེད་པས་ རྟག་ཏུ་གང་བར་ཤོག།
༥༦ ༽   བརྟེན་ནས་འབྱུང་བའི་དེ་ཉིད་གསལ་ཛད་པ། །བ་པའི་ལུགས་བཟང་སྐྱེ་བ་ཐམས་ཅད་དུ། །ལུས་དང་སྲོག་ཀྱང་བཏང་ནས་འཛིན་པ་ལ། །སྐད་ཅིག་ཙམ་ཡང་ལྷོད་པར་མ་གྱུར་ཅིག།
༥༧ ༽   འདྲེན་པ་མཆོག་དེས་དཀའ་བ་དཔག་མེད་ཀྱིས། །ནན་ཏན་སྙིང་པོར་མཛད་ནས་བསྒྲུབས་པ་འདི། །ཐབས་གང་ཞིག་གིས་འཕེལ་བར་འགྱུར་སྙམ་པའི། །རྣམ་པར་དཔྱོད་པས་ཉིན་མཚན་འདའ་བར་ཤོག།
༥༨ ༽   ལྷག་བསམ་དག་པས་ཚུལ་དེར་བརྩོན་པ་ན། །ཚངས་དང་དབང་པོ་འཇིག་རྟེན་སྐྱོང་བ་དང་། །ལེགས་ལྡན་ནག་པོ་ལ་སོགས་སྲུང་མས་ཀྱང་། །གཡེལ་བ་མེད་པར་རྟག་ཏུ་གྲོགས་བྱེད་ཤོག།

ཅེས་བསྟོད་པ་ལེགས་བཤད་སྙིང་པོ་ཞེས་བྱ་བ་འདི་ནི་མང་དུ་ཐོས་པའི་དགེ་སློང་བློ་བཟང་གྲགས་པའི་དཔལ་གྱིས་སྦྱར་བའོ། །

Việt (Vietnamese)| Tạng (Tibetan) | Tạng-Việt-Anh (Tibetan-Vietnamese-English)



Việt (Vietnamese)| Tạng (Tibetan) | Tạng-Việt-Anh (Tibetan-Vietnamese-English)

རྟེན་འབྲེལ་བསྟོད་པ་བཞུགས་སོ། །
Xưng Tán Duyên Khởi
IN PRAISE OF DEPENDENT ORIGINATION
Je Tsongkhapa – Lama Tông Khách Ba

༄༅། །ན་མོ་གུ་རུ་མཉྫུ་གྷོ་ཥཱ་ཡ།
      Kính lạy đức Văn Thù Diệu Âm
           Nam mô Guru Manjughoshaya
༡༽ ་ ་གང་ཞིག་གཟིགས་ཤིང་གསུངས་པ་ཡི། །
      1.Người nào thuyết pháp / từ sự chứng biết,
           He who speaks on the basis of seeing,
མཁྱེན་དང་སྟོན་པ་བླ་ན་མེད། །
      trí ấy, giáo ấy / không một ai hơn.
           This makes him a knower and teacher unexcelled,
རྒྱལ་བ་རྟེན་ཅིང་འབྲེལ་བར་འབྱུང་། །
      Con xin kính lễ / đức Phật tối thắng,
           I bow to you, O Conqueror, you who saw
གཟིགས་ཤིང་འདོམས་པ་དེ་ལ་འདུད། །
      Bậc chứng rồi giảng / giáo pháp duyên sinh.
           Dependent origination and taught it.

༢ ༽  འཇིག་རྟེན་རྒུད་པ་ཇི་སྙེད་པ། །
      2. Cõi thế gian này / có bao suy thoái,
           Whatever degenerations there are in the world,
དེ་ཡི་རྩ་བ་མ་རིག་སྟེ། །
      hết thảy đều từ / gốc rễ vô minh.
           The root of all these is ignorance;
གང་ཞིག་མཐོང་བས་དེ་ལྡོག་པ། །
      Đức Phật dạy rằng / bất kể là ai,
           You taught that it is dependent origination,
རྟེན་ཅིང་འབྲེལ་བར་འབྱུང་བར་གསུངས། །
      chứng được duyên sinh / là dẹp được cả.
           The seeing of which will undo this ignorance.
༣༢་༽   དེ་ཚེ་བློ་དང་ལྡན་པ་ཡིས། །
      3. Nên người có trí
           So how can an intelligent person
རྟེན་ཅིང་འབྲེལ་བར་འབྱུང་བའི་ལམ།
      đâu thể không hiểu
           Not comprehend that this path
ཁྱོད་ཀྱི་བསྟན་པའི་གནད་ཉིད་དུ། །
      rằng pháp duyên sinh
           Of dependent origination is
ཇི་ལྟར་ཁོང་དུ་ཆུད་མི་འགྱུར༑
      chính là cốt tủy / giáo pháp Phật dạy.
           The essential point of your teaching?
༤་༽   དེ་ལྟ་ལགས་ན་  མགོན་ཁྱོད་ལ། །
      4. Vậy xưng tán Phật,
           This being so, who will find, O Savior,
བསྟོད་པའི་སྒོར་ནི་  སུ་ཞིག་གིས། །
      đâu có lối nào
           A more wonderful way to praise you
བརྟེན་ནས་འབྱུང་བ་གསུངས་པ་ལས། །
      mầu nhiệm hơn là
           Than [to praise you] for having taught
ངོ་མཚར་གྱུར་པ་ཅི་ཞིག་རྙེད། །
      xưng tán bậc thuyết / giáo pháp duyên sinh.
           This origination through dependence?

༥་༽   གང་གང་རྐྱེན་ལ་རག་ལས་པ། །
      5. “Việc gì đã tùy / nhân duyên sinh ra
           “Whatsoever depends on conditions,
དེ་དེ་རང་བཞིན་གྱིས་སྟོང་ཞེས། །
      thì việc ấy vốn / không có tự tánh.”
           That is devoid of intrinsic existence.”
གསུངས་པ་འདི་ལས་ཡ་མཚན་པའི། །
      Có lời dạy nào / tuyệt diệu hơn là
           What excellent instruction can there be
ལེགས་འདོམས་ཚུལ་ནི་ཅི་ཞིག་ཡོད། །
      lời dạy này đây.
           More amazing than this proclamation?

༦ ་༽   གང་དུ་བཟུང་བས་བྱིས་པ་རྣམས། །
      6. Vì bám vào đó / mà kẻ ấu trĩ
           By grasping at it the childish
མཐར་འཛིན་འཆིང་བ་བརྟན་བྱེད་པ། །
      ràng buộc biên kiến / càng thêm kiên cố;
           Strengthen bondage to extreme views;
དེ་ཉིད་མཁས་ལ་སྤྲོས་པ་ཡི། །
      cũng chính nơi đó / lại là cửa ngỏ
           For the wise this very fact is the doorway
དྲ་བ་མ་ལུས་གཅོད་པའི་སྒོ། །
      cho người có trí / xẻ lưới niệm khởi.
           To cut free from the net of elaborations.

༧ ་༽   བསྟན་འདི་གཞན་དུ་མ་མཐོང་བས། །
      7. Pháp này nơi khác / chưa từng nghe qua
           Since this teaching is not seen elsewhere,
སྟོན་པ་ཞེས་བྱ་ཁྱོད་ཉིད་དེ། །
      nên gọi Phật là / đạo sư duy nhất.
           You alone are the Teacher;
ཝ་སྐྱེས་ལ་ནི་སེང་གེ་བཞིན། །
      Nếu gọi ngoại đạo / [là bậc đạo sư] / thì khác gì gọi / cáo là sư tử,
           Like calling fox a lion, for a Tirthika
མུ་སྟེགས་ཅན་ལའང་གཅམ་བུའི་ཚིག།
      chỉ giống như lời / tâng bốc mà thôi.
           It would be a word of flattery.

༨ ་༽   ཨེ་མའོ་སྟོན་པ་ཨེ་མའོ་སྐྱབས། །
      8. Tuyệt thay đạo sư! Tuyệt thay chỗ nương!
           Wondrous teacher! Wondrous refuge!
ཨེ་མའོ་སྨྲ་མཆོག་ཨེ་མའོ་མགོན། །
      Tuyệt thay luận sư! Tuyệt thay cứu độ!
           Wondrous speaker! Wondrous savior!
རྟེན་ཅིང་འབྲེལ་འབྱུང་ལེགས་གསུངས་པའི། །
      Đối trước bậc Thầy / khéo thuyết duyên khởi,
           I pay homage to that teacher
སྟོན་པ་དེ་ལ་བདག་ཕྱག་འཚལ། །
      con xin đảnh lễ.
           Who taught well dependent origination.

༩་༽   ཕན་མཛད་ཁྱོད་ཀྱིས་འགྲོ་བ་ལ། །
      9. Để giúp chữa bệnh / nên đấng Lợi Sinh
           To help heal sentient beings,
སྨན་པའི་སླད་དུ་བཀའ་སྩལ་བ། །
      dạy cho hữu tình
           O Benefactor, you have taught
བསྟན་པའི་སྙིང་པོ་སྟོང་པ་ཉིད། །
      lý luận vô song
           The peerless reason to ascertain
ངེས་པའི་རྒྱུ་མཚན་ཟླ་མེད་པ། །
      xác định tánh không, / trái tim chánh pháp
           Emptiness, the heart of the teaching.

༡༠ ་༽   རྟེན་ཅིང་འབྲེལ་བར་འབྱུང་བའི་ཚུལ། །
      10. Lối duyên khởi này
           This way of dependent origination,
འགལ་བ་དང་ནི་མ་གྲུབ་པར། །
      nếu thấy mâu thuẫn, / không thể xác minh
           Those who perceive it
མཐོང་བ་འདི་ཡིས་ཁྱོད་ཀྱི་ལུགས། །
      thì pháp của Phật
           As contradictory or as unestablished,
ཇི་ལྟར་ཁོང་དུ་ཆུད་པར་ནུས༑
      làm sao có thể / thông đạt cho được?
           How can they comprehend your system?
༡༡ ་༽   ཁྱོད་ནི་ནམ་ཞིག་སྟོང་པ་ཉིད། །
      11. Với Phật, bao giờ
           For you, when one sees emptiness
རྟེན་འབྱུང་དོན་དུ་མཐོང་བ་ན། །
      chứng được tánh không / qua nghĩa duyên khởi
           In terms of the meaning of dependent origination,
རང་བཞིན་གྱིས་ནི་སྟོང་པ་དང་། །
      sẽ thấy tuy rằng / không có tự tánh
           Then being devoid of intrinsic existence and
བྱ་བྱེད་འཐད་པའང་མི་འགལ་ཞིང་། །
      vẫn tạo tác dụng, / không hề mâu thuẫn.
           Possessing valid functions do not contradict.

༡༢ ་༽   དེ་ལས་ལྡོག་པར་མཐོང་བ་ན། །
      12. Phật dạy nếu như / thấy điều ngược lại,
           Whereas when one sees the opposite,
སྟོང་ལ་བྱ་བ་མི་རུང་ཞིང་། །
      ở trong tánh không / không có tác dụng
           Since there can be no function in emptiness
བྱ་དང་བཅས་ལ་སྟོང་མེད་པས། །
      có tác dụng lại / không có tánh không,
           Nor emptiness in what has functions,
ཉམ་ངའི་གཡང་དུ་ལྟུང་བར་བཞེད། །
      sẽ phải rơi vào / vực sâu hung hiểm.
           One falls into a dreadful abyss, you maintain.

༡༣ ་༽   དེ་ཕྱིར་ཁྱོད་ཀྱི་བསྟན་པ་ལ། །
      13. Vì lý do này / giáo pháp Phật dạy
           Therefore in your teaching
རྟེན་འབྱུང་མཐོང་བ་ལེགས་པར་བསྔགས། །
      hết mực đề cao / chứng ngộ duyên khởi;
           Seeing dependent origination is hailed;
དེ་ཡང་ཀུན་ཏུ་མེད་པ་དང་། །
      không phải hoàn toàn / là không hiện hữu,
           That too not as an utter non-existence
རང་བཞིན་གྱིས་ནི་ཡོད་པས་མིན། །
      mà cũng không phải / là có tự tánh.
           Nor as an intrinsic existence.

༡༤ ་༽   ལྟོས་མེད་ནམ་མཁའི་མེ་ཏོག་བཞིན། །
      14. Sự tự-có như / hoa đốm giữa trời,
           The non-contingent is like a sky flower,
དེས་ན་མ་བརྟེན་ཡོད་མ་ཡིན། །
      vì vậy không gì / là không tùy thuộc.
           Hence there is nothing that is not dependent.
ངོ་བོས་གྲུབ་ན་དེ་འགྲུབ་པ། །
      Nếu sự vật nhờ / chính mình mà có
           If things exist through their essence, their dependence on
རྒྱུ་དང་རྐྱེན་ལ་ལྟོས་པ་འགལ། །
      thì không thể nào / tùy thuộc nhân duyên.
           Causes and conditions for their existence is a contradiction.

༡༥་༽   དེ་ཕྱིར་བརྟེན་ནས་འབྱུང་བ་ལས། །
      15. Nên Phật dạy rằng “vì không có gì
           “Therefore since no phenomena exist
མ་གཏོགས་ཆོས་འགའ་ཡོད་མིན་པས། །
      không từ duyên khởi
           Other than origination through dependence,
རང་བཞིན་གྱིས་ནི་སྟོང་པ་ལས། །
      nên trừ phi là / không có tự tánh,
           No phenomena exist other than
མ་གཏོགས་ཆོས་འགའ་མེད་པར་གསུངས། །
      bằng không chẳng có / pháp nào tồn tại.”
           Being devoid of intrinsic existence,” you taught.

༡༦ ་༽   རང་བཞིན་ལྡོག་པ་མེད་པའི་ཕྱིར། །
      16. Phật dạy: “Tự tánh / không hề biến chuyển,
           “Because intrinsic nature cannot be negated,
ཆོས་རྣམས་རང་བཞིན་འགའ་ཡོད་ན། །
      nên nếu các pháp / có chút tự tánh
           If phenomena possess some intrinsic nature,
མྱ་ངན་འདས་པ་མི་རུང་ཞིང་། །
      thì quả niết bàn / không thể nào có,
           Nirvana would become impossible
སྤྲོས་ཀུན་ལྡོག་པ་མེད་པར་གསུངས། །
      niệm khởi cũng không / cách nào tịch diệt
           And elaborations could not be ceased,” you taught.

༡༧ ་༽   དེ་ཕྱིར་རང་བཞིན་རྣམ་བྲལ་ཞེས། །
      17. Vì vậy nhiều lần / trước hàng trí giả
           Therefore who could challenge you?
སེང་གེའི་སྒྲ་ཡིས་ཡང་ཡང་དུ། །
      đức Phật nói bằng / tiếng sư tử hống,
           You who proclaim with lion’s roar
མཁས་པའི་ཚོགས་སུ་ལེགས་གསུངས་པ། །
      rằng “sự vật vốn / tách lìa tự tánh”
           In the assembly of learned ones repeatedly
འདི་ལ་སུ་ཡིས་འགོང་བར་ནུས། །
      Lời này đố ai / đủ sức phản biện.
           That everything is utterly free of intrinsic nature?

༡༨ ་༽   རང་བཞིན་འགའ་ཡང་མེད་པ་དང་། །
      18. Tự tánh mảy may / cũng không hề có,
           That there is no intrinsic existence at all
འདི་ལ་བརྟེན་ནས་འདི་འབྱུང་བའི། །
      mọi sự đều là / “tùy vào cái này
           And that all functions as “this arising
རྣམ་བཞག་ཐམས་ཅད་འཐད་པ་གཉིས། །
      mà cái kia sinh.” / Có cần phải nói
           In dependence on that,” what need is there to say
མི་འགལ་འདུ་བ་སྨོས་ཅི་དགོས། །
      rằng hai điều này / không hề mâu thuẫn?
           That these two converge without conflict?

༡༩ ་༽   བརྟེན་ནས་འབྱུང་བའི་རྒྱུ་མཚན་གྱིས། །
      19. Vì hiện khởi nên
           “It is through the reason of dependent origination
མཐར་ལྟ་བ་ལ་མི་བརྟེན་ཞེས། །
      không vướng biên kiến”
           That one does not lean towards an extreme;”
ལེགས་གསུངས་འདི་ནི་མགོན་ཁྱོད་ཀྱི། །
      Chính vì đức Phật / khéo thuyết như vậy
           That you’ve declared this excellently is the reason,
སྨྲ་བ་བླ་ན་མེད་པའི་རྒྱུ། །
      nên gọi Ngài là / luận sư vô song
           O Savior, of your being an unexcelled speaker.

༢༠ ་༽   འདི་ཀུན་ངོ་བོས་སྟོང་པ་དང་། །
      20. “Hết thảy mọi sự / chân tánh vốn không”;
           “All of this is devoid of essence,”
འདི་ལས་འདི་འབྲས་འབྱུང་བ་ཡི། །
      “từ điều này mà / quả kia sinh ra”:
           And “From this arises that effect” –
ངེས་པ་གཉིས་པོ་ཕན་ཚུན་དུ། །
      hai khẳng định này hỗ trợ lẫn nhau
           These two certainties complement
གེགས་མེད་པར་ནི་གྲོགས་བྱེད་པ། །
      không hề mâu thuẫn.
           Each other with no contradiction at all.

༢༡ ་༽   འདི་ལས་ངོ་མཚར་གྱུར་པ་དང་། །
      21. Nhiệm mầu nào hơn?
           What is more amazing than this?
འདི་ལས་རྨད་དུ་བྱུང་བ་གང་། །
      kỳ diệu nào hơn?
           What is more marvellous than this?
ཚུལ་འདིས་ཁྱོད་ལ་བསྟོད་ན་ནི། །
      Tán dương như vậy mới là tán dương,
           If one praises you in this manner,
བསྟོད་པར་འགྱུར་གྱི་གཞན་དུ་མིན། །
      bằng không chẳng xứng.
           This is real praise, otherwise not.

༢༢་༽   རྨོངས་པས་བྲན་དུ་བཟུང་བ་ཡིས། །
      22. Những ai vì bởi / mê muội khống chế
           Being enslaved by ignorance
གང་ཞིག་ཁྱོད་དང་ཞེ་འགྲས་པ། །
      bất thuận với Phật / thì trước âm thanh
           Those who fiercely oppose you,
དེ་ཡིས་རང་བཞིན་མེད་པའི་སྒྲ། །
      của không tự tánh / chẳng thể nào kham,
           What is so astonishing about their being
མི་བཟོད་གྱུར་ལ་མཚར་ཅི་ཡོད།
      việc này không lạ.
           Unable to bear the sound of no intrinsic existence?

༢༣་༽   ཁྱོད་ཀྱི་གསུང་གི་གཅེས་པའི་མཛོད། །
      23. Nhưng nếu tin nhận / kho tàng trân quí
           But having accepted dependent origination,
བརྟེན་ནས་འབྱུང་བར་ཁས་བླངས་ནས། །
      của lời Phật dạy / về thuyết duyên khởi,
           The precious treasure of your speech,
སྟོང་ཉིད་ང་རོ་མི་བཟོད་པ། །
      mà không kham nổi / tiếng gầm tánh không
           Then not tolerating the roar of emptiness –
འདི་ལ་ཁོ་བོ་ངོ་མཚར་གྱུར། །
      mới thật lạ kỳ.
           This I find amazing indeed!

༢༤་༽   རང་བཞིན་མེད་ལ་བཀྲི་བའི་སྒོ། །
      24-25. Lý duyên khởi là / cánh cửa vô thượng,
           The door that leads to no intrinsic existence,
བླ་མེད་རྟེན་ཅིང་འབྲེལ་འབྱུང་གི།
      lối ngỏ dẫn vào / sự không tự tánh.
           This unexcelled [door of] dependent origination,
མིང་ཉིད་ཀྱིས་ནི་རང་བཞིན་དུ། །
      Nếu kẻ phàm phu / dựa danh duyên khởi
           Through its name alone, if one grasps
འཛིན་ན་ད་ཀོ་སྐྱེ་བོ་འདི། །
      mà chấp tự tánh / thì phàm phu ấy
           At intrinsic existence, now this person

༢༥་༽   འཕགས་མཆོག་རྣམས་ཀྱིས་ལེགས་བགྲོད་པའི། །
      lạc mất lối ngỏ
           Who lacks the unrivalled entrance,
འཇུག་ངོགས་ཟླ་དང་བྲལ་གྱུར་པ།
      mà chư thánh giả đã từng khéo qua.
           Well travelled by the Noble Ones,
ཁྱོད་དགྱེས་གྱུར་པའི་ལམ་བཟང་དེར། །
      Đâu là phương tiện / đưa họ về lại
           By what means should one guide him
ཐབས་གང་གིས་ནི་བཀྲི་བར་བྱ། །
      với con đường lành / khiến cho Phật vui?
           To the excellent path that pleases you?

༢༦་༽   རང་བཞིན་བཅོས་མིན་ལྟོས་མེད་དང་། །
      26. “Tự tánh, không giả, và không tùy thuộc”
           Intrinsic nature, uncreated and non-contingent,
རྟེན་འབྲེལ་ལྟོས་དང་བཅོས་མ་གཉིས། །
      cùng với “duyên sinh, tùy thuộc, giả hợp”,
           Dependent origination, contingent and created –
ཇི་ལྟ་བུར་ན་གཞི་གཅིག་ལ། །
      Làm sao có thể / qui về một chỗ
           How can these two converge
མི་འགལ་འདུ་བ་ཉིད་དུ་འགྱུར། །
      mà không mâu thuẫn?
           Upon a single basis without contradiction?

༢༧་༽   དེ་ཕྱིར་བརྟེན་ནས་འབྱུང་བ་གང་། །
      27. Vì thế điều gì / từ duyên sinh ra,
           Therefore whatever originates dependently,
རང་བཞིན་གྱིས་ནི་གདོད་མ་ནས། །
      mặc dù bản lai / vốn lìa tự tánh,
           Though primordially free of intrinsic existence,
རྣམ་པར་དབེན་ཡང་དེར་སྣང་བས། །
      nhưng mà tướng hiện / lại giống như có,
           Appears as if it does [possess intrinsic existence];
འདི་ཀུན་སྒྱུ་མ་བཞིན་དུ་གསུངས།
      nên Phật nói rằng / mọi sự hư huyễn.
           So you taught all this to be illusion-like.

༢༨་༽   ཁྱོད་ཀྱིས་ཇི་ལྟར་བསྟན་པ་ལ། །
      28. Vì lý do này / nên con hiểu được
           Through this very fact I understand well
རྒོལ་བ་འགས་ཀྱང་ཆོས་མཐུན་དུ། །
      dù ai chống đối / nơi lời Phật dạy
           The statement that, to what you have taught,
གླགས་མི་རྙེད་པར་གསུངས་པ་ཡང་། །
      vẫn không làm sao / xét đúng luận lý
           Those opponents who challenge you
འདི་ཉིད་ཀྱིས་ནི་ལེགས་པར་འཁུམས། །
      mà tìm ra được / chút sơ hở nào.
           Cannot find faults that accord with reason.

༢༩་༽   ཅི་སླད་ཅེ་ན་འདི་བཤད་པས། །
      29. Tại sao như vậy? Vì lời giảng này
           Why is this so? Because by declaring these
མཐོང་དང་མ་མཐོང་དངོས་པོ་ལ། །
      khiến cho sự vật / –dù là thấy được / hay không thể thấy–
           Chances for reification and denigration
སྒྲོ་འདོགས་པ་དང་སྐུར་འདེབས་ཀྱི། །
      khả năng khẳng định / hay là phủ định
           Towards things seen and unseen
གོ་སྐབས་རིང་དུ་མཛད་ཕྱིར་རོ༑
      đều lìa rất xa.
           Are made most remote.

༣༠་༽   ཁྱོད་ཀྱི་སྨྲ་བ་ཟླ་མེད་པར། །
      30. Chính nhờ con đường / duyên khởi này đây,
           Through this very path of dependent origination,
མཐོང་བའི་རྒྱུ་མཚན་རྟེན་འབྱུང་གི།
      thấy được lời Phật / thật không đâu sánh.
           The rationale for your speech being peerless,
ལམ་འདི་ཉིད་ཀྱིས་གསུང་གཞན་ཡང་། །
      Vì lẽ này mà / khởi niềm xác quyết
           Convictions arise in me [also]
ཚད་མར་གྱུར་པར་ངེས་པ་སྐྱེ། །
      Pháp nào của Phật / cũng đều đúng cả.
           That your other words are valid too.

༣༡་༽   དོན་བཞིན་གཟིགས་ནས་ལེགས་གསུངས་པ།
      31. Phật chứng như nghĩa / rồi khéo nói ra,
           You who speak excellently by seeing as it is,
ཁྱོད་ཀྱི་རྗེས་སུ་སློབ་པ་ལ། །
      những ai dụng công / theo gót chân Ngài,
           For those who train in your footsteps,
རྒུད་པ་ཐམས་ཅད་རིང་དུ་གྱུར། །
      bao nhiêu suy thoái / hết thảy đều xa,
           All degenerations will become remote;
ཉེས་ཀུན་རྩ་བ་ལྡོག་ཕྱིར་རོ།
      bao gốc lỗi lầm / đều hồi đầu cả.
           For the root of all faults will be undone.

༣༢་༽   ཁྱོད་ཀྱི་བསྟན་ལས་ཕྱིར་ཕྱོགས་པས། །
      32. Còn người quay lưng / với lời Phật dạy
           But those who turn away from your teaching,
ཡུན་རིང་ངལ་བ་བསྟེན་བྱས་ཀྱང་། །
      thì dù lao lực / trong thời gian dài
           Though they may struggle with hardship for a long time,
ཕྱི་ཕྱིར་སྐྱོན་རྣམས་བོས་པ་བཞིན། །
      lỗi vẫn tăng thêm / –như thể gọi mời–
           Faults increase ever more as if being called forth;
བདག་ཏུ་ལྟ་བ་བརྟན་ཕྱིར་རོ། །
      là vì nương vào / tri kiến chấp ngã.
           For they make firm the view of self.

༣༣་༽   ཨེ་མའོ་མཁས་པས་འདི་གཉིས་ཀྱི།
      33. Tuyệt vời lắm thay! Khi người có trí
           Aha! When the wise comprehend
ཁྱད་པར་ཁོང་དུ་ཆུད་གྱུར་པ། །
      hiểu sự khác biệt / giữa hai điều này,
           The differences between these two,
དེ་ཚེ་རྐང་གི་ཁོང་ནས་ནི།
      khi ấy đáy lòng / không thể nào không
           Why would they not at that point
ཁྱོད་ལ་ཅི་ཕྱིར་གུས་མི་འགྱུར།
      sâu xa kính Phật.
           Revere you from the depths of their being?

༣༤་༽   ཁྱོད་གསུང་དུ་མ་ཅི་ཞིག་སྨོས། །
      34. Hãy khoan nói đến / vô lượng giáo pháp,
           Let alone your numerous teachings,
ཆ་ཤས་རེ་ཡི་དོན་ཙམ་ལའང་། །
      chỉ cần ý nghĩa một nhánh nhỏ thôi
           Even in the meaning of a small part,
འོལ་སྤྱི་ཙམ་གྱི་ངེས་རྙེད་པ། །
      dù chỉ đại khái có được lòng tin
           Those who find ascertainment in a cursory way,
དེ་ལའང་མཆོག་གི་བདེ་བ་སྟེར། །
      cũng vẫn đạt được niềm vui thù thắng.
           This brings supreme bliss to them as well.

༣༥་༽   ཀྱི་ཧུད་བདག་བློ་རྨོངས་པས་བཅོམ། །
      35. Than ôi! con vì / tâm trí mê muội,
           Alas! My mind was defeated by ignorance;
འདི་འདྲའི་ཡོན་ཏན་ཕུང་པོ་ལ༑
      khối thiện đức ấy / qui y đã lâu,
           Though I’ve sought refuge for a long time,
།རིང་ནས་སྐྱབས་སུ་སོང་གྱུར་ཀྱང་། །
      thế nhưng cho dù / chỉ một mẩu nhỏ
           In such an embodiment of excellence,
ཡོན་ཏན་ཆ་ཙམ་མ་འཚལ་ཏོ། །
      cũng chưa hề có.
           I possess not a fraction of his qualities.

༣༦་༽   འོན་ཀྱང་འཆི་བདག་ཁར་ཕྱོགས་པའི། །
      36. Tuy vậy, trước khi / sinh mạng một dòng
           Nonetheless, before the stream of this life
སྲོག་གི་རྒྱུན་ནི་མ་ནུབ་པར།
      chảy cạn hết vào / miệng của Thần chết,
           Flowing towards death has come to cease
ཁྱོད་ལ་ཅུང་ཟད་ཡིད་ཆེས་པ། །
      tín tâm nơi Phật / con được chút ít,
           That I have found slight faith in you –
འདི་ཡང་སྐལ་བ་བཟང་སྙམ་བགྱིད། །
      thiết nghĩ đó cũng là điều đại hạnh.
           Even this I think is fortunate.

༣༧་༽   ༈སྟོན་པའི་ནང་ན་རྟེན་འབྲེལ་སྟོན་པ་དང་། །
      37. Bậc thuyết duyên khởi / trong khắp giảng sư;
           Among teachers, the teacher of dependent origination,
ཤེས་རབ་ནང་ན་རྟེན་འབྲེལ་ཤེས་པ་གཉིས། །
      Trí chứng duyên khởi / trong khắp các trí;
           Amongst wisdoms, the knowledge of dependent origination –
འཇིག་རྟེན་དག་ན་རྒྱལ་བའི་དབང་པོ་བཞིན། །
      Chỉ có Phật như / đế vương tôn thắng / trong cõi thế gian
           You, who’re most excellent like the kings in the worlds,
ཕུལ་བྱུང་ལེགས་པར་ཁྱོད་མཁྱེན་གཞན་གྱིས་མིན།
      mới khéo biết được, / người khác chẳng thể.
           Know this perfectly well, not others.

༣༨་༽   ཁྱེད་ཀྱིས་ཇི་སྙེད་བཀའ་སྩལ་པ། །
      38. Bất kể là Phật / dạy cho pháp gì,
           All that you have taught
རྟེན་འབྲེལ་ཉིད་ལས་བརྩམས་ཏེ་འཇུག།
      đều phát xuất từ / giáo lý duyên sinh
           Proceeds by way of dependent origination;
དེ་ཡང་མྱ་ངན་འདའ་ཕྱིར་ཏེ། །
      và đều hướng đến / mục tiêu niết bàn.
           That too is done for the sake of nirvana;
ཞི་འགྱུར་མིན་མཛད་ཁྱོད་ལ་མེད། །
      Phật không hạnh nào / không khiến tịnh an.
           You have no deeds that do not bring peace.

༣༩་༽   ཀྱེ་མའོ་ཁྱོད་ཀྱི་བསྟན་པ་ནི། །
      39. Ôi! Giáo pháp Phật
           Alas! Your teaching is such,
གང་གི་རྣ་བའི་ལམ་སོང་བ༑
      rơi vào tai ai
           In whosoever’s ears it falls,
།དེ་དག་ཐམས་ཅད་ཞི་འགྱུར་ཕྱིར། །
      đều khiến bình an,
          They all attain peace; so who would not be
ཁྱོད་བསྟན་འཛིན་པར་སུ་མི་གུས། །
      hỏi ai lại chẳng / thiết tha giữ gìn.
           Honoured to uphold your teaching?

༤༠་༽   ཕས་རྒོལ་མཐའ་དག་འཇོམས་པ་དང་། །
      40. Pháp này tận diệt / hết thảy đối địch;
           It overcomes all opposing challenges;
ལྟག་འོག་འགལ་འདུས་སྟོང་པ་དང་། །
      làm tan biến hết / mâu thuẫn trước sau;
           It’s free from contradictions between earlier and latter parts;
སྐྱེ་རྒུའི་དོན་གཉིས་སྟེར་བྱེད་པ། །
      giúp cho toàn thành / cả hai lợi ích;
           It grants fulfilment of beings’ two aims –
ལུགས་འདིར་ཁོ་བོ་སྤྲོ་བ་འཕེལ། །
      nhờ diệu pháp này / hoan hỉ càng tăng.
           For this system my joy increases ever more.

༤༡་༽   འདི་ཡི་ཕྱིར་དུ་ཁྱོད་ཀྱིས་ནི། །
      41. Chính vì vậy mà
           For its sake you have given away,
ལ་ལར་སྐུ་དང་གཞན་དུ་སྲོག།
      Phật vô số kiếp / cho rồi lại cho:
           Again and again over countless eons,
སྡུག་པའི་གཉེན་དང་ལོངས་སྤྱོད་ཚོགས། །
      khi thì cho thân / lúc lại cho mạng,
           Sometimes your body, at others your life,
གྲངས་མེད་བསྐལ་པར་ཡང་ཡང་བཏང་། །
      cho cả thân nhân, / thọ dụng tài sản.
           As well as your loving kin and resources of wealth.

༤༢་༽   གང་གི་ཡོན་ཏན་མཐོང་བ་ཡིས། །
      42. Thấy được thiện đức / của giáo pháp này,
           Seeing the qualities of this teaching
ལྕགས་ཀྱུས་ཉ་ལ་ཇི་བཞིན་དུ། །
      con thật như là / con cá mắc câu,
           Pulls [hard] from your heart,
ཉིད་ཀྱིས་ཐུགས་དྲངས་ཆོས་དེ་ནི།
      từ nơi tim Phật / bị cuốn phăng vào.
           Just like what a hook does to a fish;
ཁྱོད་ལས་མ་ཐོས་སྐལ་བ་ཞན། །
      Chẳng thể chính tai / nghe lời Phật dạy / thật là bất hạnh.
           Sad it is not to have heard it from you.

༤༣་༽   དེ་ཡི་མྱ་ངན་ཤུགས་ཀྱིས་ནི། །
      43. Nỗi thương tâm này / ray rức mãnh liệt,
           The intensity of that sorrow
སྡུག་པའི་བུ་ལ་མ་ཡི་ཡིད། །
      níu mãi không buông / tâm trí của con.
           Does not let go of my mind,
རྗེས་སུ་སོང་བ་ཇི་བཞིན་དུ། །
      Cũng tựa như là / trái tim người mẹ
           Just like the mind of a mother
བདག་གི་ཡིད་ནི་གཏོང་མི་བྱེད། །
      giữ mãi không rời / đứa con thân yêu.
           [Constantly] goes after her dear child.

༤༤་༽   འདི་ལའང་ཁྱོད་གསུང་བསམ་པ་ན། །
      44. Mỗi khi con nhớ / đến lời Phật dạy,
           Here too, as I reflect on your words, I think,
མཚན་དཔེའི་དཔལ་གྱིས་རབ་ཏུ་འབར། །
      là ý nghĩ này / lại hiện trong con.
           “Blazing with the glory of noble marks
འོད་ཀྱི་དྲ་བས་ཡོངས་བསྐོར་བའི། །
      “Bổn sư đứng giữa / vùng hào quang sáng,
           And hallowed in a net of light rays,
སྟོན་པ་དེ་ཡི་ཚངས་དབྱངས་ཀྱིས། །
      tướng hảo chánh phụ / rực rỡ rạng ngời,
           This teacher, in a voice of pristine melody,

༤༥་༽   འདི་ནི་འདི་ལྟར་གསུངས་སྙམ་དུ། །
      45. đã dùng Phạm Âm / mà thuyết như vậy.”
           Spoke thus in such a way.”
ཡིད་ལ་ཐུབ་པའི་གཟུགས་བརྙན་ནི། །
      Ảnh Phật khi ấy / hiện ra trong con,
           The instant such a reflection of the Sage’s form
ཤར་བ་ཙམ་ཡང་ཚ་བ་ཡིས། །
      xoa dịu trái tim / rát bỏng mòn mỏi,
           Appears in my mind it soothes me,
གདུང་ལ་ཟླ་ཟེར་བཞིན་དུ་སྨན། །
      như trăng thanh mát / dịu cõi nóng khô.
           Just as the moon-rays heal fever’s pains.

༤༦་༽   དེ་ལྟར་རྨད་དུ་བྱུང་བ་ཡི། །
      46. Đối với giáo pháp / kỳ diệu này đây,
           This excellent system, most marvellous,
ལུགས་བཟང་དེ་ཡང་མི་མཁས་པའི། །
      phàm phu kém trí
           Some individuals who are not so learned
སྐྱེ་བོས་བལ་པ་ཛ་བཞིན་དུ། །
      thấy rối mịt mờ
           Have entangled it in utter confusion,
རྣམ་པ་ཀུན་ཏུ་འཛིངས་པར་བྱས༑
      như là cỏ bện.
           Just like the tangled balbaza grass.

༤༧་༽   །ཚུལ་འདི་མཐོང་ནས་བདག་གིས་ནི། །
      47. Nhìn thấy cảnh này / con đã lắm lần
           Seeing this situation, I strove
འབད་པ་དུ་མས་མཁས་པ་ཡི༑
      theo bậc trí giả
           With a multitude of efforts
།རྗེས་སུ་འབྲངས་ནས་ཁྱོད་ཀྱི་ནི། །
      cố gắng nỗ lực
           To follow after the learned ones
དགོངས་པ་ཡང་དང་ཡང་དུ་བཙལ། །
      tìm rồi lại tìm / ý thật của Phật.
           And sought your intention again and again.

༤༨་༽   དེ་ཚེ་རང་གཞན་སྡེ་པ་ཡི། །
      48. Khi ấy con học
           At such times as I studied the numerous works
གཞུང་མང་དག་ལ་སྦྱངས་པ་ན། །
      rất nhiều kinh luận / tông môn trong ngoài,
           Of both our own [Middle Way] and other schools,
ཕྱི་ཕྱིར་ཐེ་ཚོམ་དྲ་བ་ཡིས། །
      tâm triền miên khổ
           My mind became tormented ever more
བདག་གི་ཡིད་ནི་ཀུན་ཏུ་གདུངས།
      vì lưới hoài nghi.
           Constantly by a network of doubts.

༤༩་༽   ཁྱོད་ཀྱི་བླ་མེད་ཐེག་པའི་ཚུལ། །
      49-51. Cỗ xe vô thượng / mà Phật để lại,
           The night-lily grove of Nagarjuna’s treatises –
ཡོད་དང་མེད་པའི་མཐའ་སྤངས་ཏེ། །
      hai đầu có-không / đều lìa bỏ hết,
           Nagarjuna whom you prophesized
ཇི་བཞིན་འགྲེལ་པར་ལུང་བསྟན་པ། །
      được đức Long-thọ – người Phật thọ ký – giảng đúng như thật.
           Would unravel your unexcelled vehicle as it is,
ཀླུ་སྒྲུབ་གཞུང་ལུགས་ཀུནྡའི་ཚལ། །
      Vườn hoa kun-da / của luận Long thọ
           Shunning extremes of existence and non-existence –

༥༠་༽   དྲི་མེད་མཁྱེན་པའི་དཀྱིལ་འཁོར་རྒྱས། །
      ngời ánh nguyệt quang / của luận Nguyệt Xứng
           Illuminated by the garland of white lights
གསུང་རབ་མཁའ་ལ་ཐོགས་མེད་རྒྱུ། །
      trắng sáng rạng soi / tỏ tường khắp cả,
           Of Candra’s well-uttered insights –
མཐར་འཛིན་སྙིང་གི་མུན་པ་སེལ། །
      trí tuệ vô cấu / một khối tròn đầy,
           Candra, whose stainless wisdom orb is full,
ལོག་སྨྲའི་རྒྱུ་སྐར་ཟིལ་གནོན་པ། །
      du hành vô ngại / giữa trời giáo thuyết,
           Who glides freely across scriptures’ space,

༥༡་༽   དཔལ་ལྡན་ཟླ་བའི་ལེགས་བཤད་ཀྱི། །
      xóa tan tăm tối / trái tim chấp thủ,
           Who dispels the darkness of extremist hearts
འོད་དཀར་འཕྲེང་བས་གསལ་བྱས་པ། །
      ngàn sao tà thuyết / đều phải lu mờ.
           And outshines the constellations of false speakers –
བླ་མའི་དྲིན་གྱིས་མཐོང་བའི་ཚེ། །
      Nhờ ơn đạo sư / thấy được điều này,
           When, through my teacher’s kindness, I saw this
བདག་གི་ཡིད་ཀྱིས་ངལ་གསོ་ཐོབ། །
      tâm con khi ấy / mới thật bình yên.
           My mind found a rest at last.

༥༢་༽   མཛད་པ་ཀུན་ལས་གསུང་གི་ནི། །
      52. Trong mọi thiện hạnh / mà Phật đã làm / thuyết pháp là nhất.
           Of all your deeds, your speech is supreme;
མཛད་པ་མཆོག་ཡིན་དེ་ཡང་ནི། །
      Pháp thuyết cũng vậy / là pháp này đây.
           Within that too it is this very speech;
དེ་ཉིད་ཡིན་ཕྱིར་མཁས་པ་ཡིས། །
      Vì vậy kẻ trí / nên từ chỗ này
           So the wise should remember the Buddha
འདི་ལས་སངས་རྒྱས་རྗེས་དྲན་བྱོས། །
      mà nhớ đến Phật.
           Through this [teaching of dependent origination].

༥༣་༽   སྟོན་དེའི་རྗེས་སུ་རབ་ཏུ་བྱུང་གྱུར་ཏེ། །
      53. Theo gót đấng bổn sư / tôi xuất gia thanh tịnh
           Following such a teacher and having become a renunciate,
རྒྱལ་བའི་གསུང་ལ་སྦྱངས་པ་མི་དམན་ཞིང་། །
      tu học lời Phật dạy / không để cho kém cỏi
           Having studied the Conqueror’s words not too poorly,
རྣལ་འབྱོར་སྤྱོད་ལ་བརྩོན་པའི་དགེ་སློང་ཞིག།
      Tỷ kheo này cố gắng / tu tập hạnh du già
           This monk who strives in the yogic practices,
དྲང་སྲོང་ཆེན་པོ་དེ་ལ་དེ་ལྟར་གུས། །
      để tỏ lòng tôn kính / bậc Đại Chân Thật giả
           Such is [the depth of] his reverence to the great Seer!

༥༤་༽   སྟོན་པ་བླ་ན་མེད་པའི་བསྟན་པ་དང་། །
      54. Gặp được giáo pháp này / của bậc Thầy vô thượng
           Since it is due to my teacher’s kindness
མཇལ་བ་འདི་འདྲ་བླ་མའི་དྲིན་ཡིན་པས། །
      hết thảy đều nhờ vào / lòng từ của Ân sư
           I have met with the teaching of the unexcelled teacher,
དགེ་བ་འདི་ཡང་འགྲོ་བ་མ་ལུས་པ། །
      Vậy công đức ở đây / tôi nguyện xin hồi hướng
           I dedicate this virtue too towards the cause
བཤེས་གཉེན་དམ་པས་འཛིན་པའི་རྒྱུ་རུ་བསྔོ། །
      cho chúng sinh luôn được / bậc chân sư giữ gìn.
           For all beings to be sustained by sublime spiritual mentors.

༥༥་༽   ཕན་མཛད་དེ་ཡི་བསྟན་པའང་སྲིད་པའི་མཐར། །
      55. Pháp của đấng Lợi Sinh / nguyện cùng tận sinh tử
           May the teaching of this Beneficent One till world’s end
ངན་རྟོག་རླུང་གིས་རྣམ་པར་མི་གཡོ་ཞིང་། །
      không bao giờ khuynh động / bởi ngọn gió tà niệm
           Be unshaken by the winds of evil thoughts;
བསྟན་པའི་ངང་ཚུལ་ཤེས་ནས་སྟོན་པ་ལ། །
      nguyện luôn đầy ắp người / chứng cảnh giới lời Phật
           May it always be filled with those who find conviction
ཡིད་ཆེས་རྙེད་པས་ རྟག་ཏུ་གང་བར་ཤོག།
      nhờ đó tâm xác quyết / tin tưởng đấng đạo sư
           In the teacher by understanding the teaching’s true nature.

༥༦་༽   བརྟེན་ནས་འབྱུང་བའི་དེ་ཉིད་གསལ་མཛད་པ། །
      56. Nguyện trì pháp Mâu ni
           May I never falter even for an instant
ཐུབ་པའི་ལུགས་བཟང་སྐྱེ་བ་ཐམས་ཅད་དུ། །
      sáng soi lý duyên khởi
           To uphold the excellent way of the Sage,
ལུས་དང་སྲོག་ཀྱང་བཏང་ནས་འཛིན་པ་ལ། །
      mọi đời kiếp về sau / xả bỏ cả thân mạng
           Which illuminates the principle of dependent origination,
སྐད་ཅིག་ཙམ་ཡང་ལྷོད་པར་མ་གྱུར་ཅིག།
      không bao giờ xao lãng / dù chỉ thoáng chốc thôi
           Through all my births even giving away my body and life.
 

༥༧་༽   འདྲེན་པ་མཆོག་དེས་དཀའ་བ་དཔག་མེད་ཀྱིས། །
      57. “Bậc dẫn đường tối thượng / bỏ công khó vô lượng
           May I spend day and night carefully reflecting,
ནན་ཏན་སྙིང་པོར་མཛད་ནས་བསྒྲུབས་པ་འདི། །
      mới đạt được pháp này
           “By what means can I enhance
ཐབས་གང་ཞིག་གིས་འཕེལ་བར་འགྱུར་སྙམ་པའི། །
      nay dùng cách nào đây / để hoằng dương chánh pháp?”
           This teaching achieved by the supreme savior
རྣམ་པར་དཔྱོད་པས་ཉིན་མཚན་འདའ་བར་ཤོག།
      nguyện tôi ngày lẫn đêm / luôn quán xét điều này
           Through strenuous efforts over countless eons?”

༥༨་༽   ལྷག་བསམ་དག་པས་ཚུལ་དེར་བརྩོན་པ་ན། །
      58. Khi nỗ lực như vậy / với đại nguyện trong sáng
           As I strive in this with pure intention,
ཚངས་དང་དབང་པོ་འཇིག་རྟེན་སྐྱོང་བ་དང་། །
      Nguyện Phạm Thiên, Đế Thích, / cùng chư vị hộ thế
           May Brahma, Indra and the world’s guardians
ལེགས་ལྡན་ནག་པོ་ལ་སོགས་སྲུང་མས་ཀྱང་། །
      và hộ pháp như là / đức Mahakala
           And protectors such as Mahakala
གཡེལ་བ་མེད་པར་རྟག་ཏུ་གྲོགས་བྱེད་ཤོག།
      luôn nâng đỡ cho tôi / không bao giờ lơi nghỉ
           Unswervingly, always assist me.

ཅེས་བསྟོད་པ་ལེགས་བཤད་སྙིང་པོ་ཞེས་བྱ་བ་འདི་ནི་མང་དུ་ཐོས་པའི་དགེ་སློང་བློ་བཟང་གྲགས་པའི་དཔལ་གྱིས་སྦྱར་བའོ
Bài pháp tên “Tinh Túy Trí Khéo Thuyết” này do bậc Tỷ kheo Đa văn Losang Dragpa trước tác.
Hồng Như Thupten Munsel chuyển Việt ngữ từ Tạng ngữ (Kopan Monastery Prayer Book), tham khảo với các bản dịch Anh ngữ của Thupten Jinpa Kilty Galvin,  12 tháng 5 năm 2019
This hymn entitled “Essence of Well-Uttered Insights,” praising the unexcelled Teacher – the great friend to the entire world [even] to the unfamiliar – for teaching the profound dependent origination, was composed by the well-read monk Lobsang Drakpai Pal. It was written at the heavenly retreat of Lhading on the towerng mountain of Odé Gungyal, otherwise known as [Ganden] Nampar Gyalwai Ling. The scriber was Namkha Pal.Translated from the Tibetan by Geshe Thupten Jinpa. © Geshe Thupten Jinpa.

Việt (Vietnamese)| Tạng (Tibetan) | Tạng-Việt-Anh (Tibetan-Vietnamese-English)




Thogme Zangpo: 37 PHÁP HÀNH BỒ TÁT

-Tựa đề tiếng Tạng (Tibetan Title): ༄༅། །རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་སོ་བདུན་མ་བཞུགས་སོ། །
-Tác Giả (author): Gyalse Thogme Zangpo
-Việt dịch (Vietnamese translation): Cư sĩ Hồng Như Thupten Munsel – 02/2019, hiệu đính 08/2019

1.  CÔNG ĐỨC PHẦN THƯỢNG—KHAI KỆ

1a. Nói tựa đề

Dưới đây là Ba Mươi Bảy Pháp Hành Bồ Tát

1b. Tán Dương

1b1. Nói ngắn gọn

Nam mô Đức Quan Tự Tại Lokesvaraye

1b2. Nói chi tiết

Dù thấy vạn pháp / không đi không đến,
Cũng vẫn dốc sức / chỉ vì lợi sinh:
Thượng sư tôn quí, đức Quan Thế Âm, bậc đại hộ trì,
Đệ tử hằng mang / ba cửa kính lễ.

1c. Lý do tác luận

Chư Chánh Đẳng Giác, / cội nguồn phúc lạc,
Thành Phật là nhờ / chứng đắc diệu Pháp,
Chứng đắc là nhờ / biết được pháp hành:
Vì vậy cho nên / cần phải giảng về / pháp hành bồ tát.

2. CÔNG ĐỨC PHẦN TRUNG—CHÁNH VĂN

2a. Pháp tu sơ khởi (kệ 1-7)

2a1. Thân người ung dung sung mãn khó gặp (kệ 1)

1. Ung dung, sung mãn, / thuyền lớn khó tìm / nay đã có được.
Để độ ngã tha / thoát bể sinh tử
Nên ngày lẫn đêm / đều không xao lãng
Văn tư và tu — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2a2. Từ bỏ quê cha (kệ 2)

2. Thân thì luyến chấp / như là nước cuốn;
Thù thì sân hận / như lửa cháy bừng;
U mê quên hết / điều cần lấy, bỏ:
Quê cha đoạn lìa — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2a3. Trú nơi viễn li (kệ 3)

3. Nhờ lánh chỗ ác / nên phiền não cạn;
Tâm không tán loạn: / thiện hạnh tự  tăng;
Trí giữ sáng trong / tự tin nơi pháp:
Trú nơi viễn li — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2a4. Nhớ vô thường (kệ 4)

4. Người thân lâu năm, / lần lượt giã biệt;
Tiền kiếm vất vả, / bỏ lại phía sau;
Thân là nhà trọ, / tâm thức là khách / sẽ phải rời đi:
Đời này xả li — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2a5. Rời bạn xấu (kệ 5)

Có kẻ nếu gần / tam độc sẽ tăng,
Văn tư và tu / hết thảy đều giảm,
Tâm từ tâm bi / rồi sẽ mất sạch:
Rời xa ác hữu — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2a6. Nương thiện tri thức (kệ 6)

6. Lại có những người / nếu nương dựa vào / lầm lỗi sẽ dứt,
Thiện đức sẽ tăng / như trăng độ rằm:
Thiện tri thức ấy / hãy nên trân quí
Hơn cả thân mình — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2a7. Quy Y  (kệ 7)

7. Tự mình còn vướng / tù ngục luân hồi,
Chư thiên thế tục / độ được cho ai?
Nếu đã qui y, / hãy tìm về nương / chốn không hư ngụy:
Qui y Tam bảo — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b. Giải thích về đường tu ba loại căn cơ

2b1. Đường tu sơ căn phải tu như thế nào  (kệ 8)

8. Phật dạy khổ nạn / ác đạo khó kham
Đều là quả báo / của nghiệp bất thiện.
Vì thế cho nên / chẳng thà mất mạng
Việc ác không làm — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b2. Đường tu trung căn phải tu như thế nào (kệ 9)

9. Lạc thú ba cõi / như sương đầu cỏ,
Chỉ phút giây thôi / rồi tan biến hết.
Quả vị giải thoát / thắng diệu bất biến
Thường luôn tìm cầu — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3. Đường tu thượng căn phải tu như thế nào (kệ 10-24)

2b3a. Phát tâm bồ đề (kệ 10)

10. Đa sinh hiền mẫu / kể từ vô thủy / luôn rất yêu tôi.
Mẹ đều khổ cả, / con vui sao đành!
Vì để phổ độ / chúng sinh vô biên
Phát tâm bồ đề — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b. Huân tập và phát huy tâm bồ đề

2b3b1. Tâm bồ đề tục nghĩa (kệ 11-21)
2b3b1a. Nhập định quán hoán chuyển ngã tha (kệ 11)

11. Chịu khổ là vì / tôi muốn tôi vui;
Thành Phật là nhờ / tâm muốn lợi người.
Vậy thì vui tôi / đổi lấy khổ người,
Trọn vẹn hoán chuyển — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b1b. Xuất định quán chuyển nghịch cảnh thành đường tu (kệ 12-22)
2b3b1b1. Chuyển khổ nạn thành đường tu  (kệ 12-15)
2b3b1b1a. Tổn thất (kệ 12)

12. Dù ai vì tham / mà tài sản tôi
Họ tự tay cướp, / hoặc bảo người cướp,
Đối với người ấy / vẫn mang thân, của, / công đức ba thời,
Hồi hướng cho họ — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b1b1b. Khổ (kệ 13)

13. Tôi một chút lỗi / cũng không hề có,
Nhưng lại có người / chặt mất đầu tôi.
Ác nghiệp người ấy, / với tâm từ bi
Tôi sẽ gánh về — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b1b1c. Khẩu thiệt (kệ 14)

14. Dù có bị ai / mắng chửi  đủ điều,
Bêu rếu cùng khắp / tam thiên thế giới,
Đối với người ấy / lại càng từ hòa
Ngợi ca việc thiện — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b1b1d. Chỉ trích (kệ 15)

15. Dù có bị ai / ngay giữa đám đông
Bươi móc lỗi kín / thóa mạ nặng lời
Vẫn xem người ấy / là thiện tri thức
Thành tâm kính lễ — đó là pháp hành / của bậc bồ tát

2b3b1b2. Chuyển cảnh khó thành đường tu (kệ 16-17)
2b3b1b2a. Vô ơn (kệ 16)

16. Người tôi dưỡng nuôi / thương như con ruột
Lại đối với tôi / như với kẻ thù.
Tôi vẫn như mẹ / khi con lâm bệnh
Lại càng thương yêu — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b1b2b. Nhục mạ (kệ 17)

17. Dù người bằng tôi, / hay thấp hơn tôi,
Ngã mạn lăng nhục / làm khó đủ điều,
Vẫn kính người ấy / như kính Tôn sư
Đội ở trên đầu — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b1b3. Chuyển cảnh khốn cùng hay phú quí vào đường tu (kệ 18-19)
2b3b1b3a. Khốn cùng (kệ 18)

18. Dù nghèo xơ xác / bị đời khinh miệt,;
Dù vướng trọng bệnh, / ám chướng, tà ma,
Ác, khổ chúng sinh / vẫn xin nhận hết
Không chút nao lòng — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b1b3b. Phú quí (kệ 19)

19. Danh tiếng lừng vang, / đại chúng đê đầu,
Tài sản sánh tày / Đa Văn Thiên Vương,
Vẫn thấy sá gì / tiền tài thế lực,
Lòng không kiêu ngạo — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b1b4. Chuyển cảnh khiến sân và tham vào đường tu (kệs
20-21)
2b3b1b4a. Cảnh khiến nổi sân (kệ 20)

20. Sân hận của mình, / giặc này không dẹp
Thì giặc bên ngoài / càng quét càng tăng.
Vậy lấy từ bi / dùng làm chiến đội
Tự quét tâm mình — đó là pháp hành / của bậc bồ tát

2b3b1b4b. Cảnh khiến nổi tham (kệ 21)

21. Lạc thú giác quan / tựa như nước muối,
Càng uống bao nhiêu / càng khát bấy nhiêu.
Cứ hễ vật gì / khiến nổi tham chấp
Lập tức buông ra — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b2. Tâm Bồ Đề Chân Nghĩa (kệ 22-24)
2b3b2a. Cách Nhập Định Quán Tánh Không Như Không Gian (kệ 22)

22. Cảnh hiện hết thảy / đều là tâm ta.
Tâm này bản lai / siêu việt khái niệm.
Biết vậy nên khi / tiếp tướng đối đãi
Vẫn không tác ý — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b2b. Khi xuất thiền, làm sao ngừng thấy tham và sân là thật (kệ 23-24)
2b3b2b1. Ngừng thấy cảnh khiến nổi tham là có thật (kệ 23)

23. Khi gặp chốn nào / đẹp đẽ đáng yêu,
Thấy đó chỉ như / cầu vồng mùa hạ,
Rực rỡ hiện ra / nhưng không thật có:
Luyến chấp buông bỏ — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

2b3b2b2. Ngừng thấy cảnh khiến nổi sân là có thật (kệ 24)

24. Hết thảy khổ đau / đều giống trong mơ / thấy con mình chết,
Lấy vọng làm thật  / nên luôn đuối mệt,
Vì thế cho nên / khi gặp nghịch cảnh
Thấy đều là vọng — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3. CÔNG ĐỨC PHẦN HẠ — KẾT

3a. Dấn thân vào pháp hành bồ tát (kệ 25-37)

3a1. Sáu Ba La Mật (kệ 25-30)

3a1a. Hạnh Thí (kệ 25)

25. Muốn đạt bồ đề / đến thân còn cho
Huống chi ngoại vật. / Vì thế cho nên
Không mong hồi báo / không cầu thiện quả
Mà làm bố thí — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a1b. Hạnh Giới (kệ 26)

26. Giới đã không thì / tự lợi cũng không,
Lại muốn lợi tha / thật quá nực cười!
Vậy nên vắng mọi / ham muốn thế tục
Để mà giữ giới — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a1c. Hạnh Nhẫn (kệ 27)

27. Đối với bồ tát / hướng về thiện đức
thì kẻ nhiễu hại / chính là kho báu,
Nên với mọi người / lòng không thù hận,
Tu theo hạnh nhẫn — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a1d. Hạnh Tấn (kệ 28)

28.Thanh văn Duyên giác / cầu tự lợi thôi
Đã tinh tấn như / lửa cháy ngang mày
Vậy vì chúng sinh / khởi tâm chuyên cần / nơi gốc thiện đức,
Tu hạnh tinh tấn — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a1e. Hạnh Định (kệ 29)

29. Chỉ, nếu phối hợp / triệt để với Quán
Thì phiền não diệt. / Nhờ biết như vậy,
Siêu việt hết thảy / tứ vô sắc giới,
Tu chánh định này — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a1f. Hạnh Tuệ (kệ 30)

30. Tuệ mà không có / thì năm hạnh kia
Không đủ khả năng / thành tựu chánh giác.
Dùng Phương tiện và / tam vô phân biệt,
Để tu hạnh Tuệ — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a2. Bốn Điều Khế Kinh Dạy (kệ 31-34)

3a2a. Tự Xét Lỗi Mình Để Bỏ Đi  (kệ
31)

31. Mê vọng của mình / nếu không tự xét,
Sẽ nhìn giống tu / nhưng làm trái Pháp,
Vậy thì mê vọng / phải luôn tự mình
Xét để mà buông — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a2b. Ngưng Chỉ Trích Bồ Tát  (kệ 32)

32. Vì phiền não nên / bêu lỗi bồ tát
Thì bản thân mình / sẽ bị tổn hao.
Vậy thì những ai / đã vào đại thừa,
Mình đừng nói lỗi — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a2c. Chặt Tham Chấp nơi việc nhà của thí chủ (kệ 33)

33. Vì lợi vì danh / mà sanh tranh chấp,
Làm cho hao tổn / cả văn tư tu.
Nên việc người thân, / bằng hữu, thí chủ,
Buông mọi chấp bám — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a2d. Tự Chế Ngự Lời Thô Ác  (kệ 34)

34. Lời thô ác khiến / tâm người não loạn
Và làm hao tổn / tánh hạnh bồ tát
Vậy với người khác / đừng gây khó chịu,
Buông ác ngữ đi — đó là pháp hành / của bậc bồ tát

3a3. Cách Dẹp Phiền Não  (kệ 35)

35. Phiền não quen lâu / sẽ khó đối trị,
Vũ khí giao cho / chánh niệm chánh trị,
Phiền não như là / tham sân các thứ,
Chớm nhú chặt ngay — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a4. Luyện Chánh Niệm Tỉnh Giác  (kệ
36)

36. Tóm lại, bất cứ / ở đâu, làm gì,
Cũng phải tự hỏi / tâm mình ra sao.
Luôn đi cùng với / chánh niệm tỉnh giác
Để mà độ sinh — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3a5. Hồi Hướng Cồng Đức về cho Bồ Đề Viên Mãn (kệ 37)

37. Nỗ lực như vậy / được bao công đức,
Xin vì quét khổ / cho khắp chúng sinh
Mà dùng trí tuệ / siêu việt tam chấp,
Hồi hướng bồ đề  — đó là pháp hành / của bậc bồ tát.

3b. Kết

Từ nơi ý nghĩa / của Kinh, Mật, Luận
Dựa theo viên âm / của chư Giác giả,
Nay xin viết lại / thành ba mươi bảy / pháp hành bồ tát
Cho những ai muốn / tu bồ tát đạo.

Tôi vì trí thấp / hiểu biết không nhiều,
Thi kệ không làm / đẹp lòng bậc trí,
Thế nhưng nhờ nương / lời bậc Giác giả / cùng với khế kinh,
Pháp hành bồ tát / thiết nghĩ không lầm.

Tuy vậy, sóng cả / thiện hạnh bồ tát
Thâm sâu khó lường / cho kẻ trí mọn / như là tôi đây.
Lỡ đâu mâu thuẫn / hay thiếu mạch lạc / vướng lỗi đại loại,
Xin chư  Giác giả / nhẫn nại dùm cho.

Nhờ công đức này, / nguyện khắp chúng sinh
Với tâm bồ đề / chân nghĩa, tục nghĩa,
Không vướng hai đầu / sinh tử, niết bàn,
Trở thành y như / đức Quan Thế Âm.

Bài pháp này do tỷ kheo Thogme, giáo luận sư, viết tại động đá ở  Ngulchu Rinchen, vì lợi ích của mình và của người.

Ghi chú bản tiếng Việt: Cư sĩ Hồng Như Thubten Munsel chuyển Việt ngữ tháng 2 năm 2019, hiệu đính tháng 8 năm 2019.
Chánh văn dịch từ nguyên bản tiếng Tạng, tham khảo với nhiều bản tiếng Anh trong đó có bản dịch của Alex Berzin, Adam Pearcey, Michele Martin, Ruth Sonam ; đại cương dịch từ tiếng Anh theo văn bản của Kurukulla Centre trích từ Transforming Adversity into Joy and Courage, by Geshe Jampa Tegchok.

Tạng Ngữ

ན་མོ་ལོ་ཀེ་ཤྭ་ར་ཡེ།
 ། གང་གིས་ཆོས་ཀུན་འགྲོ་འོང་མེད་གཟིགས་ཀྱང་།
 ། འགྲོ་བའི་དོན་ལ་གཅིག་ཏུ་བརྩོན་མཛད་པའི།  ། བླ་མ་མཆོག་དང་སྤྱན་རས་གཟིགས་མགོན་ལ།  ། རྟག་ཏུ་སྒོ་གསུམ་གུས་པས་ཕྱག་འཚལ་ལོ།  ། ཕན་བདེའི་འབྱུང་གནས་རྫོགས་པའི་སངས་རྒྱས་རྣམས།  ། དམ་ཆོས་བསྒྲུབས་ལས་བྱུང་སྟེ་དེ་ཡང་ནི།  ། དེ་ཡི་ལག་ལེན་ཤེས་ལ་རག་ལས་པས།  ། རྒྱལ་སྲས་རྣམས་ཀྱི་ལག་ལེན་བཤད་པར་བྱ།  ། དལ་འབྱོར་གྲུ་ཆེན་རྙེད་དཀའ་ཐོབ་དུས་འདིར།  ། བདག་གཞན་འཁོར་བའི་མཚོ་ལས་བསྒྲལ་བྱའི་ཕྱིར།  ། ཉིན་དང་མཚན་དུ་གཡེལ་བ་མེད་པར་ནི།  ། ཉན་སེམས་སྒོམ་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། གཉེན་གྱི་ཕྱོགས་ལ་འདོད་ཆགས་ཆུ་ལྟར་གཡོ།  ། དགྲ་ཡི་ཕྱོགས་ལ་ཞེ་སྡང་མེ་ལྟར་འབར།  ། བླང་དོར་བརྗེད་པའི་གཏི་མུག་མུན་ནག་ཅན།  ། ཕ་ཡུལ་སྤོང་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཡུལ་ངན་སྤངས་པས་ཉོན་མོངས་རིམ་གྱིས་འགྲིབ།  ། རྣམ་གཡེང་མེད་པས་དགེ་སྦྱོར་ངང་གིས་འཕེལ།  ། རིག་པ་དྭངས་པས་ཆོས་ལ་ངེས་ཤེས་སྐྱེ།  ། དབེན་པ་བསྟེན་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཡུན་རིང་འགྲོགས་པའི་མཛའ་བཤེས་སོ་སོར་འབྲལ།
འབད་པས་བསྒྲུབས་པའི་ནོར་རྫས་ཤུལ་དུ་ལུས།  །
ལུས་ཀྱི་མགྲོན་ཁང་རྣམ་ཤེས་མགྲོན་པོས་འབོར།  ། ཚེ་འདི་བློས་བཏང་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། གང་དང་འགྲོགས་ན་དུག་གསུམ་འཕེལ་འགྱུར་ཞིང་།  ། ཐོས་བསམ་སྒོམ་པའི་བྱ་བ་ཉམས་འགྱུར་ལ།  ། བྱམས་དང་སྙིང་རྗེ་མེད་པར་སྒྱུར་བྱེད་པའི།  ། གྲོགས་ངན་སྤོང་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། གང་ཞིག་བསྟེན་ན་ཉེས་པ་ཟད་འགྱུར་ཞིང་།  ། ཡོན་ཏན་ཡར་ངོའི་ཟླ་ལྟར་འཕེལ་འགྱུར་བའི།  ། བཤེས་གཉེན་དམ་པ་རང་གི་ལུས་བས་ཀྱང་།  ། གཅེས་པར་འཛིན་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། རང་ཡང་འཁོར་བའི་བཙོན་རར་བཅིངས་པ་ཡི།  ། འཇིག་རྟེན་ལྷ་ཡིས་སུ་ཞིག་བསྐྱབ་པར་ནུས།  ། དེ་ཕྱིར་གང་ལ་སྐྱབས་ན་མི་བསླུ་བའི།  ། དཀོན་མཆོག་སྐྱབས་འགྲོ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཤིན་ཏུ་བཟོད་དཀའི་ངན་སོང་སྡུག་བསྔལ་རྣམས།  ། སྡིག་པའི་ལས་ཀྱི་འབྲས་བུར་ཐུབ་པས་གསུངས།
དེ་ཕྱིར་སྲོག་ལ་བབས་ཀྱང་སྡིག་པའི་ལས།  ། ནམ་ཡང་མི་བྱེད་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།
 །  །སྲིད་གསུམ་བདེ་བ་རྩྭ་རྩེའི་ཟིལ་པ་བཞིན།  ། ཡུད་ཙམ་ཞིག་གིས་འཇིག་པའི་ཆོས་ཅན་ཡིན།  ། ནམ་ཡང་མི་འགྱུར་ཐར་པའི་གོ་འཕང་མཆོག
།དོན་དུ་གཉེར་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཐོག་མེད་དུས་ནས་བདག་ལ་བརྩེ་བ་ཡི།
 ། མ་རྣམས་སྡུག་ན་རང་བདེས་ཅི་ཞིག་བྱ།  ། དེ་ཕྱིར་མཐའ་ཡས་སེམས་ཅན་བསྒྲལ་བྱའི་ཕྱིར།  ། བྱང་ཆུབ་སེམས་བསྐྱེད་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། སྡུག་བསྔལ་མ་ལུས་བདག་བདེ་འདོད་ལས་བྱུང་།  ། རྫོགས་པའི་བྱང་ཆུབ་གཞན་ཕན་སེམས་ལས་འཁྲུངས།  ། དེ་ཕྱིར་བདག་བདེ་གཞན་གྱི་སྡུག་བསྔལ་དག
།ཡང་དག་བརྗེ་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། སུ་དག་འདོད་ཆེན་དབང་གིས་བདག་གི་ནོར།
 ། ཐམས་ཅད་འཕྲོག་གམ་འཕྲོག་ཏུ་འཇུག་ན་ཡང་།  ། ལུས་དང་ལོངས་སྤྱོད་དུས་གསུམ་དགེ་བ་རྣམས།  ། དེ་ལ་བསྔོ་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། བདག་ལ་ཉེས་པ་ཅུང་ཟད་མེད་བཞིན་དུ།
གང་དག་བདག་གི་མགོ་བོ་གཅོད་བྱེད་ནའང་། སྙིང་རྗེའི་དབང་གིས་དེ་ཡི་སྡིག་པ་རྣམས།  ། བདག་ལ་ལེན་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། འགའ་ཞིག་བདག་ལ་མི་སྙན་སྣ་ཚོགས་པ།  ། སྟོང་གསུམ་ཁྱབ་པར་སྒྲོགས་པར་བྱེད་ན་ཡང་།  ། བྱམས་པའི་སེམས་ཀྱིས་སླར་ཡང་དེ་ཉིད་ཀྱི།  ། ཡོན་ཏན་བརྗོད་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། འགྲོ་མང་འདུས་པའི་དབུས་སུ་འགའ་ཞིག་གིས།  ། མཚང་ནས་བྲུས་ཤིང་ཚིག་ངན་སྨྲ་ན་ཡང་།  ། དེ་ལ་དགེ་བའི་བཤེས་ཀྱི་འདུ་ཤེས་ཀྱིས།  ། ཡོན་ཏན་བརྗོད་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། བདག་གིས་བུ་བཞིན་གཅེས་པར་བསྐྱངས་པའི་མིས།  ། བདག་ལ་དགྲ་བཞིན་ལྟ་བར་བྱེད་ན་ཡང་།  ། ནད་ཀྱི་བཏབ་པའི་བུ་ལ་མ་བཞིན་དུ།  ། ལྷག་པར་བརྩེ་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། རང་དང་མཉམ་པའམ་དམན་པའི་སྐྱེ་བོ་ཡིས།  ། ང་རྒྱལ་དབང་གིས་བརྙས་ཐབས་བྱས་ན་ཡང་།  ། བླ་མ་བཞིན་དུ་གུས་པས་བདག་ཉིད་ཀྱི།  ། སྤྱི་བོར་ལེན་པ་རྒྱལ་སྲས་ཡིན།  ། འཚོ་བས་ཕོངས་ཤིང་རྟག་ཏུ་མི་ཡིས་བརྙས།  ། ཚབས་ཆེན་ནད་དང་གདོན་གྱིས་བཏབ་ཀྱང་སླར་།  ། འགྲོ་ཀུན་སྡིག་སྡུག་བདག་ལ་ལེན་བྱེད་ཅིང་།  ། ཞུམ་པ་མེད་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། སྙན་པར་གྲགས་ཤིང་འགྲོ་མང་སྤྱི་བོས་བཏུད།  ། རྣམ་ཐོས་བུ་ཡི་ནོར་འདྲ་ཐོབ་གྱུར་ཀྱང་།  ། སྲིད་པའི་དཔལ་འབྱོར་སྙིང་པོ་མེད་གཟིགས་ནས།  ། ཁེངས་པ་མེད་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། རང་གི་ཞེ་སྡང་དགྲ་བོ་མ་ཐུལ་ན།  ། ཕྱི་རོལ་དགྲ་བོ་བཏུལ་ཞིང་འཕེལ་བར་འགྱུར་།  ། དེ་ཕྱིར་བྱམས་དང་སྙིང་རྗེའི་དམག་དཔུང་གིས།  ། རང་རྒྱུད་འདུལ་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། འདོད་པའི་ཡོན་ཏན་ལན་ཚྭའི་ཆུ་དང་འདྲ།  ། ཇི་ཙམ་སྤྱད་ཅིང་སྲེད་པ་འཕེལ་བར་འགྱུར།  ། གང་ལ་ཞེན་ཆགས་སྐྱེ་བའི་དངོས་པོ་རྣམས།  ། འཕྲལ་ལ་སྤོང་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཇི་ལྟར་སྣང་བ་འདི་དག་རང་གི་སེམས།  ། སེམས་ཉིད་གདོད་ནས་སྤྲོས་པའི་མཐའ་དང་བྲལ།  ། དེ་ཉིད་ཤེས་ནས་གཟུང་འཛིན་མཚན་མ་རྣམས།  ། ཡིད་ལ་མི་བྱེད་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཡིད་དུ་འོང་བའི་ཡུལ་དང་འཕྲད་པ་ན།  ། དབྱར་གྱི་དུས་ཀྱི་འཇའ་ཚོན་ཇི་བཞིན་དུ།  ། མཛེས་པར་སྣང་ཡང་བདེན་པར་མེད་ལྟ་ཞིང་།  ། ཞེན་ཆགས་སྤོང་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། སྡུག་བསྔལ་སྣ་ཚོགས་རྨི་ལམ་བུ་ཤི་ལྟར།  ། འཁྲུལ་སྣང་བདེན་པར་བཟུང་བས་ཨ་ཐང་ཆད།  ། དེ་ཕྱིར་མི་མཐུན་རྐྱེན་དང་འཕྲད་པའི་ཚེ།  ། འཁྲུལ་བར་ལྟ་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། བྱང་ཆུབ་འདོད་པས་ལུས་ཀྱང་གཏོང་དགོས་ན།  ། ཕྱི་རོལ་དངོས་པོ་རྣམས་ལ་སྨོས་ཅི་དགོས།  ། དེ་ཕྱིར་ལན་དང་རྣམ་སྨིན་མི་རེ་བའི།  ། སྦྱིན་པ་གཏོང་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཚུལ་ཁྲིམས་མེད་ན་རང་དོན་མི་འགྲུབ་ན།  ། གཞན་དོན་སྒྲུབ་པར་འདོད་པ་གད་མོའི་གནས།  ། དེ་ཕྱིར་སྲིད་པའི་འདུན་པ་མེད་པ་ཡི།  ། ཚུལ་ཁྲིམས་བསྲུང་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། དགེ་བའི་ལོངས་སྤྱོད་འདོད་པའི་རྒྱལ་སྲས་ལ།  ། གནོད་བྱེད་ཐམས་ཅད་རིན་ཆེན་གཏེར་དང་མཚུངས།  ། དེ་ཕྱིར་ཀུན་ལ་ཞེ་འགྲས་མེད་པ་ཡི།  ། བཟོད་པ་སྒོམ་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། རང་དོན་འབའ་ཞིག་སྒྲུབ་པའི་ཉན་རང་ཡང་།  ། མགོ་ལ་མེ་ཤོར་བཟློག་ལྟར་བརྩོན་མཐོང་ན།  ། འགྲོ་ཀུན་དོན་དུ་ཡོན་ཏན་འབྱུང་གནས་ཀྱི།  ། བརྩོན་འགྲུས་རྩོམ་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཞི་གནས་རབ་ཏུ་ལྡན་པའི་ལྷག་མཐོང་གིས།  ། ཉོན་མོངས་རྣམ་པར་འཇོམས་པར་ཤེས་བྱས་ནས།  ། གཟུགས་མེད་བཞི་ལས་ཡང་དག་འདས་པ་ཡི།  ། བསམ་གཏན་སྒོམ་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཤེས་རབ་མེད་ན་ཕ་རོལ་ཕྱིན་ལྔ་ཡིས།  ། རྫོགས་པའི་བྱང་ཆུབ་ཐོབ་པར་མི་ནུས་པས།  ། ཐབས་དང་ལྡན་ཞིང་འཁོར་གསུམ་མི་རྟོག་པའི།  ། ཤེས་རབ་སྒོམ་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། རང་གི་འཁྲུལ་བ་རང་གིས་མ་བརྟགས་ན།  ། ཆོས་པའི་གཟུགས་ཀྱིས་ཆོས་མིན་བྱེད་སྲིད་པས།  ། དེ་ཕྱིར་རྒྱུན་དུ་རང་གི་འཁྲུལ་བ་ལ།  ། བརྟགས་ནས་སྤོང་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཉོན་མོངས་དབང་གིས་རྒྱལ་སྲས་གཞན་དག་གི
།ཉེས་པ་གླེང་ན་བདག་ཉིད་ཉམས་འགྱུར་བས།  ། ཐེག་པ་ཆེ་ལ་ཞུགས་པའི་གང་ཟག་གི
།ཉེས་པ་མི་སྨྲ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། རྙེད་བཀུར་དབང་གིས་ཕན་ཚུན་རྩོད་འགྱུར་ཞིང་།
 ། ཐོས་བསམ་བསྒོམ་པའི་བྱ་བ་ཉམས་འགྱུར་བས།  ། མཛའ་བཤེས་ཁྱིམ་དང་སྦྱིན་བདག་ཁྱིམ་རྣམས་ལ།  ། ཆགས་པ་སྤོང་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། རྩུབ་མོའི་ཚིག་གིས་གཞན་སེམས་འཁྲུག་འགྱུར་ཞིང་།
 ། རྒྱལ་བའི་སྲས་ཀྱི་སྤྱོད་ཚུལ་ཉམས་འགྱུར་བས།
 ། དེ་ཕྱིར་གཞན་གྱི་ཡིད་དུ་མི་འོང་བའི།  ། ཚིག་རྩུབ་སྤོང་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  ། ཉོན་མོངས་གོམས་ན་གཉེན་པོས་བཟློག་དཀའ་བས།  ། དྲན་ཤེས་སྐྱེས་བུས་གཉེན་པོའི་མཚོན་བཟུང་ནས།  ། ཆགས་སོགས་ཉོན་མོངས་དང་པོ་སྐྱེས་མ་ཐག
།འབུར་འཇོམས་བྱེད་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  །
 །མདོར་ན་གང་དུ་སྤྱོད་ལམ་ཅི་བྱེད་ཀྱང་།  ། རང་གི་སེམས་ཀྱི་གནས་སྐབས་ཅི་འདྲ་ཞེས།  ། རྒྱུན་དུ་དྲན་དང་ཤེས་བཞིན་ལྡན་པ་ཡིས།  ། གཞན་དོན་སྒྲུབ་པ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ཡིན།  །  །དེ་ལྟར་བརྩོན་པས་བསྒྲུབས་པའི་དགེ་བ་རྣམས།  ། མཐའ་ཡས་འགྲོ་བའི་སྡུག་བསྔལ་བསལ་བྱའི་ཕྱིར་།  ། འཁོར་གསུམ་རྣམ་པར་དག་པའི་ཤེས་རབ་ཀྱིས།  ། བྱང་ཆུབ་བསྔོ་བ་རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་ ཡིན།  ། མདོ་རྒྱུད་བསྟན་བཅོས་རྣམས་ལས་གསུངས་པའི་དོན།  ། དམ་པ་རྣམས་ཀྱི་གསུང་གི་རྗེས་འབྲངས་ནས།  ། རྒྱལ་སྲས་རྣམས་ཀྱི་ལག་ལེན་སུམ་ཅུ་བདུན།  ། རྒྱལ་སྲས་ལམ་ལ་སློབ་འདོད་དོན་དུ་བཀོད།  ། བློ་གྲོས་དམན་ཞིང་སྦྱངས་པ་ཆུང་བའི་ཕྱིར།  ། མཁས་པ་དགྱེས་པའི་སྡེབ་སྦྱོར་མ་མཆིས་ཀྱང་།  ། མདོ་དང་དམ་པའི་གསུང་ལ་བརྟེན་པའི་ཕྱིར།  ། རྒྱལ་སྲས་ལག་ལེན་འཁྲུལ་མེད་ལེགས་པར་སེམས།  ། འོན་ཀྱང་རྒྱལ་སྲས་སྤྱོད་པ་རླབས་ཆེན་རྣམས།  ། བློ་དམན་བདག་འདྲས་གཏིང་དཔག་དཀའ་བའི་ཕྱིར།  ། འགལ་དང་མ་འབྲེལ་ལ་སོགས་ཉེས་པའི་ཚོགས།  ། དམ་པ་རྣམས་ཀྱིས་བཟོད་པར་མཛད་དུ་གསོལ།  ། དེ་ལས་བྱུང་བའི་དགེ་བས་འགྲོ་བ་ཀུན།  ། དོན་དམ་ཀུན་རྫོབ་བྱང་ཆུབ་སེམས་མཆོག་གིས།  ། སྲིད་དང་ཞི་བའི་མཐའ་ལ་མི་གནས་པའི།  ། སྤྱན་རས་གཟིགས་མགོན་དེ་དང་མཚུངས་པར་ཤོག
།ཅེས་པ་འདི་རང་གཞན་ལ་ཕན་པའི་དོན་དུ་ལུང་དང་རིགས་པ་སྨྲ་བའི་བཙུན་པ་ཐོགས་མེད་ཀྱིས་དངུལ་ཆུའི་རིན་ཆེན་ཕུག་ཏུ་སྦྱར་བའོ།།
 །




Lama Tsongkhapa: LỜI NGUYỆN CUỐI LAMRIM ĐẠI LUẬN

-Tựa Đề Tạng Ngữ (Tibetan Title): ࿓༅༎་ལམ་རིམ་སྨོན་ལམ་བཞུགས་སོ༎
-Tác giả (author): Lama Tsongkhapa (Lama Tông Khách Ba)
(sơ tổ dòng Gelug)
-Việt ngữ (translator): Hồng Như, bản mới 2018
Nghe Tụng (chanting): Lab Kyabgon Rinpoche <Youtube>
༡༽ དེར་ནི་རིང་དུ་འབད་ལས་ཚོགས་གཉིས་ནི ། །
DER NI RING DU BÄ LÄ TSHOG NYI NI
From my two collections, vast as space, that I have amassed
Bấy lâu gắng tu / được nhị lương này
མཁའ་ལྟར་ཡངས་པ་གང་ཞིག་བསགས་པ་དེས ། །
KHA TAR YANG PA GANG ZHIG SAG PA DE
From working with effort at this practice for a great length of time,
Rộng như trời rộng, / xin vì những ai
བློ་མིག་མ་རིག་གིས་ལྡོངས་འགྲོ་བ་ཀུན ། །
LO MIG MA RIG GI DONG DRO WA KÜN
May I become the chief leading buddha for all those
mắt tuệ khuất lấp / bởi màn vô minh
རྣམ་འདྲེན་རྒྱལ་བའི་དབང་པོར་བདག་གྱུར་ཅིག །
NAM DREN GYÄL WÄI WANG POR DAG GYUR CHIG
Whose mind’s wisdom eye is blinded by ignorance.
con nguyện thành Phật / thượng thủ dẫn đường

༢༽ དེར་མ་སོན་པའི་ཚེ་རབས་ཀུན་ཏུ་ཡང་། །
DER MA SÖN PÄI TSHE RAB KÜN TU YANG
Even if I do not reach this state, may I be held
Khi chưa được vậy / nguyện mọi kiếp sau
འཇམ་པའི་དབྱངས་ཀྱིས་བརྩེ་བས་རྗེས་བཟུང་ནས ། །
JAM PÄI YANG KYI TSE WÄ JE ZUNG NÄ
In your loving compassion for all lives, Manjushri,
Được đức Mạn thù / thương yêu gìn giữ,
བསྟན་པའི་རིམ་པ་ཀུན་ཚང་ལམ་གྱི་མཆོག །
TÄN PÄI RIM PA KÜN TSHANG LAM GYI CHOG
May I find the best of complete graded paths of the teachings,
Trọn vẹn thắng pháp / trình tự đạo giác,
རྙེད་ནས་སྒྲུབ་པས་རྒྱལ་རྣམས་མཉེས་བྱེད་ཤོག །
NYE NÄ DRUB PÄ GYÄL NAM NYE JE SHOG
And may I please all the buddhas by my practice.
Nguyện gặp và tu / khiến Phật đẹp lòng

༣༽ རང་གིས་ཇི་བཞིན་རྟོགས་པའི་ལམ་གྱི་གནད ། །
RANG GI JI ZHIN TOG PÄI LAM GYI NÄ
Using skillful means drawn by the strong force of compassion,
Chứng đúng như thật, cốt lõi đường tu
ཤུགས་དྲག་བརྩེ་བས་དྲངས་པའི་ཐབས་མཁས་ཀྱིས ། །
SHUG DRAG TSE WÄ DRANG WÄI THAB KHÄ KYI
May I clear the darkness from the minds of all beings
Lấy lực đại từ / làm thiện phương tiện
འགྲོ་བའི་ཡིད་ཀྱི་མུན་པ་བསལ་བྱས་ནས ། །
DRO WÄI YI KYI MÜN PA SÄL JÄ NÄ
With the points of the path as I have discerned them:
Quét sạch bóng tối / trong tâm hữu tình
རྒྱལ་བའི་བསྟན་པ་ཡུན་རིང་འཛིན་གྱུར་ཅིག །
GYÄL WÄI TÄN PA YÜN RING DZIN GYUR CHIG
May I uphold Buddha’s teachings for a very long time.
Giữ cho Pháp Phật / tồn tại dài lâu.

༤༽ བསྟན་པ་རིན་ཆེན་མཆོག་གིས་མ་ཁྱབ་པའམ།
TÄN PA RIN CHEN CHOG GI MA KHYAB PAM
With my heart going out with great compassion
Thắng Pháp quí giá / phương nào chưa thịnh,
ཁྱབ་ཀྱང་ཉམས་པར་གྱུར་པའི་ཕྱོགས་དེར་ནི ། །
KHYAB KYANG NYAM PAR GYUR WÄI CHOG DER NI
In whatever direction the most precious teachings
Hay là đã thịnh / nhưng rồi đã suy
སྙིང་རྗེ་ཆེན་པོས་ཡིད་རབ་བསྐྱོད་པ་ཡིས ། །
NYING JE CHEN PÖ YI RAB KYÖ PA YI
Have not yet spread, or once spread have declined,
Nguyện lấy đại bi / chấn động lòng người
ཕན་བདེའི་གཏེར་དེ་གསལ་བར་བྱེད་པར་ཤོག །
PHÄN DEI TER DE SÄL WAR JE PAR SHOG
May I reveal this treasure of happiness and aid.
Khai mở rạng ngời / kho tàng phúc lạc

༥༽སྲས་བཅས་རྒྱལ་བའི་རྨད་བྱུང་འཕྲིན་ལས་ལས༎
SÄ CHÄ GYÄL WÄI MÄ JUNG THRIN LÄ LÄ
May the minds of those who wish for liberation be granted bounteous peace
Nương hạnh nhiệm mầu / của Phật, Bồ tát
ལེགས་གྲུབ་བྱང་ཆུབ་ལམ་གྱི་རིམ་པས་ཀྱང་། །
LEG DRUB JANG CHUB LAM GYI RIM PÄ KYANG
And the buddhas’ deeds be nourished for a long time
Cùng với trình tự / đường tu giác ngộ
ཐར་འདོད་རྣམས་ཀྱི་ཡིད་ལ་དཔལ་སྟེར་ཞིང་། །
THAR DÖ NAM KYI YI LA PÄL TER ZHING
By even this graded path to enlightenment completed
Nguyện làm rực rỡ / tâm người cầu thoát,
རྒྱལ་བའི་མཛད་པ་རིང་དུ་སྐྱོང་གྱུར་ཅིག །
GYÄL WÄI DZÄ PA RING DU KYONG GYUR CHIG
Due to the wondrous virtuous conduct of the buddhas and their sons.
Huân dưỡng lâu dài / thiện hạnh Thế tôn.

༦༽ ལམ་བཟང་བསྒྲུབ་པའི་མཐུན་རྐྱེན་སྒྲུབ་བྱེད་ཅིང་༎
LAM ZANG DRUB PÄI THÜN KYEN DRUB JE CHING
May all human and non-human beings who eliminate adversity
Nguyện làm thuận duyên / cho pháp lành này
གལ་རྐྱེན་སེལ་བྱེད་མི་དང་མི་མིན་ཀུན ། །
GÄL KYEN SEL JE MI DANG MI MIN KÜN
And create conducive conditions for practicing the excellent paths
Nghịch duyên quét hết, / cho khắp mọi loài / nhân và phi nhân
ཚེ་རབས་ཀུན་ཏུ་རྒྱལ་བས་བསྔགས་པ་ཡི ། །
TSHE RAB KÜN TU GYÄL WÄ NGAG PA YI
Never be parted in any of their lives
Mọi đời kiếp sau / không bao giờ lìa
རྣམ་དག་ལམ་དང་འབྲལ་བར་མ་གྱུར་ཅིག །
NAM DAG LAM DANG DRÄL WAR MA GYUR CHIG
From the purest path praised by the buddhas.
Đường tu trong sáng / mà Phật tán dương.

༧༽གང་ཚེ་ཐེག་པ་མཆོག་ལ་ཆོས་སྤྱོད་བཅུའི༎
GANG TSHE THEG PA CHOG LA CHÖ CHÖ CHÜI
Whenever someone makes effort to act
Nguyện cho bao giờ / ở nơi thắng thừa
ཚུལ་བཞིན་བསྒྲུབ་ལ་བརྩོན་པ་དེ་ཡི་ཚེ ། །
TSHÜL ZHIN DRUB LA TSÖN PA DE YI TSHE
In accordance with the ten-fold Mahayana virtuous practices
Thuận theo thập thiện / hành trì tinh tấn,
མཐུ་ལྡན་རྣམས་ཀྱིས་རྟག་ཏུ་གྲོགས་བྱེད་ཅིང་། །
THU DÄN NAM KYI TAG TU DROG JE CHING
May he always be assisted by the mighty ones,
Sẽ luôn được chư / Đại lực nâng đỡ,
ཀྲ་ཤིས་རྒྱ་མཚོས་ཕྱོགས་ཀུན་ཁྱབ་གྱུར་ཅིག །
TRA SHI GYA TSÖ CHOG KÜN KHYAB GYUR CHIG
And may oceans of prosperity spread everywhere.
Biển rộng cát tường / tràn khắp mọi nơi.

ཅེས་པ་འདི་ནི་རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པས་མཛད་པའོ། །
Bài pháp này do đức Tsong Khapa trước tác




Atisa: CHUỖI NGỌC BỒ TÁT

-Tựa Đề Tạng Ngữ (Tibetan Title): བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའི་ནོར་བུའི་ཕྲེང་བ།
-Tác giả (author): Dipamkaraśrijñana (Je Atisa)
-Việt ngữ: Hồng Như, bản nháp 2019

Chuỗi Ngọc Bồ Tát

Tựa đề tiếng Phạn: Bodhisattvamanevali 
Tựa đề tiếng Tạng: changchub sempé norbü trengwa

Kính lễ Tâm Đại Bi
Kính lễ chư Thượng Sư
Kính lễ chư Tôn của tín tâm

1. Nghi hoặc vướng tâm, buông bỏ hết
Dốc tâm tận lực nơi pháp hành
Chìm, chậm và lười đều triệt bỏ
Phải luôn nỗ lực và tinh tấn

2.  Chánh niệm, tỉnh giác, bất phóng dật
Luôn dùng để giữ cửa giác quan
Ban ngày ba buổi, đêm ba buổi
Luôn xét tới lui dòng tâm thức

3. Lỗi ở nơi mình phải nói lớn
Còn lỗi người khác chớ tìm tòi
Công đức của mình nên giữ kín
Công đức của người phải nói ra

4. Phú quí, vinh quang, đều từ bỏ
Lợi danh mọi lúc đều phải buông
Phải biết thiểu dục và tri túc
Thọ ơn thì phải biết trả ơn

5. Tâm từ tâm bi, phải huân tập
Giữ tâm bồ đề thật vững chắc
Mười điều bất thiện, luôn từ bỏ
Tín tâm luôn giữ thật vững bền

6. Phẫn nộ ngã mạn đều phải diệt
Còn tâm khiêm hạ giữ bên mình
Nghề nghiệp bất thiện phải từ bỏ
Sinh sống bằng nghề thuận chánh pháp

7. Tài vật hết thảy đều buông bỏ
Trang điểm bằng tài sản Thánh nhân [xem chi tiết đoạn 25-26]
Bao nhiêu náo nhiệt buông ra cả
Ở nơi lan nhã mà an trú

8. Chuyện phiếm tào lao buông bỏ hết
Phải luôn tự chủ lời nói ra
Khi gặp đạo sư, thầy truyền giới
Khởi tâm thành kính muốn hầu Thầy

9. Đối với những ai có mắt pháp
Hay với chúng sinh mới nhập môn
Phải biết tất cả là Đạo sư
Khi gặp bất kỳ chúng sinh nào
Biết là cha mẹ, con cháu mình

10. Bạn bè bất thiện buông bỏ hết
Bậc thiện tri thức, phải nương vào
Bỏ tâm giận dữ và không vui
Còn chỗ nào vui, phải đi đến

11. Bất kể tham gì, cũng bỏ hết
Phải về trú ở sự không tham
Tham thì thiện đạo cũng không đạt
Và làm đứt mạng của giải thoát

12. Hễ thấy pháp gì mang vui đến
Cứ luôn ở đó mà dụng công
Đầu tiên bắt đầu như thế nào
Thì hãy cứ thế mà tu trước
Được vậy mọi sự đều sẽ tốt
Bằng không sẽ chẳng việc gì xong

13. Vì không hề vui cùng việc ác
Cho nên hễ khởi niệm tự cao
Thì ngay lúc ấy chặt ngã mạn
và phải nhớ lời dạy của Thầy

14. Bao giờ tâm lý nổi chán chường
Thì phải tán thưởng, nâng tâm lên
Quán về tánh không của cả hai.
Khi gặp cảnh nào khiến tham sân
Thì thấy chỉ như giả, như huyễn

15. Khi nghe phải lời nói khó nghe
Phải thấy chỉ như là tiếng vang
Bao giờ thân thể bị thương tổn
Phải thấy đó là do nghiệp cũ

16. Trú nơi lan nhã miền xa vắng
Giống như xác chết loài thú hoang
Phải tự dấu kín bản thân mình
Và phải trú ở sự không tham

17. Luôn luôn giữ vững thệ nguyện mình.
Khi nào nổi cơn lười giải đãi
Khi ấy hãy tự đếm lỗi mình
Nhớ lại tinh túy của giới luật

18. Khi nào gặp mặt bất kỳ ai
Thì lời nói phải nhẹ và thật
Mặt mày cau có đều bỏ hết
Phải luôn gìn giữ một nụ cười

19. Nói chung mỗi khi gặp người khác
Hãy vui mà cho, đừng bủn xỉn
Đố kị ghét ghen đều từ bỏ

20. Vì để giữ gìn tâm người khác
Nên mọi tranh chấp đều bỏ đi
Giữ tâm kham nhẫn cạnh bên mình

21. Đừng dua nịnh cũng đừng thay đổi
Trước sau như một, đáng tin cậy
Bỏ hết thái độ khinh rẻ người
Ngược lại luôn giữ lòng thành kính

22. Bao giờ cho người lời giáo huấn
Phải bằng tâm từ bi lợi tha
Giáo pháp Phật cho đừng phỉ báng
Pháp nào mà lòng thiết tha muốn
Thì nơi mười cửa pháp hạnh này
Ngày đêm chia ra mà dụng công

23. Ba thời thiện đức được bao nhiêu
Hồi hướng về đại vô thượng giác
Rãi hết công đức cho chúng sinh
Thất chi đại nguyện luôn hiến cúng

24. Làm được như vậy thì hai kho
Tư lương phước trí sẽ viên thành
Và hai chướng ngại sẽ đoạn diệt
Thân người này sẽ đầy ý nghĩa
Quả vô thượng giác sẽ viên thành

25. Tài sản sự tin và giữ giới
Tài sản của sự cho, sự nghe
Tài sản của tâm tàm, tâm quí
Và của trí tuệ, bảy kho tàng.

26. Hết thảy ngọc báu thắng diệu này
Là bảy tài sản không vơi cạn
Ai không phải người, đừng cho biết.

Ở giữa đám đông xét lời nói
Khi ở một mình tự xét tâm

Đến đây chấm dứt bài pháp Chuỗi Ngọc Bồ Tát do Sư trưởng Ấn độ Dipamkaraśrijñana soạn tác

༄༅༎རྒྱ་གར་སྐད་དུ།བོ་དྷི་སཏྭ་མ་ཎྀ་ཨ་བ་ལི།  བོད་སྐད་དུ།བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའི་ནོར་བུའི་ཕྲེང་བ།  ཐུགས་རྗེ་ཆེན་པོ་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ༎  བླ་མ་རྣམས་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ༎  དད་པའི་ལྷ་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ༎  ཐེ་ཚོམ་ཐམས་ཅད་སྤང་བྱ་ཞེང་།  བསྒྲུབ་ལ་ནན་ཏན་གཅེས་སུ་བྱ༎  གཉིད་རྨུགས་ལེ་ལོ་རབ་སྤང་ཞིང་།  རྟག་ཏུ་བརྩོན་འགྲུས་འབད་པར་བྱ༎  དྲན་དང་ཤེས་བཞེན་བག་ཡོད་པས༎  དབང་པོའི་སྒོ་རྣམས་རྟག་ཏུ་བསྲུང༌༎  ཉིན་མཚན་དུས་གསུམ་ཡང་དང་ཡང༌༎  སེམས་ཀྱི་རྒྱུད་ལ་བརྟག་པར་བྱ༎  བདག་གི་ཉེས་པ་བསྒྲག་བྱ་ཞིང༌༎  གཞན་གྱི་འཁྲུལ་པ་བཙལ་མི་བྱ༎  བདག་གི་ཡོན་ཏན་སྦ་བྱ་ཞིང༌༎  གཞན་གྱི་ཡོན་ཏན་བསྒྲག་པར་བྱ༎  རྙེད་དང་བཀུར་སྟི་སྤང་བྱ་ཞིང༌༎  ཁྱེད་གྲགས་རྟག་ཏུ་སྤང་བར་བྱ༎  འདོད་པ་ཆུང་ཞིང་ཆོག་ཤེས་དང་༎  བྱས་ལ་དྲིན་དུ་བཟོ་བར་བྱ༎  བྱམས་དང་སྙིང་རྗེ་བསྒོམ་བྱ་ཞིང༌༎  བྱང་ཆུབ་སེམས་ནི་བརྟན་པར་བྱ༎  མི་དགེ་བཅུ་ནི་སྤང་བྱ་ཞིང༌༎  རྟག་ཏུ་དད་པ་བརྟན་པར་བྱ༎  ཁྲོ་དང་ང་རྒྱལ་གཞོམ་བྱ་ཞིང༌༎  དམན་པའི་སེམས་དང་ལྡན་པར་བྱ༎  ལོག་པའི་འཚོ་བ་སྤང་བྱ་ཞིང༌༎  ཆོས་ཀྱི་འཚོ་བས་འཚོ་བར་བྱ༎  ཟང་ཟིང་ཐམས་ཅད་སྤང་བྱ་ཞིང༌༎  འཕགས་པའི་ནོར་གྱིས་བརྒྱན་པར་བྱ༎  འདུ་འཇི་[‘འཛི?]ཐམས་ཅད་སྤང་བྱ་ཞིང༌༎  དགོན་པ་ལ་ནི་གནས་པར་བྱ༎  འཁྱལ་བའི་ཚིག་རྣམས་སྤང་བང་ཞིང༌༎  རྟག་ཏུ་ངག་ནི་བསྡམ་པར་བྱ༌།  བླ་མ་མཁན་པོ་མཐོང་བའི་ཚེ ༎  གུས་པར་རིམ་གྲོ་བསྐྱེད་པར་བྱ༎  གང་ཟག་ཆོས་ཀྱི་མིག་ཅན་དང་།  ལས་དང་པོ་པའི་སེམས་ཅན་ལ༎  སྟོན་པའི་འདུ་ཤེས་བསྐྱེད་པར་བྱ༎  སེམས་ཅན་ཐམས་ཅད་མཐོང་བའི་ཚེ༎  ཕ་མ་བུ་ཚའི་འདུ་ཤེས་སྐྱེད༎  སྡིག་པའི་གྲོགས་པོ་སྤང་བྱ་ཞིང༌༎  དགེ་བའི་བཤེས་གཉེན་བསྟེན་པར་བྱ༎  སྡང་དང་མི་བདེའི་སེམས་སྤངས་ཞིང༌༎  གང་དུ་བདེ་བར་འགྲོ་བར་བྱ༎  གང་ལའང་ཆགས་པ་སྤང་བྱ་ཞིང༌༎  ཆགས་པ་མེད་པར་གནས་པར་བྱ༎  ཆགས་པས་བདེ་འགྲོའང་མི་ཐོབ་ཅིང་།  ཐར་པའི་སྲོག་ཀྱང་གཅོད་པར་བྱེད༎  གང་དུ་བདེ་བའི་ཆོས་མཐོང་བ༎  དེར་ནི་རྟག་ཏུ་འབད་པར་བྱ༎  ཐོག་མར་བརྩམས་པ་གང་ཡིན་པ༎  དང་པོར་དེ་ཉིད་བསྒྲུབ་བྱ་སྟེ༎  དེ་ལྟ་ན་ནི་ཀུན་ལེགས་བྱས༎  གཞན་དུ་གཉིས་ཀ་འགྲུབ་མི་འགྱུར༎  རྟག་ཏུ་སྡིག་དང་དགའ་བྲལ་བས༎  གང་དུ་མཐོ་བའི་སེམས་བྱུང་ཚེ༎  དེ་ཚེ་ང་རྒྱལ་བཅག་བྱ་ཞིང༌༎  བླ་མའི་གདམས་ངག་དྲན་པར་བྱ༎  ཞུམ་པའི་སེམས་ནི་བྱུང་བའི་ཚེ༎  སེམས་ཀྱི་གཟེངས་ནི་བསྟོད་པར་བྱ༎  གཉིས་ཀ་སྟོང་པ་ཉིད་དུ་བསྒོམ༎  གང་དུ་ཆགས་སྡང་ཡུལ་བྱུང་ཚེ༎  སྒྱུ་མ་སྤྲུལ་པ་བཞིན་དུ་ལྟ༎  མི་སྙན་ཚིག་རྣམས་ཐོས་པའི་ཚེ༎  བྲག་ཆ་བཞིན་དུ་བལྟ་བར་བྱ༎  ལུས་ལ་གནོད་པ་བྱུང་བའི་ཚེ༎  སྔོན་གྱི་ལས་སུ་བལྟ་བར་བྱ༎  བས་མཐའ་དགོན་པར་རབ་གནས་ཤིང༌༎  རི་དྭགས་ཤི་བའི་རོ་བཞིན་དུ༎  བདག་གིས་བདག་ཉིད་སྦ་བྱ་ཞིང༌༎  ཆགས་པ་མེད་པར་གནས་པར་བྱ༎  རྟག་ཏུ་ཡི་དམ་བརྟན་བྱ་ཞིང༌༎  ལེ་ལོ་སྙོམས་ལས་སེམས་བྱུང་ཚེ ༎  དེ་ཚེ་བདག་ལ་རྔན་བགྲང་ཞིང༌༎  བརྟུལ་ཞུགས་སྙིང་པོ་དྲན་པར་བྱ༎  གལ་ཏེ་གཞན་དག་མཐོང་བའི་ཚེ༎  ཞི་དེས་གསོང་པོར་སྨྲ་བ་དང་། ༎  ཁྲོ་གཉེར་ངོ་ཟུམ་སྤང་བྱ་ཞིང༌༎  རྟག་ཏུ་འཛུམ་ཞིང་གནས་པར་བྱ༎  རྒྱུན་དུ་གཞན་དག་མཐོང་བའི་ཚེ ༎  སེར་སྣ་མེད་ཅིང་སྦྱིན་ལ་དགའ༎  ཕྲག་དོག་ཐམས་ཅད་སྤང་པར་བྱ༎  གཞན་གྱི་སེམས་ནི་བསྲུང་བའི་ཕྱིར༎  རྩོད་པ་ཐམས་ཅད་སྤང་བྱ་ཞིང༌༎  རྟག་ཏུ་བཟོད་དང་ལྡན་པར་བྱ༎  ངོ་དགའ་མེད་ཅིང་གསར་འགྲོགས་མེད༎  རྟག་ཏུ་ཚུགས་ནི་ཐུབ་པར་བྱ༎  གཞན་ལ་བརྙས་པ་སྤང་བྱ་ཞིང༌༎  གུས་པའི་ཚུལ་གྱིས་གནས་པར་བྱ༎  གཞན་ལ་གདམས་ངག་བྱེད་པའི་ཚེ༎  སྙིང་རྗེ་ཕན་སེམས་ལྡན་པར་བྱ༎  ཆོས་ལ་བསྐུར་བ་མི་འདེབས་ཤིང་།     གང་མོས་དེ་ལ་འདུན་པ་དང་༎  ཆོས་སྤྱོད་རྣམ་བཅུའི་སྒོ་ནས་ནི༎  ཉིན་མཚན་ཕྱེད་པར་འབད་པར་བྱ༎  དུས་གསུམ་དགེ་བ་ཅི་བསགས་པ༎  བླ་མེད་བྱང་ཆུབ་ཆེན་པོར་སྔོ༎  བསོད་ནམས་སེམས་ཅན་རྣམས་ལ་བདར༌༎  རྟག་ཏུ་ཡན་ལག་བདུན་པ་ཡི༎  སྨོན་ལམ་ཆེན་པོ་གདབ་པར་བྱ༎  དེ་ལྟར་བྱས་ན་བསོད་ནམས་དང་༎  ཡེ་ཤེས་ཚོགས་གཉིས་རྫོགས་པར་འགྱུར༎  སྒྲིབ་པ་གཉིས་ཀྱང་ཟད་འགྱུར་ཏེ༎  མི་ལུས་ཐོབ་པ་དོན་ཡོད་པས༎  བླ་མེད་བྱང་ཆུབ་ཐོབ་པར་འགྱུར༎  དད་པའི་ནོར་དང་ཚུལ་ཁྲིམས་ནོར༎  གཏོང་བའི་ནོར་དང་ཐོས་པའི་ནོར༎  ཁྲེལ་ཡོད་ངོ་ཚ་ཤེས་པའི་ནོར༎  ཤེས་རབ་ཉིད་ཀྱི་ནོར་བདུན་ཏེ༎  ནོར་གྱི་དམ་པ་འདི་དག་ནི༎  མི་ཟད་པ་ཡི་ནོར་བདུན་ཏེ༎  མི་མ་ཡིན་ལ་བརྗོད་མི་བྱ༎  མང་པོའི་ནང་དུ་ངག་ལ་བརྟག༎  གཅིག་བུར་འདུག་ན་སེམས་ལ་བརྟག༎  རྒྱ་གར་གྱི་མཁན་པོ་དཔལ་ལྡན་མར་མེ་མཛད་བཟང་པོ་ཡི་ཤེས་སྙིང་པོས་མཛད་པ༎བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའི་ནོར་བུའི་ཕྲེང་བ་རྫོགས་སོ༎




Lama Zopa Rinpoche: LỢI ÍCH TỤNG KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM

TỤNG KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM cho Hòa Bình Thế Giới

Nguồn: Recite The Golden Light Sutra For World Peace <PDF>
Tác giả: Lama Zopa Rinpoche - Hồng Như chuyển Việt ngữ
Hạ tải văn bản tiếng Việt: <PDF>
Mỗi Ngày Mươi Phút Trì Tụng kinh Ánh Sáng Hoàng Kim <Web>

Ai người mong cầu thế giới được bình an, hãy trì tụng Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim. Đây là pháp hành trọng yếu khi cần ngăn chận bạo động chiến tranh trên thế giới. Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim là một trong những phương pháp hữu ích nhất có khả năng mang lại nền hòa bình. Ai cũng làm được, bất kể bận rộn đến mức nào, dù chỉ đọc mỗi ngày một trang, hay vài hàng, cứ liên tục như vậy, hàng ngày đều đọc tụng Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim.

Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim nhiệm mầu này là vua của các kinh, vô cùng mãnh liệt, có khả năng toàn thành mọi nguyện ước, và có khả năng mang lại niềm an vui hạnh phúc đến cho khắp cả chúng sinh, chí đến quả vô thượng bồ đề. Kinh này đặc biệt mãnh liệt đối với nền hòa bình thế giới, bảo vệ cho sự an nguy của mỗi người, bảo vệ quốc gia, bảo vệ trái đất. Và kinh này cũng có khả năng xoa dịu chữa lành mọi thống khổ của người dân trong một nước.

Ai người mong cầu an vui hạnh phúc cho bản thân và cho tất cả, thì đây chính là Diệu Pháp giúp ta thực hiện điều này mà không phải gây hại cho bất cứ một ai, không cần chỉ trích xung đột vẫn đạt được nguồn an vui.

Kinh này ai cũng đọc được, Phật tử hay ngoại đạo ai người cầu mong hòa bình đều có thể đọc.

Kinh này cũng bảo vệ cho cá nhân từng người và bảo vệ cho quốc gia thoát cảnh thường gọi là thiên tai, liên quan đến các thành phần đất, nước, lửa, gió, như nạn động đất, lũ lụt, sóng thần, cuồng phong, hỏa hoạn v.v… Gọi là thiên tai, nhưng không phải nhiên không mà có, đều do nhân duyên. Do ý nghĩ và hành động độc ác của chúng ta đã từng gieo trong quá khứ, cùng những nguyên nhân đến từ ngoại cảnh.

Lợi ích đọc tụng kinh này không thể nghĩ bàn. Lời kinh nói rằng dù mang vàng ngọc châu báu nhiều bằng số lượng vi trần trong Thái Bình Dương cúng dường cho vô lượng Phật đà, công đức ấy vẫn không thể sánh với công đức đọc tụng dù chỉ vài dòng Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim.

Đọc tụng kinh này sẽ đưa ta đến với quả giác ngộ. Công đức đọc tụng kinh này nhiều đến nỗi mọi việc đều trở nên suông sẻ, đời sống thuận tiện dễ dàng, muốn gì được nấy, đều nhờ năng lực tịnh nghiệp và tích phước vô cùng khó tin. Bằng cách này chúng ta có thể giúp vô lượng chúng sinh thoát biển rộng khổ đau sinh tử, đưa chúng sinh đến bờ giác ngộ.

Vậy ở đây, Thầy xin chắp cả hai tay, cầu khẩn quí vị hãy vì niềm an vui phúc lợi của thế gian này mà đọc tụng Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim, càng nhiều càng tốt.

–Lama Zopa Rinpoche-

 




Geshe Dawa: XƯNG TÁN 21 ĐỨC TARAS – Chánh Văn & Giảng

Chánh Văn và Giảng về 21 đức Tara theo dòng truyền thừa của đức A-ti-sa – [Commentaries on the 21 Taras’ Praises according the Atisa’s Lineage]

Reference for English Readers:

  • Hạ Tải PDF-IPAD (Văn bản & Giảng &་Hình): xem Thư Mục <BOOKMARK>
  • Đọc Chánh Văn [Read Root Text]: <WEB>
  • Tham khảo <TÀI LIỆU HỖ TRỢ > để tìm tài liệu liên quan đến đức Tara: chánh văn, thâu âm…

Tài Liệu Tham Khảo

  • Sách này dựa trên các tài liệu tiếng Anh sau đây: Geshe Thubten Dawa, Luận Giải về bài Tán Dương 21 Tara, Fedor Stracke chuyển Anh ngữ <Ven. Geshe Thubten Dawa’s commentary>, thêm trích đoạn từ hai tài liệu: Khensur Rinpoche Lama Lhundrup,  A Commentary on Praises to the Twenty-One Taras, (Amitabha Buddhist Centre, Singapore in 05/2005), và Lama Zopa Rinpoche, Instructions on Tara Meditation, (Tushita Retreat Centre, March 1986).
  • Hình đức Tara được chụp từ thangka riêng của Thầy Geshe Dawa.


Chọn Trang:
21 trang ứng với 21 đức Tara.
– Trang 1: bao gồm phần Dẫn Nhập và Giải Thích Tóm Lược
– Trang 22: bao gồm chánh văn và luận giải của phần Lợi Ích.


Dẫn Nhập

Lama Zopa Rinpoche

Bài tán dương này phổ biến cho cả bốn tông phái Phật giáo Tây Tạng. Không chỉ có chư đại hành giả, đại du già, hay đại thành tựu giả, ngay cả người thường, ai nương vào đức Tara là đều được sự linh ứng thần tốc, thành tựu mọi phúc lạc mong cầu. Đức Tara là hiện thân của thiện hạnh Phật đà, làm lợi chúng sinh bằng cách ban cho mọi nguồn hạnh phúc nhất thời và vĩnh cữu, kể cả nguồn hạnh phúc tuyệt bậc của quả vị Phật. Quí vị phải thành Phật mới có khả năng độ chúng sinh thoát khổ và nguyên nhân tạo khổ, đưa chúng sinh vào địa vị chánh đẳng giác.

Quán tưởng đức Tara và tụng bài tán dương này cũng sẽ giúp quí vị dễ dàng thành tựu tâm đại bi của Phật. Tôn sư của Thầy từng dạy rằng màu xanh lá của thân nhiệm mầu của đức Tara là trạng thái thanh tịnh của phong đại của đức Phật Bất Không Thành Tựu. Trong năm bộ Thiền Phật, đức Bất Không Thành Tựu hiệu thân cho sự thành tựu, vì vậy đức Tara ban thành tựu vô cùng chóng vánh. Nhờ đức Tara mà Ngài Lama Atisa tạo được lợi ích lớn lao cho Phật Pháp và chúng sinh. Vậy quan trọng là phải có lòng tin tuyệt đối khi tụng bài xưng tán này. Không kể đến những thành tựu thế gian như đạt thân trời, thân người trong các kiếp tái sinh về sau, ngay cả vãng sinh vào tịnh độ, thành tựu cao nhất về tâm tôn kính đạo sư, thành tựu mọi nền tảng của mật pháp—tâm buông xả, tâm bồ đề và tri kiến tánh không—cùng hai giai đoạn Mật tông tối thượng du già, tất cả đều có thể đạt được nhờ thỉnh nguyện đức Tara.

Nếu đã thọ đại pháp quán đảnh Cittamani Tara (thuộc hệ Mật tông tối thượng du già), quí vị có thể tự khởi hiện thành đức Tara. Nếu chưa, hãy quán tưởng đức Tara phía trước mặt, giữa một khu vườn đẹp như tịnh độ Tara hay tịnh độ A Di Đà. Giữa hồ nước hiện ra đóa sen 21 cánh. Đức Tara thượng thủ ngồi giữa nhụy sen, xung quanh là hai mươi mốt đức Tara ngồi theo tuần tự chiều bên trái, bắt đầu từ đức Tara thứ nhất là đức Thần Tốc Uy Hùng. Theo mỗi câu kệ, hãy tưởng tượng từng luồng cam lồ ào ạt đổ xuống, tịnh sạch cho quí vị, hay cho thân nhân bằng hữu… bất kể là ai, vướng tật bệnh, kiện cáo hay bất cứ vấn đề khó khăn nào. Khi đọc đến hai chữ “Kính lạy,” hãy quán tưởng đức Tara ấy tách ra một bản sao, tan vào quí vị. Khởi niềm tin tưởng mạnh mẽ, rằng mình đã nhận được tất cả mọi đức tánh của đức Tara ấy nên bây giờ đủ khả năng tận diệt chướng ngại, đạt mọi thành tựu, từ kiếp hiện tiền cho đến tận quả vị Phật. Điểm này vô cùng trọng yếu. Khi gặp bất kỳ vấn đề nào, quí vị hãy ngừng ở đức Tara có khả năng tương ứng để tụng minh chú của Ngài. Đó là phương pháp trì chú để tự lợi và lợi tha. Xét cho cùng, không có vấn đề nào bài pháp này không có khả năng hàng phục. […] Hãy tưởng tượng đặt đỉnh đầu mình nơi bàn chân đưa ra của đức Tara, hai tay níu lấy chân Ngài mà đọc tụng bài tán dương này, từ đáy lòng sâu thẳm cất lời thỉnh cầu đức Tara.

02_21t-gd-face_fi-test3

image016

༄༅། །ཨོཾ་རྗེ་བཙུན་མ་འཕགས་མ་སྒྲོལ་མ་ལ་ཕྱག་འཚལ་ལོ།།
OM JE TSÜN MA PHAG MA DRÖL MA LA CHAG TSHÄL LO
OM! Homage to the Venerable Arya Tara!
嗡尊者聖救度母我頂禮
OM – Tôn Đức Thánh Độ Mẫu Tara, con xin kính lễ


GIẢI THÍCH TÓM LƯỢC

Geshe Dawa

OM JE TSÜN MA PHAG MA DRÖL MA LA CHHAG TSHÄL LO

OM: đối tượng đảnh lễ là Phạn tự OM (ཨོཾ), phối hợp ba mẫu tự A, U và Ma, ứng với thân kim cang, khẩu kim cang, và ý kim cang của Phật.

Tiếng Phạn lấy mẫu tự A () làm gốc, trên A thêm naro, thành O (ཨོ), trên naro thêm Ma, hình cái chấm, thành OM (ཨོཾ).

Vì OM hợp nhất ba mẫu tự nên cũng là sự hợp nhất của thân kim cang, khẩu kim cang và ý kim cang của Phật. Đây chính là đức Tara, nơi ta hướng về đảnh lễ.

JE: nguyên nghĩa là bậc thượng nhân tôn quí.  Tara còn được gọi là Phật Mẫu, vì hành trạng giác ngộ và thị hiện thần biến của Ngài đã độ thoát vô số chúng sinh vào quả vị Phật.

TSUN-MA: ứng với bậc thanh tịnh trong pháp hành. Pháp hành nói ở đây là pháp hành của bồ tát sáu hạnh ba la mật và trang nghiêm tam tụ giới [thêm footnote].  Bậc thông tuệ đa văn thì gọi là học giả, bậc pháp hành thanh tịnh thì gọi là Tsun-pa, Tsun-ma.

PHAG-MA: nghĩa là thánh giả. Đức Tara siêu thoát hai cực đoan chấp luân hồi và chấp niết bàn. Nói chung, vị nào đạt quả giải thoát  sinh tử, thoát chấp luân hồi thì gọi là thánh giả. Nhưng vì đức Tara từ trong đại định pháp Diệt vẫn không ngừng lợi ích chúng sinh nên ngài đồng thời thoát cả sự chấp nơi niết bàn.

DROLMA: là Tạng ngữ của Tara Phạn ngữ. Drolma nghĩa là đấng độ sinh. Có tên như vậy là vì ngài phổ độ vô lượng chúng sinh thoát cảnh khổ đau.

CHAGTSAL-LO: đảnh lễ với ba cửa thân khẩu và ý.

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rinsel

Chủ yếu câu đầu này nói rằng, “con xin đảnh lễ Mẹ của chư Phật Thế Tôn; là Thân Khẩu và Ý nhiệm mầu của mọi đấng Phật đà.” Nhớ đức Tara đồng bậc với mọi đấng Phật đà, nhớ thiện hạnh lợi sinh của Ngài nhanh hơn, chóng vánh hơn bất kỳ đức Phật nào khác, nhớ như vậy và đảnh lễ Ngài, bậc hội đủ mọi thiện đức nói trên.

Vì nhớ thiện đức của Thân Khẩu và Ý nhiệm mầu và thiện hạnh của tâm đại bi đại dũng toàn hảo của Ngài, chúng con chí thành quay về nương dựa trọn vẹn nơi đức Tara. Bao giờ có thể giữ được tâm mình với ý nghĩ này trong mọi lúc thì thật sự quá tuyệt vời.


  • 21 Đức Tara: Chánh văn và luận giải
    • Xưng Tán Gốc Tích:
      1. Đức Thần Tốc Uy Hùng Độ Mẫu
    • Xưng Tán Báo Thân Từ Hòa:
      2. Đức Đại Tịnh Độ Mẫu,
      3. Đức Hoàng Kim Độ Mẫu,
      4. Đức Trang Nghiêm Thắng Đảnh Độ Mẫu,
      5. Đức Thuyết Hum Tự Độ Mẫu,
      6. Đức Chiến Thắng Tam Giới Độ Mẫu,
      7. Đức Phá Huyền Thuật Độ Mẫu
    • Xưng Tán Báo Thân Oai Nộ:
      8. Đức Tiêu Ma Thù Độ Mẫu,
      9. Đức Tam Bảo Hộ Úy Độ Mẫu,
      10. Đức Hàng Ma Tam Giới Vương Độ Mẫu,
      11. Đức Tiêu Bần Độ Mẫu,
      12. Đức Thí Kiết Tường Độ Mẫu,
      13. Đức Như Lửa Bừng Độ Mẫu,
      14. Đức Nhíu Mày Oai Nộ Độ Mẫu
    • Xưng Tán Pháp Thân:
      15. Đức Đại Tịnh Độ Mẫu
    • Xưng Tán Công Hạnh:
      16. Đức HUM Linh Tự Độ Sinh Độ Mẫu,
      17. Đức Chấn Động Tam Giới Độ Mẫu,
      18. Đức Tiêu Độc Bệnh Độ Mẫu,
      19. Đức Tiêu Tranh Chấp Ác Mộng Độ Mẫu,
      20. Đức Tiêu Tật Dịch Độ Mẫu,
      21. Đức Viên Thành Thiện Hạnh Độ Mẫu

XƯNG TÁN GỐC TÍCH

1. NYURMA PALMO
– Swift Heroic Tara
– THẦN TỐC UY HÙNG ĐỘ MẪU

Minh Chú: OM TARE TUTTARE TURE WASHAM KURU SVAHA

TARA_1_IMG_4182
༡ ༽ ཕྱག་འཚལ་སྒྲོལ་མ་མྱུར་མ་དཔའ་མོ།།
[1] CHHAG TSHÄL DRÖL MA NYUR MA PA MO
Homage! Tara, swift, heroic!
Kính lạy Tara, thần tốc uy hùng,
སྤྱན་ནི་སྐད་ཅིག་གློག་དང་འདྲ་མ།།
CHÄN NI KÉ CHIG LOG DANG DRA MA
Eyes like lightning instantaneous!
tia mắt chớp nhoáng như là tia chớp.
འཇིག་རྟེན་གསུམ་མགོན་ཆུ་སྐྱེས་ཞལ་གྱི།།
JIG TEN SUM GÖN CHHU KYE ZHÄL GYI
Sprung from op’ning stamens of the
Đấng Hộ Tam Giới trên mặt lệ rơi,
གེ་སར་བྱེ་བ་ལས་ནི་བྱུང་མ།།
GE SAR JE WA LÉ NI JUNG MA
Lord of three world’s tear-born lotus!
trổ thành đóa sen sinh ra Phật bà.

Lama Zopa Rinpoche

Đức Thần Tốc Uy Hùng màu đỏ. Tay phải kết ấn thí thành tựu, cầm bảo bình đỏ ban cho năng lực làm chủ.

Geshe Dawa

Ngài ngồi tòa sen thứ nhất trên đài mặt trăng. Sắc đỏ, một mặt, hai tay. Tay phải kết ấn thí thành tựu, cầm bình cam lồ làm cô đọng năng lực. Tay trái kết ấn Tam Qui, cầm một đóa ưu đàm nở rộ.

Thân Ngài trang nghiêm nhiều phẩm trang điểm như vương miện, đẹp ngời thượng y hạ y, đầy đủ mọi tướng hảo chánh phụ của một đấng báo thân. Ngài ngồi chân phải duỗi ra chân trái co lại, giữa một vùng hào quang tỏa rạng, với chủng tự OM nơi đầu, AH nơi cổ, và HUM nơi tim.

Ấn thí nguyện nơi bàn tay phải của Ngài hàm ý ban mọi thành tựu thế gian và xuất thế. Ấn Tam Qui nơi bàn tay trái hàm ý chở che hộ trì cho chúng sinh thoát trăm nỗi hiểm họa kinh hãi cõi luân hồi.

Vì tánh đức của chư giác giả ngang bằng như nhau, nên đức Tara không khác gì đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cùng là chốn qui y của chúng sinh, cùng là hiện thân của Phật Pháp và Tăng.

Cứu Độ, vì Ngài độ chúng sinh thoát khổ sinh tử.

Thần Tốc, vì thiện hạnh giác ngộ của Ngài đặc biệt chóng vánh.

Uy Hùng, vì Ngài hàng phục toàn bộ Tứ Ma [ma phiền não, ma chết, ma ngũ ấm và Thiên ma]

Mắt tuệ phi phàm của Ngài chỉ trong một tia mắt chớp nhoáng có thể nhìn xuyên suốt cõi sinh tử. Chúng ta nhìn bằng mắt phàm, mỗi lúc chỉ có thể thấy được một ít, muốn thấy nhiều hơn phải nhìn quanh. Nhưng mắt tuệ phi phàm của đức Tara có thể nhìn thấu suốt toàn bộ cõi sinh tử chỉ trong một tia nhìn chớp nhoáng.

Ngài sinh ra từ lòng nhụy sen bát ngát, trổ từ giọt nước mắt của đức Quan Thế Âm, đấng Hộ Trì Tam Giới [1].

Đức Quan Thế Âm, sau khi độ thoát hàng trăm triệu chúng sinh, nhìn lại xem sót lại nhiều ít, chẳng ngờ thấy ra chúng sinh trong luân hồi hãy còn nhiều vô số kể. Ngài đau lòng bật khóc, nước mắt rơi xuống mặt đất, giọt đầu tiên trổ thành đóa sen, từ đó hiện ra đức Tara. Đức Tara thưa với đức Quan Thế Âm: “Xin đừng bận tâm, từ nay tôi sẽ giúp Ngài độ chúng sinh thoát khổ cho đến khi luân hồi diệt tận.”

Câu kệ này tán dương đức Tara qua câu chuyện gốc tích của Ngài.

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rinsel

Nay các bạn đã biết gốc tích của đức Tara. Theo truyền thuyết, đức Tara sinh ra từ giọt lệ của đức quan Thế Âm. Khi đóa sen nở ra, đức Tara cất tiếng nói rằng “Tôi sẽ giúp độ thoát tất cả chúng sinh.” Đức Tara nói, “chỉ cần nhớ đến tên ta, tụng minh chú và nhớ nghĩ đến ta là tịnh được ác chướng, thoát mọi sợ hãi và khổ đau, sớm vượt sinh tử luân hồi.”

Nhờ nương đức Tara, thọ mạng cũng sẽ tăng. Nếu muốn trường thọ thì phải nương theo đức Tara. Có nhiều bậc đại đạo sư trong quá khứ lúc đầu đời thọ mạng ngắn ngủi, nhờ nương đức Tara, tu pháp Tara, có được linh kiến đức Tara, nhờ đó sống rất lâu. Có nhiều trường hợp các bậc thánh giả kéo dài thọ mạng nhờ tu đức Tara.

Như đã nói, các đại đạo sư xứ Ấn trong quá khứ đã nương vào đức Tara. Chư đạo sư đầu tiên ở Tây tạng, chư đại đạo sư dòng Kadampa, tất cả cũng đều nương vào đức Tara. Sơ Tổ Lama Tsongkhapa cùng chư tổ dòng truyền thừa của Ngài cho đến tận ngày nay cũng đều nương vào đức Tara làm đấng Bổn tôn.

Ngài Dromtönpa, đại đạo sư dòng Kadampa, từ trong linh kiến đã gặp đức Tara nói với Ngài rằng, “Ta sẽ đích thân nâng đỡ và trợ giúp cho tất cả đệ tử dòng Kadampa.” Chúng ta là đệ tử của Lama Tsongkhapa, cũng thuộc về dòng truyền thừa Kadampa này, vậy chúng ta chính là đối tượng mà đức Tara đã phát nguyện hộ trì. Nếu hết lòng tin tưởng nương dựa vào đức Tara, chắc chắn sẽ linh ứng. Đây là lời giải thích ngắn gọn về gốc tích của đức Tara.

[1] Tam thế giới: thế giới loài rồng; thế giới loài người; thế giới loài trời —Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rinsel.


___    ||     Trang sau >>>

XƯNG TÁN BÁO THÂN TỪ HÒA

2. SHIWA CHENMO
– The Extremely Peaceful Tara
– ĐẠI TỊNH ĐỘ MẪU

Minh Chú: OM TARE TUTTARE TURE SHINTIM KURU SVAHA

TARA_2_IMG_4187

༢ ༽ཕྱག་འཚལ་སྟོན་ཀའི་ཟླ་བ་ཀུན་ཏུ།།
[2] CHHAG TSHÄL TÖN KEI DA WA KÜN TU
Homage! She whose face combines a
Kính lạy Tara, trăng tròn mùa thu
གང་བ་བརྒྱ་ནི་བརྩེགས་པའི་ཞལ་མ།།
GANG WA GYA NI TSEG PEI ZHÄL MA
Hundred autumn moons at fullest!
trăm vầng đầy đặn trên gương mặt bà.
སྐར་མ་སྟོང་ཕྲག་ཚོགས་པ་རྣམས་ཀྱིས།།
KAR MA TONG THRAG TSHOG PA NAM KYI
Blazing with light rays resplendent
Hàng vạn thiên hà cùng về hội tụ,
རབ་ཏུ་ཕྱེ་བའི་འོད་རབ་འབར་མ།།
RAB TU CHHE WEI Ö RAB BAR MA
As a thousand star collection!
cháy rạng ánh sáng rực rỡ uy nghi.

Lama Zopa Rinpoche

Đức Đại Tịnh thân màu trắng, tay cầm bảo bình trắng làm sạch loại ác nghiệp và phiền não khiến phát sinh tật bệnh, tà chướng, v.v…

Gyalwa Gedun Drub:

Tán dương dung mạo sáng trong rạng tỏa. Trăng thu độ rằm giữa nền trời quang đãng không vẩn chút mây mù, tỏa sáng rạng ngời trước khi bắt đầu khuyết. Cả trăm vầng trăng thu như vậy cùng tỏa sáng cũng không thể sánh bằng ánh sáng gương mặt của Ngài. Sáng hơn cả trăm ngàn thiên hà, tên gọi của Ngài là Bạch Quang Tara.

Geshe Dawa

Ngài ngồi trên tòa sen thứ hai, trên đài mặt trăng, trắng trong như trăng rằm mùa thu, tay phải kết ấn thí thành tựu, cầm bảo bình trắng chứa nước cam lồ làm sạch tật bệnh, quỉ thần.

Gương mặt Ngài tỏa sáng như ánh sáng của trăm vầng trăng rằm trời thu sau trận mưa làm sạch không gian. Sáng như cả ngàn vì sao cùng về hội tụ. Câu này rất nên thơ. Ví như trăng thu, là vì vào mùa thu có những cơn mưa phùn khiến cho không gian trở nên trong trẻo. Không mưa nhiều như mùa hạ, trời không bị mây đen che phủ nên trăng rất sáng. Trăm vầng trăng rằm trời thu là để tả nét sáng trong đẹp ngời của gương mặt Ngài. Ngàn thiên hà là để ví cho sự tỏa sáng của thân Ngài.

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rinsel

Tán dương nét rạng ngời của gương mặt và hào quang rạng chiếu từ thân Ngài.

Sắc tướng Ngài vô cùng từ hòa an tịnh. Chỉ cần nghĩ đến và chiêm bái sắc tướng này của đức Tara, tất cả mọi tâm lý phiền não như tham và sân sẽ tự nhiên thanh tịnh. Hãy nên cố gắng quán tưởng sắc tướng nói trong câu tụng này và thỉnh cầu đức Tara. Rồi quán tưởng nhận được lực gia trì của Ngài.

Tu như vậy sẽ được tăng thọ mạng, công đức, sạch ác nghiệp ác chướng v.v…

Đức Tara làm thế nào để có được diện mạo tuyệt mỹ và sắc thân tuyệt hảo như vậy? Đó là nhờ Ngài đã vì chúng mình mà kiên trì tu hạnh Nhẫn và hạnh Thí trong thời gian dài nhiều đại kiếp. Bao giờ tu như đức Tara, vì chúng sinh hành trì hạnh Nhẫn không lơi nghỉ, trang nghiêm giữ giới, thì dù vẫn còn đang tu học, chúng ta cũng vẫn có được một thân hình tươi đẹp tỏa sáng. Đến khi đạt quả sẽ có được thân tướng tuyệt hảo như đức Tara.


<<< Trang trước     |     Trang sau >>>

3. SERDOG CHENMA
– The Golden Tara
– HOÀNG KIM ĐỘ MẪU

Minh Chú: OM TARE TUTTARE TURE PUSHTIM KURU SVAHA

TARA_3_IMG_4189

༣  ༽ ཕྱག་འཚལ་སེར་སྔོ་ཆུ་ནས་སྐྱེས་ཀྱི།།
[3] CHHAG TSHÄL SER NGO CHHU NÉ KYE KYI
Homage! Golden-blue one, lotus
Kính lạy Tara, sắc vàng ánh biếc
པདྨས་ཕྱག་ནི་རྣམ་པར་བརྒྱན་མ།།
PÉ MÉ CHHAG NI NAM PAR GYÄN MA
Water born, in hand adorned!
trên tay một đóa sen nở trang nghiêm.
སྦྱིན་པ་བརྩོན་འགྲུས་དཀའ་ཐུབ་ཞི་བ།།
JIN PA TSÖN DRÜ KA THUB ZHI WA
Giving, effort, calm, austerities,
Bố thí, tinh tấn, khổ hạnh, tịch tĩnh,
བཟོད་པ་བསམ་གཏན་སྤྱོད་ཡུལ་ཉིད་མ།།
ZÖ PA SAM TÄN CHÖ YÜL NYI MA
Patience, meditation her field!
an nhẫn, thiền định, là cảnh giới bà.

Lama Zopa Rinpoche

Đấng Tăng Ích màu vàng hoàng kim, tay cầm bảo bình ban cho năng lực của thọ mạng, công đức, tài sản và danh tiếng.

Geshe Dawa

Ngài là đức Tara Tăng Trưởng Lợi Ích, ngồi tòa sen thứ ba trên đài mặt trăng, thân sắc vàng ánh xanh, tay phải kết ấn thí thành tựu, cầm bảo bình vàng chứa nước cam lồ tăng trưởng thọ mạng, quyền lực, tài sản và công đức.

Thân Ngài mượt sắc vàng ròng ánh xanh, ngón cái và ngón đeo nhẫn cầm một nhánh hoa sen. Điều này cho thấy Ngài đã thanh tịnh mười hạnh ba la mật. [Đóa sen Ngài cầm trong tay không phải là hoa sen bình thường trong cõi thế gian này, mà là hiện thân của trí tuệ –Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rinsel]

Hai câu cuối nói về nhân tố của Ngài, là sáu hạnh ba la mật: Thí, Giới, Nhẫn, Tấn, Định và Tuệ.

Hai hạnh cuối, Định và Tuệ, là nhân tố chính yếu đưa đến quả giác ngộ, tu được là nhờ bốn hạnh đi trước. Muốn lợi ích chúng sinh  thì phải giúp chúng sinh an vui thoát hiểm. Muốn làm việc này, không thể thiếu hạnh Thí và hạnh Giới, vì hạnh Thí mang hạnh phúc đến cho chúng sinh và hạnh Giới bảo vệ chúng sinh thoát hiểm nạn.

Hạnh Thí

Hạnh Thí có bốn:

  • Tài thí,
  • Từ thí,
  • Vô úy thí, và
  • Pháp thí,

Côn trùng bị rơi vào dòng nước chảy, đưa tay vớt ra đưa vào chỗ an toàn, đó là vô úy thí. Làm như vậy, chúng sinh ấy sẽ thấy vô cùng biết ơn.

[Tu hạnh Thí, không cần thiết phải có gì để cho ra. Hạnh Thí nằm ở nơi tâm: là cái tâm sẵn sàng cho ra. Tu hạnh Thí là làm cho tâm này càng lúc càng thêm mạnh. Nói đến cái tâm muốn cho ra, cần phát huy mạnh mẽ đến mức có thể mang hết thân thể, tài sản, thiện căn công đức tặng cho hết thảy chúng sinh. Cho dù có rất nhiều tài sản, nhưng nếu cho ra mà tâm không vui thì không phải là hạnh Thí —Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rinsel]

Hạnh Giới

Giới là tự giữ mình không phạm mười việc bất thiện (thập ác) và năm nghiệp vô gián (ngũ nghịch), làm như vậy là để bảo vệ cho chúng sinh khỏi bị mình gây hại.

[Giới là gì? Giới là cái tâm muốn bảo vệ. Không chỉ là muốn tránh ác nghiệp như là mười việc bất thiện (thập ác), không chỉ giới hạn có bấy nhiêu. Ở đây, chúng ta đang nói đến hạnh Giới của đại thừa, bao gồm hai điểm trọng yếu: 1. giữ tâm không chạy theo lợi ích cá nhân [nghĩa là đoạn ngã ái]; và 2. giữ tâm không chạy theo khái niệm chấp vạn pháp có tự tánh [nghĩa là đoạn ngã chấp]. Tu như vậy, hạnh Thí mới không vướng cấu nhiễm và mới trở thành hạnh Thí của Đại thừa. —Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rinsel]

Hạnh Nhẫn

Nhẫn là pháp tu trọng yếu giúp ta viên thành sáu hạnh ba la mật. Nếu thiếu hạnh Nhẫn, chúng ta sẽ từ bỏ việc làm phụng sự chúng sinh cho dù đã dâng hiến rất nhiều. Nhưng nếu tu Thí và Giới mà có được hạnh Nhẫn, chúng ta sẽ nhớ được mục tiêu lúc ban đầu, sẽ không buông tay, dù có xảy ra việc gì.

Hạnh Tấn

Hạnh Tấn cũng rất quan trọng. Tấn là thật sự thích thú việc mình đang làm chứ không phải cố ép mình làm những việc không thật sự hứng thú.

[Hạnh Tấn là cái tâm thấy vui khi giúp đỡ chúng sinh và hăng hái vì lợi ích của khắp chúng sinh mà nghe, tư duy và tu tập Phật Pháp. Vì chúng sinh mà làm bất kể làm việc gì với lòng hăng hái vui vẻ thì đó là hạnh tấn.  –Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rinsel]

Hạnh Định

Hạnh định, ví dụ như tâm tịnh chỉ, cần cho nhiều loại thành tựu.  Nói đơn giản, chúng ta cần tu thiền thật nhiều. Tịnh chỉ là ngừng lại trong sự an tịnh nhờ dẹp loạn tâm phiền não.

Hạnh Tuệ

Tịnh chỉ cần đi kèm với tuệ quán. Đại định hợp nhất chỉ quán chính là chánh đạo, là liều thuốc chính hóa giải vọng tâm, và là nhân tố chính yếu dẫn đến quả đại giác ngộ.

Câu kệ này cho thấy nếu muốn đạt quả vị giác ngộ của đức Tara, chúng ta cũng phải nhiều đời tu sáu hạnh ba la mật như vậy. Khi hướng tâm thỉnh cầu đức Tara, cần nhớ rằng Ngài không phải là người phàm đi ngoài chợ, mà là đấng giác ngộ hành trì sáu hạnh ba la mật.

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rinsel

Đức Tara đạt quả giác ngộ nhờ tu với sự hợp nhất của phương tiện và trí tuệ. Phương tiện nói ở đây là tu tâm đại bi và tâm bồ đề. Trí tuệ là trí tuệ chứng tánh không. Với sự hợp nhất của phương tiện và trí tuệ, Ngài hành trì sáu hạnh ba la mật và đạt quả vô thượng bồ đề.

Điều này đối với chúng ta có ý nghĩa gì? Có nghĩa là nếu muốn trở thành giống như đức Tara, chúng ta cần luyện sáu hạnh ba la mật trên đường tu hợp nhất phương tiện và trí tuệ, nghĩa là tâm đại bi và tâm bồ đề phối hợp với trí tuệ chứng tánh không. Tu sáu hạnh ba la mật phối hợp với phương tiện và trí tuệ, chẳng bao lâu chúng ta cũng sẽ đạt quả vô thượng bồ đề. Nếu không tu sáu ba la mật, chúng ta sẽ không làm sao có thể trở thành giống như đức Tara.


<<< Trang trước     |     Trang sau >>>

4. TSUG-TOR NAM-PAR GYAL-MA
– Ushnisha Victorious Golden Tara
– TRANG NGHIÊM THẮNG ĐẢNH ĐỘ MẪU

Minh Chú: OM TARE TUTTARE TURE AYU JNANA SHRIYE BHRUM SVAHA

TARA_4_IMG_4190

༤ ༽ ཕྱག་འཚལ་དེ་བཞིན་གཤེགས་པའི་གཙུག་ཏོར།།
[4] CHAG TSHÄL DE ZHIN SHEG PEI TSUG TOR
Homage! Crown of tathagatas,
Kính lạy Tara, Như lai thắng đảnh,
མཐའ་ཡས་རྣམ་པར་རྒྱལ་བ་སྤྱོད་མ།།
THA YÉ NAM PAR GYÄL WAR CHÖ MA
She who goes in endless triumph
thiện hạnh của Ngài hàng vô lượng ma,
མ་ལུས་ཕ་རོལ་ཕྱིན་པ་ཐོབ་པའི།།
MA LÜ PHA RÖL CHHIN PA THOB PÄI
Honored much by sons of conquerors
viên mãn tất cả hạnh ba la mật,
རྒྱལ་བའི་སྲས་ཀྱིས་ཤིན་ཏུ་བསྟེན་མ།།
GYÄL WEI SÉ KYI SHIN TU TEN MA
Having reached every Perfection
chỗ nương của khắp con Phật Thế tôn.

Lama Zopa Rinpoche

Đức Tara Ban Trường Thọ màu vàng, cầm bảo bình ban cho sự trường thọ.

Geshe Dawa

Các người con của đấng Thế Tôn đều nương nơi Ngài, vì chư bồ tát địa thứ mười đều đặt Ngài trên đỉnh đầu bằng trọn lòng tôn kính.

Ngài là đức Tara trường thọ, diệt hiểm họa chết đúng thời và phi thời, ngồi tòa sen thứ tư trên đài mặt trăng. Thân Ngài màu cam, bàn tay bên trái kết ấn thí thành tựu, cầm bảo bình cam lồ làm tăng thọ mạng.

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rinsel

Đến cả chư Phật đà bồ tát cũng đều đảnh lễ tôn kính Ngài, huống chi chúng sinh như chúng ta đây, nhất định phải quan tâm. Nên nhớ rằng đức Tara khác với chư Phật đà, ở chỗ thiện hạnh giác ngộ của Ngài nhanh hơn, chóng vánh hơn. Chúng ta cần nhớ điều này khi tán dương đảnh lễ đức Tara.


 <<< Trang trước     |     Trang sau >>>

5. HUNG DRA DROG MA
– Tara Proclaiming HUM
– THUYẾT HUM-TỰ ĐỘ MẪU

Minh Chú: OM TARE TUTTARE TURE (name) AKAR CHAYA HRIH SVAHA

TARA_5_IMG_4191

༥ ༽ ཕྱག་འཚལ་ཏུཏྟཱ་ར་ཧཱུྃ་ཡི་གེ།
[5] CHHAG TSHÄL TUTTARA HUM YI GE
[5] Homage! Filling with TUTTARE,
[5] Kính lạy Tara, TU-TA-RA, HUM
འདོད་དང་ཕྱོགས་དང་ནམ་མཁའ་གང་མ།།
DÖ DANG CHHOG DANG NAM KHA GANG MA
HUM, desire, direction, and space!
lấp đầy cõi dục, phương hướng, không gian.
ཇིག་རྟེན་བདུན་པོ་ཞབས་ཀྱིས་མནན་ཏེ།།
JIG TEN DÜN PO ZHAB KYI NÄN TE
Trampling with her feet the seven worlds,
Chân Ngài trấn đạp cả bảy thế giới.
ལུས་པ་མེད་པར་འགུགས་པར་ནུས་མ།།
LÜ PA ME PAR GUG PAR NÜ MA
Able to draw forth all beings!
nhiếp thọ hữu tình không sót một ai.

Lama Zopa Rinpoche

Đức Thuyết Hum-Tự màu đỏ cam. Tay cầm bảo bình ban năng lực thu nhiếp, với mục đích mang Phật pháp đến cho người mình muốn thu phục, dẫn dắt người ấy đến với quả vô thượng bồ đề.

Ngulchu Dharmabhadra

Hào quang phóng ra từ chuỗi minh chú Tuttara và âm thanh rền vang từ chủng tự HUM của trí tuệ từ bi, lấp đầy cả bảy thế giới.

  • Dục: Năm đường tái sinh cõi dục giới: địa ngục, ngạ quĩ, súc sinh, người và trời
  • Phương hướng: cõi sắc giới
  • Không gian: cõi vô sắc giới.

Không những Ngài dùng ánh sáng và âm thanh minh chú lấp đầy bảy cõi tái sinh,  Ngài còn dùng chân trấn đạp, nghiến nát. Do đó Ngài có năng lực thu hút tất cả chúng sinh trong các cõi này, không sót một ai, không cho quyền chọn lựa [Ngài đặt tất cả, không sót một ai, vào nguồn hạnh phúc —Gyalwa Gedun Drub]

Geshe Dawa

Ngài ngồi ghế thứ năm, trên đài mặt trời, thân sắc đỏ. Tay phải kết ấn thí thành tựu, cầm bảo bình chứa nước cam lồ thu nhiếp tâm trí chúng sinh, khiến chúng sinh mất khả năng cảm nhận. Chúng sinh bị hớp hồn, không còn chọn lựa nào khác hơn là trở thành bằng hữu. Đức Tara trở thành bạn bước vào vòng thân hữu. Đức Tara này có thể giúp lôi cuốn nam hay nữ.

Ngài có thể thu thập hết thảy chúng sinh của bảy thế giới: cõi địa ngục, cõi ngạ quĩ, cõi súc sinh, cõi người, cõi trời dục giới, cõi trời sắc giới và cõi trời vô sắc giới. Thu thập bằng hào quang từ chuỗi minh chú nơi tim, từ bảo bình,bằng  âm thanh chủng tự HUM, chói sáng, rền vang, lấp đầy bảy thế giới, và bằng bàn chân trấn đạp trên bảy thế giới.

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rinsel

Bây giờ chúng ta đã biết Tara lấp đầy toàn bộ cõi luân hồi với ánh sáng từ minh chú như thế nào. Âm thanh  chủng tự HUM nơi tim Ngài cũng rền vang khắp cõi luân hồi. Nhờ đó, Ngài câu triệu và điều phục khắp chúng sinh, vì lợi ích của họ. Đức Tara làm việc cho chúng ta, trong mọi lúc. Ánh sáng từ chuỗi minh chú của Ngài luôn tỏa sáng trên chúng ta, và âm thanh từ linh tự HUM nơi tim Ngài luôn rền vang trên toàn cõi thế, dù chúng ta không nghe. Nhớ nghĩ như vậy, giữ lòng tin, đức Tara sẽ luôn cạnh bên chúng ta, làm việc cho chúng ta.


<<< Trang trước     |     Trang sau >>>

6. JIGTEN SUMLE NAMPAR GYALMA
– Tara Victorious Over the Three World
– CHIẾN THẮNG TAM GIỚI ĐỘ MẪU

Minh Chú: OM TARE TUTTARE TURE SARVA TUTTI CHURU SVAHA

TARA_6B_IMG_4192

༦ ༽ ཕྱག་འཚལ་བརྒྱ་བྱིན་མེ་ལྷ་ཚངས་པ།།
[6] CHHAG TSHÄL GYA JIN ME LHA TSHANG PA
Homage! Worshipped by the all-lords,
Kính lạy Tara. Đế Thiên, Đế Thích,
རླུང་ལྷ་སྣ་ཚོགས་དབང་ཕྱུག་མཆོད་མ།།
LUNG LHA NA TSHOG WANG CHHUG CHHÖ MA
Shakra, Agni, Brahma, Marut!
Hoả Thiên, Phạm Thiên, và Phong Lôi Thiên,
འབྱུང་པོ་རོ་ལངས་དྲི་ཟ་རྣམས་དང།།
JUNG PO RO LANG DRI ZA NAM DANG
Honored by the hosts of spirits,
hết lòng hiến cúng. Quỷ thần: khởi thi,
གནོད་སྦྱིན་ཚོགས་ཀྱིས་མདུན་ནས་བསྟོད་མ།།
NÖ JIN TSHOG KYI DÜN NÉ TÖ MA
Corpse-raisers, gandharvas, yakshas!
dạ xoa, thát bà, hết lòng tôn vinh.

Lama Zopa Rinpoche

Đức Chiến Thắng Tam Giới màu đỏ đen, tay cầm bảo bình chứa năng lực làm mê mẩn tâm trí loài la sát, quỉ thần.

Gyalwa Gedun Drub:

Thứ năm, tán dương bởi thần linh thế tục.

Đức Tara này được Đế Thích Indra, Hỏa Thiên Agni, Phạn Thiên Brahma, Phong Lôi Thiên  Vayudeva, và các bậc thiên vương khác. Ngài cũng được tán dương bởi vua quỉ Ganesha, vua quỉ khởi thi Indra, vua càn thát bà Surpü Ngaba, vua dạ xoa Vaisravana cùng vô số tùy tùng. Tên Ngài là Tối Thắng Độ Mẫu.

Geshe Dawa

Vị Tara này thuần phục quỉ thần có thể thuần phục, làm tan biến quỉ thần không thể hàng phục. Ngài ngồi tòa sen thứ sáu, trên đài mặt trời, thân sắc đỏ đen, sắc tướng hơi oai nộ. Tay phải kết ấn thí thành tựu, cầm bảo bình chứa nước cam hồ hàng phục quỉ thần.

Thần linh bốn phương, Indra, Agni, Brahma, Vayude và Ishvara và chúng tùy tùng quỉ khởi thi, càn thát bà v.v… đều tán dương đức Tara này.

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rinsel

Khi có niềm xác quyết và tín tâm nơi Tara, chúng ta sẽ không bị loài người và loài không phải người quỉ thần tác hại. Vì sao? Vì hết thảy đều tôn kính qui y đức Tara.

Cũng như có tượng đức Tara ở nhà, sẽ được sự chở che tương tự, chỉ cần có được niềm tin xác quyết và tín tâm nơi đức Tara. Còn nếu tín tâm đã không có, lại còn thiếu đạo đức, không giữ giới hạnh, sẽ không hưởng được lợi ích. Còn nếu sống biết giữ giới, có niềm tin xác quyết lại có tín tâm nơi đức Tara thì nhất định không làm sao có thể bị các loài quỉ thần kia tác hại.


<<< Trang trước     |     Trang sau >>>

7. SHEN JOM MA
– Tara Destroying Spells
–PHÁ HUYỀN THUẬT ĐỘ MẪU

Minh Chú: OM TARE TUTTARE TURE BEDYE BUDDHO WARANAYA ZHU SVAHA

TARA_7_IMG_4194

༧  ༽ ཕྱག་འཚལ་ཏྲད་ཅེས་བྱ་དང་པཊ་ཀྱིས།།
[7] CHHAG TSHÄL TRAD CHE JA DANG PHAT KYI
Homage! With her TRAD and PHAT sounds
Kính lạy Tara. TRÊ, PÊY thốt ra
ཕ་རོལ་འཁྲུལ་འཁོར་རབ་ཏུ་འཇོམས་མ།།
PHA RÖL THRÜL KHOR RAB TU JOM MA
Crusher of foes magic diagrams!
nghiến tan tất cả luân xa huyền thuật.
གཡས་བསྐུམ་གཡོན་བརྐྱང་ཞབས་ཀྱིས་མནན་ཏེ།།
YÉ KUM YÖN KYANG ZHAB KYI NÄN TE
Putting her feet left out, right back
phải co trái duỗi, chân Ngài trấn đạp
མེ་འབར་འཁྲུག་པ་ཤིན་ཏུ་འབར་མ།།
ME BAR THRUG PA SHIN TU BAR MA
Blazing in a raging fire-blaze!
bừng bừng bốc cháy lửa xoáy muôn trùng.

Lama Zopa Rinpoche

Đức Phá Huyền Thuật màu đen, tướng hơi oai nộ, cầm bảo bình ban năng lực phá huyền thuật. Đức Tara này đối trị tà chú. Ngài ngồi tòa sen thứ bảy, trên đài mặt trời và thân sắc đen, hơi oai nộ. Tay phải kết ấn thí thành tựu, cầm bảo bình chứa cam lồ cứu thoát sợ hãi và hiểm nguy.

Geshe Dawa

Ngài phá tà thuật và tà chú, chận đứng huyền thuật bằng âm thanh Trê và Pây. Chân phải của Ngài—tượng trưng cho trí tuệ—co lại, và chân trái—tượng trưng cho phương tiện—duỗi ra. Ngài trí giữa biển lửa trí tuệ. Chân trái duỗi ra có nghĩa là Ngài thuộc dạng oai nộ.

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rinsel

Khi cảm thấy thân và tâm bị trúng tà lực như bị huyền thuật ám hại, hay nhà cửa bị “nhiễm” theo cách nào đó, điều cần phải làm là quán đức Tara dạng hơi oai nộ  này ngồi giữa vùng lửa xoáy, cầu xin Ngài làm tan tà lực. Tưởng tượng đức Tara thốt lên âm TRÊ và PÂY. Chỉ bằng cách thốt lên âm ấy, Ngài hàng phục tất cả tà ám. Rồi quán tưởng lửa từ thân Ngài đi vào trong ta và cháy bùng khắp không gian, phá hủy và làm sạch mọi tà lực ám hại. Quí vị có thể quán tưởng tất cả bọn chúng đều tan vào đức Tara. Lợi ích của pháp quán này là có thể quét sạch tà ám đồng thời chuyển tâm kẻ gây hại bằng lòng từ bi. Nhớ được như vậy rất tốt. Chúng ta phải luôn tin tưởng nơi đức Tara, phải luôn thỉnh cầu bằng cái tâm thấy Tara chính là bổn sư. Làm được như vậy, với tín tâm, mọi mong cầu đều sẽ thành tựu một cách tự nhiên, không có điều gì không thể thành tựu.


<<< Trang trước     |     Trang sau >>>

8. DU DRA JOM-MA
– Tara Destroying Demons and Enemies
– TIÊU MA THÙ ĐỘ MẪU

Minh Chú: OM TARE TUTTARE TURE AMAGASHATRUM MARAYA HUM PHAT SVAHA

TARA_-8_IMG_4198

༨ ༽ ཕྱག་འཚལ་ཏུ་རེ་འཇིགས་པ་ཆེན་མོས།།
[8] CHHAG TSHÄL TURE JIG PA CHHEN PO
Homage! TURE, very dreadful!
Kính lạy Tara, bậc đại bố uý,
བདུད་ཀྱི་དཔའ་བོ་རྣམ་པར་འཇོམས་མ།།
DÜ KYI PA WO NAM PAR JOM MA
Destroyer of Mara’s champion(s)!
chủng tự TU-RÊ diệt quân hùng ma.
ཆུ་སྐྱེས་ཞལ་ནི་ཁྲོ་གཉེར་ལྟན་མཛད།།
CHHU KYE ZHÄL NI THRO NYER DÄN DZÄ
She with frowning lotus visage
gương mặt đóa sen oai thần phẫn nộ,
དགྲ་བོ་ཐམས་ཅད་མ་ལུས་གསོད་མ།།
DRA WO THAM CHÉ MA LÜ SÖ MA
Who is slayer of all enemies!
quét sạch thù địch không sót một ai.

Lama Zopa Rinpoche

Đức Tiêu Ma Thù màu đỏ đậm, tay cầm bảo bình ban cho năng lực tiêu diệt ma và thù.

Gyalwa Gedun Drub

“Ture” là bậc giải thoát, bậc Đại Bố Úy. “Quân hùng ma” là nhiễm tâm phiền não. Ngài chính là bậc tiêu diệt tứ ma. Hơn nữa, mày chau, trán nhíu, gương mặt thủy sinh của Ngài hiện tướng hung nộ làm tiêu tan kẻ thù phiền não chướng—là điều che chướng quả giải thoát, và trí chướng—là điều che chướng quả toàn giác, bao gồm cả tập khí. Ngài được gọi là Ban Thắng Lực Độ Mẫu.

Ngulchu Dharmabhadra

Đức Đại Bố Úy là bậc cực kỳ oai nộ, dùng sắc tướng này để diệt bốn ma, kể cả loại tà ma khó hàng phục nhất của nhiễm tâm. Gương mặt thủy sinh đẹp ngời của Ngài, đẹp như đóa sen hé nở, hiện tướng chau mày oai nộ, với nét chau mày này, Ngài cũng đồng thời diệt sạch mọi kẻ thù ngoại tại. Kẻ thù của giải thoát là phiền não chướng, và kẻ thù của trí toàn giác là trí chướng (sở tri chướng).

Geshe Dawa

Ngài ngồi tòa sen thứ tám trên đài mặt trời, thân sắc đỏ đậm. Tay phải kết ấn thí thành tựu, cầm bảo bình chứa nước cam lồ diệt thù.

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rinsel

Kính lạy đức Tara”: chúng ta đảnh lễ đức Tara tên gọi là “Bậc Đại Bố Úy.” “TURE” là hiện thân của khẩu nhiệm mầu của Ngài. Với tiếng gầm âm thanh TURE, Ngài “diệt quân hùng ma.”

Trong câu kệ này, Tara mang sắc tướng cực kỳ hung  nộ. Với sắc tướng hung  nộ này, Ngài diệt ma vô cùng khó diệt. Ma nào là ma khó diệt? Ma phiền não.

Gương mặt nhiệm mầu của ngài là gương mặt “thủy sinh”. Ở đây “thủy sinh” có nghĩa là “đóa sen.” Gương mặt của Ngài tựa như đóa sen lớn. Đồng thời mang sắc tướng oai nộ. Với sắc tướng này, Ngài tận diệt mọi kẻ thù ngoại tại, không sót một ai.

Có bốn loại ma:

  • Ma phiền não [phiền não ma]
  • Ma ngũ uẩn [ngũ ấm ma]
  • Ma chết [tử ma]
  • Thiên ma

Trong bốn loại ma này, tệ nhất và khó trị nhất là ma phiền não, vì phiền não—những trạng thái tâm lý xáo trộn tiêu cực—là nguyên nhân của khổ. Nhìn lại, gốc rễ của các loại tâm lý phiền não này là khái niệm ngã chấp và ngã ái. Các loại phiền não khác—kiêu, sân, ganh ghen, v.v… đều phát sinh từ ngã chấp và ngã ái.

Ngã chấp là gốc, từ đó phát sinh phiền não, vì phiền não mà tái sinh trong luân hồi với hợp thể thân tâm ô nhiễm. Thân tâm ô nhiễm này được gọi là ma ngũ uẩn, do phiền não mà có, đặc biệt là do khái niệm ngã chấp. Một khi có hợp thể thân tâm ô nhiễm này, chúng ta bắt buộc phải chịu khổ, hoàn toàn không có sức tự chủ, cũng không có quyền chọn lựa. Bản chất của hợp thể thân tâm này ngay từ đầu vốn đã là khổ đau. Chúng không bền và chúng vốn không có khả năng điều khiển chúng.

Vì sinh ra với hợp thể thân tâm này, lại không có khả năng tự chủ tự lập nào cả, nên sớm muộn gì chúng ta cũng phải chết. Không có chọn lựa nào khác, chúng ta bắt buộc phải bỏ thân này lại phía sau. Chết là điều chắc chắn, lại không biết chết lúc nào. Đó là điều được gọi là “ma chết”.

Rồi lại có Thiên Ma Devaputra [Ma Ba Tuần]. Vì bị nhiễm tâm phiền não tác động cho nên loài người, loài không phải người và loài trời, tất cả đều phải chịu dày vò bởi đủ loại tâm lý phiền não. Thiên Ma Ba Tuần [Devaputra] sống trong cõi trời dục giới, vì không hoan hỉ với người tu nên thường tạo đủ mọi vấn đề nhằm gây cản trở cho người tu. Kinh sách dạy rằng Thiên Ma bắn ra năm loại tên. Trúng bất cứ mũi tên nào cũng sẽ khiến phiền não sẵn có trong tâm ứng với tác hại của Thiên ma bên ngoài, khiến cho phiền não tăng bồi, tạo chướng ngại cho đường tu.

Bao giờ cảm thấy phiền não cứ tăng bồi mất hết khả năng điều khiển, hay là cảm thấy đang bị tà ám, vào lúc bấy giờ phải nhớ nghĩ đến Tara, đặc biệt là vị Tara sắc tướng oai nộ này, thỉnh cầu Ngài giúp ta quét chướng ngại, và cũng có thể tụng chú Tara. Phải tin tưởng thỉnh cầu và tụng chú, làm như vậy nhất định sẽ nhận được lực gia trì Thân Khẩu Ý của đức Tara, phiền não sẽ tan và những loại chướng ngại khác gặp phải cũng sẽ biến mất.

Trong bốn ma thì ma phiền não là tệ hại nhất. Ma này chính là phiền não và tập khí của phiền não, ngăn không cho chúng ta đạt quả giải thoát và giác ngộ.

Điều gì ngăn cản không cho chúng ta đạt quả giải thoát? Ngăn trở quả giải thoát chính là vọng tâm chấp thật có. Các loại phiền nào này đi kèm với tập khí của phiền não—là điều được gọi là trí chướng—đây là những gì ngăn cản không cho chúng ta đạt quả đại giác ngộ.

Một khi dẹp được hai chướng ngại này—giải thoát chướng và toàn giác chướng—thì ba loại ma kia sẽ tiêu tan. Dẹp được bốn ma thì đạt quả giác ngộ.

Điều khiến chúng ta không thể đạt quả giải thoát chủ yếu nằm ở vọng tâm chấp thật có. Nói vậy là nghĩa gì? Khi nhìn vào bất cứ sự vật gì, chúng ta đều tin rằng sự vật ấy thật sự hiện hữu, có một điều gì đó có thật, một cách khách quan. Sự vật hiện ra trong trí của chúng ta như vậy. Tuy nhiên, mặc dù thấy vậy nhưng có thật là sự vật cũng hiện hữu giống như những gì ta thấy hay không?

Hãy nghĩ đến ảnh hiện trong gương. Bất cứ vật gì cũng có thể hiện ra trong gương. Quí vị cũng biết hình ảnh hiện ra trong gương chỉ là hình ảnh phản chiếu, không phải là món vật thật sự. Mặc dù nhìn rất giống, nhưng chúng ta đều biết rõ đó không phải là món vật thật sự. Tương tự như vậy, sự vật không hiện hữu giống như ta thấy. Nhưng vấn đề nằm ở đây: chúng ta thấy sao tin vậy. Sự vật nhìn thấy giống như là có thật, có một cách độc lập khách quan. Nên khi nói đến sự vật chúng ta luôn chấp vào, cho rằng tất cả mọi sự đều hiện hữu chắc thật, đều có thật một cách khách quan, mặc dù sự thật không phải là như vậy.

Không những sự vật hiện ra trong mắt của chúng ta giống như là có thật một cách độc lập khách quan, chúng ta lại còn tin vào điều này, bám chặt vào đó. Rồi chuyện gì xảy ra? Vọng tướng kia đi kèm với vọng tâm chấp tướng hiện sẽ khiến ta phát sinh đủ loại vọng tưởng, để khi tiếp xúc với đối cảnh, ta không ngừng hoặc là gán đặt những phẩm chất không hề có, hoặc là gạt bỏ những phẩm chất thật có.

Làm như vậy sẽ khiến nổi lên các loại nhiễm tâm phiền não như là lòng tham. Nếu không chấp hiện hữu chắc thật, tham không thể phát sinh. Vì tin đối cảnh kia là thật có nên mới nổi lòng tham. Đến khi nào hiểu được đối cảnh kia vốn không hiện hữu giống như ta thấy, lúc ấy sẽ không còn nền tảng cho lòng tham hay các phiền não khác phát sinh. Vì vậy khẩn thiết nhất là phải dốc sức để học cho được cách làm sao thấy ra rằng sự vật, thật ra, không hề hiện hữu thật sự, nói cách khác, không hề hiện hữu một cách độc lập, khách quan.


<<< Trang trước     |     Trang sau >>>

9. JIG-PA KUN KYAB-MA
– Tara Symbolising the Three Jewels
– TAM BẢO HỘ ÚY ĐỘ MẪU

Minh Chú: OM TARE TUTTARE TURE NUPA SARVA RAKSHA SVAHA

TARA_9_IMG_4204

༩ ༽ ཕྱག་འཚལ་དཀོན་མཆོག་གསུམ་མཚོན་ཕྱག་རྒྱའི།།
[9] CHAG TSHÄL KÖN CHOG SUM TSHÖN CHAG GYEI
Homage! She adorned with fingers,
Kính lạy Tara. Ngón tay Phật bà
སོར་མོས་ཐུགས་ཀར་རྣམ་པར་བརྒྱན་མ།།
SOR MÖ THUG KAR NAM PAR GYEN MA
At her heart, in Three Jewel mudra!
Tam Bảo thủ ấn trang điểm nơi tim.
མ་ལུས་ཕྱོགས་ཀྱི་འཁོར་ལོས་བརྒྱན་པའི།།
MA LÜ CHOG KYI KHOR LÖ GYEN PEI
She with universal wheel adorned.
Bánh xe trang nghiêm khắp mười phương chiếu,
རང་གི་འོད་ཀྱི་ཚོགས་རྣམས་འཁྲུག་མ།།
RANG GI Ö KYI TSHOG NAM THRUG MA
Warring masses of their own light
Tự tỏa ánh sáng chói rực bừng bừng.


Lama Zopa Rinpoche

Đức Biểu Hiện Tam Bảo màu trắng, cầm bảo bình chứa năng lực hộ trì chúng sinh thoát sợ hãi hiểm nạn.

Geshe Dawa

Vị Tara này hộ trì cho chúng ta thoát mọi hiểm nạn đời này và mọi kiếp về sau. Ngài ngồi tòa sen thứ chín, trên đài mặt trăng, thân sắc trắng, trẻ trung, tướng an hòa. Tay phải kết ấn thí thành tựu, cầm bảo bình chứa nước cam lồ cứu thoát sợ hãi.

Tay trái nơi tim kết ấn Tam Bảo. Điều này cho thấy chúng sinh không cần hoảng sợ, vì Ngài sẽ hộ trì cho chúng sinh giống y như sự hộ trì của Tam Bảo.

Ấn Tam Bảo này có khi là ngón trỏ và ngón cái chụm lại, có khi là ngón đeo nhẫn và ngón cái chụm lại, cách nào cũng có ba ngón tay [đưa lên] tượng trưng cho Tam Bảo. Theo ngài Ngulchu Dharmabhadra, ba ngón đưa lên là ngón trỏ, ngón giữa và ngón út, vậy ngón đeo nhẫn và ngón cái chụm lại.

Tay phải kết ấn thí thành tựu, trong lòng bàn tay điểm bánh xe chánh pháp, ánh sáng rạng chiếu khắp mười phương. Ánh sáng này sáng hơn bất cứ nguồn ánh sáng nào trên cõi thế gian. Tụng chú của Ngài trở thành nguồn hộ trì tối thượng.

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rinsel

Lòng bàn tay điểm bánh xe chánh Pháp, đó là một trong những tướng hảo của Phật đà.

Ấn Tam Bảo cho chúng ta nhớ bản chất của đức Tara là Tam Bảo. Tam Bảo là Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. Mặc dù chúng ta quán tưởng đức Tara duy nhất một sắc tướng, nhưng thực chất cả Tam bảo đều bao gồm trong sắc tướng này. Thân nhiệm mầu của Ngài là Tăng bảo, Khẩu nhiệm mầu của Ngài là Pháp bảo và Ý nhiệm mầu của Ngài là Phật bảo.

Đồng thời, hãy nghĩ rằng đức Tara trong quán tưởng của quí vị bất nhị với bổn sư. Vì bất nhị với bổn sư, nên:

  • Thân nhiệm mầu của bổn sư bất nhị với đức Tara, và cũng là Tăng bảo.
  • Khẩu nhiệm mầu của bổn sư bất nhị với đức Tara, và cũng là Pháp bảo.
  • Ý nhiệm mầu của bổn sư bất nhị với đức Tara, và cũng là Tăng bảo.

Quí vị cũng cần suy nghĩ xem bổn sư của mình là hiện thân của Tam bảo như thế nào, và là hiện thân của tất cả mọi thiện hạnh giác ngộ của tất cả Phật đà như thế nào.


<<< Trang trước     |     Trang sau >>>

10. DU DANG JIG-TEN WANG-DU DZE-MA
– Tara Subduing Demons and Worlds
– HÀNG TAM GIỚI MA ĐỘ MẪU

Minh Chú: OM TARE TUTTARE TURE SARVA MARA PRAMA TAYA HUM PHAT SVAHA

TARA_10_IMG_4210

༡༠ ༽ ཕྱག་འཚལ་རབ་ཏུ་དགའ་བས་བརྗིད་པའི།།
[10] CHAG TSHÄL RAB TU GA WA JI PEI
Homage! She of joyous, radiant,
Kính lạy Tara, đỉnh đầu tỏa rạng
དབུ་རྒྱན་འོད་ཀྱི་ཕྲེང་བས་སྤེལ་མ།།
U GYEN Ö KYI THRENG WA PEL MA
Diadem emitting light-wreaths
chuỗi hào quang sáng, rực rỡ tươi vui.
བཞད་པ་རབ་བཞད་ཏུཏྟཱ་ར་ཡིས།།
ZHE PA RAB ZHE TUTTARA YI
Mirthful, laughing with TUTTARE,
Với TU-TTA-RA, tiếng cười rộn rã
བདུད་དང་འཇིག་རྟེན་དབང་དུ་མཛད་མ།།
DÜ DANG JIG TEN WANG DU DZE MA
Subjugating maras, devas!
thu phục toàn bộ Ma vương, Thiên vương.


Lama Zopa Rinpoche

Đức Diệt Ma Ngự Tam Giới Vương màu đỏ, tay cầm bảo bình ban lực diệt ma vương trị vì cõi thế.

Ngulchu Dharmabhadra:

Ngài là đấng Rạng Sáng, cho niềm vui lớn bằng cách toàn thành ước nguyện của người có lòng tin và soi sáng người không có lòng tin bằng chuỗi hào quang rực rỡ ngũ sắc chiếu sáng từ mũ miện trên đỉnh. Với tiến cười Tuttara rộn rã, Ngài hàng Thiên ma Garab Wangjuk [ma Ba Tuần], chúa tể cõi dục giới, và hết thảy chúa tể của các cõi thế giới khác.

Geshe Dawa

Tara Diệt Ma Tam Giới: Ngài ngồi tòa sen thứ mười, trên đài mặt trăng, thân sắc đỏ. Tay phải kết ấn thí thành tựu, cầm bảo bình chứa nước cam lồ diệt ma vương lực.

Đối với người có lòng tin nơi Ngài, Ngài dùng ánh hào quang chiếu ra từ mũ miện giúp toàn thành mọi ước nguyện cho tâm ý họ tươi đẹp hoan hỉ. Đối với người không có lòng tin, Ngài hàng phục bằng ánh hào quang chiếu ra từ đỉnh đầu. Ngài thu phục Garab Wangjuk (Thiên ma Ba Tuần] và toàn cõi thế bằng tiếng cười Tuttara rộn rã.

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rinsel

Để nhận lợi ích và lực gia trì từ đức Tara, nhân tố chính yếu là tín tâm vững chắc nơi Ngài. Với tín tâm, có ước nguyện gì Ngài cũng đều toàn thành cho ta. Và điều này cũng khiến cho tâm trí đức Tara vô cùng hoan hỉ.

Vậy người không có lòng tin thì sao? Ngài cũng thuần phục người không có lòng tin: chỉ cần nhìn thấy ảnh tượng của đức Tara, Ngài có thể thuần phục người không có tín tâm.

Chỉ cần có tín tâm.  Bất kể là ai, với tín tâm thỉnh cầu đức Tara, mọi mong cầu đều sẽ như nguyện.

Trang sức của Ngài, vòng tay, vòng chân, mũ miện, chuỗi đeo v.v… tất cả đều rất đẹp. Không như phẩm trang sức cõi thế gian, trang sức của đức Tara tự nhiên tỏa hào quang khắp mười phương, làm việc lợi ích cho chúng sinh. Các phẩm trang sức trên người đức Tara là tướng hiện của Ý nhiệm mầu của Ngài, và tượng trưng cho mọi thiện đức của Ngài.


<<< Trang trước     |     Trang sau >>>

11. PONG-PA SEL-MA
– She Who Eradicates Poverty
– TIÊU BẦN ĐỘ MẪU

Minh Chú:  OM TARE TUTTARE TURE VASU DARE SVAHA

TARA_11_IMG_4223

༡༡ ༽ ཕྱག་འཚལ་ས་གཞི་སྐྱོང་བའི་ཚོགས་རྣམས།།
[11] CHAG TSHÄL SA ZHI KYONG WEI TSHOG NAM
Homage! She able to summon
Kính lạy Tara, chúng thần sở tại
ཐམས་ཅད་འགུགས་པར་ནུས་པ་ཉིད་མ།།
THAM CHE GUG PAR NÜ MA NYI MA
All earth-guardians’ assembly!
đều về qui thuận dưới uy Phật bà.
ཁྲོ་གཉེར་གཡོ་བའི་ཡི་གེ་ཧཱུྃ་གིས།།
THRO NYER YO WEI YI GE HUM GI
Shaking, frowning, with her HUM sign
Cau mày, rung chuyển, với linh tự HUM, 
ཕོངས་པ་ཐམས་ཅད་རྣམ་པར་སྒྲོལ་མ།།
PHONG PA THAM CHE NAM PAR DRÖL MA
Saving from every misfortune!
cứu khắp chúng sinh thoát cảnh bần cùng.


Lama Zopa Rinpoche

Đức Tiêu Bần màu cam, tay cầm bảo bình chứa năng lực làm tiêu tan bần cùng.

Geshe Dawa

Ngài ngồi tòa sen thứ mười một trên đài mặt trăng, thân sắc cam. Tay phải kết ấn thí thành tựu, cầm bảo bình chứa nước cam lồ cứu nghèo.

Nghèo có nhiều loại: nghèo bạn, nghèo tiền tài, nghèo sức khỏe. Nhưng đáng nói nhất là nghèo trí tuệ, nghèo từ bi, nghèo chánh pháp v.v… Đức Tara cứu nghèo bằng năng lực minh chú của Ngài.

Gyalwa Gedun Drub

Chau mày có nghĩa là Ngài với sắc tướng hơi oai nộ, phóng hào quang từ chữ HUM nơi tim, cứu thoát chúng sinh nghèo niềm vui, bị khổ đau đè nặng. Ngài có tên là Nhiếp Thọ Độ Mẫu.

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rinsel

Thổ địa bao gồm mười vị hộ thần phương hướng cùng chúng tùy tùng, giữ gìn và nuôi dưỡng đất đai. Vị Tara này có khả năng câu triệu mười vị hộ thần phương hướng cùng tùy tùng, sai sử họ để thực hiện nhiều thiện hạnh.

Khi gặp cảnh túng quẩn, tài chánh khó khăn, chúng ta phải nhớ nghĩ đến đức Tara. Mục tiêu phải là để thành tựu vô thượng giác vì chúng sinh, hay chí ít phải phát xuất từ động cơ vị tha. Với động cơ ấy, quán tưởng vị Tara này, khởi tâm tôn kính tin tưởng sâu xa mà thỉnh cầu đức Tara giúp xóa cảnh nghèo.

Nghèo có rất nhiều loại. Nói nghèo không phải chỉ là nghèo tiền nghèo của, mà còn nghèo Phật Pháp, ví dụ như nghèo kinh nghiệm, nghèo chứng ngộ. Chúng ta có thể cầu khẩn đức Tara này xóa đi tất cả mọi thứ nghèo.

Quán tưởng từ linh tự HUM nơi tim Ngài, hào quang dưới dạng móc sắt phóng ra khắp mười phương, câu về tất cả mọi điều cần thiết, như thọ mạng, tài sản, của cải v.v… Tất cả tan về chủng tự HUM nơi tim Ngài, và lực gia trì dưới dạng ánh sáng cam lồ rót vào cho quí vị. Quí vị cần quán tưởng tất cả chúng sinh đều hưởng được lợi ích này, đặc biệt chúng sinh đang chịu cảnh bần cùng khó khăn. Khi dòng cam lồ rót xuống, hãy nghĩ rằng mình nhận được thọ mạng lâu dài, tài sản của cải v.v…

Tâm keo bẩn là nguyên nhân khiến ta phải chịu cảnh bần hàn, vì vậy đồng thời hãy nghĩ rằng mọi chướng ngại bao gồm tâm keo bẩn và tập khí của tâm này, tất cả đều được thanh tịnh triệt để. Nghĩ rằng bây giờ ta đã có được kho báu bất tận. Nghĩ như vậy sẽ khiến thanh tịnh loại ác nghiệp mang đến cảnh bần cùng. Ác nghiệp này thanh tịnh thì điều lành sẽ đến với chúng ta.

Chúng ta có thể tu pháp này khi gặp khó khăn trong công việc, hay tài chính trắc trở trong kinh doanh v.v… Tuy vậy, không bao giờ được tác pháp vì lợi ích cá nhân, ước cho “công việc của tôi được thuận tiện suông sẻ.” Nhất định phải tu với cái tâm mong muốn lợi người, hướng về quả giác ngộ để độ sinh. Thiếu đi tâm nguyện này thì dù có tu cũng không thành chánh pháp.


<<< Trang trước     |     Trang sau >>>

12. TRA-SHI TAM-CHE JIN-MA
– Tara Creating Auspiciousness
– THÍ KIẾT TƯỜNG ĐỘ MẪU

Minh Chú: OM TARE TUTTARE TURE MANGALAM PUSHTIM KURU SVAHA

TARA_12_IMG_4228

༡༢ ༽ ཕྱག་འཚལ་ཟླ་བའི་དུམ་བུས་དབུ་རྒྱན།།
[12] CHAG TSHÄL DA WEI DUM BÜ U GYEN
Homage! Crown adorned with crescent
Kính lạy Tara, đỉnh đầu Phật Bà
བརྒྱན་པ་ཐམས་ཅད་ཤིན་ཏུ་འབར་མ།།
GYEN PA THAM CHE SHIN TU BAR MA
Moon, all ornaments most shining!
trăng non trang điểm. Bao phẩm trang nghiêm
རལ་པའི་ཁྲོད་ནས་འོད་དཔག་མེད་ལས།།
RÄL PEI KHUR NA Ö PAG ME LE
Producing, from Amitabha
chói ngời rạng chiếu. / Đức Phật Di Đà
རྟག་པར་ཤིན་ཏུ་འོད་རབ་མཛད་མ།།
TAG PAR SHIN TU Ö RAB DZE MA
In her hair-mass, always much light!
từ lọn tóc Ngài / tỏa sáng vô biên.


Lama Zopa Rinpoche

Đức Làm Cho Tất Cả Kiết Tường màu cam, tay cầm bảo bình ban cho sự kiết tường.

Gyalwa Gedun Drub

Thứ năm, tán dương phẩm trang điểm trên đỉnh đầu Ngài. Phẩm trang điểm chính là vầng trăng non, tỏa sáng rạng rỡ, sáng hơn mọi mặt trăng, quét sạch khổ não. Phẩm trang điểm thứ hai nằm trong búi tóc giữa vô lượng hào quang, tỏa hào quang không gián đoạn làm lợi cho khắp chúng sinh. Ngài được gọi là Đức Tara Hộ Trì Kiết Tường.

Geshe Dawa

Đức Tara Thí Kiết Tường ngồi tòa sen thứ mười hai, trên đài mặt trăng, thân sắc cam. Tay phải kết ấn thí thành tựu, cầm bảo bình chứa nước cam lồ kiết tường. Trên đỉnh đầu Ngài trang nghiêm một vầng trăng non, hào quang rạng chiếu. Đức A Di Đà ngự trên đỉnh, điều này có nghĩa là Ngài thuộc Liên Hoa Phật Bộ.

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rinsel

Từ đức Phât A Di Đà trên đỉnh, hào quang muôn sắc phóng ra làm việc lợi ích cho chúng sinh. Tara và đức Phật A Di Đà bất nhị với bổn tôn của quí vị.

Quí vị có thể quán tưởng vị Tara này khi thân thể bất an: nhuốm bệnh, buồn phiền, bực dọc hay căng thẳng. Quán tưởng, nhớ nghĩ đến đức Tara và thỉnh cầu Ngài. Tưởng tượng ánh sáng cam lồ từ thân nhiệm mầu của đức Tara và đức Phật A Di Đà—cả hai bất nhị với bổn sư—đi vào thân tâm, quét sạch mọi vấn đề, mọi phiền muộn, đồng thời hãy nghĩ mình thọ nhận lực gia trì Thân Khẩu Ý nhiệm mầu của đức Tara. Làm như vậy nhất định sẽ được lợi ích.


<<< Trang trước     |     Trang sau >>>

13. ME TAR BAR MA
– She Who Blazes Like Fire
– NHƯ LỬA BỪNG ĐỘ MẪU

Minh Chú: OM TARE TUTTARE TURE BHAYA BHASMIM KURU SVAHA

TARA_13_IMG_4231

༡༣ ༽ ཕྱག་འཚལ་བསྐལ་པའི་ཐ་མའི་མེ་ལྟར།།
[13] CHAG TSHÄL KÄL PEI THA MEI ME TAR
Homage! She ’mid wreath ablaze like
Kính lạy Tara, như lửa hoại kiếp
འབར་བའི་ཕྲེང་བའི་དབུས་ན་གནས་མ།།
BAR WEI THRENG WEI Ü NA NE MA
Eon-ending fire abiding!
giữa chuỗi lửa rực, Phật bà an định,
གཡས་བརྐྱང་གཡོན་བསྐུམ་ཀུན་ནས་བསྐོར་དགའ།།
YE KYANG YÖN KUM KÜN NE KOR GÉ
Right stretched, left bent, joy surrounds you
phải duỗi, trái co, niềm vui vây quanh
དགྲ་ཡི་དཔུང་ནི་རྣམ་པར་འཇོམས་མ།།
DRA YI PUNG NI NAM PAR JOM MA
Troops of enemies destroying!
làm tiêu tan hết đội quân thù địch.


Lama Zopa Rinpoche

Đức Lửa Bừng màu đỏ, tay cầm bảo bình chứa năng lực tiêu hủy đâm thủng kẻ thù. Mục tiêu chính của việc làm này là để cho quí vị có khả năng vì chúng sinh mà thành tựu đường tu giác ngộ, hoằng dương Phật Pháp và cũng để ngăn chận không cho kẻ thù tạo thêm ác nghiệp, dắt về với chánh pháp và rồi đưa kẻ thù về với quả giải thoát, giác ngộ.

Geshe Dawa

Tara Lửa Bừng: Ngài ngồi tòa sen thứ mười ba, trên đài mặt trăng, thân sắc đỏ. Tay phải kết ấn thí thành tựu, cầm bảo bình chứa nước cam lồ tiêu thù. Ngài ngồi giữa chuỗi lửa trí giác, sánh bằng lửa hoại kiếp thiêu rụi toàn cõi thế gian cuối đại kiếp này. Ngài vui với việc chuyển đẩy bánh xe chánh pháp, thuần thục chúng sinh. Ngài tận diệt nội ma.

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rinsel

Chúng ta đang đảnh lễ đức Tara ngồi giữa biển lửa “như lửa hoại kiếp”. Vào một thời điểm nhất định trong tương lai, thế giới của chúng ta sẽ bị một ngọn lửa vô cùng nóng thiêu rụi tất cả, [gọi là lửa hoại kiếp]. Vị Tara này ngồi giữa ngọn lửa giống như vậy. Nhưng lửa của Ngài là lửa trí tuệ. Ngài ngồi chân phải duỗi ra, chân trái co lại. Đức Tara này có khả năng hủy diệt mọi đội quân thù nghịch bên trong và bên ngoài bằng cách chuyển bánh xe chánh pháp. Kẻ thù bên trong là phiền não của chúng ta. Kẻ thù bên ngoài bao gồm loài người và loài không phải người, và tất cả các loại vấn đề chướng ngại phát sinh từ phiền não trong tâm. Nhờ nương vào đức Tara, chúng ta có thể diệt tất cả mọi kẻ thù như vậy.


<<< Trang trước     |     Trang sau >>>

14. THRO NYER CHEN MA
– She Who Is Frowning Wrathfully
– NHÍU MÀY OAI NỘ ĐỘ MẪU

Minh Chú: OM TARE TUTTARE TURE VAJRA MAHA PUTAYA BASMI KURU SVAHA

TARA_14_IMG_4232

༡༤ ༽ ཕྱག་འཚལ་ས་གཞིའི་ངོས་ལ་ཕྱག་གི།།
[14] CHAG TSHÄL SA ZHI NGÖ LA CHAG GI
[14] Homage! She who strikes the ground with
[14] Kính lạy Tara, Phật bà trấn địa
མཐིལ་གྱིས་བསྣུན་ཅིང་ཞབས་ཀྱིས་བརྡུང་མ།།
THIL GYI NÜN CHING ZHAB KYI DUNG MA
Her palm, and with her foot beats it!
với bàn tay vỗ và gót chân đạp.
ཁྲོ་གཉིར་སྤྱན་མཛད་ཡི་གེ་ཧཱུྃ་གིས།།
THRO NYER CHEN DZE YI GE HUM GI
Scowling, with the letter HUM the
Ánh mắt oai thần và chủng tự HUM,
རིམ་པ་བདུན་པོ་རྣམས་ནི་འགེམས་མ།།
RIM PA DÜN PO NAM NI GEM MA
Seven levels she does conquer!
hết thảy bảy địa Ngài đều chinh phục


Lama Zopa Rinpoche

Đức Nhíu Mày Oai Nộ màu đen, tướng hơi hung  nộ, cầm bảo bình ban cho năng lực triệt tiêu kẻ tạo chướng ngại.

Geshe Dawa

Ngài ngồi tòa sen thứ mười bốn trên đài mặt trời, tướng hơi hung  nộ, màu đen. Tay phải kết ấn thí thành tựu, cầm bảo bình chứa nước cam lồ hành phục kẻ tạo cản trở.

Bàn tay Ngài che kín mặt đất toàn cõi thế gian, và chân Ngài trấn đạp. Từ chữ HUM nơi lòng bàn tay và gót chân, kim cang lửa phóng ra, hàng phục khắp loài hữu tình dưới bảy tầng đất sâu như long chúng, a-tu-la, yêu tinh, nhiều loại quỉ dữ khác, cùng các loại vọng tâm.

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rinsel

Vô số chùi kim cang lửa làm tiêu tan hết mọi ác tâm muốn gây nhiễu hại. Họ có bao nhiêu ý tưởng tác quái, Tara quét sạch tất cả. Họ có bao nhiêu khả năng tác quái, đức Tara cũng làm cho tiêu tan hết. Đức Tara khiến cho họ trở nên vô hại.

Khi bị các loài không phải người tác hại, ví dụ như bị long chúng hay ma quỉ tác quái, chúng ta phải nương vào vị Tara oai nộ này mà thỉnh nguyện. Quán tưởng từ chủng tự HUM màu xanh dương nơi lòng bàn tay và nơi gót chân của Ngài, chùi kim cang lửa phóng ra, đi vào trong chúng ta và các loài gây hại cho chúng ta. Nhận lực gia trì này, tất cả mọi phiền não, nhất là ý nghĩ muốn gây nhiễu hại cho kẻ khác, trong tâm của chúng ta và trong tâm các loài gây hại cho ta đều được hàng phục, quét sạch triệt để. Tâm của ta và của những loài gây hại cho ta trở nên sạch trong. Không còn sót lại bất kỳ ý tưởng tác hại nào. Bị tà ám mà tu được như vậy lợi ích lớn lao vô cùng.

Nhờ tán dương đức Tara dưới cả hai sắc tướng từ hòa và oai nộ, chúng ta hoàn tất phần tán dương Báo thân của đức Tara. Tiếp theo là phần tán dương Pháp thân đức Tara.


 <<< Trang trước     |     Trang sau >>>

15. SHI WA CHEN MA
– She of Supreme Peacefulness
– ĐẠI TỊNH ĐỘ MẪU

Minh Chú: OM TARE TUTTARE TURE SARVA PAPAM PUTA MANAYE SVAHA

TARA_15_IMG_4234

༡༥ ༽ ཕྱག་འཚལ་བདེ་མ་དགེ་མ་ཞི་མ།།
[15] CHAG TSHÄL DE MA GE MA ZHI MA
Homage! Happy, virtuous, peaceful!
Kính lạy Tara, vui, hiền, tịch tĩnh
མྱ་ངན་འདས་ཞི་སྤྱོད་ཡུལ་ཉིད་མ།།
NYA NGEN DE ZHI CHÖ YÜL NYI MA
She whose field is peace, nirvana!
cảnh giới cứu cánh thanh tịnh niết bàn.
སྭཱ་ཧཱ་ཨོཾ་དང་ཡང་དག་ལྡན་པས།།
SVAHA OM DANG YANG DAG DEN PE
She endowed with OM and SVAHA,
Đầy đủ tất cả Sô-Ha và Ôm
སྡིག་པ་ཆེན་པོ་འཇོམས་པར་ཉིད་མ།།
DIG PA CHEN PO JOM PA NYI MA
Destroyer of the great evil!
đập tan toàn bộ tà ma đại ác.


 Lama Zopa Rinpoche

Đức Đại Tịnh màu trắng, cầm bảo bình ban cho năng lực tiêu tai.

Geshe Dawa

Tán dương Pháp Thân Đại Tịnh: Ngài ngồi tòa sen thứ mười lăm trên đài mặt trăng, thân sắc trắng. Tay phải kết ấn thí thành tựu, cầm bảo bình chứa nước cam lồ làm tiêu ác lực.

Vui” vì Ngài luôn trú trong niềm vui vắng khổ; “Hiền” vì Ngài chỉ làm việc thiện; “Tịch Tĩnh” vì Ngài đã diệt hết vọng tâm. Ngài có thể an trú không gián đoạn trong chánh định siêu thoát khổ đau, lấy pháp diệt siêu việt nhị chướng làm đề mục.

Vì Ngài có những thiện đức như vừa kể, tụng minh chú của Ngài sẽ giúp tịnh mười việc ác, năm tội vô gián, viên thành bồ công đức, đưa người tu vào quả vị siêu thoát khổ đau.

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rinsel

Ngài siêu thoát khổ đau, là quả vị tận diệt nhị chướng, là chướng ngại cản trở quả giải thoát và chướng ngại cản trở quả toàn giác.

Ngài luôn trú trong cảnh giới tịch tĩnh của đại định siêu việt nhị chướng.  Nhờ năng lực của trí tuệ này mà sinh ra minh chú. Chánh văn nói “Đầy đủ tất cả  Sô-ha và OM.” Giữa Sô Ha và OM là các âm khác của chuỗi minh chú, TARE TUTTARE TURE. Cả thảy là mười âm minh chú đức Tara: OM TARE TUTTARE TURE SVAHA.

Vừa quán tưởng đức Tara vừa tụng minh chú của Ngài với lòng tin sâu xa, đến cả ác nghiệp nặng nề như năm nghiệp vô gián, nghiệp từ bỏ chánh pháp, cùng với nguyên nhân tạo nghiệp là nhiễm tâm phiền não như tham và sân, hết thảy mọi nhiễm tâm sâu dày nhất cùng quả khổ từ đó sinh ra, tất cả đều tịnh sạch, không sót lại mảy may dấu tích.

Câu kệ này xưng tán đức Tara là Pháp thân. Ý nhiệm mầu của đức Tara luôn an trú trong cảnh giới đại định  tịch tĩnh. Vừa trú trong cảnh giới ấy, Ngài vừa thi triển thiện hạnh làm lợi cho khắp chúng sinh một cách tự nhiên, không dụng công. Đây là việc mà chúng sinh không thể làm, vì đã nhập vào trong định thì không thể làm bất cứ việc gì khác. Chỉ có Phật mới có khả năng này, vừa trú trong chánh định, vừa thi triển thiện hạnh làm lợi ích cho chúng sinh một cách tự nhiên không dụng công. Đây là đặc điểm của Phật.


<<< Trang trước     |     Trang sau >>>

16. RIG PA HUNG LE DROL MA
– Tara Liberating Through Hum
– LINH TỰ HUM ĐỘ SINH ĐỘ MẪU

Minh Chú: OM TARE TUTTARE TURE SARVA DHARMA PRATI SHUD DHA YA SVAHA

TARA_16_IMG_4249

༡༦ ༽ ཕྱག་འཚལ་ཀུན་ནས་བསྐོར་རབ་དགའ་བའི།།
[16] CHAG TSHÄL KÜN NE KOR RAB GA WEI
Homage! Of those glad at turning
Kính lạy Tara, vây quanh Phật bà
དགྲ་ཡི་ལུས་ནི་རབ་ཏུ་འགེམས་མ།།
DRA YI LÜ NI NAM PAR GEM MA
Tearing foes’ bodies asunder,
đầy ắp niềm vui tan xác kẻ thù.
ཡི་གེ་བཅུ་པའི་ངག་ནི་བཀོད་པའི།།
YI GE CHU PEI NGAG NI KÖ PEI
Liberating with HUM-mantra
Mười âm trang điểm tiếng lời mầu nhiệm,
རིག་པ་ཧཱུྃ་ལས་སྒྲོལ་མ་ཉིད་མ།།
RIG PA HUM LE DRÖL MA NYI MA
Word-array of the ten syllables
chữ HUM – trí tuệ phổ độ chúng sinh.


Lama Zopa Rinpoche

Đức Trí Tuệ Hum Độ Sinh màu đỏ, tay cầm bảo bình chứa năng lực tăng trưởng tác dụng của minh chú.

Geshe Dawa

Tán dương thiện hạnh của Ngài.

Tara Giải Thoát Bằng Chữ HUM: Ngài ngồi tòa sen thứ sáu, trên đài mặt trăng, thân sắc đỏ. Tay phải kết ấn thí thành tựu, cầm bảo bình chứa nước cam lồ làm tăng trưởng minh chú.

Ngài vui với việc chuyển pháp luân và thuần phục chúng đệ tử bằng cách này. Ngài hàng phục kẻ gây cản trở và kẻ thù bằng hào quang chiếu ra từ chuỗi minh chú mười âm nơi tim và bằng âm thanh chủng tự HUM.

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rinsel

Tan xác kẻ thù / mười âm trang điểm tiếng lời mầu nhiệm”: Xưng tán đức Tara khéo chuyển bánh xe chánh pháp mang lợi ích đến cho tâm của chúng đệ tử bằng cách tiêu diệt kẻ thù bên ngoài và bên trong tâm thức.

Mười âm” ứng vào chuỗi minh chú của đức Tara. Có cả hai câu minh chú, từ hòa và oai nộ:

Chú từ hòa là OM TARE TUTTARE TURE SVAHA, quanh chủng tự TAM nơi tim Ngài.

Chú oai nộ là OM NAMA TARE NAMO HARE HUM HARE SVAHA, quanh chủng tự HUM nơi tim Ngài.

Từ hai chuỗi minh chú từ hòa và oai nộ này, hào quang lớn phóng ra, cứu ta thoát hết mọi kẻ thù và chướng ngại.

Khi cần tác pháp tiêu tai, ví dụ để tiêu bệnh, tật, tà chướng, hãy quán tưởng đức Tara với chủng tự TAM nơi tim, xung quanh là chuỗi minh chú từ hòa OM TARE TUTTARE TURE SVAHA. Quán tưởng thọ nhận lực gia trì của đức Tara và mọi vấn đề đều nhẹ nhàng tan biến.

Khi cần tác pháp oai nộ, ví dụ khi gặp chướng ngại đến từ loài người hay loài không phải người, gây hại cho Phật Pháp, làm tổn hại thọ mạng của đạo sư v.v… quán tưởng đức Tara với chủng tự HUM nơi tim, xung quanh là chuỗi minh chú oai nộ OM NAMA TARE NAMO HARE HUM HARE SVAHA quét sạch mọi trở ngại một cách mãnh liệt.

Khi cần thực hiện những pháp này, hãy quán tưởng chuỗi minh chú thích hợp, với pháp quán tương ứng.


<<< Trang trước     |     Trang sau >>>

17. JIG TEN SUM YO WA  DROL MA
– Tara Moving Worlds
– CHẤN ĐỘNG TAM GIỚI ĐỘ MẪU

Minh Chú: OM TARE TUTTARE TURE SARVA TAM BANE DELE SVAHA

TARA_17_IMG_4251

༡༧  ༽ ཕྱག་འཚལ་ཏུ་རེའི་ཞབས་ནི་བརྡབས་པས།།
[17] CHAG TSHÄL TURE ZHAB NI DEB PE
Homage! Swift One! The foot-stamper
Kính lạy Tara, chân Ngài dậm xuống,
ཧཱུྃ་གི་རྣམ་པའི་ས་བོན་ཉིད་མ།།
HUM GI NAM PEI SA BÖN NYI MA
With for seed the letter HUM’s shape
tuyên ngôn TU-RÊ. Chủng tự sắc HUM
རི་རབ་མན་དཱ་ར་དང་འབིགས་བྱེད།།
RI RAB MANDHARA DANG BIG JE
She who shakes the triple world and
chấn động ba cõi cùng núi Tu Di,
འཇིག་རྟེན་གསུམ་རྣམས་གཡོ་བ་ཉིད་མ།།
JIG TEN SUM NAM YO WA NYI MA
Meru, Mandara, and Vindhya!
núi Măn-đa-ra, và Vin-đi-a.


Lama Zopa Rinpoche

Đức Chấn Động Tam Giới màu cam, tay cầm bảo bình chứa năng lực làm chủ và tiêu hủy năng lực của huyền chú.

Geshe Dawa

Ngài ngồi tòa sen thứ mười bảy, trên đài mặt trăng, thân sắc cam. Tay phải kết ấn thí thành tựu, cầm bảo bình chứa nước cam lồ hàng phục bùa chú.

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rinsel

Tán dương đức Tara là bậc khéo chấn động ba cõi.

Chân Ngài dậm xuống / tuyên ngôn TURE”: “TURE” ở đây có nghĩa là đức Thần Tốc, ứng vào đức Tara. Ngài oai nộ đạp xuống bằng đôi chân nhiệm mầu. “Chủng tự sắc HUM”: ứng với cách đức Tara khởi hiện sắc tướng: […] Từ nơi tánh không hoạt hiện chủng tự HUM, rồi từ chủng tự HUM hoạt hiện thành đức Tara oai nộ.

Chúng ta đảnh lễ tán dương đức Tara có năng lực làm chấn động ba cõi. Chánh văn nói rằng Ngài làm “chấn động ba cõi, cùng núi Tu Di, núi Mandhara, và Vindhya.” Các ngọn núi này là nơi cư ngụ của thiên chúng, long chúng v.v… Tán dương đức Tara làm chấn động những ngọn núi lớn này. Đến cả ba cõi Ngài cũng có khả năng làm chấn động, cùng khắp chúng hữu tình sống trong các cõi ấy.


<<< Trang trước     |     Trang sau >>>

18. DUG SEL MA
– Tara Pacifying and Eliminating Poisons and Sickness
– TIÊU ĐỘC ĐỘ MẪU

Minh Chú: OM TARE TUTTARE TURE SARVA NAGA BIKSHA SHANTING KURU SVAHA

TARA_18_SM_IMG_4254

༡༨ ༽ ཕྱག་འཚལ་ལྷ་ཡི་མཚོ་ཡི་རྣམ་པའི།།
[18] CHAG TSHÄL LHA YI TSHO YI NAM PEI
Homage! Holding in her hand
Kính lạy Tara, như biển hồ thiên
རི་དྭགས་རྟགས་ཅན་ཕྱག་ན་བསྣམས་མ།།
RI DAG TAG CHEN CHAG NA NAM MA
the deer-marled moon, of deva-lake form
vầng trăng ngọc thỏ trên tay Phật bà.
ཏཱ་ར་གཉིས་བརྗོད་ཕཊ་ཀྱི་ཡི་གེས།། དུག་
TARA NYI JÖ PHAT KYI YI GE
With twicespoken TARA and PHAT,
Với hai TARA và chủng tự PÂY,
རྣམས་མ་ལུས་པར་ནི་སེལ་མ།།
DUG NAM MA LÜ PA NI SEL MA
Totally dispelling poison!
hết thảy độc tố đều tiêu tan cả.


Lama Zopa Rinpoche

Đức Tiêu Độc màu trắng, tay cầm bảo bình ban năng lực làm tiêu tan độc tố.

Geshe Dawa

Ngài ngồi tòa sen thứ mười tám trên đài mặt trăng, thân sắc trắng. Tay phải kết ấn thí thành tựu, cầm bảo bình chứa nước cam lồ làm sạch và tiêu tan chất độc và tật bệnh. Ngài cầm trong tay một vầng trăng, trắng như biển hồ cõi thiên, trên đó phản chiếu hình ảnh của các loài thú hiền như nai, thỏ v.v… Với vầng trăng này, Ngài làm sạch và tiêu tan chất độc, tật bệnh.

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rinsel

Tán dương đức Tara là bậc khéo trừ chất độc.

Đức Tara làm tiêu tan chất độc cầm trong tay một vầng trăng tròn, tựa như tấm gương, điểm hình ngọc thố. Soi vào vầng trăng này, mọi chất độc trong người đều tiêu tan cả. Chất độc nói ở đây không chỉ ứng vào loại chất độc bình thường mà còn ứng vào cả loại chất độc phiền não trong tâm.

Với hai TARA và chủng tự PÂY”:  hai TARA ứng vào hai chữ TARA trong minh chú: OM TARE TUTTARE. Thay vì OM TARE TUTTARE TURE SVAHA, Ngài thốt OM TARE TUTTARE TURE PHAT. Với vầng trăng trong tay, Ngài cho chúng sinh soi vào và thốt lên OM TARE TUTTARE TURE PHAT, nhờ đó diệt tan mọi chất độc trong chúng sinh, không chỉ chất độc bên ngoài, mà gồm cả chất độc phiền não trong tâm.

Chất độc có nhiều loại. Chúng ta có thể bị người khác làm cho ngộ độc, hoặc cũng có thể tự mình lầm ăn phải món có độc, trúng phải các loại độc tố, v.v… Những lúc như vậy, hay khi muốn giúp người bị trúng độc, hãy quán tưởng đức Tara này ở khoảng không trước mặt. Quán tưởng Ngài cầm trong tay một vầng trăng như tấm gương cho mình và chúng sinh soi vào, đồng thời Ngài đọc minh chú OM TARE TUTTARE TURE PÂY. Quán tưởng nhận được lực gia trì, thấy rằng tất cả mọi độc tố trong ngoài của mình và chúng sinh đều hoàn toàn tịnh sạch.


<<< Trang trước     |     Trang sau >>>

19. DUG NGAL THAM CHE SEL WEI DROL MA
– Tara Eliminating Disputes and Bad Dreams
– TIÊU TRANH CHẤP ÁC MỘNG ĐỘ MẪU

Minh Chú: OM TARE TUTTARE TURE MUCHANA YA SVAHA

TARA_19_SM_IMG_4257

༡༩ ༽ ཕྱག་འཚལ་ལྷ་ཡི་ཚོགས་རྣམས་རྒྱལ་པོ།།
[19] CHAG TSHÄL LHA YI TSHOG NAM GYÄL PO
Homage! She whom gods and their kings
Kính lạy Tara, thiên vương, chư thiên,
ལྷ་དང་མིའམ་ཅི་ཡིས་བསྟེན་མ།།
LHA DANG MI AM CHI YI TEN MA
God and Kinnares do honour
và Khẩn Na la đều nương Phật bà.
ཀུན་ནས་གོ་ཆ་དགའ་བའི་བརྗིད་ཀྱིས།།
KÜN NE GO CHA GA WEI JI GYI
She whose joyfull splendour dispels
Giáp bào lộng lẫy, niềm vui tỏa sáng,
རྩོད་དང་རྨི་ལམ་ངན་པ་སེལ་མ།།
TSÖ DANG MI LAM NGEN PA SEL MA
Conflict and bad dreams of the armoure
phá tan tất cả ác mộng, chấp tranh.


Lama Zopa Rinpoche

Đức Tiêu Tranh Chấp Ác Mộng màu trắng, tay cầm bảo bình ban năng lực làm cho tiêu tan chấp tranh—ví dụ như bị kiện tụng—và ác mộng.

Geshe Dawa

Tara Tiêu Tranh Chấp Ác Mộng: Ngài ngồi tòa sen thứ mười chín trên đài mặt trăng, thân sắc trắng. Tay phải kết ấn thí thành tựu, cầm bảo bình chứa nước cam lồ làm tiêu tan tranh chấp và ác mộng.

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rinsel

Tán dương đức Tara là bậc khéo làm tan tranh chấp và ác mộng. Đây là vị Tara mà “thiên vương, chư thiên, và Khẩn Na la đều nương” vào. Chư thiên nói ở đây ứng vào chư thiên cõi dục giới. Chúa tể cõi trời dục giới là Indra, ngoài ra còn các thần linh thế tục khác như Brahma v.v… Các vị này đều tôn kính đặt đỉnh đầu của mình ngang chân đức Tara.

Hãy quán tưởng đức Tara này và tụng minh chú, nét rạng rỡ chói sáng của Ngài sẽ làm tiêu tan mọi khổ nạn như tranh chấp, cãi vã, xung đột, cùng ác mộng. Tất cả những điều này đều sẽ tan biến. Ác mộng khiến ta không vui. Khi gặp cảnh xung đột tranh chấp với người khác, như bị kiện tụng v.v…, cần quét nghịch cảnh bằng cách nương dựa vào sắc tướng này của đức Tara. Quán tưởng đức Tara ở khoảng không trước mặt, rót ánh sáng cam lồ màu đỏ vào cho quí vị, làm sạch mọi ác mộng, mọi vấn đề đang gặp phải như kiện tụng, tranh chấp v.v.. Đủ loại vấn đề, cùng nguyên nhân khiến phát sinh vấn đề, tất cả đều tiêu tan, không sót lại dù chỉ mảy may vi trần. Pháp quán này sẽ giúp cho quí vị khi gặp cảnh khổ đại loại.


<<< Trang trước     |     Trang sau >>>

20. RIM NE SEL WEI DROL MA
– Tara Eliminating Plaques:
– TIÊU TẬT DỊCH ĐỘ MẪU

Minh Chú: OM TARE TUTTARE TURE VISARE SVAHA

TARA_20_OK_SM_IMG_4277

༢༠ ༽ ཕྱག་འཚལ་ཉི་མ་ཟླ་བ་རྒྱས་པའི།།
[20] CHAG TSÄL NYI MA DA WA GYE PEI
Homage! She whose two eyes bright with
Kính lạy Tara, đôi mắt nhật nguyệt
སྤྱན་གཉིས་པོ་ལ་འོད་རབ་གསལ་མ།།
CHEN NYI PO LA Ö RAB SÄL MA
Radiance of sun and full moon!
tỏa chiếu rạng ngời hào quang rực sáng.
ཧ་ར་གཉིས་བརྗོད་ཏུཏྟཱ་རེ་ཡིས།།
HARA NYI JÖ TUTTARA YI
With twice HARA and TUTTARE
HA-RA hai lần, và TU-TTA-RA,
ཤིན་ཏུ་དྲག་པོའི་རིམས་ནད་སེལ་མ།།
SHIN TU DRAG PÖI RIM NE SEL MA
She dispels severe contagion!
tiêu tan tất cả tật dịch truyền nhiễm.


Lama Zopa Rinpoche

Đức Tiêu Tật Dịch màu cam, tay cầm bảo bình chứa năng lực hủy diệt mọi tật dịch truyền nhiễm.

Geshe Dawa

Tara Tiêu Tật Dịch: Ngài ngồi tòa sen thứ hai mươi, trên đài mặt trăng, thân sắc cam. Tay phải kết ấn thí thành tựu, cầm bảo bình chứa nước cam lồ làm tiêu tan tật dịch. Bằng cách thốt lên hai lần  HARA và TUTTARA, Ngài xua tan tật dịch

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rinsel

Tán dương đức Tara là bậc khéo làm tiêu tan dịch truyền nhiễm.

Đôi mắt nhật nguyệt” ứng vào cả hai sắc tướng oai nộ và từ hòa của đức Tara. Với sắc oai nộ, đôi mắt như mặt trời cháy sáng: đôi mắt của sắc tướng oai nộ lớn, đỏ và tròn, tỏa ra ánh sáng nóng. Với sắc từ hòa, đôi mắt như trăng tròn: đôi mắt của sắc tướng từ hòa tỏa ánh sáng lạnh.

HA-RA hai lần, và TU-TTA-RA”: câu này ứng vào minh chú oai nộ OM NAMA TARE NAMO HARE HUM HARE SVAHA, và minh chú từ hòa OM TARE TUTTARE TURE SVAHA. Tụng hai minh chú oai nộ và từ hòa này, dù là bệnh tật dữ dội bậc nhất như bệnh dịch, bệnh truyền nhiễm, ác bệnh nan y khó lành, đều có thể khỏi.

Thế giới ngày nay có quá nhiều loại bệnh dữ, nhất là các chứng bệnh dịch kinh hoàng. Sống thời như vậy, việc thanh tịnh tật dịch trở thành nhu cầu khẩn thiết. Chúng ta có thể quán tưởng đức Tara, nhớ nghĩ đến thiện đức thân khẩu ý nhiệm mầu của Ngài, với lòng thâm tín, tụng hai minh chú oai nộ và từ hòa này. Đồng thời quán tưởng ánh sáng từ đức Tara rót xuống, làm cho mình và chúng sinh tịnh sạch tất cả mọi tật dịch, bệnh truyền nhiễm và nguyên nhân của tật bệnh. Tất cả đều hoàn toàn tịnh sạch.


 <<< Trang trước     |     Trang sau >>>

21. TRINLE THAMCHE YONG SU DZOG PAR JE PEI DROLMA
– Tara Accomplishing Virtuous Activities
– Tara Bậc Viên Thành Thiện Hạnh –

Minh Chú: OM TARE TUTTARE TURE SARVA SIDDHI SVAHA

TARA_21_SM_IMG_4281

༢༡ ༽ ཕྱག་འཚལ་དེ་ཉིད་གསུམ་རྣམས་བཀོད་པས།།
[21] CHAG TSÄL DE NYI SUM NAM KÖ PE
Homage! Full of liberating
Kính lạy Tara, với tam chân như,
ཞི་བའི་མཐུ་དང་ཡང་དག་ལྡན་མ།།
ZHI WEI THÜ DANG YANG DAG DEN MA
Power by set of three Realities!
sung mãn năng lực tịch tĩnh tự tại.
གདོན་དང་རོ་ལངས་གནོད་སྦྱིན་ཚོགས་རྣམས།།
DÖN DANG RO LANG NÖ JIN TSHOG NAM
Crushing crowds of spirits, yakshas
Tà ma ác quỉ, dạ xoa, khởi thi,
འཇོམས་པ་ཏུ་རེ་རབ་མཆོག་ཉིད་མ།།
JOM PA TURE RAB CHOG NYI MA
And corpse-raisers! Supreme! TURE!
đập tan hết thảy. TU – RÊ! Tối thắng!


Lama Zopa Rinpoche

Đức Làm Mọi Thiện Hạnh màu trắng, tay cầm bảo bình ban cho năng lực hoàn tất mọi việc làm một cách mỹ mãn.

Geshe Dawa

Tara Thành Tựu Thiện Hạnh: Ngài ngồi tòa sen thứ hai mươi mốt, trên đài mặt trăng, thân sắc trắng. Tay phải kết ấn thí thành tựu, cầm bảo bình chứa nước cam lồ làm cho thành tựu mọi thiện hạnh.

Trang nghiêm nơi thân Ngài điểm ba tinh túy: OM trắng trên đỉnh; AH đỏ nơi cổ; và HUM xanh dương nơi tim. Với ba tinh túy điểm trên thân, Ngài hoàn tất mọi thiện hạnh giác ngộ của tất cả các vị Tara trước.

Gyalwa Gedun Drub:

Sáu là thiện hạnh diệt tà ma ác quỉ và quỉ khởi thi.

Ba tinh túy trên thân Ngài là chân như của Thân Khẩu Ý:

  • tinh túy của thân: OM trên đỉnh
  • tinh túy của khẩu: AH nơi cổ
  • tinh túy của ý: HUM nơi tim

Nhờ năng lực sẵn có nơi ba tinh túy, Ngài hàng phục được mọi chất độc nhiễm tâm. Ngài chính là đấng Độ Mẫu TURE, bậc tối thắng diệt chất độc di chuyển (moving poisons) của loài quỉ Don, quỉ khởi thi, và quỉ dạ xoa. Tên Ngài là Viên Thành Độ Mẫu.

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rinsel

Tán dương đức Tara là bậc khéo diệt tà ma và quỉ khởi thi.

Phần quán tưởng dưới đây dành cho người tu pháp Tara Du Già, nói cách khác, dành cho người [đã thọ đại pháp quán đảnh Tara] đang tu pháp tự khởi hiện thành đức Tara.

  • Quán tưởng mình là đức Tara.
  • Trên đỉnh có chủng tự OM trắng, là thân của đức Tara.
  • Nơi cổ có chữ AH đỏ, là khẩu của đức Tara.
  • Nơi tim có chữ HUM xanh dương, là ý của đức Tara.

Với ba chủng tự ở ba điểm, hết thảy mọi ác nghiệp ác chướng của ba cửa thân khẩu ý đều được quét sạch triệt để, không sót lại mảy may.

“Tà ma ác quỉ, dạ xoa, khởi thi, đập tan hết thảy”: Chữ “dön” tiếng Tạng được dịch là “tà ma ác quỉ.” Kinh sách dạy rằng chủ yếu có mười tám loài ma quỉ, quỉ ăn máu tươi, quỉ có tà thuật, quỉ dạ xoa (giống quỉ ăn sinh khí). Nương vào đức Tara, tất cả các loại tà ma quỉ dữ này đều sẽ bị tiêu hủy.

Cho người chuyên tu pháp Tara, tự khởi hiện thành đức Tara với ba điểm—đầu, cổ và tim, trang nghiêm ba chủng tự, OM trăng, AH đỏ, và HUM xanh dương—làm như vậy sẽ tịnh được mọi ác nghiệp ác chướng của thân khẩu và ý cùng mọi tập khí của ác nghiệp ác chướng này.

Người tu cũng có thể dùng pháp quán này để làm lợi cho chúng sinh: […] quán tưởng từ ba chủng tự phóng ra hào quang lớn, quét sạch mọi ác nghiệp ác chướng nơi thân khẩu ý của khắp chúng sinh. Sau khi sạch mọi ác nghiệp ác chướng, hãy tưởng tượng đưa tất cả chúng sinh vào quả vị Tara. Quán như vậy chúng sinh sẽ được lợi ích và kho bồ phước đức của bản thân cũng sẽ mau chóng viên thành.


 <<< Trang trước     |     Trang sau >>>

༢༢ ༽ རྩ་བའི་སྔགས་ཀྱི་བསྟོད་པ་འདི་དང།།
[22] TSA WEI NGAG KYI TÖ PA DI DANG
With this praise of the root mantra
Đây là tiếng lời tán dương bổn chú,
ཕྱག་འཚལ་བ་ནི་ཉི་ཤུ་རྩ་གཅིག།
CHAG TSHÄL WA NI NYI SHU TSA CHIG
Twenty-one (times I’ve paid) homage.
đảnh lễ Tara, đủ hai mươi mốt.


Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rinsel

Đây là hai hàng chót kết thúc bài tán dương.

“Bổn chú” ứng vào hai chú từ hòa và oai nộ đã nói qua. Có tất cả 21 câu kệ tán dương, cùng hai mươi mốt lần đảnh lễ. “Đây là tiếng lời tán dương bổn chú, đảnh lễ Tara, đủ hai mươi mốt.”


Prayer of the Benefits – BÀI NGUYỆN LỢI ÍCH

ལྷ་མོ་ལ་གུས་ཡང་དག་ལྡན་པའི།
LHA MO LA GÜ YANG DAG DEN PEI
Whoever is endowed with devotion for the goddess
Ai người có lòng / tin đấng bổn tôn,
བློ་ལྡན་གང་གིས་རབ་དད་བརྗོད་དེ།།
LO DEN GANG GI RAB DE JÖ DE
And recites this with supreme faith
rạng đông hoàng hôn /
སྲོད་དང་ཐོ་རངས་ལངས་པར་བྱས་ནས།
SÖ DANG THO RANG LANG PAR JE NE
Remembering it at dawn upon waking and at the evenings
chuyên tâm trì tụng
དྲན་པས་མི་འཇིགས་ཐམས་ཅད་རབ་སྟེར།
DREN PE MI JIG THAM CHE RAB TER
Will be granted all fearlessness
tiếng lời rõ ràng / sẽ được hộ trì
སྡིག་པ་ཐམས་ཅད་རབ་ཏུ་ཞི་བ།
DIG PA THAM CHE RAB TU ZHI WA
Will perfectly pacify all negativities
lìa mọi sợ hãi, / sạch mọi ác chướng,
ངན་འགྲོ་ཐམས་ཅད་འཇོམས་པ་ཉིད་དོ།།
NGEN DRO THAM CHE JOM PA NYI THOB
And will eleminate all unfortunate migrations
thoát cảnh đọa sinh.
རྒྱལ་བ་བྱེ་བ་ཕྲག་བདུན་རྣམས་ཀྱིས།
GYÄL WA JE WA THRAG DÜN NAM KYI
The multitude of conquerors
Được bảy trăm vạn / đức Phật Thế Tôn /
མྱུར་དུ་དབང་ནི་བསྐུར་བར་འགྱུར་ལ།
NYUR DU WANG NI KUR WAR GYUR LA
Will quickly grant initiation
sớm truyền quán đảnh,
འདི་ལས་ཆེ་བ་ཉིད་ནི་ཐོབ་ཅིང་།
DI LE CHE WA NYI NI THOB CHING
Thus, endowed with this greatness
nhờ đại duyên này
སངས་རྒྱས་གོ་འཕང་མཐར་ཐུག་དེར་འགྲོ།
SANG GYE GO PHANG THAR THUG DER DRO
One will eventually reach the state of a buddha
chóng đạt quả Phật.
དེ་ཡི་དུག་ནི་དྲག་པོ་ཆེན་པོ།
DE YI DUG NI DRAG PO CHHEN PO
If affected by the most terrible poison
Tâm niệm bổn tôn / thì mọi độc tố / kinh hoàng bậc nhất
བརྟན་གནས་པ་ཞམ་གཞན་ཡང་འགྲོ་བ།
TEN NE PA ZHAM ZHEN YANG DRO WA
Whether ingested, drunk, or from a living being
từ nơi môi trường / hay từ sinh vật, /
ཟོས་པ་དང་ནི་འཐུངས་པ་ཉིད་ཀྱང་།
ZÖ PA DANG NI THUNG PA NYI KYANG
Just by remembering
dù ăn, dù uống,
དྲན་པས་རབ་ཏུ་སེལ་བ་ཉིད་ཐོབ།།
DREN PE RAB TU SEL WA NYI THOB
Will one be thoroughly cleansed
cũng không thể hại. /
གདོན་དང་རིམས་དང་དུག་གིས་གཟིར་བའི།
DÖN DANG RIM DANG DUG GI ZIR WEI
If this prayer is recited two, three or seven times
Tụng bài pháp này / hai, ba, bảy lần, /
སྡུག་བསྔལ་ཚོགས་ནི་རྣམ་པར་སྤོང་སྟེ།
DÜL NGEL TSHOG NI NAM PAR PONG TE
It will pacify all the sufferings of torments
Thoát khổ tật dịch, /
སེམས་ཅན་གཞན་པ་རྣམས་ལ་ཡང་ངོ་།
SEM CHEN ZHEN PA NAM LA YANG NGO
Caused by spirits, fevers, and poisons
truyền nhiễm, ngộ độc /
གཉིས་གསུམ་བདུན་དུ་མངོན་པར་བརྗོད་ན།།
NYI SUM DÜN DU NGÖN PAR JÖ NA
And by other beings as well
Hay vì chúng sinh. /
བུ་འདོད་པས་ནི་བུ་ཐོབ་འགྱུར་ཞིང་།
BU DÖ PE NI BU THOB GYUR ZHING
If you wish for a child you will get a child
Cầu con được con, /
ནོར་འདོད་པས་ནི་ནོར་རྣམས་ཉིད་ཐོབ།
NOR DÖ PE NI NOR NAM NYI THOB
If you wish for wealth you will receive wealth
cầu của được của, / hết thảy mong cầu /
འདོད་པ་ཐམས་ཅད་ཐོབ་པར་འགྱུར་ཏེ།
DÖ PA THAM CHE THOB PAR GYUR LA
All your wishes will be fulfilled
đều được như nguyện, / không chút chướng ngại /
བགེགས་རྣམས་མེད་ཅིང་སོ་སོར་འཇོམས་འགྱུར།།
GEG NAM ME CHING SO SOR JOM GYUR CHIG
And all obstacles pacified
vì mọi chướng ngại / đều đã tịnh yên.


Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rinsel

 TRÌNH BÀY LỢI ÍCH PHÁP TU

A. Tâm nguyện đúng đắn

Ai người có lòng tin đấng bổn tôn
Chuyên tâm trì tụng…

Câu này nói rõ người tụng bài pháp này cần phải tụng bằng cái tâm như thế nào. Đâu là thái độ cần phải có? Cần phải hướng tâm về đức Tara với lòng kính ngưỡng sâu xa, nhớ lòng từ ái của Ngài. Hiểu rõ mọi thiện đức Thân Khẩu Ý của Ngài, giữ lòng tin vững bền, lòng tôn kính vượt bực. Tụng bài xưng tán này với cái tâm như vậy thì mọi lợi ích nói ở đây đều sẽ thành sự thật.

Khi tụng bài tán dương phải luôn nhớ lại thiện hạnh Thân Khẩu Ý của đức Tara, tâm đại bi, đại trí và đại dũng của Ngài. Nghĩ xem lúc ban đầu Ngài đã từng vì chúng sinh mà phát tâm bồ đề như thế nào, đã từng làm những gì trước khi đạt quả vô thượng giác, đã từng làm tất cả những gì để trở thành đức Tara như ngày hôm nay.

Nghĩ xem đức Tara phụng sự chúng sinh bằng bốn pháp hành tiêu tai, tăng ích, câu triệu và hàng phục như thế nào. Nhớ lại xem đức Tara vận dụng sắc tướng thị hiện phong phú, cầm phẩm trang sức để phụng sự chúng sinh như thế nào.

Nói cho cùng, bất kể là phần nào trên thân của Ngài cũng đều luôn thi triển thiện hạnh, làm lợi cho chúng sinh. Không có nơi nào trên thân nhiệm mầu của đức Tara là không đang phụng sự cho chúng sinh. Đức Tara có đủ mọi thiện đức này.

Bất kể kỳ một ai hướng tâm gọi đến Ngài, dù giàu hay nghèo, sang hay hèn, Ngài đều trợ giúp. Tình thương và sự tận tụy của Ngài dành cho chúng sinh không khác gì của mẹ hiền dành cho con một. Đức Tara luôn sẵn sàng hộ trì cho chúng sinh, không chút ngần ngại. Ngài chờ đợi thời cơ, nhân duyên vừa chín mùi, thiện hạnh giác ngộ của Ngài sẽ tức thì linh ứng.

Chúng ta phải luôn nhớ đến mọi thiện đức khác nhau của Thân Khẩu Ý của đức Tara. Càng nhớ nghĩ, hiểu rõ về thiện đức của đức Tara, tự nhiên sẽ chúng ta sẽ càng thêm tin tưởng, niềm tôn kính càng tăng, sâu xa hướng tâm về Ngài.

Quí vị có thể nghĩ rằng “bất kể gặp được việc tốt lành nào điều lành nào cũng đều nhờ lòng từ ái của đức Tara.” Nói tóm lại, niềm tin càng vững vàng chắc chắn thì sự linh ứng thiện hạnh giác ngộ của đức Tara lại càng thêm mãnh liệt chóng vánh. Cả việc đời thường đã là như vậy. Ví dụ có hai người bạn rất thân, tương thân tương kính, tin tưởng lẫn nhau, vì có mối tương quan mật thiết như vậy nên làm việc gì cũng rất dễ dàng. Với đức Tara cũng là như vậy.

THỜI ĐIỂM

Rạng đông hoàng hôn chuyên tâm trì tụng
Sẽ được hộ trì lìa mọi sợ hãi,
Sạch mọi ác chướng,
thoát cảnh đọa sinh.

Câu này giải thích thời điểm hành trì, thời gian nên tụng  bài xưng tán này. Thời gian tụng sẽ có tác dụng đến kết quả.

Khi gặp các loại vấn đề như bệnh tật, kẻ thù, cướp, trộm v.v… cần tụng bài xưng tán vào buổi chiều tà, trước khi mặt trời lặn, nhớ đến đức Tara dạng oai nộ. Sẽ được lợi ích.

Nếu muốn sạch ác nghiệp, không muốn đọa sinh ba cõi ác đạo thì phải tụng bài xưng tán vào buổi sáng, lúc bình minh, nhớ đến đức Tara dạng từ hòa.

Chúng ta sẽ nhận được lợi ích tương ứng nếu đọc tụng bài xưng tán này với tâm nguyện đúng đắn, vào thời điểm tương ứng trong ngày. Nói cho ngắn gọn, chúng ta sẽ được hộ trì thoát mọi sợ hãi, bao gồm sợ hãi bên ngoài và bên trong, và sẽ được ban cho quả vô úy. Chúng ta cũng sẽ không đọa sinh vào cõi ác đạo, như cõi địa ngục. Tất cả đều hoàn toàn tịnh sạch nhờ tu pháp tu Tara.

LỢI ÍCH

Tiếp theo chánh văn giải thích về lợi ích tụng bài xưng tán. Phần này chia thành hai phần lợi ích cho mình và cho người. Hành trì pháp tu này cho ai thì người ấy cũng sẽ được lợi ích.

Tự lợi

Với tâm nguyện đúng đắn đọc tụng bài xưng tán này sẽ được lợi ích như thế nào?

Được bảy trăm vạn đức Phật Thế Tôn
sớm truyền quán đảnh,
nhờ đại duyên này
chóng đạt quả Phật.

Bảy trăm vạn” là bảy triệu đức Phật. Đức Tara và xung quanh là bảy triệu đức Phật đà do chính Ngài thị hiện sẽ truyền quán đảnh với lực gia trì ánh sáng cam lồ.

Việc gì xảy ra khi thọ quán đảnh như vậy từ đức Tara? Hết thảy mọi điều chúng ta hưởng dụng—nhà cửa, tài sản, của cải, thân thể, tùy tùng—đều trở nên tuyệt hảo, đó là một vài lợi ích nhất thời trước mắt khi thọ quán đảnh từ đức Tara. Lợi ích dài lâu là sẽ mau chóng vượt qua các chứng đạo, chứng địa, đạt quả vô thượng giác.

Phần này lại chia ra làm ba tiểu phần:

  • Lợi ích quay lưng với lầm lỗi
  • Lợi ích quay lưng với nhân tạo khổ
  • Lợi ích quanh lưng với quả báo khổ đau.
Lợi ích quay lưng với lầm lỗi

Tâm niệm bổn tôn thì mọi độc tố kinh hoàng bậc nhất
từ nơi môi trường hay từ sinh vật,
dù ăn, dù uống,
cũng không thể hại.

Độc tố kinh hoàng bậc nhất nói ở đây là gì? Điều gì cản trở không cho chúng ta đạt đến nguồn hạnh phúc nhất thời và dài lâu, lợi ích cứu cánh nói ở đây? Chính là phiền não trong tâm của chúng ta. Phiền não—như sân, như tham—thật sự là chất độc gây ra mọi khổ đau kinh hoàng mà chúng ta phải gánh chịu. Đây là chất độc dữ dội, cướp mất sự tái sinh vào cõi trời và cõi người của chúng ta. Là chất độc vô cùng mãnh liệt, từ đó sinh ra mọi thống khổ cõi ác đạo và cõi luân hồi nói chung.

Lợi ích quay lưng với nhân tạo khổ

Chúng ta ai người bị trúng “độc tố / kinh hoàng bậc nhất / từ nơi môi trường / hay từ sinh vật, dù ăn, dù uống” chỉ cần nhớ đến đức Tara và tụng bài xưng tán này với tâm đúng đắn, tất cả sẽ được tịnh sạch.

Nhớ đến đức Tara và tụng bài xưng tán này với tâm đúng đắn, thì đến cả nguyên nhân tạo khổ cũng đều sẽ bị chận đứng.

Lợi ích quay lưng với quả báo khổ đau.

Câu kệ tiếp theo nói rõ về lợi ích chận đứng quả báo khổ đau.

Thoát khổ tật dịch,
truyền nhiễm, ngộ độc,
hay vì chúng sinh.

Nhờ tụng bài xưng tán đức Tara, cả khối khổ đau như là khổ vì bị các loại tà ma ám chướng, vì bị các loại bệnh khổ, tật dịch hành hạ, độc tố bên ngoài và bên trong v.v… tất cả đều có thể bỏ hết.

Lợi tha

Luận giải tiếp theo nói về lợi ích đọc tụng dùm người khác. Khi vì chúng sinh khác mà đọc tụng bài xưng tán này, chúng sinh ấy sẽ được lợi ích gì?

Tụng bài pháp này / hai, ba, bảy lần, 
Cầu con được con, / cầu của được của, 
hết thảy mong cầu / đều được như nguyện, 
không chút chướng ngại / vì mọi chướng ngại 
đều đã tịnh yên.

Nói “hai, ba, bảy lần” là nghĩa gì? “Hai” nghĩa là ngày và đêm. “Ba” nghĩa là tụng ban ngày ba lần và ban đêm ba lần. “Bảy” nghĩa là mỗi thời tụng bảy lần bài xưng tán. Tụng bài xưng tán hai, ba, bảy lần theo như vừa giải thích thì sẽ “cầu con được con, / cầu của được của, / hết thảy mong cầu / đều được như nguyện, / không chút chướng ngại / vì mọi chướng ngại / đều đã tịnh yên.”

Nếu không thể hành trì theo như vậy vẫn có thể làm theo như pháp Cúng Dường Tara, chia thành ba phần, phần đầu tụng bài xưng tán hai lần, phần thứ hai tụng ba lần, phần thứ ba tụng bảy lần. Đây cũng là một cách tu. Sẽ có tác dụng nếu quí vị có được niềm tin, lòng tự tín, và tin tưởng rằng pháp tu này sẽ linh ứng. Niềm tin không đủ mạnh thì cho dù cả ngày đọc tụng cũng không để làm gì.

Tụng bài xưng tán đức Tara này, mọi mong cầu đều sẽ như nguyện, mọi chướng ngại áng ngữ đều sẽ bị hủy diệt hoàn toàn, và nói vậy nghĩa là chướng ngại nào chưa sinh sẽ không phát sinh, chướng ngại nào đã sinh sẽ bị hủy diệt.

Tới đây hoàn tất lời giảng về xưng tán 21 đức Tara và bài kệ nói về lợi ích đọc tụng bài xưng tán này.

Tất cả quí vị đều bận rộn công ăn việc làm, điều hành cơ sở kinh doanh, chăm sóc cho gia đình v.v… Tuy vậy, buổi sáng thức dậy, hãy cố gắng đừng quên nhớ nghĩ đến đức Tara, nghĩ rằng Ngài vốn bất nhị với bổn sư của quí vị.

Tiếp theo, phải xác định lại mục tiêu sống của ngày hôm nay, phải vì lợi ích của chúng sinh. Quí vị cần xác định lại mục tiêu của mình theo đúng như pháp tu dành cho ba loại căn cơ của giáo pháp lamrim.

Quán tưởng đức Tara bất nhị với bổn sư, hướng tâm thỉnh cầu và quyết chí làm cho mọi hoạt động trong ngày “đều được thành công.” Quí vị làm việc không phải vì lợi riêng mà vì lợi tha, làm để đạt quả giác ngộ, vì lợi ích của khắp chúng sinh.

Nếu có thể, hãy mỗi ngày tụng bài xưng tán 21 đức Tara, sẽ rất tốt vì bài kệ này chứa nguồn năng lực gia trì rất đặc biệt. Hết thảy chư đại thánh giả trong quá khứ đã từng nương vào pháp này để phụng sự chúng sinh, mang đến cho chúng sinh nguồn an vui phúc lợi.

Nếu không thể mỗi ngày tụng bài xưng tán, ít nhất quí vị có thể tụng chú của đức Tara: OM TARE TUTTARE TURE SVAHA, vừa trì chú vừa quán tưởng đức Tara, với niềm tin tưởng sâu xa. Làm như vậy sẽ được lực gia trì không khác gì tụng bài xưng tán đức Tara. Nếu có được lòng tin khi tụng chú Tara, quí vị sẽ tịnh được ác nghiệp, tăng trưởng phước đức.

Trì chú của đức bổn tôn là một phương pháp đặc biệt, đưa tâm về gần gũi đức bổn tôn, làm cho đức bổn tôn vui lòng đẹp dạ. Điểm then chốt là phải có niềm tin khi trì chú.

Khi đi ngủ cũng vậy. Hãy nhớ nghĩ đến đức Tara, hướng tâm thỉnh cầu Ngài.

Mỗi ngày chúng ta đều phải ăn uống. Mỗi khi ăn uống, hãy quán tưởng đức Tara ở phía trước mặt, thấy Ngài bất nhị với bổn sư của mình, rồi cúng dường. Nếu đã từng thọ pháp quán đảnh Tara, quí vị có thể tự khởi hiện thành đức Tara, khởi tâm tự tín nhiệm mầu để dùng thức ăn thức uống. Vì chúng ta cứ phải ăn uống liên tục nên tu như vậy sẽ giúp chúng ta liên tục tích lũy thiện căn công đức.

Điểm trọng yếu ở đây là phải chăm sóc tâm của mình trong từng ngày sống. Mặc dù luôn bận rộn vì công ăn việc làm, nhưng việc gì ta làm cũng đều liên quan đến kẻ khác. Vì vậy khi làm nên giữ tâm địa vị tha, được như vậy sẽ rất tốt.

Mỗi sáng khi vừa thức dậy, quí vị phải nên xác định lại mục tiêu sống cho ngày mới. Cần nghĩ lại xem thân người quí hiếm khó gặp biết bao vậy mà nay đã có được rồi, nhờ đó sẽ thực hiện được việc lớn lao đến mức nào. Cần mỗi ngày nhớ nghĩ như vậy. Đây là điều cần phải làm.

Mỗi sáng thức dậy, tự nhủ với mình rằng “Chỉ được một lần này thôi, có được thân người quí hiếm này. Nhưng sớm muộn gì cũng sẽ mất đi khi chết. Không còn cơ hội nào tốt hơn ngày hôm, phải hành trì Phật Pháp.”

Mỗi ngày đều cần nhớ nghĩ như sau:

  • Thân người với đủ mọi tự do thuận tiện khó đạt như thế nào;
  • Có được thân người sẽ làm được việc lớn đến đâu;
  • Rồi cũng phải chết, cái chết là điều chắc chắn;
  • Chết lúc nào lại không thể biết chắc.

Nếu mỗi ngày đều nhớ nghĩ đến những điều này, ý chí muốn tu sẽ tự nhiên nảy sinh trong tâm của quí vị. Bằng không, quí vị sẽ không muốn tu. Đây là phương pháp chính để đưa tâm về với pháp hành.

Nhớ nghĩ đến mục tiêu lớn lao có thể thực hiện được với thân người đầy đủ mọi tự tại thuận tiện này, chúng ta sẽ tự nhiên quay lưng với việc làm tào tạp vô nghĩa trong đời. Khi có được sự hiểu này—khi thật sự hiểu được điều này—thì cho dù là ngồi vài phút hay nửa giờ không tu, cũng sẽ thấy ân hận sâu xa, cảm thấy phí phạm thời gian quí báu.

Còn nếu tâm không hiểu, cũng không cảm nhận được thân người tự tại thuận tiện này khó đạt đến mức nào, một khi có được sẽ làm được việc lớn ra sao, thì cho dù là ngồi không cả ngày không làm gì cả cũng không bận tâm. Ngược lại sẽ nói “thì đã sao đâu chứ!”

Vì vậy hãy nên suy nghĩ tường tận về ý nghĩa của những mục tiêu lớn mà thân người mình đang có đây có thể làm được. Rồi thì tự nhiên sẽ bỏ mọi việc tào tạp vô nghĩa. Biết nhớ nghĩ đến thân người này khó đạt như thế nào, chắc chắn quí vị sẽ không làm sao có thể lười biếng ngồi không.

Vì sao thân người đầy đủ tự tại thuận tiện lại khó đạt? Vì nhân mang đến thân người này rất khó gieo.

Nhân đó là gì? Là giữ giới thanh tịnh.

Giới hạnh là điều khó giữ, nên thân người khó đạt. Chúng ta không những là có được thân người, lại còn là thân người tuyệt hảo, bao gồm đầu đủ mọi tự tại và thuận tiện.

Không những là như vậy, chúng ta không chỉ gặp được Phật Pháp, lại còn là Phật Pháp Đại Thừa. Không những là gặp được Phật Pháp Đại thừa, chúng ta còn gặp được Đại Thừa Kim Cang, là giáo pháp kín mật Phật dạy.

Hiểu được như vậy mới ý thức được duyên may này quí giá đến mức nào. Một khi hiểu được mình đã phải khó khăn thế nào mới có được thân người với đầy đủ mọi tự tại thuận tiện như thế này, khi ấy chúng ta sẽ tiếp tục hành trì, không ngán, không mệt, cũng không chán. Ý nghĩ muốn tu sẽ tự nhiên dấy lên.

Vì vậy điều này rất quan trọng, mỗi ngày đều phải nhớ nghĩ:

  • Thân người với đủ mọi tự tại thuận tiện, chúng ta làm sao nào mà có được;
  • Thân người này khó đạt ra sao;
  • Đạt được rồi, có ý nghĩa lớn lao ra sao;

Đồng thời, hãy nhớ rằng:

  • Thân người này không bền ra sao;
  • Cái chết là điều chắc chắn, nhưng bao giờ chết lại là điều không chắc.

Mỗi ngày đều nhớ nghĩ về những điều này, tâm của quí vị sẽ vui trong pháp hành.

–  HẾT –