Dedication Prayers, Lama Zopa Rinpoche extracts from Shantideva’s Bodhisatva Way of Life [Vietnamese Only] –
Lời hồi hướng do Lama Zopa Rinpoche trích từ Nhập Bồ Đề Hạnh Luận của ngài Shantideva (Tịch Thiên).
Với công đức này / nguyện cho chúng sinh /
Ở khắp mọi nơi / đang chịu khổ đau / tinh thần thể xác /
Tìm được đầy tràn / niềm vui hạnh phúc / lớn rộng như biển.
Nguyện khắp chúng sinh / không có một ai /
Phải chịu nạn khổ, / tạo tác ác nghiệp, /
Gặp cảnh tật bịnh, / khổ vì sợ hãi, /
Khổ vì bị người / sỉ nhục khinh khi.
Nguyện cho người mù / thấy được hình sắc, /
Nguyện cho người điếc / nghe được âm thanh, /
Nguyện cho những ai / mỏi mòn kiệt quệ /
được thời ngơi nghỉ.
Nguyện người đang lạnh / tìm được áo quần, /
Nguyện người đang đói / kiếm được miếng ăn, /
Nguyện người đang khát / tìm ra thức uống, /
Cùng nguồn giải khát / thơm ngon tuyệt diệu.
Nguyện cho người nghèo / tìm được tài sản, /
Nguyện người sầu khổ / thấy được niềm vui, /
Nguyện người tuyệt vọng / gặp nguồn hy vọng, /
Vĩnh viễn sống trong / bình an hạnh phúc.
Nguyện mưa đúng thời / vụ mùa xanh tốt, /
Nguyện thuốc chữa lành / mọi cơn bịnh dữ, /
Nguyện mọi lời nguyện / thánh thiện tốt lành /
luôn thành sự thật. /
Nguyện người tật bịnh / thoát được bịnh khổ, /
Nguyện nạn thiên tai / vĩnh viễn không còn. /
Nguyện kẻ khiếp sợ / thoát cơn sợ hãi, /
Nguyện kẻ tù đày / thoát hết cùm gông, /
Nguyện kẻ yếu kém / tìm ra sức mạnh. /
Và xin nguyện cho / tất cả những ai /
Sống trong cõi thế / đều biết quay về /
nâng đỡ lẫn nhau.
Không gian chưa cùng
Chúng sinh chưa tận
Nguyện con còn vẫn
Ở lại chốn này
Quét khổ thế gian
Shantideva: NHẬP BỒ ĐỀ HẠNH LUẬN
Tựa đề tiếng Phạn: Bodhicaryāvatāra (còn gọi là Bodhisattvacaryāvatāra), Thánh Giả Tịch Thiên [Shantideva] tác luận Tựa đề tiếng Tạng: བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའི་སྤྱོད་པ་ལ་འཇུགས་པ་ཞེས་བྱ་བ་བཞུགས་སོ།། Tựa đề tiếng Việt: Nhập Bồ Đề Hạnh Luận, (hay là Nhập Bồ Tát Hạnh Luận). Hồng như chuyển ngữ – Bản hiệu đính, 21/03/2014. Điều kiện hành trì: Pháp phổ thông, ai cũng có thể đọc và hành trì.
Thầy tôi dạy rằng: “Cảnh giới chứng ngộ của ngài Shantideva, kẻ phàm như chúng ta đây không làm sao có thể tưởng tượng nổi. Vậy mà các con lại đủ túc duyên để nghe được những lời này, thật là phước báu khó tìm cầu, phải biết trân quí.”
Bằng tấm lòng trân quí như vậy, tôi xin dịch bài pháp này. Là niềm tri ân sâu xa đối với Ân Sư cùng hết thảy những ai còn nán lại trong khổ đau sinh tử để cho kẻ chậm chân như tôi đây vẫn còn hy vọng phát khởi tâm bồ đề.
Hai nguồn sử liệu chính về cuộc đời ngài Shantideva (Tịch Thiên) đến từ ngài Butön (1290-1364) – và ngài Jetsün Tāranātha (1575-1608). Ngoài ra còn một bản văn ngắn được tìm thấy trong các tác phẩm của học giả Yeshe Peljor (thế kỷ 18). Gần đây, các nhà nghiên cứu phát hiện thêm một đoản văn trong bản thảo chép tay ở Nepal thế kỷ 14.
Ngài Kunzang Pelden trong bộ luận “Văn Thù Kim Khẩu Cam Lồ” đã dựa theo bản văn của ngài Butön để soạn tiểu sử của ngài Shantideva. Bản tiếng Việt lược dịch từ tiểu sử này.
Nhập Bồ Đề Hạnh Luận (Bodhicaryāvatāra) do Bồ tát Shantideva (Tịch Thiên) trước tác. Ngài là bậc thầy uyên thâm hội đủ ba phẩm tính cần có của luận giả: trực chứng chân đế, trực kiến bổn tôn, thông làu ngũ minh. Khi còn tại thế, ngài Shantideva viên thành bảy công hạnh phi thường. Đặc biệt ngài là người được đấng bổn tôn Diệu Âm[1] trực tiếp hộ niệm gia trì.
Ngài Shantideva vốn mang dòng máu đế vương. Vào khoảng đầu thế kỷ VIII tại miền Nam xứ Saurashtra (nay là Bang Gujarat tại Tây Bắc Ấn Độ), quốc vương Kalyanavarnam hạ sanh thái tử, đặt tên là Shantivarman. Từ nhỏ thái tử đã sớm hướng tâm về chư Phật trong các thời quá khứ, tự nhiên mang sẵn dòng giống Đại Thừa, dành trọn tấm lòng tôn kính phi thường cho chư Tăng sĩ, Đạo sư. Ngài phụng sự hiến cúng khắp cả, đặc biệt quan tâm chăm sóc cho người nghèo hèn, tật bệnh, đọa rơi. Với trái tim kiên định hướng về nẻo giác, ngài tích lũy tri thức, thông làu ngũ minh. Đặc biệt ngài thỉnh được nghi quỹ đức Văn Thù từ một vị khất sĩ khổ hạnh, hành trì miên mật và xem đức Văn Thù là bổn tôn.
Khi Quốc vương băng hà, vương quyền trao về cho Thái tử Shantivarman. Ngai vàng được dựng lên lộng lẫy để chuẩn bị cho lễ Đăng quang. Ngay đêm hôm trước đại lễ, thái tử nằm mộng thấy đức Diệu Âm tọa trên ngai vàng, nhìn ngài mà nói như sau:
Con yêu duy nhất, / ngai này của ta. Ta là Văn Thù / sư phụ con đây. Sao con có thể / sánh với sư phụ ngang vai ngang vế / ngồi cùng một ngai?
Giật mình tỉnh giấc, thái tử Shantisarman hiểu rằng việc kế thừa vương vị là điều chẳng nên làm. Lòng không lưu luyến tài sản thế gian, ngài từ bỏ ngai vàng, đến học viện Na-lan-đà thọ giới cùng ngài Jayadeva, thượng thủ của năm trăm vị Hiền Thánh, và được sư phụ ban cho pháp hiệu Shantideva[2].
Trong thời gian tu học tại Na-lan-đà, ngài được đức Văn Thù trực tiếp truyền cho Tam Tạng kinh điển. Ngài dựa theo đó tu tập miên mật, qui nạp nội dung chánh pháp thành hai bộ luận: Học Tập Luận và Kinh Tập Luận. Mặc dù ngài Shantideva thành tựu vô lượng thiện đức từ cả hai pháp diệt và đạo, thế nhưng chư Tăng đồng học vẫn không hay biết, chỉ thấy người này hết ăn (Bhuj) lại ngủ (Sup), rồi lại đi lang thang (Kutimgata), nên gọi ngài là Bhu-su-ku. Họ vô cùng bất bình, than rằng, “cả ba việc của người xuất gia tại đây[3], người này chẳng được việc nào cả, sao đủ tư cách thọ trai tăng! Phải đuổi đi mới được!” Họ liền bàn cách đuổi ngài đi, bày ra việc chư Tăng thay phiên nói pháp, tin chắc rằng bao giờ đến phiên phải nói pháp, chắc chắn ngài sẽ xấu hổ mà trốn đi. Họ liên tục đến thúc dục, nhưng lần nào ngài cũng từ chối, bảo rằng không biết gì để nói. Họ kéo nhau đến thỉnh Viện trưởng ra lệnh cho ngài nói pháp. Viện trưởng vừa lên tiếng, ngài liền hứa ngay. Thấy vậy, một số tăng sĩ bắt đầu chột dạ. Để thách thức ngài, họ bày biện cúng phẩm cao như núi, mời thật đông người đến dự, dựng một tòa sư tử chênh vênh ngay chính giữa, rồi mời ngài đến. Bất ngờ thấy ngài đã tọa sẵn trên pháp tòa, họ kinh ngạc hoang mang, không hiểu ngài thượng lên pháp tòa bằng cách nào.
Lúc bấy giờ ngài Shantideva điềm nhiên cất tiếng hỏi: “Các ông muốn nghe pháp nào, pháp thường nghe, hay pháp chưa từng nghe?”
Cả pháp hội sững sờ. “Xin cho chúng tôi nghe pháp chưa từng nghe.”
Học Tập Luận quá dài, Kinh Tập Luận lại quá ngắn, vì vậy ngài Shantideva thuyết Nhập Bồ Đề Hạnh Luận, nghĩa rộng nhưng văn gọn. Lúc bấy giờ đức Văn Thù hiện ra ngay giữa trời không, nhiều người thấy được, tín tâm trào dâng vô bờ. Khi đọc đến chỉnh cú 34, chương 9, “cả sắc và không / đều vắng trong tâm…”, ngài Shantideva và đức Văn Thù cùng thăng lên không trung, cao dần, rồi biến mất, chỉ còn giọng nói ngài Shantideva vọng về cho đến cuối bộ luận.
Trong chúng hội, các vị trí nhớ phi thường liền vội vã chép lại bài pháp, nhưng các bản văn dài ngắn không đồng: có vị chép thành bảy trăm chỉnh cú, có vị chép thành một ngàn chỉnh cú, có vị lại chép thành nhiều chỉnh cú hơn. Chư Hiền giả vùng Kashmir chép thành bảy trăm chỉnh cú và gom thành chín chương, trong khi đó chư vị ở Trung Ấn (Magadha – Ma Kiệt Đà) lại chép thành một ngàn chỉnh cú gom thành mười chương. Lúc ấy, bản văn có sự bất nhất như vậy. Hơn nữa, không ai biết gì về hai bộ luận mà ngài Shantideva dặn dò là cần phải đọc, bộ Học Tập Luận và Kinh Tập Luận (xem chương 5, chỉnh cú 105-106).
Về sau, nghe nói ngài Shantideva đang ở tại bảo tháp Shrīdakṣngahiṇa, vùng Nam Ấn, hai vị hiền thánh với trí nhớ thần thông đã lặn lội tìm đến gặp, xin ngài chuẩn xác lại bộ luận. Ngài xác định bản chép của chư Hiền giả vùng Magadha là chính xác. Khi hỏi đến Học Tập Luận và Kinh Tập Luận, ngài bảo rằng hai vị sẽ tìm thấy hai bộ luận này giấu trên mái nhà trong tịnh xá của ngài tại Học Viện Na-lan-đà. Ngài cũng nhân dịp này truyền khẩu và ban lời khai thị cho hai vị.
Ngài Shantideva sau đó du hành về hướng Đông, vận dụng thần thông hàng phục cuộc xung đột nghiêm trọng, mang lại hòa bình cho cả đôi bên.
Ngài cũng độ cho năm trăm người ngoại đạo miền Tây gần xứ Magadha. Lúc ấy nhằm lúc thiên tai, cả làng lâm nạn đói. Dân làng bảo nếu được ngài cứu mạng, họ nguyện tin theo giáo pháp của ngài. Ngài khi ấy mang bình bát chứa cơm khất thực, cầm trong tay, gia trì bằng đại định. Chỉ với một bình bát, cả làng đều được thỏa thuê no đủ. Nhờ duyên lành này, cả làng bỏ mê tín để bước vào chánh pháp.
Thêm một thời gian sau đó, lại trong một nạn đói kinh khiếp, ngài đã cứu mạng một ngàn hành khất.
Về sau ngài làm cận vệ cho Quốc Vương Arivishana, lúc bấy giờ đang gặp nạn chiến tranh với giặc Machala phía Đông Ấn. Ngài đeo bên mình thanh kiếm gỗ đầy uy lực, đủ khả năng hàng phục mọi hiểm họa, mang an bình đến khắp mọi nơi, được sự nể trọng của khắp cả. Tuy vậy, một số quần thần sanh lòng ganh ghét, đến bẩm báo với vua rằng: “đây chỉ là tên bịp bợm, ngưỡng mong bệ hạ suy xét. Hắn nào có vũ khí gì đâu, chỉ đeo mỗi thanh kiếm gỗ, làm sao bảo vệ được cho bệ hạ!” Vua nghe xong nổi giận, xét vũ khí của từng người. Đến khi vua bảo ngài Shantideva tuốt kiếm, ngài từ tốn thưa rằng làm như vậy sẽ khiến vua bị thương.
“Ta bị thương mặc lòng! ngươi cứ hãy rút kiếm ta xem!” Vua ra lệnh.
Không thể cãi lệnh, ngài mời vua đến nơi vắng vẻ, thỉnh vua lấy tay che một mắt, chỉ nhìn bằng con mắt còn lại. Khi thanh kiếm rút ra khỏi vỏ, hào quang rực rỡ chói lòa khiến mắt vua rơi ngay xuống đất. Vua cùng tùy tùng kinh hãi, xin ngài lượng thứ chở che. Ngài Shantideva lúc bấy giờ trả mắt lại cho vua, nhờ lực gia trì của ngài, mắt vua bình thường như cũ, không chút đau đớn. Cả vương quốc bấy giờ khởi tín tâm sâu xa, quay về quy thuận chánh pháp.
Về sau ngài Shantideva đến vùng Shriparvata miền Nam, sống lẫn trong đám hành khất lõa thể. Ở đó ngài ăn nước rửa chén rửa nồi người ta đổ ra. Có một lần cô thị nữ của vua Khatavihara tên là Kachalaha đổ nước rửa chén, chợt thấy nước hắt lên người Shantideva thì lập tức sôi rít lên, chẳng khác gì đổ trên nền sắt nóng. Cô ta lấy đó làm lạ.
Cũng vào lúc bấy giờ, có một vị sư phụ Ấn giáo tên là Shankaradeva tìm đến gặp vua để ra lời thách đố. Ông ta tuyên bố sẽ vẽ mạn-đà-la Maheshvara trên trời không, nếu Phật giáo không ai phá được thì mọi ảnh tượng kinh sách Phật giáo trong vương quốc đều phải vất vào lửa đỏ, trăm dân phải theo đạo của ông ta. Trước lời thách đố này, nhà vua lập tức triệu tập hết thảy cao tăng về báo việc, nhưng không một ai đủ khả năng nhận lời thách đố. Vua ăn ngủ không yên. Thấy vậy, thị nữ Kachalaha bẩm bạch cùng vua chuyện kỳ lạ về gã hành khất, vua liền ra lệnh tìm Shantideva. Quần thần vội vã tìm trong tìm ngoài, rốt cuộc tìm được ngài đang ngồi dưới một gốc cây. Khi nghe đầu đuôi câu chuyện, ngài nói rằng việc này chẳng khó gì, nhưng phải cho ta một bình đầy nước, hai tấm vải, và lửa. Mọi thứ đều được nhanh chóng chuẩn bị theo đúng ý của ngài.
Buổi chiều ngày hôm sau, hành giả ấn giáo đến vẽ mấy lằn lên không trung rồi bỏ đi. Mọi người đều cảm thấy vô cùng bất an. Sáng sớm hôm sau, đương lúc mạn đà la còn đang thành hình, cửa Đông chưa kịp xong thì ngài Shantideva đã nhập vào đại định. Ngay tức thì, trận cuồng phong nổi lên, quét sạch mạn đà la vào hư không. Hết thảy cây cối, hoa màu, nhà cửa đều bị cuốn tan hoang. Vị hành giả Ấn giáo bị gió tốc như một con chim con. Bóng tối bao trùm khắp lãnh thổ. Rồi hào quang chiếu ra từ giữa hai lông mày của ngài Shantideva, soi lối cho vua và hoàng hậu. Cả hai đều bị gió cuốn, tuột hết siêm y, toàn thân đầy bụi. Và cứ thế, ngài Shantideva dùng lửa để sưởi, dùng nước để tắm, dùng vải để vua và hoàng hậu che thân. Ngài lại dùng thần lực của đại định gom hết dân chúng bị gió cuốn trở về lại, tắm rửa, chăm sóc, trấn an. Biết bao người khởi chánh tín, nhờ đó ngoại đạo suy tàn, chánh pháp hưng thịnh dài lâu. Vương quốc này vì vậy mà được gọi là nơi “hàng phục ngoại đạo.”
Mặc dù ngài Shantideva lúc nào cũng tự cho mình chỉ là kẻ phàm phu, nhưng theo lời ngài Jetari, ngài Shantideva là hiện thân của đức Diệu Âm (Văn Thù). Theo lời ngài Prajnaka-ramati thì ngài Shantideva là bậc thánh tăng. Còn riêng nói về hành trạng của ngài, đức Vibhutichandra nói rằng: Trên cõi thế gian / đã từng xuất hiện nhiều đấng Pháp Vương, / vua của chánh pháp, thế nhưng xét về / thành tựu, kinh nghiệm, chẳng ai sánh bằng / Shan-ti-đê-va.
Ngài Shantideva để lại cho hậu thế ba tuyệt tác: Hai tác phẩm đầu là HọcTập Luận (Shikṣhāsamucchaya) và Kinh Tập Luận (Sūtrasamucchaya), một phong phú, một ngắn gọn. Tác phẩm thứ ba tựa đề Nhập Bồ Đề Hạnh Luận (Bodhicaryāvatāra), hình thức ngắn gọn nhưng nội dung vô cùng phong phú. Ở xứ Ấn có hơn 108 luận giải viết về bài luận bất hủ này.
———–
Ghi chú phần Tiểu Sử:
[1] Bồ Tát Diệu Âm (Manjushosha) là tên khác của Bồ Tát Văn Thù (Manjushri) [2]Shanti- là một phần tên của ngài, và –deva là một phần tên của sư phụ, ghép lại thành Shantideva [3] Học, tu, và làm Phật sự như in sách, làm thuốc v.v…
Tựa đề tiếng Phạn: Bodhicaryāvatāra (còn gọi là Bodhisattvacaryāvatāra)
Tựa đề tiếng Tạng: ༄༅། །བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའི་སྤྱོད་པ་ལ་འཇུགས་པ་ཞེས་བྱ་བ་བཞུགས་སོ།།
Tựa đề tiếng Việt: Nhập Bồ Đề Hạnh Luận, (hay là Nhập Bồ Tát Hạnh Luận).
CHƯƠNG MỘT: LỢI ÍCH TÂM BỒ ĐỀ
I-1. Đệ tử đảnh lễ Thiện Thệ, Pháp Thân, chư vị Trưởng tử cùng người xứng đáng. Nay tôi kính xin thuận theo lời Phật, tóm lược lối vào giới hạnh bồ tát.
I-2. Lời tôi nói đây chẳng có gì mới, cũng chẳng có gì khéo nói hơn ai. Tôi không viết vì lợi ích chúng sinh, mà chỉ là để tự tâm huân tập.
I-3. Lời này có thể tăng chút tín tâm, cho tôi huân dưỡng thuận theo thiện đức. Ai người may mắn tương tự như tôi, nhờ đọc lời này đôi khi có lợi.
I-4. Tự tại, thuận duyên là điều khó đạt, đủ sức toàn thành nguyện ước chúng sinh. Vậy nếu nay tôi thủ lợi riêng mình, kiếp sau đâu thể thuận duyên như vậy.
I-5. Tựa như tia chớp giữa nền trời đen, trong một phút giây sáng soi khắp cả. Nhờ Phật gia hộ mà người thế gian đôi khi thoạt hiện một vài thiện đức.
I-6. Cho nên tâm thiện bao giờ cũng yếu; tâm ác thì lại mạnh dữ vô cùng. Muốn điều ngự tâm, ngoài tâm bồ đề, thử hỏi có còn thiện tâm nào khác ?
I-7. Mâu Ni nhiều kiếp thâm sâu chiêm nghiệm, thấy chỉ tâm này mới thật lợi sinh. Vô lượng chúng sinh nương vào tâm này, có thể dễ dàng viên thành đại lạc.
I-8. Ai người mong cầu diệt trăm khổ nạn, mong quét bất hạnh của khắp chúng sinh, hay mong được hưởng vạn cảnh yên vui, tâm bồ đề này chớ nên lìa bỏ.
I-9. Chúng sinh khốn khổ trôi lăn luân hồi mà phát được tâm, thì ngay lúc ấy sẽ được gọi là Như lai trưởng tử, thành nơi xứng cho trời, người hiến cúng.
I-10. Tương tự thuốc tiên hóa sắt thành vàng, nay thân ô nhiễm nhờ tâm bồ đề mà thành thân Phật vô vàn trân quí. Vậy hãy giữ chắc tâm bồ đề này.
I-11. Đấng độ quần sinh dùng trí vô lượng quán chiếu tận tường và đều thấy rõ: ai người muốn thoát cảnh khổ luân hồi, phải giữ cho chặt ngọc bồ đề tâm.
I-12. Những thiện đức khác giống như thân chuối, ra quả một lần rồi là tàn rụi. Nhưng tâm bồ đề triền miên kết trái, không bao giờ tàn, vững vàng lớn mạnh.
I-13. Sợ cảnh hung hiểm, ta nương anh hùng; cho dù phạm phải tội ác tột cùng, chỉ cần phát tâm tức thì vượt thoát. Vậy sao những kẻ sợ cảnh đọa rơi lại chẳng tìm đến nương tâm bồ đề ?
I-14. Như lửa hoại kiếp thiêu rụi thế gian, tâm bồ đề này thiêu tan ác nghiệp. Lợi ích vô lượng, bất khả tư nghì, bậc trí Từ Thị dạy cho Thiện Tài.
I-15. Cần biết tâm này nói gọn, có hai, một là ước muốn: bồ đề tâm nguyện; hai là thực hiện: bồ đề tâm hành.
I-16. Cũng như muốn đi khác với lúc đi, tương tự như vậy, kẻ trí cần hiểu thứ tự khác biệt giữa hai tâm này.
I-17. Cho dù còn vướng ở trong sinh tử, bồ đề tâm nguyện đơm quả lớn lao, tuy nhiên cũng vẫn chưa được liên tục như là công đức bồ đề tâm hành.
I-18. Bao giờ phát tâm không còn thoái chuyển, nguyện độ chúng sinh thoát khổ luân hồi, liền ngay lúc ấy, từ đấy trở đi,
I-19. cho dù ngủ nghỉ, hay dù tán tâm, cả một suối nguồn công đức bất tận cũng vẫn trỗi mạnh rộng sánh không gian.
I-20. Chính đức Như lai đã dạy điều này trong bộ Kinh Su-ba-hu Thỉnh Vấn, là để giúp cho những người tâm nhỏ có thể phát khởi tín tâm đại thừa.
I-21. Vì muốn lợi người mà khởi tâm cầu thoát bệnh nhức đầu cho khắp chúng sinh, thì công đức này cũng đã vô tận.
I-22. Huống chi công đức cầu khắp chúng sinh thoát vô lượng khổ, rồi đưa chúng sinh viên thành vô lượng thiện căn công đức.
I-23. Thử hỏi tâm này mấy ai có được ? dù cha hay mẹ chư thiên, thiện giả, ngay cả Phạm Thiên biết có được chăng ?
I-24. Tâm này chúng sinh chưa từng có được, dù là trong mơ, dù chỉ cho mình. Làm sao có thể có được tâm địa vì khắp chúng sinh ?
I-25. Chúng sinh phàm phu chưa từng khởi tâm; Độ cho chính mình còn chưa nghĩ tới ! Tâm bồ đề này mà khởi sinh được là điều nhiệm mầu chưa từng thấy qua !
I-26. Là thuốc chữa lành mọi cơn bệnh dữ, là nguồn hạnh phúc cho khắp chúng sinh. Công đức bồ đề vô vàn quí giá, thật chẳng lấy gì cân đo cho được.
I-27. Chỉ cần một niệm gánh vác chúng sinh, công đức quá hơn công đức cúng Phật, huống chi nỗ lực mang nguồn an lạc về cho chúng sinh.
I-28. Là vì chúng sinh dù cầu thoát khổ, nhưng vẫn mê mải chọn khổ mà theo. Dù cầu an vui, thế nhưng an vui thì lại u mê hủy diệt tất cả như diệt kẻ thù.
I-29. Ai mang vui đến cho người bất hạnh, ai quét khổ nạn cho kẻ khốn cùng,
I-30. ai xua bóng tối mê muội vô minh, thiện đức này đây lấy gì sánh nổi ? có bạn nào hơn người bạn lành này ? chẳng công đức nào tương tự như vậy !
I-31. Giúp người đền ơn mà còn được khen, huống chi bồ tát làm lợi chúng sinh chẳng đợi ai cầu.
I-32. Bủn xỉn mang ra chút ít thực phẩm, khinh miệt bố thí cho đôi ba người, chỉ đủ ấm bụng nửa ngày mà thôi, cũng còn được khen là làm việc thiện.
I-33. Huống chi vĩnh viễn tặng khắp chúng sinh suối nguồn hỉ lạc vô thượng bồ đề; chúng sinh trong tâm có ước nguyện gì, thì đều hết thảy làm cho như nguyện.
I-34. Bậc trí dạy rằng: với chư trưởng tử từ bi của Phật mà khởi niệm ác, khởi bao ác niệm thì phải đọa rơi đủ bấy nhiêu kiếp vào cảnh địa ngục.
I-35. Nhưng nếu khởi được tín tâm trong sáng, thời quả gặt hái tươi tốt xum xuê, vì bồ tát dù rơi vào nghịch cảnh, công đức bồ đề vẫn không suy thoái, thiện đức vững vàng tăng trưởng tự nhiên.
I-36. Nay tôi nguyện xin đê đầu đảnh lễ tất cả những ai sinh tâm bồ đề. Nguyện xin quy y suối nguồn an lạc: người mang vui đến cho kẻ hại mình.
II-1. Nay để phát tâm vô thượng bồ đề, bao phẩm tốt lành tôi xin dâng hiến Như lai, Diệu Pháp vô cấu cực hiếm, cùng chư Trưởng tử thiện đức như biển.
II-2. Nào hoa, nào quả, nào là diệu dược, bao nhiêu châu ngọc của khắp thế gian, hết thảy nguồn nước trong thanh thơm ngọt,
II-3. bao núi châu bảo, bao rừng tịnh yên, bao nhiêu nhánh cây ngàn hoa kín rợp, bao nhiêu đại thụ trái nặng trĩu cành;
II-4. hương thơm của khắp cõi tiên, cõi phàm, hương đốt, cây ngọc, cùng cây như ý, vụ mùa tốt tươi không người cấy trồng, phẩm lượng phong phú xứng dâng lên Phật;
II-5. Này là ao hồ rực rỡ cánh sen, này là tiếng chim nhẹ nhàng thanh thoát, cùng bao phẩm vật không của riêng ai, thênh thang đầy khắp không gian vô tận.
II-6. Nguyện xin dâng hiến từ giữa nơi tâm, dâng đức Mâu ni bậc lưỡng túc tôn cùng chư trưởng tử, kính xin chư vị thương tưởng cho tôi từ bi tiếp nhận.
II-7. Vì công đức cạn nên tôi bần hàn, không có gì khác để mà dâng Phật. Chư Phật đã nguyện gánh vác chúng sinh, xin hãy vì tôi tiếp nhận cúng phẩm.
II-8. Bao nhiêu thân mạng kể từ muôn kiếp, tôi xin kính dâng chư Phật, bồ tát, xin bậc đại hùng thu nhận cho tôi, với trọn lòng thành nguyện về phụng sự.
II-9. Nếu chư vị thương thu nhận tôi về, thời tôi không còn khuất phục sinh tử, ngược lại có thể lợi ích chúng sinh. Bao nhiêu ác nghiệp vất bỏ phía sau, sẽ không bao giờ quay đầu trở lại.
II-10. Nhà tắm ngát hương nguy nga tráng lệ, nền đất pha lê trong veo ngời sáng, cột trụ uy nghi khảm đầy châu báu, dù lọng kín rợp lấp lánh ngọc trai.
II-11. Đây bình châu ngọc đầy ắp nước hương, nhã nhạc du dương, thỉnh Như lai tắm.
II-12. Đây khăn thơm sạch, chất liệu phi phàm, đệ tử kính xin lau khô thân Phật. Dâng y cõi thiên sạch thơm tươi thắm,
II-13. mang hết y phục mềm mại dịu êm, trang sức quí giá nhiều hàng trăm vạn, kính dâng chư tôn Phổ Hiền, Văn Thù, đức Quan Thế Âm cùng chư bồ tát.
II-14. Hương xoa dịu ngát toàn cõi đại thiên, đệ tử kính xin thoa lên ngọc thể của đấng Mâu ni, rạng tỏa ánh vàng như là hào quang vàng ròng tinh luyện.
II-15. Trước đấng Mâu Ni, ruộng phước tối thượng, đệ tử bày biện rực rỡ ngàn hoa, măn đa ra va, sen và ưu đàm… bao nhiêu hoa thơm kết dăng thành chuỗi.
II-21. Nguyện rải mưa hoa ở trên pháp bảo, trên tháp xá lợi cùng mọi biểu tượng ruộng phước Như lai.
II-22. Văn Thù Sư Lợi cùng chư bồ tát đã từng cúng dường Thế tôn ra sao, nay tôi nguyện xin làm theo như vậy, cúng dường Như lai cùng chư bồ tát.
II-23. Với hải triều âm, tôi xin tán dương biển rộng công đức; nguyện diệu âm này theo mây lan rộng cùng khắp mọi nơi.
II-24. Tam thiên thế giới có bao vi trần, tôi nay cũng nguyện hiện bấy nhiêu thân, kính lạy khắp cả chư Phật ba thời, lạy Pháp và Tăng, không hề thiếu sót.
II-25. Tôi xin kính lạy tháp cùng trú xứ của tâm bồ đề, phương trượng truyền giới, đạo sư uyên thâm, hành giả thánh chúng.
II-26. Từ nay đến ngày đạt quả bồ đề, tôi nguyện quay về qui y nơi Phật, qui y nơi Pháp cùng chư bồ tát.
II-27. Xin chắp hai tay thành tâm khẩn nguyện, Phật và bồ tát trú ở mười phương, rộng lượng từ bi chứng giám cho tôi:
II-28. Kể từ vô thủy sinh tử luân hồi, đời này đời khác, bao nhiêu việc ác, tôi đã tự làm, hay bảo người làm.
II-29. Lại còn để cho vô minh thao túng, làm ác mà lại thích thú vui cùng. Nay đã biết lỗi, xin đấng chở che cho tôi quay về thành tâm sám hối.
II-30. Bao nhiêu lầm lỗi do tâm phiền não động thân khẩu ý mà phát sinh ra, xúc phạm Tam Bảo, xúc phạm mẹ, cha, với cả đạo sư, cùng bao việc khác.
II-31. Tôi, kẻ đọa rơi, vướng bao lầm lỗi, bao nhiêu ác nghiệp tôi đã làm nên, nay xin đối trước Thầy của trời người, nguyện không che đậy, một lòng sám hối.
II-32. Lỡ như chết đi mà chưa kịp sám, thời biết làm sao thoát được ác nghiệp ! tôi thành khẩn xin chư tôn che chở cho tôi sớm về sám hối qui y.
II-33. Thần chết thì chẳng tin tưởng được đâu, việc xong hay chưa có bao giờ đợi. Ai bệnh ai khỏe, mạng sống phù du, làm sao có thể tin vào cho được.
II-34. Rồi cũng phải đi, Lìa xa tất cả. Nhưng tôi thì có ý thức được đâu. Cứ bạn cứ thù, ân ân oán oán, trùng trùng điệp điệp, ác nghiệp đầy thân.
II-35. Kẻ thù mà chi, rồi cũng sẽ tan. bằng hữu mà chi, rồi cũng sẽ mất. ngay chính tôi đây cũng sẽ không còn, tất cả mọi cảnh đều là như vậy.
II-36. Hết thảy mọi sự hiện trong cõi đời, phù du ngắn ngủi như một giấc mơ, rồi tan biến hết vào trong ký ức, khi đã tan rồi tìm chẳng thấy đâu.
II-37. Cứ mỗi phút giây trong đời sống này, kẻ thù bằng hữu cứ thế mà đi. vậy mà vì họ tôi gieo ác nghiệp, quả báo thì vẫn còn nằm phía trước.
II-38. Thế nhưng tâm tôi chẳng hề nghĩ tới, rằng tôi đây cũng ngắn ngủi không bền. cứ vậy quay cuồng với tham cùng sân, gieo biết bao nhiêu ác nghiệp ác chướng.
II-39. Hết ngày lại đêm, có bao giờ ngớt, mạng sống thúc ngắn đều đặn không ngừng, chẳng có cách gì nối cho dài lại. Làm sao khỏi chết người giống như tôi ?
II-40. Khi ấy tôi nằm trên giường hấp hối, thân nhân bằng hữu dù ở cạnh bên, cũng chỉ mình tôi lìa xa cõi thế, nghe đời sống cạn mạng sống đoạn lìa.
II-41. Đến khi thần chết đến bắt tôi đi, thân nhân bằng hữu liệu có ích gì ? chỉ còn thiện đức làm nơi che chở, vậy mà tôi đã khinh xuất bỏ qua.
II-42. Lạy đấng chở che ! tôi vì vô tâm, chẳng ngờ có cảnh kinh hoàng như vậy. Chỉ vì đời sống phù du không bền, mà gieo biết bao ác nghiệp chồng chất.
II-43. Nếu như có người đang bị dẫn đến nơi chốn hành hình chặt chân chặt tay, chắc chắn kinh hãi cổ khô, mắt trợn, thần sắc biến đổi chẳng được như xưa.
II-44. Huống chi là tôi. Khi ấy bị lũ ngục tốt diêm vương dị hình dị dạng túm lên lôi xuống, khổ bệnh hành hạ, bấn loạn hãi hùng.
II-45. Ai cứu tôi đây, che chở cho tôi, giúp cho tôi thoát cảnh kinh hoàng này ? Mắt tôi hoảng hốt nhìn quanh tứ phía, hoang mang mong gặp một chốn chở che.
II-46. Nhưng nhìn bốn phía vẫn chẳng tìm ra, có được chốn nào làm nơi nương dựa. Đớn đau tràn ngập, thất vọng vô bờ, không nơi che chở giờ biết làm sao !
II-47. Vậy ngay hôm nay nguyện qui y Phật: là bậc chở che cho kẻ trầm luân, cứu vớt chúng sinh trôi lăn sinh tử, là bậc uy dũng ban sự vô úy.
II-48. Tôi nguyện quay về qui y nơi Pháp: là mọi thành tựu Phật chứng trong tâm, phá tan hết thảy khổ nạn luân hồi. Tôi cũng quay về qui y bồ tát:
II-49. vì quá kinh hãi bao mối hiểm nguy, tôi mang bản thân dâng đức Phổ Hiền; tôi cũng nguyện xin mang hết thân mạng kính dâng lên đức Diệu Âm bồ tát.
II-50. Đấng đại chở che đức Quan Thế Âm, thiện hạnh từ bi không hề hư ngụy: tận cùng thống khổ tôi gọi thiết tha, “xin hãy cứu con kẻ bất thiện này.”
II-51. Đức Hư Không Tạng, đức Địa Tạng Vương, cùng với hết thảy các đấng chở che, đại từ đại bi, lòng con hướng về thiết tha níu gọi, xin được qui y.
II-52. Nguyện về nương dựa đức Kim Cang Thủ, thoáng thấy bóng ngài là lũ ác hung ngục tốt diêm vương hoảng chạy tứ phía.
II-53. Trước kia lời Phật tôi chẳng chịu nghe, nhưng nay thấy cảnh kinh hãi thế này, xin cho tôi về tìm nơi nương dựa, xin hãy giúp tôi quét sạch hiểm nguy.
II-54. Bệnh nhỏ đã phải nghe lời thầy thuốc, huống chi trăm vạn trọng bệnh trầm kha, do tham sân si tác hại tơi bời.
II-55. Chỉ một bệnh thôi đã đủ hủy diệt toàn cõi Diêm Phù; kiếm khắp mọi nơi cũng chẳng thế nào tìm ra thuốc chữa.
II-56. Vậy thì lời Phật, bậc đại y vương, đủ sức chữa lành mọi cơn bệnh dữ, nếu như tôi chẳng thuận ý làm theo, thì có phải là chí ngu không vậy !
II-57. Đi cạnh vực thẳm bé nhỏ tầm thường mà đã ra công đề phòng hết sức, huống chi hiểm họa vực thẳm địa ngục, sa vào ngàn trượng rơi đọa triền miên.
II-58. Chẳng thể nhởn nhơ nghĩ mình không chết, nhất định có ngày tôi phải ra đi.
II-59. Vậy ai là người giúp được tôi đây ? làm sao có thể chắc mình thoát nạn ? Biết rồi có ngày cũng sẽ tan biến, làm sao có thể thanh thản ngồi yên ?
II-60. Cảnh sống vừa đến là đã tan bay. Còn gì cho tôi ? Có gì ở lại ? Vậy mà cứ níu điều không còn nữa, tôi đã phụ lời dạy của Thầy tôi !
II-61. Đến khi đời này bỏ lại phía sau, cùng với hết thảy thân nhân bằng hữu, một mình tôi phải lang thang vô định, thân nhân bằng hữu giữ có ích gì !
II-62. “Làm sao có thể quét sạch ác nghiệp ? là điều chắc chắn mang quả khổ đau !” Đây mới là điều đáng phải quan tâm, ngày cũng như đêm đừng lo việc khác.
II-63. Tôi bởi ngu si, tạo bao việc ác, phạm mười bất thiện, phá giới Phật cho,
II-64. Vì sợ quả báo nhất định sẽ đến, tôi chắp hai tay, kính lạy không ngừng. thiết tha mong cầu các đấng chở che, chứng giám cho tôi phát lộ sám hối.
II-65. Thỉnh Phật thương xót lấy nghiệp dùm tôi. Đối với hết thảy mọi điều bất thiện, từ nay tôi sẽ nhất định không làm.
III-1. Tôi xin vui cùng tất cả việc làm khiến vơi khổ đau trong cõi ác đạo; hay là khiến nơi khổ đau chưa đến có thể giữ nguồn hạnh phúc an vui.
III-2. Tôi xin vui cùng công đức bồ đề, nhờ đó chúng sinh đoạn lìa phiền não, đạt quả giải thoát, thoát khổ thọ sinh.
III-3. Tôi xin tùy hỉ quả vị Phật đà; vui cùng chứng địa của chư trưởng tử;
III-4. Vui với biển cả công đức phát tâm, đưa hết chúng sinh đến bờ an lạc; vui cùng thiện hạnh nâng đỡ chúng sinh.
III-5. Đối trước chư Phật ở khắp mười phương, tôi chắp hai tay thiết tha khẩn nguyện: xin vì chúng sinh thắp ngọn chánh pháp, soi cõi tối tăm khốn khổ hoang mang.
III-6. Chư Phật Thế Tôn muốn hiện niết bàn, thì tôi chắp tay thiết tha khẩn nguyện: kính xin chư Phật sống cùng đời kiếp, đừng bỏ chúng tôi đui mù lang thang.
III-7. Làm những điều này được bao công đức, tôi nguyện hồi hướng về khắp chúng sinh thoát mọi cảnh khổ.
III-8. Chúng sinh có bệnh, bệnh nếu chưa lành, thời tôi còn vẫn theo làm thầy thuốc, làm người điều dưỡng, làm cả thuốc thang.
III-9. Nguyện tôi mưa xuống đầy tràn thực phẩm giải cơn đói khát. Nguyện trong thời kỳ dữ dội kiếp nạn, thân tôi sẽ thành nước uống thức ăn.
III-10. Chúng sinh có nghèo, khổ cực cơ hàn, nguyện tôi sẽ là kho bồ bất tận, hiện ngay trước mặt của khắp chúng sinh; bao nhiêu nhu cầu tôi cung ứng đủ.
III-11. Tài sản, thân mạng, ba thời công đức, tôi mang cho hết, cầu lợi chúng sinh, không hề cảm thấy có gì mất mát.
III-12. Muốn đạt niết bàn phải cho ra hết, trọn vẹn tâm tôi chỉ hướng quả này. Dù sao rồi cũng phải bỏ mà đi, chi bằng bây giờ mang ra bố thí.
III-13. Thân mạng này đây tôi xin hiến cúng cho khắp chúng sinh tùy ý hưởng dụng. Dù giết, dù chê dù là đánh đập, tôi cũng cam tâm.
III-14. Cứ mang tôi ra mà làm trò vui, tha hồ bỡn cợt, chê bai, chế nhạo. tấm thân này đây tôi đã hiến cúng, thì còn có gì đáng để quan tâm.
III-15. Muốn làm gì tôi cứ mặc tình làm, miễn đừng làm điều tự hại mà thôi. Mỗi tâm mỗi niệm họ nhắm vào tôi, nguyện cho hết thảy đều thành lợi ích.
III-16. Nếu nghĩ đến tôi mà tâm không yên, sùng sục nổi sân, nổi cơn ác hận, nguyện ác hận này luôn trở thành nhân giúp cho họ được sở cầu như ý.
III-17. Cùng khắp những ai chỉ trỏ mặt tôi, gieo xuống cho tôi bao điều tổn hại, hoặc mang tôi ra dèm pha, chế diễu, nguyện cho họ đạt thiện duyên bồ đề.
III-18. Ai thiếu chỗ nương, tôi làm chỗ nương; ai khách lữ hành, tôi xin dẫn lối; ai người đang cần vượt biển vượt sông, tôi đây xin nguyện làm ghe, thuyền, cầu.
III-19. Ai ngóng đất liền, tôi làm hòn đảo; ai tìm ánh sáng, tôi sẽ là đèn; ai cần ngơi nghỉ, tôi là giường chiếu; ai cần giúp việc, tôi đây tôi đòi.
III-20. Làm ngọc như ý, làm bình bảo quí, làm câu chân ngôn, thuốc quí, cây thần, làm trâu như nguyện, cho khắp chúng sinh.
III-21. Như là đại địa, như là không gian, cùng các thành phần nước lửa và gió, nguyện thân tôi đây biến hiện phong phú, làm nền tảng sống cho khắp chúng sinh.
III-22. Nguyện làm phương tiện giữ gìn sự sống cho khắp chúng sinh trên toàn cõi thế nhiều sánh không gian bao la vô tận, chờ khắp chúng sinh giải thoát niết bàn.
III-23. Cũng như Như Lai trong thời quá khứ, đã vì chúng sinh phát tâm bồ đề, rồi về trú ở tu theo trình tự pháp hành bồ tát.
III-24. Nay tôi cũng nguyện vì khắp chúng sinh phát tâm bồ đề, nơi pháp hành này tôi về trú ở tuần tự tu theo.
III-25. Ai người vận dụng trí tuệ trong sáng để nắm lấy tâm thanh tịnh bồ đề. nắm rồi có thể tăng trưởng tâm này bằng lời sau đây:
III-26. “Đời sống tôi nay tràn đầy ý nghĩa, tôi đã đạt kiếp làm người tốt đẹp, hôm nay tôi sinh vào giòng giống Phật, trở thành đứa con của đấng Thế Tôn.”
III-27. “Nay dù ra sao quyết không làm ố giống Phật tuyệt hảo, hành động cẩn trọng xứng địa vị mình, không để lỗi lầm làm nhơ giống Phật.”
III-28. Như kẻ mù lòa mò trong đống rác, không ngờ tìm được một khối ngọc châu. Chẳng hiểu nhờ đâu may mắn lạ kỳ, mà tâm bồ đề trong tôi lại khởi.
III-29. Đây chính là nước cam lồ bất tử, chiến thắng Thần Chết của khắp chúng sinh; là cả kho tàng đầy tràn bất tận, phá cảnh bần cùng cho kẻ trầm luân.
III-30. Đây là thuốc thần chữa mọi ác bệnh, của khắp chúng sinh trôi lăn sinh tử; là gốc đại thụ cho chúng hữu tình trên đường trôi lạc ghé đến nghỉ chân;
III-31. là chiếc cầu chung đưa khắp chúng sinh vượt thoát khổ nạn ác đạo luân hồi; là trăng ngời sáng giữa nền trời tâm, xoa dịu cơn đau rát bỏng phiền não;
III-32. và cũng chính là mặt trời chiếu sáng, quét sạch màn sương mê muội vô minh; là bơ kết tinh trên sữa diệu Pháp.
III-33. Khách trần lang thang trên đường sinh tử, mong sao nếm thử chút vị an vui, thì đây là nguồn an vui thắng diệu, khách trần chắc chắn sẽ rất hài lòng.
III-34. Hôm nay đối trước mọi nẻo qui y, tôi mời chúng sinh về làm khách quí, hưởng an vui đến vô thượng bồ đề. Chư thiên, thiện thần, cùng khắp mọi loài, kính xin chư vị tùy hỉ cho tôi.
IV-1. Đã làm con Phật giữ tâm bồ đề, thì đừng bao giờ để cho thoái chuyển, cũng đừng bao giờ phá phạm giới tu.
IV-2. Đối với những việc tùy hứng mà làm, vì tâm khinh xuất hay thiếu suy nghĩ, cho dù có đã thề thốt hứa hẹn, vẫn nên nghĩ lại nên làm hay không.
IV-3. Thế nhưng điều mà hết thảy chư Phật cùng chư trưởng tử đã dùng diệu trí quán chiếu tận tường, chính bản thân tôi cũng cân nhắc kỹ, làm sao có thể đổi ý rút lui ?
IV-4. Thề thốt hứa hẹn rồi lại không làm, thành trò lừa đảo khắp cả chúng sinh, mai sau ác báo biết tôi thế nào ?
IV-5. Đức Phật dạy rằng: Ai người khởi tâm tặng món vật mọn, nhưng rồi không cho, nghiệp này sẽ khiến đọa sinh ngạ quỉ.
IV-6. Vậy mà tôi đây, từ tận đáy lòng, mời hết chúng sinh về hưởng đại lạc, để rồi trở tâm dối gạt hết thảy, làm sao có thể mong hái quả lành ?
IV-7. Thoái tâm bồ đề mà còn giải thoát, đường đi của nghiệp thậm thâm khó hiểu, chỉ chư Toàn Giác mới rõ mà thôi.
IV-8. Bồ tát thoái tâm, không đọa rơi nào hơn đọa rơi này, vì nếu xảy ra thì mọi phúc lợi của khắp chúng sinh đều bị đánh mất.
IV-9. Nếu như có ai, chỉ trong phút giây, cản trở công đức của một bồ tát, sẽ phải trầm luân đọa cõi ác đạo, là vì tổn hại lợi ích chúng sinh.
IV-10. Phá niềm an lạc của một chúng sinh đã tự gieo nạn hủy hoại chính mình, huống chi phá hủy niềm an vui của vô lượng hữu tình cùng tận không gian.
IV-11. Với lực phá giới, cho dù có chữa bằng lực phát tâm, cũng vẫn tới lui trong cõi sinh tử, khó lòng có thể bước vào chứng địa.
IV-12. Vậy thì tôi nay vì lời đã hứa, nguyện mọi việc làm đều luôn cẩn trọng, từ đây về sau nếu không cố gắng, đọa ác đạo rồi lại đọa sâu hơn.
IV-13. Chư Phật xuất thế nhiều hàng vô lượng, phổ độ chúng sinh, rồi hiện niết bàn. nhưng tôi phước cạn, nghiệp chướng sâu dày, đã chẳng thể nào hưởng nguồn ân phước.
IV-14. Vậy nếu như tôi không biết sửa đổi, thì muôn đời vẫn cứ thế mà trôi. khổ đau ràng buộc sinh tử luân hồi, bị xé bị giết trong cõi ác đạo.
IV-15. Được Phật xuất thế, lại được chánh tín, cùng với thân người, đều là thiện duyên vô vàn quí hiếm, có thể giúp cho thiện đức gia tăng, bao giờ tôi mới đủ duyên như vậy ?
IV-16. Mặc dù tôi nay không đói, không bệnh, không gặp hiểm nguy, thế nhưng đời sống ngắn ngủi không bền, thân thể chỉ là món đồ vay mượn trong chốc lát thôi.
IV-17. Vậy mà lại sống như thế này đây, chắc chắn chẳng thể lại sinh làm người. thân người quí giá một khi mất rồi, ác nghiệp càng đầy thiện đức càng vơi.
IV-18. Đây chính là lúc đủ duyên làm thiện lại chẳng chịu làm. Đợi khi đọa rơi, trôi lăn vô tận, biết đến bao giờ !
IV-19. Khi ấy cho dù mảy may thiện đức cũng chẳng thể đạt, ngược lại ác nghiệp lại thêm chồng chất. Muôn vạn thời kỳ đến chữ thiện đạo cũng chẳng hề nghe.
IV-20. Vì thế Phật dạy, tựa như rùa mù giữa lòng đại dương, làm sao có thể chui đầu vào ách nổi trên mặt biển.
IV-21. Cho mỗi việc ác phạm chỉ một lúc, địa ngục vô gián đã phải trầm luân vô lượng thời kỳ. Huống chi việc ác tôi đã gieo từ vô thủy sinh tử, chắc chắn chẳng thể đạt chốn an vui.
IV-22. Khổ báo chịu rồi, nghiệp vẫn chưa dứt, càng khổ lại càng gieo nghiệp nhiều thêm.
IV-23. Nay được lơi nghỉ lại không tu thiện, có nỗi ngu nào bằng nỗi ngu này ? chẳng thể đối xử với mình tệ hơn !
IV-24. Nếu như đã biết mà vẫn không chừa, đến khi mạng chung khổ đau khó tránh.
IV-25. Khi mà thân thể bị lửa hỏa ngục thiêu cháy lâu dài, tâm tôi nhất định triền miên thống khổ vì lửa ăn năn.
IV-26. Thân người quí hiếm khó đạt biết bao, tôi đã đạt rồi. Đã biết như vậy mà vẫn còn kéo mình vào địa ngục.
IV-27. Khác gì bùa chú khiến cho mất trí. tôi thật chẳng hiểu trong tôi thế nào !
IV-28. Kẻ thù sân, tham, không chân không tay, không cả giác quan. Chúng chẳng gan dạ, cũng chẳng khôn ngoan, bằng cách nào đây tôi lại bị chúng biến thành nô lệ !
IV-29. Chúng ngự trong tôi, tùy hứng hại tôi. Tôi lặng lẽ chịu, không chút oán hờn. Nhẫn nhịn thế này thật là trái chỗ !
IV-30. Dù hết chư thiên cùng a tu la đồng loạt tấn công cũng không thể nào đẩy được tôi vào lửa ngục vô gián,
IV-31. vậy mà phiền não chỉ trong thoáng chốc đã ném tôi vào sâu thẳm địa ngục, nơi mà ngay cả ngọn núi Tu di cũng cháy tan tro.
IV-32. Phiền não chính là kẻ thù truyền kiếp, vô thủy vô chung bám dính theo tôi. Kẻ thù thế gian không bền như vậy.
IV-33. Kẻ thù thế gian nếu tôi gần gũi xử tốt với họ, có khi họ cũng giúp đỡ cho tôi. Thế nhưng phiền não tôi càng chăm sóc chúng càng tác hại.
IV-34. Triền miên, liên tục, luôn chỉ là thù, luôn ám hại tôi, khiến tôi thêm khổ. Kẻ thù này lại ngự trị trong tôi. Thử hỏi luân hồi sống yên sao được !
IV-35. Hết thảy cai ngục trấn cửa sinh tử cùng bọn đồ tể ngục tốt diêm vương hành hạ tôi trong cảnh khổ địa ngục, bọn chúng đang ngồi ngay ở trong tôi, trong lưới tham dục. Thử hỏi phận tôi nào có vui gì !
IV-36. Trận chiến này đây tôi quyết không bỏ, cho đến mãi khi tận diệt kẻ thù. Người ta bị hại chút ít mà thôi, đã nổi lôi đình, bỏ cả giấc ngủ, hung hăng quyết thắng.
IV-37. Kẻ thù thế gian vốn đầy phiền não, cho dù không giết tự nhiên cũng chết. Vậy mà xông pha, giáo gươm chẳng sợ, chưa thắng kẻ thù chưa chịu thoái lui !
IV-38. Huống chi tôi đây, với kẻ thù này, đâu thể phóng tâm, đâu quản gian khó ! Chúng chỉ có một chức năng duy nhất là làm tôi khổ.
IV-39. Cho những cuộc chiến vô nghĩa thế gian, thương tích còn được xem là thành tích. Huống chi trận chiến cứu cánh này đây, xá gì đôi chút thương vay trận mạc !
IV-40. Vì chuyện áo cơm mà người đánh cá, đồ tể, nông dân, chịu nóng, chịu rét. Vậy nay tôi đây vì nguồn hạnh phúc của khắp chúng sinh, lẽ nào không thể chịu chút khổ này ?
IV-41. Khi kia tôi nguyện chúng sinh mười phương cùng tận không gian, tôi đều độ thoát nhiễm tâm phiền não. Trong khi chính tôi chưa được như vậy !
IV-42. Thật là không biết tự lượng sức mình ! Chẳng phải đã quá điên rồ hay sao ? Nhưng đã trót thề thì trận chiến này chống thù phiền não càng không thể thua !
IV-43. Là điều duy nhất nung nấu tâm can, tôi quyết khai chiến, lòng tràn oán hận ! Não hận loại này sẽ diệt phiền não, vì vậy phải giữ, đừng vội quét đi.
IV-44. Chẳng thà thân tôi chết vì lửa cháy, hay là đầu này bị chém lìa thân, quyết chẳng bao giờ hàng thuận tôn vinh kẻ thù truyền kiếp nhiễm tâm phiền não !
IV-45. Kẻ thù thế gian khi bị đánh đuổi, có thể tháo lui ẩn binh xứ khác, củng cố lực lượng chờ dịp phản công. Nhưng thù phiền não lại không như vậy.
IV-46. Phiền não tội nghiệp, nếu bị mắt tuệ tấn công tơi bời, đánh đuổi khỏi tâm, chúng biết trốn đâu ? bao giờ trở lại ? Cơ sự chỉ tại vì tôi yếu, lười !
IV-47. Phiền não chẳng trú bên trong đối cảnh, hay nơi giác quan, hay ở chính giữa. Cũng chẳng trú ở nơi chốn nào khác. Vậy chúng ở đâu mà hại chúng sinh khốn đốn thế này ? Chỉ là ảo ảnh, có gì đáng sợ ! Cứ hãy kiên trì khai tuệ, chứng tánh. Khổ đau địa ngục thật không cần thiết, chẳng cần phải theo !
IV-48. Tư duy như vậy. Ra công như vậy. Nỗ lực thực hành giới hạnh như vậy. Người bệnh nếu không nghe lời thầy thuốc, bệnh làm sao lành ?
V-1. Muốn tu cần phải tự giữ lấy tâm. Không giữ được tâm thì mọi công phu đều không giữ được.
V-2. Tâm như voi điên, nếu như thả lỏng sẽ đẩy ta vào địa ngục vô gián. Voi lớn bất thuần của khắp thế gian cũng không thể nào hại ta như vậy.
V-3. Nhưng nếu voi này dùng dây chánh niệm trói chặt mọi bề, thì bao sợ hãi đều tan biến hết, tất cả thiện pháp rơi vào lòng tay.
V-4. Cọp, sư tử, voi, gấu, rắn, kẻ thù, quỉ giữ địa ngục, các loài tà ma, quỉ ăn xác chết, cùng với tất cả mọi loài quỉ dữ,
V-5. chỉ cần trói tâm là trói được cả, chỉ cần thuần tâm là thuần tất cả.
V-6. Đức Phật là người nói đúng sự thật đã tuyên thuyết rằng: sợ hãi, khổ đau, hết thảy đều do nơi tâm mà có.
V-7. Ai đã cố tình tạo ra binh khí hành hạ chúng sinh trong cõi địa ngục ? Nền sắt cháy đỏ là do ai nung ? Giống quỷ ăn thịt đội lốt mỹ nhân từ đâu mà có ?
V-8. Bậc Đại Trí dạy: những điều nói trên đều do nơi tâm tạo sinh ác nghiệp. Nên khắp ba cõi ngoài tâm này ra thời không có gì đáng để sợ hãi.
V-9. Nếu như nói rằng thí độ nghĩa là làm cho chúng sinh không còn nghèo khổ, thế thì hạnh thí chư Phật ngày xưa viên thành thế nào, để cho bây giờ vẫn còn kẻ đói ?
V-10. Thí độ thật ra là mang tất cả những gì mình có tặng cho chúng sinh; được bao công đức cũng bố thí cả. Vì vậy mà nói viên mãn Thí độ ngay từ nơi tâm.
V-11. Tôm cá các loại mang giấu đi đâu để khỏi bị giết ? Giới độ nghĩa là ngay từ nơi tâm không còn ý nghĩ tác hại chúng sinh.
V-12. Những kẻ ác hiểm cùng khắp không gian, làm sao có thể hủy diệt tất cả ? Nhưng nếu hủy diệt ác hận nơi tâm thì cũng giống như diệt hết kẻ thù.
V-13. Tìm đâu ra da phủ khắp mặt đất ? Chỉ cần miếng da lót dưới gót giày, thì cũng như là phủ da mặt đất.
V-14. Tương tự như vậy, sự việc bên ngoài làm sao điều phục ? Điều phục được tâm thì chẳng còn gì để mà điều phục.
V-15. Ý niệm trong sáng đủ sức tạo quả thọ sinh Phạm thiên. Quả thân, khẩu nghiệp đều không thể sánh.
V-16. Bậc Biết Thực Tại dạy rằng: nếu như tâm ý xao lãng, thì dù miệng tụng, thân tu khổ hạnh trong thời gian dài cũng đều vô ích.
V-17. Những ai không hiểu bí ẩn của tâm siêu việt vạn pháp, thì dù mong cầu an lạc, thoát khổ, cũng chỉ có thể trầm luân vô định trong cõi luân hồi.
V-18. Vậy nay tôi xin giữ lấy tâm mình. tâm này chẳng giữ thì bao giới luật giữ có ích gì ?
V-19. Giữa đám hỗn loạn, nếu thân bị thương, chắc chắn ta sẽ thận trọng giữ gìn. Vậy nay đứng giữa thế gian hiểm ác, tâm là vết thương cần được gìn giữ.
V-20. Vết thương thân thể đau đớn là bao, mà ta vẫn sợ hết sức giữ gìn. Vậy sao chẳng sợ đớn đau cùng cực địa ngục núi đè, để lo giữ gìn vết thương nơi tâm ?
V-21. Nếu cách hành xử luôn được như vậy, thì dù ở giữa ác nhân, nữ sắc, giới vẫn kiên định, không bị đọa rơi.
V-22. Tài sản, danh dự, thân mạng, sinh kế, đều có thể mất, ngay như tất cả mọi thiện đức khác, có thể hư mòn, thế nhưng không thể để thoái chuyển tâm !
V-23. Này người mong muốn gìn giữ tâm mình, tôi chắp hai tay thiết tha khẩn nguyện: hãy giữ chánh niệm, cùng với chánh tri, như thể giữ gìn chân tay, thân mạng.
V-24. Thân này nếu bị bệnh khổ hành hạ, thì chẳng có sức để làm gì cả. Tương tự như vậy, tâm này nếu bị vô minh hành hạ, thì không đủ sức giữ gìn hành động.
V-25. Tựa như bình rỉ chẳng giữ được nước, tâm thiếu chánh tri thì dù có nghe, tư duy, tu tập, trí nhớ cũng chẳng giữ được chút gì.
V-26. Nhiều người đa văn, tinh tấn, chánh tín, nhưng vì sai lầm thiếu mất chánh tri, nên vẫn đọa rơi.
V-27. Sự thiếu chánh tri tựa như kẻ trộm, rình rập lẻn vào cướp đi chánh niệm, cướp luôn tất cả phước đức tích tụ, khiến phải đọa rơi tận cùng ác đạo.
V-28. Phiền não cũng như một lũ trộm cướp, rình rập thời cơ cướp đoạt thiện đức, khiến ta không thể sinh vào thiện đạo.
V-29. Nên đừng bao giờ để cho chánh niệm xa rời cửa ý. nếu lỡ rời xa, hãy mau nhớ lại cảnh khổ ác đạo để gọi ngay về.
V-30. Nhờ nghe lời khuyên phương trượng trụ trì, nhờ sợ ác đạo, và nhờ sống gần bên cạnh đạo sư, mà người thiện duyên với lòng thành kính dễ sinh chánh niệm.
V-31. Chư Phật, Bồ Tát mắt không ngăn ngại, thấy biết khắp cả, luôn luôn có mặt ở cạnh bên tôi.
V-32. Biết nghĩ như vậy sẽ biết kính sợ, sinh tâm tàm quí, nhờ vậy thường xuyên nhớ nghĩ đến Phật.
V-33. Khi lấy chánh niệm để làm lối ngõ gìn giữ cửa tâm. chánh tri sẽ khởi. Những gì đã mất sẽ đều trở lại.
V-34. Trước khi phát xuất lời nói, hành động, nếu như thấy tâm không được thanh tịnh, thì phải lập tức tự chế ngự mình: yên như khúc gỗ.
V-35. Không để ánh mắt lơ đễnh nhìn quanh, hãy nên nhiếp tâm xuôi mắt nhìn xuống.
V-36. Thỉnh thoảng để mắt thư thả nhìn quanh. Khi gặp người quen hãy nên nhìn thẳng, nói lời chào hỏi.
V-37. Khi cần canh chừng nguy hiểm trên đường, hãy nên cẩn thận nhìn quanh bốn hướng. Khi cần nghỉ ngơi, hãy nên quay lại nhìn ở phía sau.
V-38. Nhìn rõ trước sau để mà tới lui. Trong mọi hoàn cảnh, phải nên thấy rõ việc gì cần làm thì hãy nên làm.
V-39. “Tôi giữ thân thể theo tư thế này,” rồi trở lại với những việc đang làm. Thỉnh thoảng xét lại xem thân thể đang trong tư thế nào.
V-40. Tâm như voi điên, bây giờ trói chặt vào cột chánh pháp. Phải nên nỗ lực hết sức canh chừng, đừng cho sổng chạy.
V-41. Nếu muốn cố gắng tu cho đạt định, thì dù một niệm cũng không để mất. Phải luôn quán sát xem tâm hiện tại đang ở nơi đâu.
V-42. Nếu như không thể giữ được như vậy, vào lúc hiểm nghèo nguy hại tính mạng, hay lúc lễ lạt pháp hội cúng dường, thì hãy tùy cảnh, hành động thích đáng. Đức Phật có dạy, khi hành hạnh thí, có thể xả bỏ giới luật chi li.
V-43. Toan tính việc gì, một khi bắt đầu thì đừng suy nghĩ đến những việc khác, chuyên chú cho xong việc mình đang làm.
V-44. Có được như vậy, mọi việc mới thành, bằng không việc gì cũng chẳng làm xong. Làm theo như vậy, tâm bất chánh tri sẽ không phát triển.
V-45. Khi đi vào nơi náo nhiệt vui vẻ, với nhiều chuyện phiếm, nhiều trò giải trí, thì đừng ham vui, dứt tâm mê luyến.
V-46. Nếu như thấy mình tự nhiên vô cớ đào đất, bứng cỏ, vạch hình mặt đất, thì hãy nhớ lại lời đức Thiện thệ, để mà biết sợ, lập tức ngừng tay.
V-47. Khi muốn cử động, hay muốn nói năng, hãy xét tâm trước: kiên định giữ gìn hành động đúng đắn.
V-48. Tâm nổi tham luyến, hoặc nổi sân hận: thì đừng làm gì, cũng đừng nói gì. phải nên giữ mình lặng yên như cây.
V-49. Khi tâm lăng xăng, mỉa mai, kiêu mạn, muốn nhạo báng người, muốn gây chia rẽ, lừa đảo, dối láo,
V-50. muốn tự khen mình, chê bai người khác, dùng lời thô ác kiếm chuyện sinh sự, những lúc như vậy phải nên giữ mình lặng yên như cây.
V-51. Khi tâm nổi tham, muốn danh, muốn lợi, muốn người tôn kính, thị giả đệ tử muốn họ chăm lo, muốn người hầu hạ, những lúc như vậy phải nên giữ mình lặng yên như cây.
V-52. Khi tâm quẳng hết lợi ích của người, muốn nói những điều nhằm thủ lợi riêng, những lúc như vậy phải nên giữ mình lặng yên như cây.
V-53. Khi thiếu kiên nhẫn, làm biếng, nhát gan, hay quá tự tin, ồn ào khinh mạn, hay là chấp thủ những thứ của mình, những lúc như vậy phải nên giữ mình lặng yên như cây.
V-54. Hãy quán xét tâm, nhận diện phiền não và tính ưa thích những chuyện tào tạp để mà can đảm nắm giữ lấy tâm bằng thuốc đối trị.
V-55. Tín tâm sâu xa, kiên định, cung kính, lễ độ, hổ thẹn, biết sợ quả báo, an định mang lại hạnh phúc chúng sinh.
V-56. Đối trước tất cả đòi hỏi vô lý, tranh cãi ấu trĩ, bồ tát cũng không sinh tâm chán ngán, vì những điều này chỉ do phiền não tác động mà thành, cho nên phải hiểu để trải từ tâm.
V-57. Vì chính bản thân và vì người khác mà giữ thiện hạnh cho thật toàn hảo, phải luôn ghi nhớ rằng chính tâm này vô ngã, như huyễn.
V-58. Thường xuyên nghĩ rằng: “Khó khăn chờ đợi không biết bao lâu nay mới có được thân người quí hiếm,” giữ tâm bất động trong ý nghĩ này, kiên định vững vàng như ngọn núi vương.
V-59. Này tâm, cho dù kên kên háu đói xâu xé thi thể, lôi kéo khắp nơi, ngươi cũng chẳng buồn. vậy sao bây giờ ngươi lại mải mê nuông chiều thân thể ?
V-60. Này tâm, sao ngươi lại bám thân này gọi là “của tôi” ? Giữa ngươi và nó hoàn toàn khác biệt. nó nào có ích gì cho ngươi đâu ?
V-61. Này tâm hư vọng sao chẳng chọn thân chạm trong gỗ sạch làm thân của mình, mà lại chọn lấy dụng cụ ô uế làm bằng của dơ ?
V-62. Trước hết dùng trí mà lột lớp da; rồi hãy vận dụng lưỡi gươm trí tuệ để lóc hết thịt ra khỏi bộ xương;
V-63. rồi xẻ cả xương tìm vào trong tủy, hãy tự hỏi mình: “Đâu là tinh túy ?”
V-64. Cho dù truy tìm ráo riết như vậy, vẫn không thể thấy tinh túy ở đâu. Vậy sao cứ vẫn bám giữ tham luyến ở nơi thân này ?
V-65. Thân này ô uế, chẳng thể nào ăn. Ngay cả máu này cũng không thể uống. Ruột gan phèo phổi, chẳng thể chấm mút. Thân này thử hỏi cần để làm chi ?
V-66. Thật ra có thể giữ thân làm mồi cho chim kên kên hay cho chó rừng. Giá trị thân này chỉ nằm ở chỗ ta mang thân ấy dùng vào việc chi.
V-67. Cho dù chắt chiu gìn giữ như vậy, đến khi Thần Chết đánh cắp mất đi, vất cho chim, chó, khi ấy thử hỏi biết làm thế nào ?
V-68. Tôi tớ lười biếng không chịu làm việc, thì ta chẳng màng cho áo cho cơm. vậy tấm thân này vì sao ta lại phí công cung phụng ? Dù nuôi cách nào cũng sẽ có ngày bỏ ta mà đi
V-69. Đã trả thù lao thì phải bắt làm cho thật xứng đáng. Còn như đối với loại vô tích sự ta cũng chẳng nên lãng phí làm gì.
V-70. Hãy xem thân này tựa như chiếc thuyền đưa ta tới lui: chuyển thành dụng cụ thực hiện nguyện ước cho khắp chúng sinh.
V-71. Vậy hãy tự chế, mặt luôn tươi cười, không bao giờ còn chau mày nhăn nhó; và hãy trở thành người bạn chân thành của khắp chúng sinh.
V-72. Khi khiêng bàn ghế, đừng vô ý tứ tạo nhiều tiếng ồn. Mở cửa nhẹ nhàng, đừng nên thô bạo. Hãy ưa thích hạnh tế nhị kín đáo.
V-73. Cò, mèo, kẻ trộm, làm được tất cả những gì muốn làm nhờ luôn tới lui âm thầm kín đáo. Kẻ trí khi tu cũng thường như vậy.
V-74. Bậc trí khéo biết giáo huấn chúng sinh, nói lời lợi ích không đợi ai cầu, vậy ta hãy nên cung kính tiếp nhận. Với khắp mọi người hãy luôn học hỏi.
V-75. Có ai nói lời khéo tạo lợi ích, hãy nên khen ngợi rằng “thật khéo nói !” Có ai làm điều mang lại lợi ích, hãy nên khuyến khích và tâm mừng vui. 76. Khi ở sau lưng, hãy nên khen ngợi thiện đức người khác. Và khi có ai khen ngợi người khác, hãy khen ngợi theo. Nếu như lời khen là dành cho mình, thì hãy nghĩ về những thiện đức này với lòng tùy hỉ.
V-77. Hết thảy thiện hạnh đều là nhân tố tạo nên niềm vui vô cùng quí hiếm. Bao nhiêu tài sản cũng chẳng thể mua. vậy hãy tận hưởng tất cả niềm vui đến từ thiện hạnh của khắp mọi người.
V-78. Làm được như vậy thì trong đời này chẳng mất mát gì, và mọi đời sau được niềm vui lớn. Còn bới lỗi người chỉ khiến cho mình thành kẻ khó ưa, tâm trí khổ sở, đến những đời sau khổ đau càng lớn.
V-79. Khi nói, hãy nên khởi tự đáy lòng, thốt lời mạch lạc, ý nghĩa rõ ràng, âm điệu dễ nghe, dẹp mọi tham, sân, nhẹ nhàng, vừa đủ.
V-80. Khi nhìn, hãy nên nhớ rằng chính nhờ dựa vào chúng sinh mà ta có thể đạt quả giác ngộ, vậy hãy nhìn bằng ánh mắt chân thành chan chứa từ tâm.
V-81. Hãy luôn giữ lấy tâm nguyện cao nhất, nỗ lực áp dụng năng lực đối trị, thì sẽ nhận được công đức lớn lao đến từ kỉnh điền ân điền, bi điền.[1]
V-82. Hãy khéo hành sự, tín tâm thâm sâu, tự làm thiện hạnh, không ỷ nơi người.
V-83. Thực hành hạnh Thí cùng với tất cả Ba La Mật khác, làm cho tăng trưởng từng hạnh, tuần tự. Không vì hạnh nhỏ mà bỏ hạnh lớn, quan trọng nhất là lợi ích cho người.
V-84. Hiểu rõ như vậy, luôn nỗ lực vì lợi ích chúng sinh. Đức Phật Từ Bi thấy xa, cho phép bồ tát xả bỏ cả những điều cấm.
V-85. Chỉ ăn vừa đủ; hãy nên chia sẻ cho người giữ giới, cho người rơi đọa, cho người khốn cùng không nơi nương tựa, ngoài ba bộ y hãy nên cho hết.
V-86. Thân này dùng để hành trì diệu pháp, không thể vì những việc làm tào tạp mà hại đến thân. Làm được như vậy, bao nhiêu ước nguyện của khắp chúng sinh sẽ mau toàn thành.
V-87. Nếu tâm đại bi chưa được thanh tịnh, nhất định không nên thí xả thân thể. Nhưng nếu là vì mục tiêu cứu cánh, thì nên cho hết đời này, kiếp sau.
V-88. Không nên nói pháp cho người không có thái độ cung kính, hay cho những người không bệnh mà vẫn quấn khăn trùm đầu, cho người che dù, cầm gậy, binh khí, hay cho những người trùm khăn che mặt.
V-89. Cho người trí cạn, không thuyết quảng, thâm; cũng không nói pháp cho người khác phái khi chỉ một mình. Đối với giáo pháp dù cạn hay sâu, cũng đều nói bằng tấm lòng cung kính.
V-90. Không nói pháp nhỏ cho người tâm lớn. Không khiến cho người xả bỏ giới hạnh, lạc lối lầm đường với pháp hiển tông hay là mật tông.
V-91. Khi nhổ nước bọt, vất tăm xỉa răng, phải phủ đất lại. Phân và nước tiểu, không thải vào nơi đất sạch, nước trong dành cho mọi người.
V-92. Khi ăn, hãy đừng nhai nuốt ngồm ngoàm, ồn ào, há miệng. Khi ngồi, hãy đừng duỗi thẳng chân ra, hay khoanh tay lại.
V-93. Không đi chung xe, không ngồi chung giường, hay ở chung phòng với người khác phái. Quan sát tìm hiểu điều gì khiến người sinh lòng thị phi, hãy từ bỏ hết.
V-94. Chỉ đường cho người đừng nên vô lễ trỏ bằng ngón tay. Hãy nên cung kính mở bàn tay phải.
V-95. Không vẩy mạnh tay, hay hét lớn tiếng, hãy tỏ ý mình bằng lời nhỏ nhẹ, kín đáo búng tay, bằng không sẽ thành vô lễ quá độ.
V-96. Khi nằm, hãy chọn quay về hướng tốt, giống như tư thế Phật nhập niết bàn; và ngay từ đầu phải giữ ý niệm quyết chẳng bao lâu sẽ lại đứng lên.
V-97. Trong số vô vàn thiện hạnh bồ tát đã được nhắc đến, hãy nên thực hành tất cả những hạnh thanh tịnh hóa tâm.
V-98. Đọc Kinh Tam Tụ ba thời ban ngày, ba thời ban đêm. Nương vào chư Phật cùng tâm bồ đề, thanh tịnh tất cả giới phạm còn lại.
V-99. Trong mọi hoàn cảnh, trong mọi hành động, dù là cho mình hay là cho người, hãy nên tinh tấn áp dụng tất cả pháp hành thích hợp với hoàn cảnh ấy.
V-100. Không có pháp nào mà người con Phật không cần phải tu. Khéo tu như vậy thì chẳng việc gì lại không tạo phước.
V-101. Dù là trực tiếp, hay là gián tiếp, đừng làm những việc không vì chúng sinh. Có làm được gì cũng vì chúng sinh hồi hướng tất cả về vô thượng giác.
V-102. Dù xả thân mạng, bồ tát cũng không lìa thiện tri thức, là bậc thông tuệ pháp tu đại thừa; và cũng không lìa giới hạnh bồ tát.
V-103. Phải học cách thức tôn kính đạo sư như đã nói trong Truyện Cát Tường Sinh. Những lời khuyên này và giáo pháp khác đều có thể học từ trong kinh luận.
V-104. Mọi pháp hành trì đều có trong kinh, phải nên tìm đọc. Trước hết nên đọc Kinh Hư Không Tạng.
V-105. Những điều cần tu đều được giải thích rõ ràng sâu rộng trong Học Tập Luận, vì vậy phải nên siêng năng đọc tụng.
V-106. Thỉnh thoảng có thể học Kinh Tập Luận, là bộ tóm lược kinh điển đại thừa, cũng nên tìm đọc bộ luận cùng tên của ngài Long thọ.
V-107. Tất cả những gì kinh luận không cấm, hãy nên tu học. Tất cả những gì dạy trong kinh luận, hãy nên thực hành để mà giữ gìn tâm của chúng sinh.
V-108. Muốn giữ chánh tri, nói cho ngắn gọn phải làm như sau: hãy thường quán xét xem thân và tâm đang như thế nào.
V-109. Những điều nói đây cần phải thực hành, nói suông thì chẳng lợi ích gì đâu ! Phỏng như người bệnh chỉ đọc toa thuốc bệnh làm sao dứt ?
/ HẾT CHƯƠNG 5 /
Ghi chú chương 5: [1] kỉnh điền: Phật và Bồ Tát; ân điền: cha mẹ, bằng hữu; bi điền: chúng sinh
VI-1. Bao nhiêu việc lành bố thí, cúng Phật, công đức tích lũy hàng trăm vạn kiếp, chỉ cần loé lên mỗi một niệm sân, cũng đủ làm cho tiêu tan hết thảy.
VI-2. Không ác nghiệp nào như là nghiệp sân. không hạnh tu nào sánh bằng hạnh nhẫn. Vậy hãy đưa tâm vào trong hạnh nhẫn, khéo léo, phong phú miên mật kiên trì.
VI-3. Ai để sân hận dày vò tâm can, thời tâm không còn biết đến bình an, đối với niềm vui thành kẻ xa lạ, chẳng thể chợp mắt chẳng ngớt bất an.
VI-4. Cho dù ta có rộng rãi cho ra tiền tài, địa vị, nhưng nếu tâm trí cuồng điên vì sân, thời kẻ hàm ân vẫn sẽ bức trí mà hại đến mình.
VI-5. Gia đình bè bạn mệt mỏi chán ngán, kẻ chịu ân cũng chẳng kính, chẳng tin. Người nhiều sân hận có bao giờ sống trong cảnh an bình.
VI-6. Bao khổ đau này đều do kẻ thù sân hận gây nên. Ai biết túm lấy đập tan sân hận, đời này kiếp sau sẽ sống an bình.
VI-7. Muốn mà không được; không muốn phải chịu; gặp điều nghịch ý nên tâm không vui: đây là lương thực nuôi cho sân hận trưởng thành lớn mạnh, đánh tôi tơi bời.
VI-8. Nên phải làm sao cắt đường tiếp tế của kẻ thù này. Nó có mục đích nào khác hơn là đánh gục tôi đâu !
VI-9. Nên tôi mặc kệ, ra sao thì ra, quyết không thể để sinh tâm buồn chán. luôn giữ nội tâm vui tươi trong sáng. Vì tâm không vui sẽ không thể đạt những điều mình muốn, ngược lại thiện đức sứt mẻ tan hoang.
VI-10. Sự việc nếu vẫn còn phương cứu chữa, chẳng lý do gì tâm lại không vui. còn nếu thật sự vô phương cứu chữa, thử hỏi không vui liệu có ích gì ?
VI-11. Đớn đau, lăng nhục, dèm pha, quở mắng, đều là những điều không ai mong cầu, dù là cho mình hay cho người thân. Cho người mình ghét lại là trái ngược.
VI-12. Những điều tạo vui vốn là rất hiếm, việc sinh đau khổ thì lại rất nhiều. Nhưng không khổ đau thời chẳng thể nào khởi tâm thoát khổ. vậy tâm tôi ơi, hãy nên kiên định !
VI-13. Người thờ Dur-ga, dân kar-na-ta, chịu bao khổ hạnh, tự thiêu tự cắt, chẳng lợi ích chi. Nay vì giải thoát sao tôi đây lại yếu đuối ương hèn.
VI-14. Không có việc gì không thể làm quen, quen rồi chắc chắn nhẹ nhàng hơn trước. Nay dùng khổ nhỏ để mà huân tập, mai sau khổ lớn gánh vác dễ dàng.
VI-15. Chút khổ thế gian đã là như vậy: muỗi mòng rắn rít cắn đau ngứa ngáy, chịu đói chịu khát da dẻ tấy sưng.
VI-16. Dù là nóng rét, gió mưa, tật bệnh, chịu cảnh tù đày, hay bị hành hung, tâm hãy an vui, quyết đừng phật ý. Để tâm không vui việc sẽ tệ hơn.
VI-17. Có người nhìn thấy máu của chính mình, tâm lại càng thêm quật cường dũng mãnh. Lại có những kẻ thoáng thấy máu người, tâm thần choáng váng bất tỉnh hôn mê.
VI-18. Hoàn toàn tùy ở dũng lực nơi tâm, chọn tâm dũng mãnh hay tâm hèn yếu. Vậy tôi nào có sợ gì thương tích, khổ đau trùng điệp, quyết chẳng nao lòng.
VI-19. Đớn đau ập đến, kẻ trí chẳng sờn, tâm không chao động, điềm tĩnh an nhiên. Dặm trường xông pha chống quân phiền não, gian lao trận mạc nào có xá gì.
VI-20. Tâm không quản ngại khổ của chính mình, quét sạch hết thảy giặc thù ác sân. Đây mới chính là anh hùng đại thắng; anh hùng thế gian chỉ chém thây ma.
VI-21. Là vì khổ đau cũng nhiều giá trị: nhờ khổ đau mà đánh mất tự kiêu; Tâm càng xót thương Chúng sinh luân lạc; Thêm sợ việc ác, Thêm vui việc lành.
VI-22. Cơ thể vướng bệnh ta có hận đâu, mặc dù mang đến muôn vàn đau đớn. Việc chi phải hận những kẻ hại mình, họ chỉ kém trí, bị duyên ràng buộc.
VI-23. Cho dù không muốn, bệnh vẫn phát sinh. cho dù không cầu, phiền não cứ khởi.
VI-24. Chẳng ai nghĩ rằng bây giờ nên giận, chỉ là bất ngờ nổi giận thế thôi. Cơn giận cũng chẳng nghĩ mình cần khởi, chỉ là tự nhiên nổi trận lôi đình.
VI-25. Nhiễm tâm phiền não, bất kể loại nào, mọi điều bất thiện của khắp thế gian, hết thảy đều do nhân duyên mà có, chẳng phải tự phát, cũng chẳng tự sinh.
VI-26. Nhân duyên hội tụ không có ý nghĩ rằng “ta đây phải tạo quả, tác sinh.” Cái được tạo tác cũng không từng nghĩ rằng: “bản thân ta mới được sinh ra.”
VI-27. Điều được gọi là “bản thể nguyên sơ,” hay còn được gọi là “Ngã,” là “Tôi,” chỉ là giả danh không có ý nghĩ “Ta phải sinh ra” rồi mới phát sinh.
VI-28. Là bởi chưa sinh thì không hiện hữu, làm sao có thể khởi ý muốn sinh ? Nếu đã thường còn mà tiếp cận cảnh, thì chẳng làm sao dứt được cảnh này.
VI-29. Rõ ràng là Ngã nếu thật thường còn thì phải ù lì tựa như hư không; cho dù hội tụ với nhiều duyên khác, cũng chẳng đối tác, vì không biến động.
VI-30. Dù duyên tác động ngã vẫn y nguyên. Làm sao có thể ảnh hưởng đến Ngã ? Nếu nói duyên là tánh chất của ngã, thời biết lấy gì kết nối hai bên ?
VI-31. Mọi sự đều là tùy thuộc nhân duyên, vì tùy nhân duyên nên không tự phát. Hiểu được vậy rồi còn chi để hận, muôn sự chỉ là ảo ảnh mà thôi.
VI-32. Nếu nói “trừ hận là việc dư thừa, vì nào có gì để ai trừ diệt,” thế nhưng khổ đau triền miên bất tận, nhờ vào hạnh nhẫn có thể đoạn lìa, nên nói trừ hận chẳng có gì sai.
VI-33. Vậy dù kẻ thù hay là bằng hữu làm điều sai quấy, tôi vẫn an nhiên. Tâm vẫn yên vui tự mình nhắc nhở rằng khắp vạn pháp đều là duyên sinh.
VI-34. Nếu như mọi sự tùy nơi ý mình, thì khổ đau này đã chẳng phát sinh. Thế gian có ai là người muốn khổ !
VI-35. Vậy mà vô tâm không hề ý thức, tự dẫn mình vào những chốn chông gai, điên cuồng đuổi theo nữ nhân, sự nghiệp, đến nỗi không ăn bỏ đói chính mình.
VI-36. Có kẻ tự treo có kẻ nhảy vực, tự uống thuốc độc, ăn của thối tha, tự tạo ác nghiệp, gieo họa cho mình.
VI-37. Khi nổi oán hận, ngay chính bản thân cưng quí biết bao họ còn tự sát, làm sao có thể không gây họa lớn cho người xung quanh ?
VI-38. Vậy với những người phiền não thao túng, có thể cuồng điên sát hại chính mình, đã chẳng quan tâm thương xót thì thôi, cũng đâu có gì để tôi phải hận.
VI-39. Phàm phu ấu trĩ nếu từ bản chất là luôn hại người, thì ta giận họ khác gì giận lửa vì sao lại cháy.
VI-40. Còn nếu như họ bản chất hiền lành, chỉ là lầm lỗi nhất thời mà thôi, vậy nếu giận họ khác gì nổi giận với bầu trời xanh sao dâng đầy khói.
VI-41. Mặc dù cây gậy mới làm tôi đau, nhưng tôi lại hận chính người cầm gậy. Nhưng người cầm gậy thật ra là do ác hận thao túng, lẽ ra tôi phải oán ác hận này.
VI-42. Quá khứ chính tôi đã từng như vậy, đánh đập ngược đãi khắp chúng hữu tình. Nay tôi bị đánh cũng là đáng thôi !
VI-43. Gậy kia, thân này, đều là thủ phạm khiến tôi đau đớn. Gậy là của người, thân là của mình, thật sự chẳng biết phải hận ai đây !
VI-44. Thân là vết thương sưng tấy lở loét mang tướng dạng người, chạm nhẹ cũng đủ đau nhức không nguôi. Tôi vì mù quáng bám chặt vào nó, đến khi nhức nhối hận ai bây giờ ?
VI-45. Thật là ấu trĩ ! tôi sợ khổ đau nhưng lại bám theo toàn nhân tạo khổ ! Tự gieo lầm lỗi, tự hại lấy thân, vậy sao tôi lại nổi sân với người !
VI-46. Sự thật là vậy, phải hận ai đây ? Hết khổ đau này toàn do tôi tạo: ngục tốt Diêm vương trong cõi địa ngục, hay cả rừng đao toàn là ác báo.
VI-47. Họ đến hại tôi là vì nghiệp tôi kêu mời họ đến. Nếu như vì vậy họ phải đọa rơi cùng tận địa ngục thì có phải là tôi hại họ không !
VI-48. Vì họ mà tôi tu được hạnh nhẫn, tịnh được ác nghiệp. Còn nhờ vào tôi mà họ đọa rơi vào cõi địa ngục.
VI-49. Vậy thật ra tôi là kẻ gây hại, còn họ thì lại là kẻ ban ơn. Thử hỏi tâm tôi ác hiểm thế nào để còn tráo trở sinh lòng hờn oán !
VI-50. Tâm mà có nhẫn sẽ khỏi đọa rơi vào cảnh địa ngục. Cứu mình được rồi, nhưng còn kẻ thù cứu cách nào đây !
VI-51. Vậy nếu như tôi ăn miếng trả miếng, chắc chắn sẽ khiến cho họ đọa rơi, còn mình hạnh tu nhất định suy thoái, giới tu nhất định tan hoang không còn.
VI-52. Tâm đâu có thân, có ai diệt được, nhưng vì tâm cứ tham chấp nơi thân, mà thân thì lại đớn đau quẫn bách.
VI-53. Cho dù người ta dùng lời mắng chửi, nói lời thô ác, nói lời khó nghe, lời nói có làm gì được tôi đâu ! Vậy tâm tôi ơi cớ sao oán hận ?
VI-54. Người ta ghét tôi. sự thù ghét này đâu có làm sao nhai nuốt được tôi. Đời này chẳng thể đời sau cũng không. vậy tại sao tôi không thích bị ghét ?
VI-55. Hay là không thích vì nó cản tôi đạt điều mình muốn ? Nhưng tài sản rồi phải bỏ phía sau, ác nghiệp thì lại bền bỉ theo đuổi.
VI-56. Vậy thà tôi đây chết ngày hôm nay, còn hơn là sống để gieo tội nghiệt ! Kẻ giống như tôi, dù sống nhiều ít, đến khi chết đến khổ cũng như nhau.
VI-57. Có người nằm mơ thấy mình sống vui hơn một trăm tuổi, để rồi tỉnh mộng. lại có người mơ thấy mình sống vui được trong khoảnh khắc rồi cũng tỉnh mộng.
VI-58. Mộng đã tỉnh rồi thì dù trăm năm hay dù khoảnh khắc, niềm vui kia cũng không còn trở lại. Tương tự như vậy, khi giờ chết điểm, đời sống dài ngắn chẳng khác gì nhau.
VI-59. Cho dù giàu sang sống trong thế gian, nhiều năm an vui hưởng đời phú quí, nhưng rồi tựa như bị cướp hết cả, hai bàn tay trắng thân trần mà đi.
VI-60. Hay ta nghĩ rằng: “Nhờ vào tiền tài mà được sống lâu, tích thiện, trừ ác.” Thế nhưng vì tiền lại nổi cuồng điên, thiện căn mất hết ác nghiệp thêm dày.
VI-61. Ý nghĩa cuộc sống đánh mất cả rồi, cho dù sống nữa cũng chỉ hoài công, chỉ là để gieo thêm nhiều ác nghiệp.
VI-62. Khi bị phỉ báng ta liền nổi nóng, rằng không thể để họ tự hại mình. Nhưng sao ta lại chẳng hề nóng giận khi lời phỉ báng là dành cho người ?
VI-63. Khi ấy ngược lại kiên nhẫn vô cùng, nói rằng cơ sự chỉ vì nhân duyên. Vậy sao không nhẫn khi bị phỉ báng ? Cơ sự chỉ vì phiền não phát sinh.
VI-64. Ngay cả những người phỉ báng Phật pháp, hủy diệt tượng Phật, phá hoại bảo tháp, cũng không có gì đáng để oán hận, vì chư Phật vốn chẳng hề hấn gì.
VI-65. Cho dù đạo sư, thân nhân, bằng hữu là người bị hại, cũng không nên hận, vì, như đã nói: mọi sự đều là tùy thuộc nhân duyên.
VI-66. Chúng sinh bị hại vì vật vô tình cùng loài hữu tình, vậy sao ta lại chỉ oán hữu tình ? Gặp việc ác hại, tốt hơn nên nhẫn
VI-67. Người ta làm ác chỉ vì vô minh. tôi hận việc ác cũng vì vô minh, vậy ai không lỗi ? ai người có lỗi ?
VI-68. Trước kia vì sao tôi gieo nhân ác, để nay phải chịu quả ác thế này ? Mọi sự chỉ là thuận theo nhân quả, đã biết vậy rồi còn hận ai đây ?
VI-69. Thấy rõ vậy rồi, tôi nay bất kể, dù có thế nào, vẫn sẽ khư khư giữ gìn thiện pháp. Vì chúng sinh mà gìn giữ tấm lòng thương yêu lẫn nhau.
VI-70. Khi nhà bốc lửa sắp sửa lan xa, thời bao rơm, rạ, cùng mồi bắt lửa đều nên dẹp hết.
VI-71. Tương tự như vậy, khi lửa sân hận bốc cháy dữ dội, thời phải tức thì dẹp tan tham ái, bảo vệ công đức khỏi bị cháy tan.
VI-72. Cho kẻ tử tội, nếu được chặt tay để đổi mạng sống, chẳng mừng lắm sao ? Đổi cảnh địa ngục, chỉ cần chịu chút khổ đau cõi người, thật là phước lớn !
VI-73. Chút khổ đau này đã không kham nổi, vậy sao không gắng vất hết niệm sân ? Đây sẽ là nhân đẩy vào địa ngục, chịu khổ cùng tận sâu thẳm muôn trùng.
VI-74. Vì để tranh dành những điều mình muốn mà cả ngàn lần tôi đã rơi sâu, lửa hỏa ngục đốt cùng cực đớn đau, chẳng chút lợi ích cho mình, cho người.
VI-75. Chút khổ hôm nay nào có đáng gì, nhưng lại mang đến lợi ích lớn lao. chịu khổ nhỏ này, quét khổ chúng sinh, thử hỏi sao tâm không vui cho được.
VI-76. Có người hoan hỉ cất lời khen ngợi việc lành người khác, này tâm tôi ơi, sao chẳng thấy vui cùng người khen ngợi ?
VI-77. Niềm vui này đây chẳng vướng nhiễm ô, hết thảy thánh giả đều luôn khuyến khích, phương tiện thù thắng thu phục lòng người.
VI-78. Nếu rằng “chỉ có họ hưởng vui thôi !” thế thì cần gì trả lương tôi tớ ? Giữ tâm như vậy chỉ có mình tôi đời này kiếp sau phải chịu thiệt thòi.
VI-79. Khi chính tôi đây là người được khen thì tôi lại mong mọi người tùy hỉ. Nhưng nếu lời khen dành cho người khác, tâm tôi chẳng muốn tùy hỉ chút nào.
VI-80. Tôi đã phát tâm mang nguồn hạnh phúc về cho chúng sinh, nguyện vì chúng sinh tu thành Phật quả, nay chúng sinh được đôi chút niềm vui, sao tôi nổi giận ?
VI-81. Tôi nguyện chúng sinh trọn thành Phật đạo, được khắp ba cõi cất tiếng tôn vinh. Nay chúng sinh được đôi chút ngợi khen, sao tôi lại thấy khổ tâm như vậy ?
VI-82. Có người phải sống nương nhờ vào tôi, nhờ tôi dưỡng nuôi mà họ sống tốt. Nay có người khác chăm lo cho họ, sao tôi chẳng mừng lại còn nổi sân ?
VI-83. Bấy nhiêu đã khiến trái ý phật lòng, làm sao gánh nổi chí nguyện độ sinh ? Thấy người được lợi, lòng tôi vất vả, hỏi tâm bồ đề tìm đâu cho ra ?
VI-84. Phẩm vật kia dù tặng cho người nhận, hay dù thí chủ giữ lại chưa cho, cũng có bao giờ thành của tôi đâu, vậy cho hay không cần gì chú ý ?
VI-85. Công đức của mình, tín tâm của người, cùng thiện đức này, sao tôi vất hết ? Không biết giữ điều mang về thiện quả, này tâm tôi ơi sao chẳng hận mình ?
VI-86. Chẳng những việc ác chưa từng buồn lo, lại còn so đo khi người làm thiện được nhiều công đức.
VI-87. Kẻ thù bị hại, cớ sao tôi lại cảm thấy toại lòng ? Sự việc nào phải vì do tôi muốn mà thành thế đâu ?
VI-88. Cho dù thật sự vì ý tôi muốn mà kẻ thù tôi gặp việc không may, thì điều như vậy nào có gì vui ? Nếu lòng thấy vui, thật chẳng có gì tồi tệ cho bằng.
VI-89. Tựa như con cá đớp phải lưỡi câu, bén nhọn đớn đau. Thợ câu chính là nhiễm tâm phiền não. Lưỡi câu ác ý móc tôi ném thẳng vào chảo đồng nung. Ngục tốt diêm vương tha hồ xâu nướng.
VI-90. Tiếng tăm lừng lẫy, vinh dự, ngợi khen, chẳng thể làm tăng công đức, thọ mạng, không giúp thân thể khỏe mạnh cường tráng, cũng chẳng khiến thân thoải mái khinh an.
VI-91. Nếu tôi biết nghĩ, sẽ tự hỏi mình những điều như vậy được lợi ích chi ? Nếu như là vì giúp tâm thoải mái, vậy sao chẳng kiếm cờ bạc, rượu chè !
VI-92. Tôi vì chút danh mà bỏ tài sản, bỏ cả tánh mạng. Người đã chết rồi, chôn sâu đáy huyệt, chút lời ca tụng dành cho ai nghe ?
VI-93. Lâu đài bằng cát bị biển cuốn tan, trẻ con tuyệt vọng lớn tiếng òa khóc. Tâm tôi cũng vậy, khi mà danh vọng bắt đầu rã tan.
VI-94. Lời nói chóng tan, vốn chẳng có tâm, cho nên chẳng thể tự mình tác ý. Hay là nói rằng người ta khen bằng tấm lòng hoan hỉ nên tôi thấy vui.
VI-95. Tâm người hoan hỉ việc gì đến tôi ? dù là khen người, hay là khen mình. Tâm người ta vui thì người ta hưởng, tâm tôi chẳng thể chia được phần nào.
VI-96. Nếu như tôi vui vì người hoan hỉ, vậy cả thế gian đã khiến tôi vui. Thế nhưng khi người vui vì người khác, tôi luôn bực bội chẳng thấy vui cùng.
VI-97. Có phải là tôi thấy vui như vậy, chỉ vì ý nghĩ chính mình được khen. Nghĩ lại mà xem, thật là vô nghĩa ! Chỉ như đứa trẻ ấu trĩ mà thôi.
VI-98. Danh vọng chỉ làm tâm thêm xao lãng, không còn biết chán cảnh khổ luân hồi. Cạnh tranh ganh tị với người làm thiện, khiến cho công đức thất tán hao mòn.
VI-99. Vậy thì những ai ờ cạnh bên tôi, bôi nhọ tên tôi, mới thật là người bảo vệ cho tôi khỏi rơi ác đạo.
VI-100. Tôi đã phát tâm mong cầu giải thoát, không muốn để mình vướng bả lợi danh. Họ lại cứu tôi thoát vòng ràng buộc, sao tôi có thể sinh tâm oán thù ?
VI-101. Tôi đang chúi đầu rơi sâu ác đạo, may nhờ có họ cản lại dùm tôi. Tựa như ân đức của mười phương Phật, làm sao có thể sinh tâm oán thù ?
VI-102. Đừng nên bực bội nghĩ vì họ cản mà điều công đức tôi chẳng thể làm. Có hạnh tu nào hơn là hạnh nhẫn, chẳng phải tôi cần trú ở hay sao ?
VI-103. Nếu như không thể trú ở hạnh ,nhẫn đó cũng chỉ vì lầm lỗi nơi tôi. Việc công đức lớn đã vào tầm tay, chính tôi đây mới là người cản trở.
VI-104. Việc này nếu không thì việc kia không, Việc này hễ có thì việc kia sinh. Vậy việc này là nhân sinh việc kia, làm sao có thể gọi là chướng ngại ?
VI-105. Hành khất xuất hiện ngay đúng thời điểm, chẳng làm trở ngại cho hạnh bố thí. Chẳng thể nói rằng đạo sư truyền giới là gây chướng ngại cho người xuất gia.
VI-106. Hành khất trên đời hằng hà sa số, nhưng người hại tôi lại chẳng bao nhiêu. Là vì nếu tôi không hại người khác thì cũng chẳng ai gây hại cho mình.
VI-107. Như là kho báu nằm sẵn trong nhà, chẳng nhọc công tìm mà vẫn kiếm ra. Kẻ thù giúp tôi tu hạnh bồ tát, nên gặp kẻ thù lòng thật mừng vui.
VI-108. Nhờ họ mà tôi tu thành hạnh nhẫn, cho nên công đức có được bao nhiêu, xin mang tặng hết, báo đền ơn nặng, vì họ là nhân mang đến quả này.
VI-109. Nếu nói kẻ thù chẳng đáng đền ơn, vì họ nào muốn tôi tu hạnh nhẫn. Nếu vậy cần gì biết ơn Diệu Pháp, là nhân mang đến mọi thành tựu tu.
VI-110. Lại rằng “họ vốn cố tình hại tôi” nên đối với tôi nào có ơn gì !” Vậy nếu như họ giống như y sĩ, thì tôi lấy gì tu hạnh nhẫn đây ?
VI-111. Chính vì tâm họ chất đầy hiểm ác nên tâm tôi mới được hạnh nhẫn này. Ơn nặng khác gì ơn sâu Diệu Pháp, vì nhờ vào đó mà hạnh nhẫn sinh.
VI-112. Đức Thế Tôn dạy Phật và chúng sinh đều là ruộng phước cần được hiến cúng. Nhờ làm đẹp dạ cả hai ruộng phước mà nhiều người đã đến bờ bên kia.
VI-113. Quả vị bồ đề tùy thuộc cả hai, Phật cùng chúng sinh đều quan trọng cả. Thử hỏi tôi đây tu lối tu nào mà chỉ kính Phật xem thường chúng sinh ?
VI-114. Chúng sinh và Phật thiện đức không đồng, nhưng mà tác dụng ngang bằng với nhau. do đó mà nói chúng sinh như Phật.
VI-115. Hiến cúng chư vị trú tâm đại từ, là điểm thù thắng ở nơi chúng sinh. Công đức đến từ tín tâm nơi Phật, là điểm thù thắng nơi đấng Phật đà.
VI-116. Muốn tu thành Phật cần có cả hai, vì vậy mà nói chúng sinh như Phật. Chứ chúng sinh nào có thể sánh với biển cả công đức của đấng Như lai.
VI-117. Biển công đức này ai mà có được, dù chỉ mảy may, thì với người ấy, cho dù ba cõi đều mang hết ra, cũng vẫn không đủ để mà hiến cúng.
VI-118. Chúng sinh vốn là mang đến cho ta quả vô thượng giác. chính vì như vậy mà ta cần phải hiến cúng chúng sinh.
VI-119. Đức Phật chính là người bạn chân thành, ban cho chúng sinh vô lượng ân phước. Muốn đền ơn Phật, ngoài giúp chúng sinh, thử hỏi còn gì khiến Phật hoan hỉ ?
VI-120. Phật xả thân mạng, vào ngục vô gián. để trả ơn này tôi nguyện độ sinh. Vậy dù họ có ngàn lần hại tôi, tôi vẫn một lòng giữ gìn gánh vác.
VI-121. Cho những người mà đến cả chủ tôi cũng còn cưu mang không tiếc thân mạng, sao tôi có thể kiêu căng ngạo mạn, không chịu theo hầu, làm thân tôi tớ !
VI-122. Chư Phật hoan hỉ khi chúng sinh vui; Chư Phật xót thương khi chúng sinh khổ; Giúp chúng sinh vui là khiến Phật vui; tác hại chúng sinh là tổn hại Phật.
VI-123. Người bị lửa đốt thì mọi giác quan đâu còn lạc thú. Làm sao có thể khiến chư Phật vui, nếu chính tôi đây hại chúng sinh khổ.
VI-124. Vậy ra tôi đã khiến Phật buồn lòng, gây bao việc ác, tác hại chúng sinh. Nay xin phát lộ, thành tâm sám hối, xin Phật tha thứ cho lỗi lầm này.
VI-125. Từ nay sẽ làm đẹp lòng Như lai, luôn tự chế ngự luôn làm tôi tớ. dù người thế gian dẫm đạp đầu tôi, cướp mạng sống tôi, quyết không trả miếng. Xin đấng hộ trì tùy hỉ cho tôi.
VI-126. Các đấng đại từ xem khắp chúng sinh ngang bằng với Phật. điều này đã rõ. Dù tướng chúng sinh, nhưng là tánh Phật, sao tôi chẳng thể thành tâm cung kính ?
VI-127. Chỉ vậy là đủ đẹp lòng Như lai. Chỉ vậy là đã chu toàn tự lợi. Chỉ vậy là xóa khổ đau cõi thế. Nên tôi kiên trì chỉ vậy mà tu.
VI-128. Khi mà quân binh gây điều nhiễu hại, ai người có trí hiểu rộng nhìn xa, cho dù đủ sức cũng không khinh xuất làm điều vọng động.
VI-129. Là vì quân binh đâu chỉ một mình, phía sau lưng họ còn có lệnh vua. Cho nên tôi chẳng thể nào khinh xuất, khi kẻ hèn kém sinh sự hại tôi.
VI-130. Sau lưng họ có ngục tốt diêm vương, lại có hết thảy mười phương Phật đà. Như là thần dân nể mặt bạo chúa, tôi đây hết dạ cung phụng chúng sinh.
VI-131. Huống chi dù làm nhà vua nổi giận, thời cảnh địa ngục cũng chẳng rơi vào. Chẳng giống như là yác hại chúng sinh.
VI-132. Hay dù có làm nhà vua vừa ý, quả vị bồ đề vua chẳng thể ban. Quả này chỉ có nhờ mang phúc lạc về cho chúng sinh.
VI-133. Đến như quả vị bồ đề cứu cánh, cũng có được nhờ tâm muốn lợi sinh. Huống chi thiện báo, vinh quang, danh vọng, sở cầu như ý ngay trong đời này.
VI-134. Trú tâm hạnh nhẫn, thì dù vướng kẹt trong cõi sinh tử, vẫn hưởng quả lành, tướng hảo, khang an, danh tiếng lừng vang, sống đời trường thọ hưởng đầy phước lộc, chuyển pháp luân vương.
VII-1. Với tâm an nhẫn, nỗ lực tinh tấn. Nhờ tinh tấn mà đạt quả giác ngộ. Gió kia không thổi thì vật không lay, công đức chẳng tăng nếu không tinh tấn.
VII-2. Tinh tấn là gì ? Vui cùng thiện pháp. Ngược với tinh tấn gọi là biếng lười, thích điều có hại, chán nản, tự khinh.
VII-3. Nếm vị ở không, ưa thích ngủ nghỉ, nên chẳng biết chán cảnh khổ luân hồi.
VII-4. Đã lỡ rơi vào cạm bẫy phiền não, nên vướng kẹt giữa mạng lưới thọ sinh, đưa mình vào trong miệng của thần chết, làm sao có thể không biết cho được !
VII-5. Đồng loại từng người lần lượt bị giết. Vậy mà có thể không thấy thật sao ? Vẫn ngủ no nê giống như loài trâu bên cạnh đồ tể.
VII-6. Thần chết nay đã khép mọi nẻo đường mở mắt chờ ta. Lẽ nào ăn ngon ! Lẽ nào ngủ yên !
VII-7. Biết rồi sẽ chết thời phải mau mau tích lũy tư lương. Đợi chết mới chịu buông tâm lười biếng, nhỡ như chết sớm biết làm thế nào ?
VII-8. Này việc mới khởi, này việc chưa làm, này việc dở dang, đột nhiên chết đến, khi ấy kinh hoàng: “Ôi, ta tiêu mạng !”
VII-9. Mắt đỏ đớn đau, lệ tràn trên má. Người thân bên cạnh tuyệt vọng vô bờ. Riêng tôi nhìn thấy thần chết cạnh bên.
VII-10. Ký ức tràn ngập việc ác đã làm. hoảng sợ điên cuồng thân trào phẩn uế vì bởi tai nghe tiếng kêu địa ngục, biết phải làm sao ?
VII-11. Khổ nạn đời này đã khiến chơi vơi như cá mắc cạn, huống chi địa ngục do nghiệp gây nên !
VII-11. Đã gieo đủ nghiệp khiến sẽ đọa rơi, nơi mà xương thịt sẽ bị đốt nung, nước sôi xối bỏng, làm sao có thể nhởn nhơ sống vui ?
VII-13. Muốn được hưởng quả nhưng không gắng công. Kẻ yếu hèn này sẽ gặp họa lớn. Đến khi gần chết lại giống chư Thiên cất tiếng khóc than: “Ôi, sao quá khổ !”
VII-14. Thân là thuyền bè đủ sức đưa ta vượt qua biển khổ. Nếu lỡ mất rồi làm sao tìm lại ? Hỡi kẻ ngu muội, ngay lúc này đây chớ nên mê ngủ !
VII-15. Hạnh phúc thù thắng cùng với chánh pháp, đều là nhân duyên tạo quả an lạc. Sao không thiết tha lại đi ưa thích lơ đễnh, tán tâm ? đều là nhân duyên tạo nên quả khổ
VII-16. Tâm không buồn nản: đấy là tinh quân. Với lòng chân thật hàng phục chính mình, bình đẳng ngã tha, hoán chuyển ngã tha.
VII-17. Đừng nên nản chí nghĩ rằng “như ta làm sao có thể đạt quả giác ngộ !” Như lai là người nói đúng sự thật, đã dạy điều này:
VII-18. Cho dù có thành ruồi muỗi ong bọ mà đủ tinh tấn, thời cũng có thể đạt được quả vị vô thượng bồ đề.
VII-19. Còn như tôi đây được sinh làm người, biết điều thiện ác, nếu không nản chí từ bỏ đường tu thì chẳng lý nào không thể giác ngộ.
VII-20. Nói rằng “tại vì phải thí thân mạng, cho cả chân tay, nên tôi thấy sợ.” Đó là không biết phân biệt trọng khinh. Vì vô minh nên phát sinh sợ hãi.
VII-21. Vô lượng đời kiếp cũng đã nhiều phen bị đâm, đốt, xẻ thế nhưng chẳng thể đạt quả bồ đề.
VII-22. Nay vì tu chứng phải chịu khổ đau. Khổ này có hạn, ví như giải phẫu để trị liệt thân.
VII-23. Y sĩ gây đau, chữa lành bệnh dữ. Chịu được khổ nhỏ, khổ lớn tiêu trừ.
VII-24. Huống chi thần y lại không như vậy, dùng cách dịu nhẹ chữa bệnh nan y.
VII-25. Dạy ta lúc đầu tập cho rau củ, cho quen rồi mới bố thí thịt xương.
VII-26. Khi tâm chứng được thân, rau chẳng khác, thời thí thân thể nào khó chi đâu.
VII-27. Cũng chẳng đớn đau, vì nghiệp đã đoạn. cũng không nghịch ý, vì luôn thiện xảo. Cho nên, vọng kiến, cùng việc bất thiện là điều tác hại đến thân và tâm.
VII-28. Nếu thân an lạc nhờ công đức tăng, tâm cũng an lạc nhờ luôn thiện xảo, Trú ở luân hồi là vì chúng sinh, làm sao có thể mỏi mệt cho được ?
VII-29. Nghiệp cũ đã cạn nhờ tâm bồ đề. Công đức như biển, hơn hàng Thanh Văn.
VII-30. Bồ tát cưỡi trên lưng ngựa bồ đề, biến tan mỏi mệt. Từ cảnh vui này vào cảnh vui khác, làm sao có thể thoái chí nản lòng ?
VII-31. Tác thành chúng sinh có bốn lực lượng: nguyện, định, vui, nghỉ. Nguyện có được nhờ thiền quán khổ đau, và hiểu lợi ích.
VII-32. Diệt mọi trở lực, tăng cường tinh tấn, được là nhờ nguyện, tự tín, vui, nghỉ, và nhờ năng lực chuyên tâm, tự chủ.
VII-33. Cần diệt bỏ hết vô biên ác nghiệp của mình của người. Diệt một ác nghiệp đã phải gắng công hàng vô lượng kiếp,
VII-34. vậy mà mảy may sám hối nghiệp chướng cũng vẫn chưa hề. Biến mình trở thành kho tàng ác nghiệp, sao tim lại chẳng từng mảnh nổ tung ?
VII-35. Cần thành tựu đủ vô lượng thiện đức cho mình cho người. Tu một thiện đức đã phải gắng công hàng vô lượng kiếp,
VII-36. vậy mà một thoáng huân tập thiện đức cũng vẫn chưa từng. Thật là kỳ lạ ! Thân người này đây quí giá biết bao, lại biến nó thành hoàn toàn vô nghĩa !
VII-37. Chưa từng hiến cúng mười phương Như lai; chưa từng mang đến niềm vui lễ đàn; chưa từng góp sức làm nên pháp hội; chưa từng chu toàn cho người gian nan;
VII-38. chưa giúp kẻ nguy thoát cơn sợ hãi; chưa mang vui đến cho kẻ khốn cùng. Điều tôi đã làm đó là trong thai đã khiến mẹ tôi chịu bao khổ sở !
VII-39. Vì trong quá khứ và trong hiện tại từ bỏ chí nguyện mong cầu Phật Pháp, nên nay mới phải khốn khổ thế này. Vậy ai còn muốn bỏ chí nguyện tu ?
VII-40. Đức Mâu ni dạy: nguyện là cội rễ của mọi thiện đức. Nguyện này sinh ra từ sự liên tục quán về quả báo.
VII-41. Thân đau, tâm khổ, đủ loại hiểm nguy, những điều mong muốn đều phải xa lìa, chẳng qua chỉ vì nghiệp dữ đã tạo.
VII-42. Cố gắng dụng tâm làm nên việc lành, với công đức này, dù sinh ở đâu cũng đều hưởng đủ mọi điều thắng diệu.
VII-43. Đã làm việc dữ, mặc dù muốn vui với ác nghiệp này, dù sinh ở đâu, đao kiếm khổ đau cũng đều bủa xuống.
VII-44. Trú giữa lòng sen dịu mát ngát hương; thực phẩm diệu âm thuần dưỡng rạng ngời; hào quang Phật chiếu; nở từ lòng sen; thân tướng nhiệm mầu; diện kiến Như lai; làm bậc trưởng tử; tất cả đều nhờ công đức thiện nghiệp.
VII-45. Thống khổ biết bao, bị quỉ diêm vương lột da lôi xuống, chảo đồng nung sôi đổ vào thân thể, đao kiếm cháy đỏ đâm xẻ thịt da, cắt nát vụn ra thành hàng trăm mảnh, rớt cả xuống nền sắt nung cháy rực, tất cả chỉ vì nghiệp dữ đã gieo.
VII-46. Vì vậy cần phải tin nơi thiện đức với trọn kính ngưỡng, tu tập chuyên cần. Khởi bằng nghi thức Kinh Kim Cang Tàng, tu tâm tự tín.
VII-47. Trước khi bắt đầu phải nên cân nhắc nên làm hay không. Không làm thì hơn, nhưng nếu đã làm chớ nên bỏ dở,
VII-48. bằng không đời sau sẽ luôn quen thói, khổ nghiệp càng tăng, khả năng càng giảm, đến khi sắp đạt việc lại không thành.
VII-49. Một là hành động; hai là nhiễm tâm; ba là khả năng: tu tập tự tín theo ba điểm này. Nói rằng: “tôi sẽ một mình gánh vác.” Đây chính là tâm tự tín hành động.
VII-50. Người phàm phu bị nhiễm tâm ràng buộc, cả chính bản thân cũng không gánh nổi. Họ chẳng như tôi cho nên tôi phải tự mình cáng đáng.
VII-51. Thấy người làm việc lao nhọc thấp hèn, sao lại ngồi yên ? Chẳng nên kiêu mạn. Đừng bao giờ để khởi lòng tự tôn.
VII-52. Khi gặp rắn chết, quạ cũng thành ưng ; khi tâm nhu nhược, cả lỗi lầm nhỏ cũng gây hại lớn.
VII-53. Kẻ sớm nản lòng, không biết kiên trì, làm sao thoát khổ ? Biết tu tự tín thì dù chuyện lớn cũng vẫn ung dung.
VII-54. Vậy hãy kiên tâm diệt mọi lầm lỗi. Mới gặp lỗi nhỏ đã vội nản lòng, vậy thì chí nguyện hàng phục ba cõi chẳng phải chỉ là trò cười hay sao ?
VII-55. Tôi sẽ là người chinh phục vạn pháp. Sẽ chẳng có gì xô ngã được tôi. Tôi là đứa con của sư tử chúa, luôn luôn an định, tự tín tột cùng.
VII-56. Nếu vì tự tôn mà gặp tổn hại, thì đó chỉ là nhiễm tâm phiền não, chẳng phải tự tín. Ai có tự tín, trăm vạn kẻ thù không thể thao túng. Còn những kẻ khác thường bị tự tôn tác hại tơi bời.
VII-57. Để cho tự tôn thổi phồng tâm trí, thời sẽ trôi lăn vào trong ác đạo, dù sinh làm người cũng chẳng an vui, làm tôi tớ ăn cơm thừa canh cặn.
VII-58. Ngu si, xấu xí, thấp kém, yếu hèn, trở thành trò cười của khắp thiên hạ. Tự tôn tự đại mà gọi anh hùng, chẳng biết ai mới là người tội nghiệp.
VII-59. Tự tín hàng phục kẻ thù tự tôn mới thật xứng đáng là đại anh hùng. Vĩnh viễn đoạn diệt kẻ thù tự tôn, viên thành Phật quả, thành đấng chiến thắng, như là chúng sinh vẫn hằng đợi mong.
VII-60. Ở trong phiền não mà vẫn giữ tâm muôn phần kiên định, không để phiền não xâm phạm đến mình, như sư tử đứng giữa bầy lang sói. Gặp cảnh hiểm nguy thời che đôi mắt, tương tự như vậy, gặp cảnh hung hiểm cũng chẳng để cho phiền não tấn công.
VII-62. Chẳng thà chết cháy, hay bị chém đầu, còn hơn qui hàng kẻ thù phiền não. Vậy trong mọi cảnh phải luôn giữ gìn hành động thích đáng.
VII-63. Như trò chơi vui, Bồ tát làm gì cũng đều vui thích, tâm không thấy thỏa.
VII-64. Khổ công làm lụng, mưu cầu hạnh phúc, thế nhưng hạnh phúc biết có được chăng ! Gặp việc chắc chắn tạo quả hạnh phúc, làm sao có thể không ưa thích làm ?
VII-65. Lạc thú giác quan tựa như mật ngọt trên đầu lưỡi dao, người đời nếm vào còn chưa biết đủ. Huống chi công đức tạo quả an lạc, làm sao có thể thấy đủ cho được.
VII-66. Muốn làm xong việc, thời phải bắt đầu giống như là voi giữa trời trưa nắng gặp được ao trong vội vã dầm mình.
VII-67. Bao giờ yếu mệt thời phải buông nghỉ, rồi lại bắt đầu. Hay khi làm xong phải biết buông nghỉ, vì đây là việc sẽ lại muốn làm.
VII-68. Như tướng ra trận cùng địch so gươm, gạt mọi nhát đâm của kiếm phiền não, nhanh nhẹn tấn công, chiến thắng kẻ thù.
VII-69. Đương khi lâm trận lỡ tay rơi kiếm, kinh hoàng sợ hãi vội vã nhặt lên. Tương tự như vậy, chánh niệm lỡ rơi, phải sợ ác đạo mà lượm ngay về.
VII-70. Thuốc độc vào máu sẽ lan toàn thân; lỗi lầm có dịp sẽ ngập tràn tâm.
VII-71. Như ôm trong tay hũ dầu đầy ắp đi trước lưỡi gươm, sẽ không dám rơi dù chỉ một giọt. Người tu phải nên thận trọng như vậy.
VII-72. Như rắn chạm chân, lập tức hất ra. Tương tự như vậy, nếu tâm trì trệ, buồn ngủ, hôn trầm, phải mau chận đứng.
VII-73. Mỗi khi phạm lỗi, phải tự trách mình, cương quyết lập tâm để không tái phạm.
VII-74. Ở trong mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh, sao cho chánh niệm thành thói quen đây ? Nghĩ rằng tôi sẽ cầu gặp đạo sư, làm theo tất cả việc làm thích đáng.
VII-75. Để đủ sức mạnh trong mọi việc làm, hãy nhớ lời dạy về bất phóng dật, nhẹ nhàng khởi công.
VII-76. Như sợi tơ bông nhẹ bồng trong gió, để mình phất phới nhẹ giữa niềm vui, thời có việc gì lại không làm được.
VIII-1. Tu tinh tấn rồi hãy chuyên tu định. Để tâm tán loạn thời nanh phiền não nhất định rơi vào.
VIII-2. Nếu cả thân tâm đều giữ cách ly thì không thể nào sinh tâm tán loạn. Cần lìa xa mọi bận tâm thế tục, dứt bỏ tất cả loạn tưởng vọng tâm.
VIII-3. Bận tâm thế tục rất khó xa lìa, vì luyến người thân và tham danh lợi, đây là điều nên từ bỏ trước hết, kẻ trí vẫn thường làm theo như vậy.
VIII-4. “Quán đi với chỉ, phát hủy nhiễm tâm.” Hiểu điều này rồi, trước tiên tu chỉ, có được là nhờ vui vẻ lìa xa bận tâm thế tục.
VIII-5. Chính bản thân mình vốn đã vô thường, lại còn mê luyến những kẻ vô thường. Mai sau dù có tái sinh ngàn lần, cũng chẳng cách nào gặp được người thân.
VIII-6. Không gặp người thân thời tâm không vui, và không thể nào trú ở nơi định; cho dù có gặp tâm cũng chẳng nguôi, cũng vẫn khốn khổ, đòi hỏi, đợi chờ.
VIII-7. Để tâm mòn mõi mê luyến người thân, thời không thể thấy đúng như sự thật; tâm chán sinh tử rồi sẽ đánh mất; rốt lại khổ lụy cùng cực đớn đau.
VIII-8. Bao nhiêu tâm trí dồn cho người thân, thời gian thấm thoát trôi trong vô nghĩa. Vì chút tình thân ngắn ngủi không bền mà pháp trường tồn lại không giữ được.
VIII-9. Đeo đuổi những việc phàm phu ấu trĩ, chắc chắn ác đạo sẽ phải rơi vào, sẽ khiến cho ta xa lìa thiện pháp, phàm phu ấu trĩ gần gũi làm chi ?
VIII-10. Mới đang là bạn thoắt biến thành thù, vui vẫn chuốc oán, phàm phu ấu trĩ chẳng thể làm sao khiến họ vừa lòng.
VIII-11. Khuyên điều lợi ích họ giận không nghe, ngược lại muốn tôi lìa xa điều thiện. Những lời họ bảo nếu chẳng làm theo, họ liền nổi sân đọa sinh ác đạo.
VIII-12. Ai hơn thì ganh, bằng thì cạnh tranh, thua thì khinh mạn, khen thì tự đại, nghe chê thì lại đùng đùng nổi sân. Ấu trĩ như vậy, chơi thân làm gì ?
VIII-13. Thân gần với kẻ phàm phu ấu trĩ, mọi điều bất thiện chắc chắn phát sinh: tự tôn, tự đại, kiêu mạn, khinh người, luận việc thế tục mê mải không thôi.
VIII-14. Giao du như vậy liệu có ích gì ? Rốt lại chỉ toàn bất hạnh mà thôi. Họ chẳng mang điều lợi ích cho tôi, tôi cũng chẳng mang lợi ích cho họ.
VIII-15. Vậy hãy lánh xa phàm phu ấu trĩ, mỗi khi gặp mặt vui vẻ cười chào, nhưng không trở nên quá đỗi thân mật, cung cách lịch sự như người bình thường.
VIII-16. Chỉ nhận lấy điều lợi cho chánh pháp, như con ong mật mà hút nhụy hoa. Chẳng ai là người thân thiết với ta, ai cũng như người mới vừa gặp mặt.
VIII-17. “Nhưng tôi là kẻ giàu sang danh vọng, có biết bao người rất mực quí tôi.” Nếu giữ cái tâm tự tôn như vậy, sau khi chết rồi xiết bao kinh hãi !
VIII-18. Tâm vì mê muội tham chấp đủ điều. Cứ mỗi niệm tham phát sinh nỗi khổ ngàn lần lớn hơn.
VIII-19. Vì vậy kẻ trí chẳng hề luyến tham. Bởi vì tham luyến mà sinh sợ hãi, tìm cầu bao nhiêu rồi cũng trôi tan, tâm nên vững vàng tư duy như vậy.
VIII-20. Có biết bao người nhiều tiền lắm của, lại biết bao người danh vọng vẻ vang, rồi ôm danh lợi một mớ hành trang mà đi về đâu, nào ai có biết !
VIII-21. Được khen đã sao ? đâu có gì vui ? Còn biết bao người chê bai chỉ trích. Bị chê đã sao ? đâu có gì buồn ? Còn biết bao người nghĩ tốt cho tôi.
VIII-22. Mỗi người mỗi ý, cả đức Thế tôn cũng chẳng thể khiến thế gian vừa lòng, huống chi là kẻ tội nghiệp như tôi. Vậy hãy để tôi lìa xa thế tục.
VIII-23. Nghèo thì khinh thị, giàu thì chê bai, làm sao có thể có chút gì vui khi gần những kẻ khó chơi như vậy.
VIII-24. Như lai nói rằng: “Phàm phu ấu trĩ chẳng phải bạn lành.” Họ có bao giờ xử tốt với ai, nếu chẳng phải vì lợi riêng cho họ.
VIII-25. Vào rừng sống cùng chim muông cây cỏ, không còn nghe nữa tiếng lời thị phi, đây mới thật là bạn hiền chân thật. Bao giờ tôi mới đi vào rừng sâu ?
VIII-26. Bao giờ tôi mới đoạn lìa tất cả, sống trong hang đá, hay nơi miếu hoang. Hay là ngồi xuống ở dưới gốc cây, quyết không bao giờ quay đầu trở lại.
VIII-27. Bao giờ tôi mới sống giữa thiên nhiên, một vùng mênh mông không ai làm chủ. Tự ý tới lui, tự do đi, ở, không gì câu thúc, không chút buộc ràng.
VIII-28. Bao giờ tôi mới sống không âu lo, vỏn vẹn bình bát cùng vài vật dụng, khoát lớp áo rách không ai thèm mặc, và cũng chẳng cần nơi chốn che thân.
VIII-29. Vào bãi tha ma, bao giờ tôi mới nhìn lại thân mình, so với xương trắng chất thành đống kia, bản chất hư hoại thật ra chẳng khác.
VIII-30. Thân thể này đây rồi sẽ hư rửa, nồng nặc bốc mùi cực kỳ hôi thối, đến cả sói lang cũng chẳng dám gần. Thân này thật sự chỉ thế mà thôi.
VIII-31. Cho dù sinh ra trông thật vẹn toàn, nào thịt, nào xương, kết thành đời sống, nhưng sẽ có ngày tất cả rã tan. Thân còn như vậy, huống chi bằng hữu.
VIII-32. Làm thân con người một mình vào đời. Đến khi lìa đời cũng một mình thôi. Nào có ai người chia sẻ nỗi đau. Bằng hữu mà chi, chỉ càng thêm vướng.
VIII-33. Tựa khách viễn du trên con đường dài, bước vào quán trọ làm chốn nghỉ chân. Khách trần viễn du luân hồi sinh tử, lấy kiếp tái sinh làm nơi ở trọ.
VIII-34. Vậy thì trước khi có bốn kẻ đến khuân xác tôi đi giữa tiếng khóc than, hãy để cho tôi vào rừng trú ẩn.
VIII-35. Hãy để tôi sống lặng lẽ một mình, không ai làm bạn, không ai oán thù. Tất cả xem tôi như người đã chết, đến khi lìa đời không kẻ tiếc thương.
VIII-36. Không có một ai khóc than tràn lệ khiến tôi xao xuyến; cũng chẳng có ai khiến tâm tán loạn mất chánh niệm Phật cùng với pháp tu.
VIII-37. Hãy để tôi sống đơn độc một mình. Rừng xanh tươi đẹp ít phiền, nhiều vui. Bao nhiêu tán tâm đều thanh tịnh cả,
VIII-38. cho tôi buông hết bao mong cầu khác, chuyên tâm nhắm đến chỉ một nguyện thôi: cố gắng làm sao giữ tâm an tĩnh, tu tập thiền chỉ để mà thuần tâm.
VIII-39. Đời này, kiếp sau ái dục sinh họa. Kiếp này sinh cảnh chém, giết, tù đày. Kiếp sau sinh cảnh địa ngục, đau thương.
VIII-40. Ráo riết cậy nhờ ông tơ bà nguyệt, tới lui mai mối kết chỉ se duyên. Chỉ vì nữ sắc, việc ác không chừa, tiếng nhơ không sợ,
VIII-41. mọi cảnh nguy hiểm đều chẳng từ nan, kể cả tài sản cũng đều không tiếc, chỉ để đổi lấy đôi chút ngất ngây, ấp ủ trong tay tấm thân ngà ngọc.
VIII-42. Thật ra chỉ là cả một túi xương. Nào phải tự khởi, nào có tự tánh, sao đây lại là điều ngươi luyến ái ? hướng quả niết bàn chẳng tốt hơn sao ?
VIII-43. Khó khăn biết bao mới được vén khăn, nâng lên khuôn trăng e ấp thẹn thùng. Dung mạo xưa nay dấu sau khăn phủ, bất kể thế gian có nhìn hay không.
VIII-44. Mong đợi biết bao ! Khao khát biết bao ! Nay khuôn mặt này kên kên vạch khăn cho ngươi nhìn ngắm, sao ngươi hoảng chạy ?
VIII-45. Xưa có ai nhìn là ngươi không vui, sùng sục nổi ghen, vội vàng che dấu. Nay sao chẳng hề ra tay bảo vệ người yêu thành mồi cho loài kên kên ?
VIII-46. Một đống thịt này chim kên rỉa rói, thử hỏi khi trước vất vả mà chi, mang bao vòng hoa, trầm hương, châu ngọc, phí công trang điểm làm mồi cho chim !
VIII-47. Thử hỏi mà xem, đống xương người chết dù chẳng cử động, ngươi vẫn hoảng sợ. Vậy sao không sợ tử thi biết đi ?
VIII-48. Xương bọc thịt da thì ngươi yêu dấu, nay trần xương trắng ngươi lại không ham. Bây giờ lại nói thôi không cần nữa. Nhưng mớ xương bọc lại thích ái ân.
VIII-49. Phân và nước miếng đến từ thức ăn, vậy sao nước miếng ngươi lại đê mê, còn phân thì lại chê là gớm ghiết ?
VIII-50. Gối bông mềm mại, nhưng ngươi nào muốn cùng gối giao tình. Lại còn nói là thân người không hôi. Điên đảo vì tình, chẳng còn phân biệt đâu là thanh tịnh.
VIII-51. Cảm xúc dịu êm, chiếc gối bông mềm, nhưng vì dục tình khiến cho mê muội, chẳng thể cùng gối mở cuộc giao hoan, đến nỗi cuồng điên hận cả chiếc gối.
VIII-52. Không thích của dơ, lại ôm trong lòng cả một túi xương, cột bằng bắp thịt, bọc mớ thịt bùn.
VIII-53. Chính thân ngươi đây đều là của bẩn, ngụp lặn chưa đủ, vốn đã sợ dơ lại còn đèo thêm một túi dơ khác.
VIII-54. Ngươi bảo “nhưng mà tôi thích thịt da để mà vuốt ve, để mà nhìn ngắm. Nhưng sao ngươi lại chẳng hề ưa thích nếu thịt da kia vô tri không hồn ?
VIII-55. Hay điều ngươi thích chính là cái tâm ? Thế nhưng cái tâm làm sao có thể vuốt ve, nhìn ngắm ? Có thể sờ, ngắm, thì nhất định là chẳng phải cái tâm.
VIII-56. Thân của người khác dơ bẩn thế nào, không thấy thì thôi, cũng chưa mấy lạ, nhưng thân của mình toàn là của bẩn mà không tự thấy mới thật lạ kỳ !
VIII-57. Tại sao tâm này chạy theo của bẩn ? Chẳng để mắt đến đóa sen tinh khôi giữa trời nắng mới, mà lại vui thú với túi phân người ?
VIII-58. Chỗ nào trét phân ngươi nào muốn rờ, nhưng ngươi lại thích sờ mó tấm thân, từ đó sinh ra đủ thứ dơ bẩn.
VIII-59. Chẳng thích của bẩn mà lại ôm ấp tấm thân chui ra từ chỗ dơ bẩn, kết tụ từ những hạt giống dơ bẩn.
VIII-60. Dòi sinh từ phân ngươi nào ưa thích, vậy mà ưa thích thân xác người yêu, vốn cũng sinh ra từ nơi dơ bẩn, và vốn chứa đựng đầy tràn của dơ.
VIII-61. Của dơ thân mình không gớm đã đành, lại còn khát khao một túi bẩn khác.
VIII-62. Nếu cho vào miệng nhai xong lại nhổ, thì món thanh tịnh cơm trắng, rau xanh, cũng sẽ trở thành rác dơ mặt đất.
VIII-63. Điều hiển nhiên này nếu vẫn chưa tin, hãy thử bước ra nghĩa trang mà nhìn xác chết hôi thối vất nằm nơi đó.
VIII-64. Thử lột da ra, nhìn lại mà xem, có phải sẽ làm hồn kinh phách tán ? Những điều như vậy làm sao có thể tạo nguồn khoái cảm ?
VIII-65. Mùi hương trên da chỉ là dầu xoa, nào có phải là hương thơm thân thể. Làm sao có thể nghe mùi hương này mà lại tơ tưởng đến tấm thân kia ?
VIII-66. Đã thích mùi thơm cớ sao lại thích thân xác người tình bốc toàn mùi hôi. Người cõi thế gian thích điều vô lý. Vì sao lại thích tẩm hương thân thể ?
VIII-67. Huống chi trầm hương đâu phải hương người. Sao mùi hương gỗ lại gợi dục tình với điều gì khác ?
VIII-68. Nếu để tự nhiên, thân thể trần truồng, tóc móng lê thê, răng vàng hôi thối thật đáng kinh hãi.
VIII-69. Nhưng tôi đây lại cố công trau chuốc, như mài vũ khí tự đâm chính mình. Toàn cõi thế gian rối loạn điên cuồng, chỉ vì nỗ lực của người u mê.
VIII-70. Xương chất nghĩa trang, ngươi nhìn thấy sợ. Lại tìm khoái lạc nơi thành phố chết, giao du với toàn tử thi biết đi.
VIII-71. Mớ túi phân kia nào phải miễn phí. Giá trả thật đắt: kiếp này kiệt quệ, kiếp sau địa ngục trầm luân khổ đau.
VIII-72. Khi còn thơ ấu chẳng thể có tiền, đến tuổi thanh niên bận rộn đủ việc, bao nhiêu thời gian lo toan lập nghiệp, đến lúc về già ân ái còn đâu.
VIII-73. Có kẻ mặc dù sung mãn ái dục, nhưng cả ngày trời vất vả mưu sinh, cuối ngày trở về kiệt quệ mệt mỏi, nặng nề giấc ngủ như một thây ma.
VIII-74. Có người lại phải phương xa lập nghiệp, khổ đau cách biệt, khoắt khoải nhớ thương, cứ vậy nhiều năm, vợ con không gặp.
VIII-75. Có kẻ cầu lợi mà chẳng biết cách, nên gửi bán thân, hạnh phúc mất hết, không còn tự chủ, trôi nổi dật dờ theo ngọn gió nghiệp.
VIII-76. Có kẻ thân mình cũng mang ra bán, chịu cảnh nô lệ khốn khổ bần hàn. Vợ sanh con dưới gốc cây hoang vu đìu hiu gió lộng.
VIII-77. Có kẻ ngu xuẩn, mặc dù sợ chết, vẫn lập sự nghiệp bằng cách đầu quân. Tưởng sẽ vinh quang, ngờ đâu rơi cảnh nô lệ buộc ràng.
VIII-78. Có kẻ chỉ vì chạy theo ham muốn mà bị cắt, xẻ, đóng cọc, dao đâm, hay bị lửa đốt.
VIII-79. Khổ vì gầy dựng, vì giữ, vì mất: tài sản vốn là khổ nạn triền miên. Để tâm tán loạn luyến tham tài sản, thời chẳng cơ hội thoát khổ luân hồi.
VIII-80. Vì nhiều ham muốn nên nhiều vất vả, nhưng mà kết quả lại chẳng bao nhiêu. Giống như loài trâu khuân vác cực nhọc, cũng chỉ được cho vài ba nắm cỏ.
VIII-81. Thật chẳng đáng gì, chẳng phải quí hiếm, cả loài thú vật cũng biết tìm ra. Vậy mà phải đổi bằng bao thiện nghiệp, phí uổng thân người tự tại, thuận duyên cực kỳ quí hiếm.
VIII-82. Những điều ham muốn rồi cũng sẽ mất. Vậy mà vì tham, đọa rơi địa ngục, chịu bao khổ lớn, chỉ vì lợi nhỏ.
VIII-83. Chỉ một phần triệu nỗ lực này thôi cũng đủ để tôi đạt quả vị Phật. Người ta vì tham chịu bao cực khổ, vất vả còn hơn cả bậc chân tu. Thế nhưng quả Phật lại không thể có.
VIII-84. Thử nghĩ mà xem hết thảy khổ đau địa ngục, ác đạo, biết bao khổ nạn lửa, độc, bùa chú, hay là kẻ thù, cũng chẳng thể nào sánh với nạn tham.
VIII-85. Tham dục tôi đã mõi mòn chán ngán, nay muốn quay về vui hạnh cách ly. Giữa rừng hoang vắng an vui thanh tịnh, lìa xa hết thảy phiền não thị phi.
VIII-86. Bước cùng những tảng đá cao chất ngất, ánh trăng thanh mát ngào ngạt trầm hương. Gió rừng yên ả cùng tôi thả gót, thong dong quán chiếu về chuyện lợi sinh
VIII-87. Rồi trong hang núi, hay dưới gốc cây, hay là nhà hoang, tha hồ trú ở. Khỏi cần vất vả đau đáu canh chừng, ung dung thanh thản thoát mọi âu lo.
VIII-88. Chẳng chút luyến tham, không ai buộc ràng, an nhiên tự tại, ít muốn nhiều vui. Cảnh này Đế Thích dù có tìm cầu, cũng vẫn khó lòng tìm cho ra được.
VIII-89. Cứ thế chiêm nghiệm về hạnh cách ly, quét tan hết thảy nhiễm tâm vọng tưởng, để rồi tu tập phát bồ đề tâm.
VIII-90. Trước tiên quán pháp bình đẳng chúng sinh: ai chẳng như tôi trong cơn vui, khổ ? cho nên cần phải bảo vệ người khác như bảo vệ mình.
VIII-91. Dù tay khác chân nhưng đều là thân, cần phải giữ gìn. Tương tự như vậy, chúng sinh tuy khác, thế nhưng vui buồn đều cũng như tôi, đều mong hạnh phúc.
VIII-92. Khổ đau của tôi, đâu ai khác chịu, chỉ mình tôi gánh, đè nặng khó kham. Là vì vướng vào khái niệm chấp ngã, nên lấy khổ này gọi là của mình.
VIII-93. Khổ đau của người tôi nào phải chịu, thế nhưng nếu cũng lấy làm của mình, tự nhiên sẽ thấy trĩu nặng khó kham.
VIII-94. Cho nên khổ người tôi sẽ quét sạch như quét khổ mình. Và tôi cũng sẽ làm lợi khắp cả, đều là hữu tình cũng giống như tôi.
VIII-95. Tôi và hữu tình đều cầu an lạc, bình đẳng như nhau, nào có gì khác ? Vậy sao tôi lại chỉ muốn tôi vui ?
VIII-96. Tôi và hữu tình đều không muốn khổ, bình đẳng như nhau, nào có gì khác ? Vậy sao tôi lại chỉ cứu mình tôi ?
VIII-97. Nói rằng khổ người chẳng hại đến tôi, nên tôi chẳng cần bận tâm che chở. Nói vậy cần gì lánh khổ tương lai, vốn chẳng phạm đến tôi trong hiện tại.
VIII-98. Ý nghĩ “nhưng tôi là người chịu khổ !” thật ra chỉ là ý nghĩ sai lầm. Là vì khi chết là một người khác, mà khi tái sinh lại là người khác.
VIII-99. Nếu như nói rằng “người nào chịu khổ, người nấy tự lo.” Vậy thì chân đau, cần gì tay giúp ?
VIII-100. Lại rằng “đúng vậy thật là vô lý, chỉ do chấp ngã huân tập mà thôi.” Nếu nói như vậy những điều vô lý chấp ngã chấp tha đều phải bỏ hết.
VIII-101. Cái được gọi là một chuỗi, một nhóm, như là tràng hạt, hay là đội binh, đều không thật có. Vốn chẳng có ai là người chịu đau, vậy ai là chủ của khổ đau này ?
VIII-102. Khổ đau không chủ chẳng cần phân biệt. Hễ có khổ đau thì cần diệt khổ, đâu cần xác định [khổ này của ai]
VIII-103. “Nói vậy, cần gì diệt khổ chúng sinh ?” Lời này vô cớ. Khổ mình muốn diệt thì khổ đau người cũng cần phải diệt. Không lo khổ người thì khổ đau mình cũng chẳng cần lo.
VIII-104. Hỏi rằng “từ bi khiến cho khổ não. Vậy sao lại cố phát khởi làm gì ?” Thật ra nếu đã biết khổ luân hồi thì khổ phát tâm làm sao sánh nổi.
VIII-105. Chịu một khổ này thay cho vạn khổ. Ai có tâm từ tự lợi, lợi tha, nhất định sẽ vui cam tâm gánh khổ.
VIII-106. Đức Diệu Hoa Nguyệt biết vua sẽ giết, nhưng vẫn cam tâm chấp nhận khổ đau cho biết bao người diệt trừ khổ não.
VIII-107. Tâm tu như vậy thì vạn khổ người đều luôn gánh vác, sâu thẳm địa ngục hoan hỉ đi vào, tựa như chim trời sà xuống đầm sen.
VIII-108. Chúng sinh giải thoát thì có phải là được cả đại dương an vui hạnh phúc ? Chẳng đủ lắm sao ? Còn chưa thấy thỏa ? Nào đáng gì đâu giải thoát riêng tôi ?
VIII-109. Vậy thì dù tôi gánh vác chúng sinh, cũng không thể nào sinh tâm kiêu ngạo. Lấy hạnh phúc người làm quà cho mình, chẳng hề chờ mong thiện báo nào khác.
VIII-110. Chỉ chút thị phi, tôi đã hết lòng tự bảo vệ mình. Tương tự như vậy, bảo vệ hữu tình bằng trọn tấm lòng thương mến quan tâm.
VIII-111. Vì tâm mê muội huân tập sâu dày, nên tinh huyết người, tôi lại xem là chính bản thân tôi, mặc dù tự nó vốn không tự tánh.
VIII-112. Vậy thì tại sao với thân người khác lại chẳng thể thấy đây cũng là mình ? Và tại làm sao chẳng thể xem mình chính là người khác ?
VIII-113. Nay đã thấy được rằng “ngã” là quấy, thấy biển thiện đức nằm ở nơi “tha,” vậy xin buông hết khuynh hướng ái ngã, để mà huân tập nơi lòng vị tha.
VIII-114. Đã thấy tay chân đều là thân thể, vậy sao chẳng thể thấy khắp chúng sinh đều là hữu tình trong cùng cõi thế ?
VIII-115. Vì lực huân tập mà nhìn thân này lại khởi khái niệm thấy đó là tôi. Vậy sao không thể khởi khái niệm tôi với thân thể khác ?
VIII-116. Cho nên khi ta làm lợi cho người, cũng chẳng có gì để mà khoe khoang. Cũng giống như là tự đút mình ăn, chẳng hề khởi tâm mong cầu hồi báo.
VIII-117. Khi gặp nghịch cảnh, tôi luôn ra sức gìn giữ cho mình. Tương tự như vậy, nay tôi tập quen khởi lòng từ bi gìn giữ chúng sinh.
VIII-118. Đức Quan Thế Âm vì lòng từ bi, tự mang tên mình làm chốn hộ trì cho khắp chúng sinh thoát mọi sợ hãi giữa chốn đông người.
VIII-119. Vậy đừng thoái chí, cứ tập cho quen. Có người ban đầu nghe nhắc đến tên tôi đã thấy sợ, nhưng quen thân rồi, tôi lại kém vui khi phải xa cách.
VIII-120. Ai muốn chính mình thành nơi nương dựa của mình và người, thì nên thâm nhập diệu pháp kín mật hoán chuyển ngã tha.
VIII-121. Vì tôi tham luyến chấp bám thân này mà việc cỏn con cũng gây kinh hãi. Thân này sinh ra biết bao sợ hãi, sao chẳng ghét nó như ghét kẻ thù ?
VIII-122. Cũng vì phải giữ cho thân khỏi bệnh, cho miệng khỏi đói, cho cổ khỏi khô, mà tôi sát hại cá, chim, nai rừng, rình rập bên đường [Chờ dịp cướp bóc]
VIII-123. Vì lợi vì danh có người thậm chí giết cả mẹ cha, cướp phẩm cúng dường, tự đẩy mình vào địa ngục vô gián.
VIII-124. Ai người có trí lại muốn chiều lòng cung phụng tấm thân ! Lại chẳng thấy đây chính là kẻ thù rất đáng khinh miệt !
VIII-125. “Nếu cho ra rồi còn gì để hưởng ?” Đây chính là lời ái ngã của quỉ. “Nếu như giữ hết còn gì để cho ?” Đây chính là lời vị tha của trời.
VIII-126. Vì thủ lợi mình mà hại đến người, sẽ phải đọa rơi khổ đau địa ngục. Vì lợi ích người mà hại đến mình, phước đức gặt hái rực rỡ bao la.
VIII-127. Tranh lợi cho mình, rốt lại đọa rơi vào cõi ác đạo, thấp kém, ngu muội, vậy sao tôi chẳng đổi thành lợi người để sinh vào cõi tôn vinh hạnh phúc ?
VIII-128. Ép người hầu mình sẽ phải chịu cảnh nô lệ tôi đòi. Hiến mình hầu người thì sẽ có được địa vị, quyền uy.
VIII-129. Hết thảy hạnh phúc trong cõi thế gian đến từ nơi tâm cầu lợi cho người. Hết thảy khổ nạn trong cõi thế gian đến từ ham muốn thủ lợi riêng mình.
VIII-130. Phàm phu ấu trĩ thủ lợi riêng mình, còn chư Phật đà luôn vì lợi tha. Khác biệt ra sao có cần phải nói ?
VIII-131. Không đổi vui mình để lấy khổ người, thì vô thượng giác sẽ không thể đạt, trôi trong sinh tử không chút niềm vui.
VIII-132. Đừng nói đời sau, ngay cả kiếp này cũng không trọn vẹn. Kẻ dưới thì luôn biếng lười trốn việc, chủ trên thì lại trốn trả tiền lương.
VIII-133. Bao nhiêu niềm vui đời này kiếp sau, bao la rạng rỡ đều vất bỏ hết. Nào tôi có ngờ ! vì bởi vô minh tổn hại hữu tình mà tự chuốc lấy khổ nạn triền miên.
VIII-134. Bao nhiêu thương tổn trong cõi thế gian, bao niềm sợ hãi, bao nỗi đớn đau, đều đến từ tâm vô minh chấp ngã. Thứ quỉ dữ này giữ lại làm chi ?
VIII-135. Không triệt bỏ đi thì bao khổ đau chẳng thể tận diệt. Lửa chẳng vất đi thì chẳng làm sao khỏi bị đốt cháy.
VIII-136. Muốn mình thoát khổ và diệt khổ người, nên tôi mang thân dâng cho người khác, và trân quí người như quí bản thân.
VIII-137. Này tâm tôi ơi hãy nên đoan chắc rằng nay tôi đã tùy thuộc nơi người. Ngoài tâm vị tha bây giờ không thể có tâm nào khác.
VIII-138. Mắt này, tai này, cùng các giác quan, nay đã trở thành sở hữu người khác. Dùng riêng cho tôi không được nữa rồi. Huống chi là dùng chống lại chủ nhân.
VIII-139. Hữu tình từ nay trở thành trọng yếu. Thân này có gì đều hãy cướp sạch đưa cho hữu tình hưởng dụng tùy nghi
VIII-140. Lấy cảnh của người thấp, bằng, hay cao, đổi thành của tôi. Và đổi cảnh tôi thành của người khác. Dẹp hết tán tâm để mà quán chiếu: khởi tâm ganh tị, cạnh tranh, kiêu căng
VIII-141. Hắn được tôn vinh, còn tôi cùng đinh, không giàu như hắn, không chút tài sản. Người ta kính hắn mà khinh miệt tôi. Hắn sống an vui, tôi khổ cay đắng.
VIII-142. Tôi phải làm lụng, còn hắn ngồi không. Ai cũng biết hắn là bậc vĩ đại. Ai cũng biết tôi là kẻ bất tài.
VIII-143. Khoan đã ! Sao lại là kẻ bất tài ? Thật ra tôi cũng được chút điều hay. So với người này thì tôi thấp kém, nhưng với người kia tôi vẫn trội hơn.
VIII-144. Giới, kiến sa đọa, nhưng phải đâu là lỗi ở nơi tôi. Tôi chỉ là bị nhiễm tâm quấy phá. Hắn giỏi sao không cứu nạn dùm tôi. Hắn mà cứu tôi, khổ đau cỡ nào tôi cũng cam chịu.
VIII-145. Nhưng hắn có hề muốn cứu tôi đâu. Sao lại nhìn tôi xem thường khinh miệt ? Thiện đức mà hắn kiêu ngạo biết bao, đối với tôi đây phỏng có ích gì ?
VIII-146. Không chút đoái thương cho kẻ trôi lăn, lạc chốn hung hiểm cùng tận ác đạo. Vậy mà ra vẻ ung dung đạo đức, còn muốn sánh vai với bậc thánh nhân !
VIII-147. Hắn với tôi đây cùng chung địa vị. để thắng được hắn, tôi không từ nan, chiếm đoạt tài sản, tiếng tăm, danh vọng.
VIII-148. Bằng đủ mọi cách tôi sẽ làm cho khắp cả thế gian biết tôi tài giỏi và sẽ khiến cho tài năng của hắn vĩnh viễn vùi chôn.
VIII-149. Lỗi tôi, tôi dấu. Tôi, chẳng phải hắn, được người cung phụng. Tôi, chẳng phải hắn, được hưởng lợi danh. Tôi, chẳng phải hắn, được đời ca tụng.
VIII-150. Tôi sẽ thích thú khi hắn đọa rơi ; sẽ biến hắn thành trò cười thiên hạ, để cho thế gian dèm pha chế diễu.
VIII-151. Người ta nói rằng kẻ vô minh này ganh đua với tôi. Học rộng, thông minh, tướng mạo, tài sản, làm sao có thể sánh bằng tôi đây.
VIII-152. Mỗi khi thiên hạ cất lời khen tôi, tiếng thơm lừng vang ở khắp mọi nơi, lòng tôi rúng động, niềm vui tê dại, rợn cả lông tóc, thỏa mãn đầy tràn.
VIII-153. Cho dù hắn có được chút tài sản, nhưng hắn là người giúp việc cho tôi, tôi để cho hắn vừa đủ nuôi thân, dư được chút nào, tôi dùng quyền uy mà tước đoạt cả.
VIII-154. Hạnh phúc của hắn, tôi sẽ phá tan. Làm cho tan hoang, luôn gây tổn hại. Đó là vì hắn ở trong sinh tử đã từng trăm lần gây hại cho tôi.
VIII-155. Tâm của tôi ơi, từ vô lượng kiếp vì muốn thủ lợi đã quá mỏi mòn, chỉ để chuốc lấy toàn là bất hạnh.
VIII-156. Vậy thì giờ đây hãy nên cương quyết dốc tâm dồn sức hướng về lợi tha. Phật luôn là người nói đúng sự thật. Tôi nên ghi nhớ lợi ích pháp này.
VIII-157. Nếu trong quá khứ từng tu như vậy, chắc chắn hôm nay quả Phật đại lạc không thể chưa thành.
VIII-158. Vì vậy, cũng như tôi đã từng lấy tinh huyết của người mà thấy là mình, bây giờ cứ hãy lấy khắp hữu tình làm chính bản thân.
VIII-159. Hãy vì người khác mà canh chừng mình. Thân có được gì hãy cướp sạch cho chúng sinh hưởng dụng.
VIII-160. Tôi được an vui, người khác thống khổ. Tôi cảnh cao sang, người khác thấp hèn. Tôi được nâng đỡ, còn người đơn chiết. Vậy sao tôi chẳng hờn ghen chính mình ?
VIII-161. Hạnh phúc tôi nay mang ra cho hết, khổ đau người khác tôi sẽ ôm về. Chất vấn lỗi mình, canh chừng nghiêm ngặt xem đang làm gì !
VIII-162. Khi người phạm lỗi tôi sẽ nhận về chịu lời quở mắng ; còn tôi làm sai dù chỉ mảy may cũng sẽ phát lộ cho khắp mọi người.
VIII-163. Danh tiếng của người tôi sẽ thăng hoa để cho cao trội vượt quá danh tôi. Như kẻ thấp hèn làm thân ở đợ, tôi đây phục dịch cho khắp chúng sinh.
VIII-164. Cái ngã này đây vốn đầy lầm lỗi, ngẫu nhiên có được đôi chút điều hay thì chớ ngợi khen, hãy chôn dấu kỹ đừng cho ai biết.
VIII-165. Hết thảy khổ nạn mà vì lợi riêng tôi hại hữu tình, nay xin hết thảy đổ về nơi tôi. Xin vì hữu tình một mình tôi chịu.
VIII-166. Đừng để lộng quyền, khinh thường, kiêu mạn, mà hãy giống như cô dâu mới cưới, rụt rè, kín đáo, e thẹn, ngại ngần.
VIII-167. Làm như thế này, giữ như thế kia, việc ấy liệu hồn chớ nên xâm phạm. Tự quản thúc mình gắt gao như thế, nếu lỡ vi phạm phải quất phạt ngay.
VIII-168. Đã bảo như vậy nếu chẳng chịu nghe, này tâm ta ơi, chính từ nơi ngươi sinh bao việc ác, nên phải nghiêm khắc trừng phạt nặng tay.
VIII-169. Khi xưa ngươi cứ tha hồ hại ta. Thuở đó đã xa, không còn thế nữa. Nay ta đã thấy ! Ngươi liệu trốn đâu ? Ta đạp cho ngươi Chừa thói kiêu mạn
VIII-170. Hễ vừa khởi tâm thủ lợi cho mình, phải ngay tức thì dẹp bỏ hết đi. Ngươi đã mang thân bán cho người ta, chớ khá than van, lo mà làm việc.
VIII-171. Là vì nếu ta lỡ tâm sẩy ý, không mang ngươi ra cống hiến cho người, thì nhất định là ngươi sẽ bắt ta giao cho ngục tốt, trầm luân địa ngục.
VIII-172. Đã biết bao lần ngươi phản bội ta, đã biết bao đời ta triền miên khổ, nay ký ức ta tràn đầy oán hận, nhất định hủy diệt quân ngã ái này.
VIII-173. Bao giờ muốn vui thì đừng khi nào vui cho riêng mình. Tương tự như vậy, bao giờ bảo vệ thì phải luôn là bảo vệ người khác.
VIII-174. Thân thể này đây hễ càng nuông chiều nó càng đổ đốn, ương hèn, cáu kỉnh.
VIII-175. Để rơi cảnh này, dù được mọi sự trên toàn mặt đất cũng chưa toại lòng. Nỗi ái dục này lấy gì thỏa mãn ?
VIII-176. Vì không thỏa mản tâm loạn, không vui. Còn với những ai tâm không mong cầu thời nguồn phước đức vô biên không cạn.
VIII-177. Vậy đừng bao giờ cho phép thân thể tăng nỗi khát khao. Những món tầm thường không ai thèm muốn, đó mới thật là món đồ hữu dụng.
VIII-178. Thân thể này đây chỉ là tro bụi, không thể cử động, chờ người khuân đi, xấu xí, thối tha, sao tôi lại xem đây là chính mình ?
VIII-179. Sống hay là chết có khác gì đâu. Bộ máy này đây liệu có ích gì ? So với cục đất thật ra không khác. Tôi ơi, sao chẳng vất lòng kiêu hãnh ?
VIII-180. Vì cung phụng nó mà tôi phải chịu khổ đau vô lý. Bao nhiêu mong cầu, bao nhiêu chán ghét, chẳng qua chỉ vì một khúc gỗ khô.
VIII-181. Dù là nuông chiều, hay để chim gặm, thân chẳng hề vui, cũng không hề ghét. Cần gì tôi phải vất vả nâng niu ?
VIII-182. Bị chê chẳng giận, được khen chẳng vui, dù khen hay chê, thân nào hay biết. Cần gì tôi phải nhọc công giữ gìn.
VIII-183. Nếu như nói rằng nâng niu là để cho bạn tôi vui. Thế nhưng bạn tôi với thân của họ đều cảm thấy thích, vậy sao tôi lại chẳng thấy vui cùng ?
VIII-184. Hãy cởi luyến tham để mang thân ra làm lợi cho người. Dù nhiều khuyến điểm vẫn phải giữ gìn để làm dụng cụ.
VIII-185. Ấu trĩ bấy nhiêu đã đủ lắm rồi. Nay nguyện noi theo gót chân bậc giác, nhớ kỹ lời dạy về bất phóng dật, quyết tâm quét hết trì trệ hôn trầm.
VIII-186. Như chư trưởng tử của đấng Phật đà vô vàn từ bi, nay tôi nguyện xin gánh vác tất cả, làm việc cần làm. Nếu không cố gắng nỗ lực ngày đêm, biết đến bao giờ khổ đau mới dứt ?
VIII-187. Vậy để phá tan hết mọi che chướng, tôi phải đưa tâm thoát lối mê lầm. luôn luôn giữ tâm ở nơi đề mục, nhập định tối hảo, liên tục không ngưng.
Ghi chú người dịch: Xin lưu ý chữ “không thật có” ở đây có nghĩa là “không hiện hữu có tự tánh dị biệt.” Trung Quán không hề phủ nhận sự vật thật có qua duyên sinh và giả danh.
IX-1. Đức Mâu Ni thuyết: mọi hạnh tu này, mục đích là để hướng về hạnh tuệ. Vậy muốn diệt khổ thì phải phát tuệ.
IX-2. Tướng là tục đế. Tánh là chân đế. Hai chân lý này gọi là nhị đế. Chân đế không là đối tượng của tâm, vì tâm ứng với cảnh hiện tục đế.
IX-3. Cho nên thế gian có hai loại người: một là hành giả, hai là phàm phu. Tri kiến hành giả phá bỏ hết thảy tri kiến phàm phu.
IX-4. Tri kiến hành giả cũng có thấp cao, bậc trên phá bỏ tri kiến bậc dưới. Dựa vào tỉ dụ hai bên đều nhận. Muốn đạt kết quả thì không quán chiếu.
IX-5. Đối với sự vật, phàm phu tiếp cảnh luôn thấy thật có, chẳng phải hư vọng. Điểm này hành giả khác với phàm phu.
IX-6. Mặc dù thấy sắc, nhưng đây chỉ là cái thấy qui ước, chẳng phải chân thật. Cũng là hư vọng như [thân] bất tịnh mà người thế gian đều thấy là tịnh.
IX-7. Để giúp người đời dễ dàng hội nhập, nên Phật nói rằng sự vật thật có. Thật ra chân đế vốn không phải là sát na sinh diệt. Hỏi: “vậy chẳng lẽ sát na sinh diệt lại là tục đế ?”
IX-8. Điều này không sai: sát na sinh diệt là cảnh tục đế của bậc hành giả ; đối với thế gian lại là chân đế. Bằng không hành giả thấy thân bất tịnh, sẽ bị tri kiến thế gian phá bỏ.
IX-9. Công đức đến từ đức Phật hư huyễn, so với công đức từ Phật thật có, đều là như nhau. Hỏi: “nếu chúng sinh chỉ là hư huyễn, vậy khi chết rồi làm sao tái sinh ?”
IX-10. Duyên còn hội tụ thì cảnh huyễn còn, cho dù kéo dài bao lâu chăng nữa, cũng đâu vì vậy mà thành thật có.
IX-11. Giết kẻ hư huyễn sinh từ huyền thuật thì không tạo nghiệp, vì nào có tâm. Thế nhưng chúng sinh vốn mang tâm huyễn, cho nên phước nghiệp vẫn sẽ phát sinh.
IX-12. Bùa chú không thể tạo ra tâm huyễn. Từ vạn nhân duyên sinh vạn cảnh huyễn.
IX-13. Chưa từng có chuyện chỉ từ một nhân mà sinh nhiều cảnh. Hỏi: “nếu chúng sinh, nhìn từ chân đế, vẫn trú niết bàn, nhưng trong tục đế lại trú sinh tử,
IX-14. nói vậy vô lẽ Phật cũng luân hồi ? Vậy hạnh bồ tát tu để làm chi !” Thật ra nhân duyên nếu chưa đoạn lìa thì chẳng thể nào đoạn lìa huyễn ảo.
IX-15. Còn nếu nhân duyên hết thảy đoạn lìa thì cho dù là cảnh huyễn tục đế cũng chẳng phát sinh. Hỏi: “nếu tâm huyễn vốn không thật có, vậy biết lấy gì để tiếp cảnh đây ?”
IX-16. Chính các anh nói cảnh là hư huyễn, vậy bảo tiếp cảnh là tiếp cảnh gì ? Nếu như nói rằng: “cảnh thì lại khác, là vì cảnh hiện cũng chỉ là tâm.”
IX-17. Nói vậy vô lẽ tâm cũng là cảnh ? Vậy dùng cái gì để thấy gì đây ? Chính đức Thế tôn đã dạy điều này: tâm chẳng tự thấy[1].
IX-18. Cũng như lưỡi dao, chẳng thể tự cắt, tâm cũng tương tự, chẳng thể tự thấy. Hay lại nói rằng: “tâm như ngọn lửa tự soi sáng mình.”
IX-19. Nhưng mà ngọn lửa có bao giờ tối để mà sáng soi ? Hay lại nói rằng: “vật gì vốn xanh, tự nó đã xanh chẳng cần gì khác, chẳng phải giống như là khối pha lê.
IX-20. Nhận thức cũng vậy có thứ tùy thuộc, có thứ lại không.” Nhưng nếu vốn xanh, vô lẽ một mình tự trở thành xanh.
IX-21. Khi anh nói rằng “lửa tự soi sáng,” lửa này do tâm thấy biết nói ra. Nhưng khi nói rằng “tâm tự soi sáng,” thì biết lấy gì thấy biết như vậy ?
IX-22. Đã không có gì có thể thấy biết, lại còn tranh cãi xem tâm có tự soi sáng hay không, thật là vô nghĩa, như xem dung mạo đứa con của người phụ nữ không con.
IX-23. Hỏi: “nếu tâm này không thể tự biết, làm sao có thể nhớ tâm đã qua ?” Thì cũng giống như nọc độc chuột nước, nhờ mối tương quan với việc đã qua mà nay nhớ lại.
IX-24. Hay anh nói rằng: “tâm này có khi có thể thấy được [tâm của người khác] lẽ nào không thể tự thấy chính mình ?” Mắt bôi thuốc thần, tuy thấy bình báu nhưng lại chẳng thể thấy được thuốc bôi.
IX-25. Tâm vẫn thấy, nghe, điều này đã hẳn, không ai chối cãi. Ở đây nói đến vọng niệm chấp vào tự tánh của tâm, là gốc rễ của vạn nỗi khổ đau, đây mới là điều cần phải phá bỏ.
IX-26. Các anh cho rằng: “cảnh huyễn là tâm và cũng chẳng thể nói là không khác.” Tâm nếu thật có sao có thể khác ? Nếu nói không khác, thì không thật có.
IX-27. Cảnh hiện dù huyễn vẫn có thể thấy. Tâm cũng như vậy. Các anh cho rằng: “luân hồi phải dựa trên điều thật có, bằng không rỗng rang như là hư không.”
IX-28. Đã không thật có, làm sao có thể dựa vào điều có để thành thật có ? Nói như các anh thì tâm trở thành hoàn toàn đơn độc, chẳng có đối cảnh.
IX-29. Nếu như tâm này đã không đối cảnh, vậy thì ai ai cũng đã là Phật, cần gì phải nói đến thuyết duy tâm !
IX-30. Hỏi: “cho dù biết sự vật hư huyễn, làm sao có thể dứt bỏ nhiễm tâm ? Thuật sĩ tạo ra mỹ nhân tuyệt sắc, biết là không thật mà vẫn luyến thương.”
IX-31. Đó chỉ là vì thuật sĩ chưa đoạn tập khí phiền não đối với sắc trần. Thấy mỹ nhân ảo mà lực huân tập đối với tánh không hãy còn quá yếu.
IX-32. Tuy vậy, chỉ cần quen với tánh không, từ từ dứt bỏ thói quen chấp sắc. Rồi khi quen với “nhất thiết pháp không” thì cả điều này cũng sẽ từ bỏ.
IX-33. Nói “không” là vì quán chiếu truy lùng, thấy chẳng có gì hiện ra trong tâm. Chứ tánh “không” này đâu thể tự mình hiện ở trong tâm như là thật có.
IX-34. Cả sắc và không đều vắng trong tâm, cũng chẳng hề có trường hợp nào khác, cho nên yên lắng vào trong tịch tịnh.
IX-35. Như ngọc như ý, như cây như nguyện, toại tâm ý người dù chẳng tác ý. Phật trong quá khứ nhờ phát đại nguyện, nay hiện sắc thân trước chúng đệ tử.
IX-36. Như kẻ dựng nên đền kim sí điểu, Người chết đã lâu thế nhưng đền thần vẫn đủ khả năng chữa lành tà độc.
IX-37. Bồ tát cũng vậy, nương hạnh bồ tát dựng nên thân Phật, rồi nhập niết bàn. Nhập diệt đã lâu, thế nhưng cũng vẫn toàn thành nguyện ước cho khắp chúng sinh.
IX-38. Hỏi: “nếu như Phật vốn không tác ý, làm sao cúng Phật lại được công đức ?” Là vì Phật dạy cúng xá lợi Phật, so với cúng Phật, công đức bằng nhau.
IX-39. Kinh Phật nói rõ, cho dù huyễn, thật, kết quả như nhau, cũng như công đức cúng Phật thật có.
IX-40. Hỏi: “chứng diệu đế là đủ giải thoát, Cần gì phải chứng tri kiến tánh không ?” Vì kinh Phật nói không có lối này thì chẳng thể nào đạt chánh đẳng giác.
IX-41. “Nhưng kinh đại thừa chưa được minh xác.” Thế kinh các anh, minh xác cách nào ? “Vì cả hai bên đều nhận là đúng.” Vậy thì đâu phải minh xác từ đầu.
IX-42. Các anh nhờ đâu khởi tín tiểu thừa, tôi cũng y vậy khởi tín đại thừa. Nếu như chỉ cần hai bên chấp nhận, nói vậy vô lẽ cả kinh Vệ đà cũng được minh xác ?
IX-43. Hay là nói rằng: “kinh điển đại thừa không thể chấp nhận vì gây nghi vấn.” Nhưng mà ngoại đạo nghi vấn kinh Phật, ngay chính các anh cùng nhiều người khác cũng còn nghi vấn, chẳng lẽ vất đi ?
IX-44. Tỷ kheo chân chính là gốc chánh pháp, nhưng muốn chân chính thật khó muôn vàn. Tâm còn đối cảnh thì chẳng thể nào đến bờ bên kia.
IX-45. Các anh cho rằng “hễ phiền não đoạn tức thì giải thoát.” Thế nhưng cho dù đoạn dứt phiền não, nghiệp báo vẫn còn.
IX-46. Nói: “chỉ tạm thôi. vì ái đã đoạn nên chẳng thọ sinh.” Ái dục phiền não đúng thật đã đoạn, thế nhưng ái dục loại không phiền não vẫn chưa thể đoạn vì còn vô minh.
IX-47. Ái sinh từ thọ, mà thọ vẫn còn. Niệm vẫn sinh khởi. Tâm vẫn chấp niệm.
IX-48. Tâm chưa chứng không thì dù có đoạn cũng chỉ tạm thời, vẫn sẽ tái khởi, tương tự như người nhập định phi tưởng. Vì vậy nhất định phải quán tánh không.
IX-49. Kinh điển kiết tập đều được nhìn nhận chính là lời Phật, vậy sao không nhận giáo lý Đại thừa, so với kinh điển không hề mâu thuẫn.
IX-50. Vì một không thuận mà bỏ tất cả, đã vậy, sao chẳng vì một thuận mà nhận hết tất cả đều là lời Phật ?
IX-51. Diệu pháp này đây cả đức Ca Diếp cũng chưa thể lường mức độ thâm sâu. Đâu thể chỉ vì chính mình không hiểu mà từ bỏ hết.
IX-52. Hết thảy ái, sân, đều đã tự tại, nhưng vẫn nán lại trú ở luân hồi, vì thương hữu tình khổ trong vô minh: đây chính là quả tánh không mang đến.
IX-53. Sai lầm biết bao nếu thấy tánh không có gì không đúng. Vậy hãy quét sạch hết thảy hoài nghi để mà quán không.
IX-54. Bóng tối trùng điệp của phiền não chướng cùng với trí chướng, đều nhờ tánh không mà quét sạch cả. Ai người mong cầu chóng thành chánh quả, làm sao có thể bỏ mất tánh không !
IX-55. Điều tạo khổ đau mới là đáng sợ, trong khi tánh không là điều diệt khổ, sao lại khiến ta hoảng hốt âu lo ?
IX-56. Nếu “ngã” thật có, thì sợ cũng đúng. Thế nhưng “ngã” này vốn chẳng hề có, vậy nào có gì để ai âu lo ?
IX-57. Răng, tóc hay móng chẳng phải là ngã. Ngã có phải đâu là xương hay máu, hay là đờm, giãi, huyết trắng, mủ xanh.
IX-58. Ngã chẳng phải là mỡ hay mồ hôi, chẳng phải phổi, gan, chẳng là nội tạng, cũng chẳng phải là phân hay nước tiểu.
IX-59. Thịt hay là da, đâu phải là ngã. Thân nhiệt, hơi thở, cũng đâu phải ngã. Lỗ trong thân thể cũng không là ngã. Sáu thức cũng vậy, có phải ngã đâu.
IX-60. Nếu như nhĩ thức vốn dĩ thường còn, lẽ ra lúc nào cũng tiếp âm thanh. Đối cảnh không có, nhận biết gì đây ? Làm sao có thể gọi đó là thức ?
IX-61. Nếu không cần tâm cũng vẫn nhận biết, vô lẽ khúc gỗ cũng biết hay sao ? Đối cảnh không có thì thức cũng không.
IX-62. Các anh nói rằng “thức này thấy sắc,” vậy sao lúc ấy chẳng còn nghe thanh ? Hay là nói rằng: “đã hết âm thanh ?” Không có âm thanh làm gì có thức.
IX-63. Vốn là nhĩ thức, làm sao có thể biến thành nhãn thức ? Cho dù nói rằng: “một người có thể vừa cha, vừa con.” Nhưng nói như vậy chỉ là lập danh, không phải tự tánh.
IX-64. Tương tự như vậy, “khổ,” “trung tánh,” “lạc” vốn không là cha, cũng không là con. Chưa hề tìm ra có nhãn thức nào lại thấy âm thanh.
IX-65. Các anh nói rằng: “giống như diễn viên sắm nhiều vai tuồng.” Nếu vậy đâu thể gọi là thường còn. Trước sau bất nhất mà gọi đồng nhất, việc này đúng thật chưa từng thấy qua !
IX-66. Các anh nói rằng: “chỉ là tướng huyễn.” Vậy xin giải thích tánh thì ra sao ? “Chỉ thuần là biết.” Nói vậy vô lẽ hết thảy chúng sinh đều chỉ là một ?
IX-67. Sự vật có tâm hay không có tâm, lẽ nào giống nhau vì đều hiện hữu. Nếu tướng của tâm hết thảy không thật, thử hỏi còn gì làm nền tảng chung ?
IX-68. Đã là vô tri thì không phải ngã, chỉ là món vật giống như chiếc bình. Nếu như cho rằng: “phối hợp với thức thì sẽ nhận biết,” vậy thì đâu còn là vật vô tri.
IX-69. Hơn nữa, nếu như ngã vốn bất động, vậy biết lấy gì phối hợp với thức ? Ngã mà như vậy, thì cả hư không ù lì vô tri cũng gọi là ngã.
IX-70. Các anh cho rằng: “ngã nếu không có, thì chẳng có gì nối nghiệp với quả. Nếu không có ai là người gieo nghiệp, vậy biết lấy ai làm người chịu quả ?”
IX-71. Cả anh và tôi đều chấp nhận rằng chủ thể của việc gieo nghiệp, chịu quả vốn không đồng nhất, và cũng chấp nhận ngã không tạo tác, vậy còn tranh biện ở chỗ nào đây ?
IX-72. “Nhân đồng với quả” là điều không có phải là cùng chung một dòng tâm thức mới có thể nói đến việc gieo nhân thì phải gặt quả.
IX-73. Tâm của quá khứ, hay của tương lai, đều không phải ngã, vì đã không còn, hay là chưa đến. Nếu cho rằng ngã là tâm hiện tại, vậy khi tâm này tan vào quá khứ, ngã cũng tan theo.
IX-74. Cũng như thân chuối, xẻ hết thân ra chẳng tìm thấy lõi. Tương tự như vậy, quán chiếu tận cùng vẫn không làm sao tìm thấy được ngã.
IX-75. Hỏi: “nếu chúng sinh đều chỉ là không, vậy tâm từ bi còn phát với ai ?” Là vì chúng sinh vô minh chấp ngã, nên cần phát nguyện cứu vớt khắp cả.
IX-76. Hỏi: “nếu chúng sinh đều chỉ là không, vậy ai là người thành tựu Phật quả ?” Đúng là như vậy. Việc này chỉ do vô minh thấy có ! Nhưng để diệt khổ, thì Phật quả mà vô minh thấy có, chẳng thể quét đi.
IX-77. Khổ đau đến từ tự tín chấp ngã, lại được tăng bồi bởi niệm vô minh. Cho dù nghĩ rằng chẳng thể nào khác, nhưng quán vô ngã vẫn là cao hơn.
IX-78. Điều gọi là “thân,” chẳng phải chân, cẳng, chẳng phải đùi, hông, chẳng phải lưng, bụng, cũng chẳng phải là lồng ngực, cánh tay.
IX-79. Thân chẳng phải là xương sườn, bàn tay, chẳng phải là nách, chẳng phải là vai, chẳng là nội tạng, ruột gan, đầu, cổ, vậy thật ra thân trú ở nơi nào ?
IX-80. Nếu thân trú ở khắp mọi bộ phận, mỗi bộ phận ứng với một phần thân, còn chính thân kia trú ở chỗ nào ?
IX-81. Nếu nói rằng: “thân đơn nhất, trọn vẹn, nằm ở bàn tay, ở từng bộ phận,” vậy thì vô lẽ bao nhiêu bộ phận là bấy nhiêu thân ?
IX-82. Không ở bên trong, chẳng ở bên ngoài, làm sao đồng nhất với từng bộ phận ? cũng chẳng thể khác với các bộ phận, hỏi thân như vậy làm sao thật có ?
IX-83. Thân chẳng hề có. Chỉ vì vọng tâm nhìn vào bàn tay cùng các bộ phận mà lại khởi niệm thấy rằng có thân. Cũng như nhìn đá khéo chất thành đống giả làm bù nhìn, tưởng có người ta.
IX-84. Hội đủ nhân duyên thì gã bù nhìn thấy thành người ta. Hội đủ bộ phận thì từ nơi đó hiện ra thân người.
IX-85. Tương tự như vậy, bàn tay chỉ là tổ hợp các ngón chứ nào tự có; ngón tay cũng vậy, do đốt hợp thành; cả đốt tay cũng gồm nhiều bộ phận.
IX-86. Mỗi bộ phận này gồm nhiều phân tử. Phân tử bao gồm thành phần phương hướng. Mỗi thành phần này chẳng đâu tìm thấy mẩu bất khả phân, giống như không gian, cho nên phân tử cũng không tự tánh.
IX-87. Sắc thể, vì thế, đều như huyễn mộng. Đã thấy vậy rồi luyến ái ai đây ? Thân đã không có thì còn nói gì đến là thân nữ hay là thân nam ?
IX-88. Khổ, nếu thật có, tại sao lại chẳng choáng hết niềm vui ? Vui, nếu thật có, tại sao món ngon lại chẳng mang vui cho người thoi thóp ?
IX-89. Nếu như nói rằng: “cảm thọ tuy có nhưng bị che khuất bởi điều mạnh hơn.” Đã không cảm được, làm sao có thể gọi là cảm thọ ?
IX-90. Hay là nói rằng: “vi tế vẫn còn, nhưng khổ thô lậu đã bị lấn át: tuy thấy là vui nhưng trong vi tế vẫn đang là khổ.”
IX-91. Đã nói: “vì có yếu tố đối nghịch mà khổ không hiện,” đó chẳng phải là nói rằng cảm thọ vốn chỉ do tâm lập danh mà có ?
IX-92. Vì lý lẽ này mà gọi thiền quán là pháp đối trị. Định sinh từ quán, đây là thức ăn nuôi dưỡng hành giả.
IX-93. Giữa căn với trần, nếu có khoảng cách, làm sao tiếp xúc ? Nếu không khoảng cách thì đã là một, biết lấy cái gì tiếp xúc gì đây ?
IX-94. Phân tử không gian vì không khối lượng nên chẳng thể nào nhập vào trong nhau. Đã không thể nhập thì không thể hòa. Đã không thể hòa, chẳng thể tiếp xúc.
IX-95. Có ai lại nói vật vô thành phần mà lại có thể tiếp xúc với nhau. Ở đâu thấy được sự tiếp xúc này, xin hãy vui lòng chỉ cho tôi thấy !
IX-96. Chẳng thể nói rằng tâm phi vật thể mà lại có thể chạm vào cái tâm. Ngay cả tổ hợp cũng không thể có như là trước đây đã từng nói rõ.
IX-97. Xúc này từ đầu vốn đã không có, vậy thì thọ này từ đâu sinh ra ? Thử hỏi có gì để dày vò ai ? Việc gì ta phải lao đao như vậy !
IX-98. Vốn chẳng có ai là người cảm thọ. Chính cảm thọ này cũng không tự có. Đã thấy vậy rồi thì ái và thủ, cách gì lại chẳng quay đầu rút lui.
IX-99. Điều thấy trước mắt, nắm ở trong tay, hết thảy đều như là cơn mộng huyễn. Nếu thọ và tâm đến cùng một lúc, thì tâm đã chẳng tiếp được thọ này.
IX-100. Nếu cái này trước, cái kia đến sau, vậy chỉ còn là kinh nghiệm nhớ lại. Thọ cũng chẳng thể tự tiếp chính mình; cũng chẳng gì khác có thể tiếp thọ.
IX-101. Chủ thể cảm thọ vốn không thật có, nên thọ này cũng không có tự tánh. Vậy thì cảm thọ làm sao có thể gây tổn hại cho khối vô ngã này ?
IX-102. Tâm không trú ở bên trong các căn; cũng không trú ở sắc trần bên ngoài; tâm cũng không hề trú ở chính giữa: không trong, không ngoài, không nơi nào khác.
IX-103. Không ở nơi thân, cũng không tách lìa. Không là đồng nhất, cũng không dị biệt. Tâm dù mảy may cũng không thật có: chúng sinh vốn dĩ nằm ngoài cảnh khổ.
IX-104. Nếu như tâm thức đi trước sắc trần, vậy thì lấy gì để sinh ra thức ? Nếu thức và trần đồng loạt với nhau, vậy thì lấy gì để sinh ra thức ?
IX-105. Nếu thức sau trần, thì cũng vậy thôi, chẳng biết lấy gì để sinh ra thức. Cho nên vạn pháp từ đâu sinh ra, là điều vượt ngoài khả năng nhận biết.
IX-106. Hỏi: “nói vậy thì còn gì tục đế ? Tục đế đã không, nhị đế làm sao ? Hơn nữa tục đế nếu đến từ tâm, làm sao có thể đạt được niết bàn !”
IX-107. Thật ra chỉ là vọng cảnh nơi người nào có phải là tục đế tâm ta ? niệm còn nối niệm, tục đế còn hiện, bằng không tục đế đương nhiên không còn.
IX-108. Chủ thể, đối tượng tùy thuộc lẫn nhau nên vẫn có thể dựa lẽ qui ước để nói đến sự quán chiếu, tầm tư.
IX-109. Hỏi: “vậy phải lấy sự tầm tư này để mà quán chiếu, rồi lại quán chiếu sự quán chiếu này, cứ làm như vậy có bao giờ xong.”
IX-110. Nếu biết đúng cách quán chiếu sự vật, thì có còn gì để mà quán chiếu. Đối tượng đã vắng, nên chủ thể tan, đó mới chính là niết bàn chân thật.
IX-111. Ai người nói rằng hai bên đều thật, sẽ khó bảo vệ cho luận kiến này. Nếu dùng tâm thức xác định sự vật, vậy biết lấy gì xác định tâm thức ?
IX-112. Nếu dùng đối cảnh xác định tâm thức, vậy biết lấy gì xác định đối cảnh ? Nếu nói hai bên tùy thuộc lẫn nhau, thì sao còn gọi là có tự tánh ?
IX-113. Nếu không có con đâu thể có cha, vậy đứa con này từ đâu mà có ? Làm gì có cha, nếu không có con, nên cả hai bên không thể thật có.
IX-114. Hay là nói rằng: “cây đến từ hạt, chỉ cần nhìn cây là biết có hạt. Thức đến từ cảnh, sao lại không thể nhìn vào nơi thức biết cảnh thật có ?”
IX-115. Việc này không thể. Nếu muốn nhìn cây để biết có hạt, phải do tâm thức, khác với cây này, suy ra như vậy. Nay biết lấy gì nhìn thức tiếp cảnh để suy ra rằng thức này thật có ?
IX-116. Lẽ thường cho thấy sự việc trong đời đều là có nhân. Hoa sen nhiều cánh đều sinh ra từ nhiều nhân phối hợp.
IX-117. Hỏi: “vậy nhân này từ đâu mà có ?” Từ nhân đi trước. Lại hỏi: “nhân này sao sinh quả kia ?” Là vì tùy thuộc vào nhân đi trước.
IX-118. Tin rằng Thượng đế sinh ra hữu tình, vậy xin nói rõ Thượng đế là gì ? Nếu nói chỉ là thành phần thiên nhiên, thì thôi, cần gì phí công tranh cãi !
IX-119. Tuy nhiên, đất cùng các thành phần khác vốn không đơn nhất, sinh diệt, ù lì, chẳng phải thần thánh, vật dẫm dưới chân, dơ bẩn bất tịnh, sao lại có thể cho là Thượng đế ?
IX-120. Không gian vô năng chẳng phải Thượng đế. Ngã cũng không phải, điều này đã rõ. Nói rằng: “Thượng đế ngoài tầm thấy, biết ?” Vậy bảo rằng “có” là dựa vào đâu ?
IX-121. Thượng đế thật ra muốn tạo những gì ? Hay là Thượng đế tạo sinh ra ngã và các thành phần ? Các anh chẳng nói ngã và các đại cũng là thường còn giống như Thượng đế ? Tâm thức là từ đối cảnh sinh ra.
IX-122. Kể từ vô thủy sướng khổ đều do nơi nghiệp mà có. Thử hỏi Thượng đế sinh được những gì ? Nhân không khởi thủy, thì quả chẳng thể có điểm bắt đầu.
IX-123. Thượng đế nếu không tùy thuộc gì cả, tại sao vạn vật chẳng đồng loạt sinh ? Không một thứ gì Thượng đế không tạo, vậy còn gì để Thượng đế tùy vào ?
IX-124. Nếu nói Thượng Đế tùy thuộc thứ khác, vậy thì vạn vật sinh từ nhân duyên, đâu phải Thượng đế. Hội đủ nhân duyên thì Thượng đế tạo, không đủ thì thôi, không thể tạo sinh.
IX-125. Nếu nói: “Thượng đế không khởi ý muốn nhưng vẫn tạo sinh,” vậy là tùy thuộc vào quyền năng khác. Còn nếu nói rằng: “do muốn mà tạo,” vậy chịu chi phối của lòng ham muốn, thử hỏi Thượng đế vạn năng chỗ nào ?
IX-126. Riêng về tri kiến phân tử thường còn [Mimamsaka theory] đã được phá bỏ ở phần trước đây. Số Luận thì nói [Samkyas] vạn vật sinh từ vật thể nguyên thủy
IX-127. Cái được gọi là “vui,” “khổ,” “trung tánh”[2] ở thế quân bình, thì được gọi là vật thể nguyên thủy; khi mất quân bình, thì sinh vạn vật.
IX-128. Đã là đơn nhất mà lại có ba, là điều không có. Cho nên ba tánh không thể hiện hữu, mỗi tánh lại phải bao gồm cả ba.
IX-129. Ba tánh đã không, vậy thì âm thanh hãy còn rất xa ! Những vật vô tri như là mảnh vải, chẳng thể là nơi chứa được niềm “vui.”
IX-130. Nếu như nói rằng: “những vật như vải mang tánh của nhân.” Trước đây đã chẳng quán “vật” rồi sao ? Các anh cho rằng: “sự vật là do “vui” và đại loại làm nhân mà có.” Vải có bao giờ từ vui sinh ra !
IX-131. Đúng ra phải nói: “vui” đến từ “vải.” Vải đã không có, thì “vui” cũng không. “Vui” và đại loại mà gọi thường còn, đây thật là điều chưa từng thấy qua !
IX-132. Nếu “vui” thường còn, tại sao lại chẳng liên tục thấy “vui” ? Hay là nói rằng ““vui” có khi về dưới dạng vi tế.” Làm sao có thể vừa tế, vừa thô ?
IX-133. Hay là nói rằng: “hết thô lại tế.” Vậy thô và tế, không phải thường còn, đã vậy sao chẳng nói thẳng mọi sự đều là vô thường ?
IX-134. Các anh còn nói: ““thô” chính là “vui.”” Rõ ràng khẳng định “vui” cũng vô thường. Nếu như nói rằng: “đã không hiện hữu, thì không khởi hiện, vì chưa từng có.”
IX-135. Dù đã phủ định “việc chưa từng có chẳng thể phát sinh,” nay các anh lại khẳng định điều này. Nói quả và nhân đồng loạt hiện hành, không lẽ ăn cơm cũng là ăn phân ?
IX-136. Đã vậy cần gì phí tiền mua vải, mua nắm hạt gòn chẳng tốt hơn sao ? Nói: “vì kẻ phàm u mê chẳng thấy, phải do bậc trí dạy lại điều này.”
IX-137. Nhưng mà trí này kẻ phàm cũng có, sao họ không thấy ? Nếu như nói rằng: “cái thấy kẻ phàm không thể tin nhận.” Nói vậy, đối cảnh mà kẻ phàm thấy cũng là hư vọng.
IX-138. Hỏi: “nếu nhận thức đã không giá trị, vậy thì đối cảnh chẳng phải đều là hư vọng hết sao ? Vậy quán tánh không thật là vô lý !”
IX-139. Nhưng mà thật ra nếu như đã thấy đối cảnh là không, thì biết tánh không của đối cảnh kia chẳng thể chấp vào. Đối cảnh hư vọng, bất kể loại nào, tánh không của nó cũng là hư vọng.
IX-140. Như trong giấc mộng thấy con mình chết, ý tưởng “đã chết” thay thế vào cho ý tưởng “còn sống,” mặc dù cả hai đều là hư vọng.
IX-141. Vì vậy sau khi quán chiếu tận tường, biết chẳng có gì là không có nhân, [vô nhân sinh] cũng không có gì cùng ở trong nhân, dù là riêng lẽ [tự sinh] hay là tổ hợp, [cộng sinh]
IX-142. cũng không có gì sinh từ nơi khác. [tha sinh] Không từng ở lại cũng chẳng từng đi, vọng tâm nhìn vào cho rằng thật có. sự vật như vậy xét cho rốt ráo khác gì ảo ảnh ?
IX-143. Cảnh tượng hư ảo thuật sĩ tạo ra Hay là cảnh ảo do nhân duyên tạo biết sinh từ đâu ? biết diệt về đâu ? đây là điều nên quán chiếu tận tường.
IX-144. Đủ duyên thì sinh, bằng không chẳng có. Không chút tự tánh, như ảnh trong gương. Làm sao có thể thật có cho được.
IX-145. Nếu đã thật có, đâu cần đến nhân ? Nhưng cần gì nhân nếu không thật có ?
IX-146. Cho dù hội tụ cả vạn ức nhân, cũng không biến đổi được vật không có. Đã không hiện hữu thì biết lấy gì trở thành hiện hữu ? Trở thành gì đây ?
IX-147. Nếu đã là “không,” lấy gì thành “có” ? Thành “có” như vậy là từ bao giờ ? Nếu “có” không đến thì “không” chẳng đi.
IX-148. “không” này không đi “có” làm sao đến ? Vật “có hiện hữu” thì chẳng thể nào thành “không hiện hữu,” bằng không hai tánh chẳng lẽ hiện hành.
IX-149. Vì vậy mà nói vạn pháp vô sinh, và cũng nói là vạn pháp vô diệt. Hết thảy hữu tình không hề sinh ra, cũng không mất đi.
IX-150. Chúng sinh hữu tình tựa như giấc mơ, quán chiếu truy tìm chỉ như thân chuối. Nói cho rốt ráo, luân hồi, niết bàn, chẳng thể phân biệt.
IX-151. Sự vật như vậy vốn đã là không, thì đâu có gì để mà được, mất ? Có ai ở đó hưởng vinh, chịu nhục, cũng nào có ai khen ngợi, chê bai.
IX-152. Sướng khổ này đây, từ đâu mà đến ? Có gì để phải mừng rỡ, đớn đau ? Xét cho rốt ráo thì nào có ai là người tham luyến ? tham luyến gì đây ?
IX-153. Quán chiếu đời sống của chúng hữu tình, thấy đâu có ai là người đã mất ? cũng chẳng có gì sẽ đến, đã qua, nào có ai là thân nhân, bằng hữu ?
IX-154. Mong người như tôi có thể hiểu rằng hết thảy mọi sự như là hư không. Nhưng người thế gian lại thích tìm cầu hạnh phúc an lạc bằng sự níu, đẩy.
IX-155. Khi thì hoảng loạn lúc lại mừng vui, khốn khổ bức bách, đấu đá, cạnh tranh, đâm chém lẫn nhau, chửi rủa, thóa mạ, sống trong tội ác ngụp lặn đắm chìm.
IX-156. Thỉnh thoảng có khi trồi lên cõi thiện, buông thả mình trong khoái lạc an vui, để rồi chết đi, đọa rơi cõi dữ, chịu khổ cùng cực đăng đẳng triền miên.
IX-157. Cõi thế gian này biết bao vực thẳm ! Nơi này chẳng thể tìm thấy tánh như. Luôn là mâu thuẫn, luôn là từ khước, tánh như vạn pháp có thế bao giờ.
IX-158. Ở đây biển khổ rộng không bến bờ, không có lời nào nói cho hết được. Ở đây sức yếu, mạng sống phù du,
IX-159. đổ dồn tâm sức băn khoăn gìn giữ mạng sống, sức khỏe, cho khỏi đói, mệt. Phí hết thời gian, để mà ngủ nghỉ, để mà phiền muộn, để mà giao du với kẻ ấu trĩ.
IX-160. Đời sống vô nghĩa thấm thoát trôi qua. Trí tuệ phải đâu dễ dàng có được ! Thử hỏi cách gì tìm ra phương cách để đoạn tán tâm ?
IX-161. Đã vậy còn thêm biết bao tà ma sẵn sàng đẩy ta sa vào địa ngục ; còn bao đường đi dối láo hư ngụy ; còn tâm hoài nghi rất khó dẹp bỏ.
IX-162. Thân người tự tại khó lòng tìm lại ; bổn sư xuất thế lại càng khó hơn ; càng hiếm biết bao đoạn dòng phiền não. Than ôi, cứ thế chịu khổ đau hoài.
IX-163. Đớn đau cùng cực, ngụp lặn dòng đời, biển khổ mù khơi, trầm luân đuối ngạt. Vậy mà khổ mình lại không tự thấy. Ôi chúng hữu tình, thật đáng thương thay !
IX-164. Cũng như có người tắm rồi lại tắm, để rồi liên tục lửa nóng xông vào, cứ vậy mà chịu đớn đau khốn khổ, nhưng lại tưởng là khoái lạc an vui.
IX-165. Có người lại sống như thể sẽ không bao giờ già, chết, để rồi, trước tiên, mất đi mạng sống, tiếp theo rơi đọa ác đạo hãi hùng.
IX-166. Bao giờ tôi mới có thể dập tắt ngọn lửa khổ đau thiêu bỏng chốn này bằng trận mưa to của niềm hỉ lạc, dào dạt xuống từ biển mây công đức ?
IX-167. Kho tàng công đức tôi đã tích lũy với trọn lòng thành, tâm không niệm khởi, bao giờ tôi mới vén được tánh không cho khắp những ai vì chấp niệm khởi mà khổ trầm luân trong biển luân hồi.
/ HẾT CHƯƠNG 9 /
Ghi chú chương 9: [1] Trích Luận giải của ngài Kunzang Pelden: “Điểm then chốt ở đây là nếu đã cho rằng tâm có tự tánh dị biệt và đơn nhất, vậy tâm này vốn không thể phân hai để có thể vừa là đối tượng vừa là chủ thể nhìn thấy đối tượng ấy.” Điều nói ở đây không ứng với cái tâm duyên sinh giả danh. [2]sattva, rajas, và tamas. Là ba tánh theo thuyết Số Luận.
X-1. Soạn tác luận này, Nhập Bồ Đề Hạnh, được bao công đức, nguyện xin hồi hướng cho khắp chúng sinh dấn thân bước vào pháp hành bồ tát.
X-2. Nương công đức này, nguyện cho chúng sinh ở khắp mọi nơi, đang chịu khổ đau tinh thần thể xác, tìm được đầy tràn hạnh phúc an vui.
X-3. Còn trong luân hồi, nguyện cõi thế gian được nguồn hạnh phúc không bao giờ tàn, không hề gián đoạn, hưởng nguồn an lạc như là sóng cả của chư bồ tát.
X-4. Nguyện cho chúng sinh khổ đau trong cõi địa ngục trùng điệp trên toàn cõi thế hưởng được niềm vui Tây phương cực lạc.
X-5. Nguyện cho kẻ lạnh tìm được hơi ấm, nguyện cho kẻ nóng dịu mát cơn đau nhờ mây bồ tát mưa xuống biển mưa bao la vô tận.
X-6. Nguyện rừng lá chém thành rừng đẹp vui; nguyện cây giáo gươm thành cây như ý;
X-7. địa ngục trở thành cảnh giới an lạc; hồ sen bao la ngọt ngào thơm ngát, thanh thoát tiếng chim hạc, ngỗng, thiên nga…
X-8. Nguyện núi than hồng trở thành núi ngọc; nguyện đất nung đỏ thành nền pha lê; nguyện dãy núi đè thành cung điện ngọc đầy ắp Như lai.
X-9. Nguyện mưa núi lửa thành trận mưa hoa; nguyện cõi đẳng hoạt hung tàn vũ khí, thành chốn nô đùa tung hoa làm vui.
X-10. Nguyện người trầm luân nơi dòng sông lửa, thịt da tan chảy, xương trắng trần phơi, nương công đức này có được thân trời, cùng bao thiên nữ bên dòng sông thiên êm đềm dịu chảy thanh thản nằm phơi.
X-11. Tự hỏi “vì đâu ngục tốt diêm vương đầu quạ đầu ó bỗng nhiên hốt hoảng ? Do diệu lực nào quét tan bóng tối, mang lại an vui cho cõi địa ngục ?” Ngẩng đầu lên nhìn thấy giữa trời rộng sáng ngời hình bóng đức Kim Cang Thủ. Tâm khởi mừng vui nên hắc nghiệp tan, theo cùng bồ tát rời xa chốn này.
X-12. Bao giờ thạch nham bỗng nhiên tan biến nhờ trận mưa hoa tẩm đầy nước hương. Tự hỏi nhờ đâu ? mà tràn niềm vui ? Nguyện cho chúng sinh trong cõi địa ngục thấy được trước mắt đấng Cầm Hoa Sen[1].
X-13. Bạn hiền tôi ơi hãy mau đến đây, không cần hoảng chạy. Ai ở trên kia ? Chính đức Diệu Âm[2] là bậc bồ tát hộ trì chúng sinh ban sự vô úy. Nhờ lực của ngài khổ đau tan sạch, suối an lạc chảy và bồ đề sinh.
X-14. Xin hãy nhìn xem: ở trong điện ngọc trăm vạn chư thiên đảnh lễ gót sen; trăm vạn thiên nữ rền lời xưng tán. Đôi mắt của ngài từ hòa ướt đẫm. Từ đỉnh đầu ngài rơi trận mưa hoa. Chúng sinh địa ngục thấy được cảnh này cất tiếng reo vui.
X-15. Tương tự như vậy, nương thiện căn này, trùng điệp biển mây chư đại bồ tát, như đức Phổ Hiền cùng chư vị khác, mưa xuống biển mưa an vui thơm mát, cho cõi địa ngục đầy ắp niềm vui.
X-16. Nguyện cõi súc sinh thoát cảnh hãi hùng nhai nuốt lẫn nhau. Nguyện cõi ngạ quĩ được nguồn an lạc Bắc Câu Lư Châu,
X-17. no đủ, tắm mát, nhờ dòng sữa ngọt rót từ ngón tay đức Quan Thế Âm.
X-18. Nguyện cho người mù thấy được hình sắc; nguyện cho người điếc nghe được âm thanh; nguyện cho sản phụ được giống như là Hoàng Hậu Ma Da, không gặp đớn đau trong lúc lâm bồn.
X-19. Nguyện người thân trần tìm được y áo. Nguyện người đang đói kiếm được miếng ăn. Nguyện người đang khát tìm ra thức uống, cùng nguồn giải khát thơm ngon tuyệt diệu.
X-20. Nguyện cho người nghèo tìm được tài sản. Nguyện người yếu khổ thấy được niềm vui. Nguyện kẻ tuyệt vọng gặp nguồn hy vọng, vĩnh viễn sống trong bình an hạnh phúc.
X-21. Nguyện người tật bệnh thoát mọi bệnh khổ. Nguyện nạn thiên tai vĩnh viễn không còn.
X-22. Nguyện kẻ khiếp sợ dứt cơn sợ hãi. Nguyện kẻ tù đày thoát cảnh cùm gông. Nguyện kẻ yếu hèn tìm ra sức mạnh. Nguyện cho chúng sinh sống trong cõi thế đều biết quay về nâng đỡ lẫn nhau.
X-23. Nguyện cho lữ hành trên mọi bước đường đều gặp hạnh phúc, không nhọc công vẫn làm được tất cả những gì muốn làm.
X-24. Nguyện người đi biển tìm được hết thảy mọi điều mong muốn, trở về đất liền bình an vô sự, sum vầy đoàn tụ cùng với thân nhân.
X-25. Nguyện khách lữ hành lạc bước lỡ chân, sớm gặp đồng hành, không sợ cướp bóc, hùm, beo, thú dữ, đường đi thong dong không chút mỏi mệt.
X-26. Nguyện kẻ lạc loài ở nơi hoang dã không bóng người qua, hãi hùng hoang vắng, kẻ say, kẻ điên trẻ thơ, người già, không nơi nương dựa, đều được chư Thiên che chở hộ trì.
X-27. Nguyện cho chúng sinh thoát cảnh ràng buộc, có được chánh tín, trí tuệ, từ bi, lương thực đầy tràn, cung cách uy nghi, luôn nhớ đời trước.
X-28. Nguyện cho mọi người tài sản bất tận, như hư không tạng, không hề mang lại tranh chấp, tổn hại, hưởng dụng tùy ý.
X-29. Nguyện kẻ xấu xí được tướng trang nghiêm. Nguyện người dị dạng được thân toàn hảo.
X-30. Nguyện kẻ mạng thấp trong cõi thế gian sanh vào mạng cao. Nguyện kẻ thấp kém có được địa vị. Nguyện kẻ kiêu căng trở thành khiêm tốn.
X-31. Nương công đức này, nguyện khắp chúng sinh từ bỏ ác hạnh, vĩnh viễn làm theo những việc tốt lành,
X-32. và không bao giờ lìa bồ đề tâm, luôn đi sâu trong pháp hành bồ tát, luôn được chư Phật hộ niệm giữ gìn, tận diệt hết thảy ác hạnh ma vương.
X-33. Nguyện khắp chúng sinh sống đời trường thọ, an vui hạnh phúc, đến cả chữ “chết” cũng chưa hề nghe.
X-34. Nguyện khắp mọi nơi, có biết bao nhiêu vườn cây như ý, pháp âm ngân vang lời giảng của Phật cùng chư trưởng tử.
X-35. Nguyện cho mặt đất ở khắp mọi nơi không đá gập ghềnh, như ngọc lưu ly, như lòng bàn tay muốt trơn phẳng mịn.
X-36. Trong hàng đệ tử, nguyện chúng bồ tát nhiều đến vô lượng, ngồi kín mọi nơi, uy nghi trang điểm khắp mặt đất này.
X-37. Nguyện cho chúng sinh lắng nghe không ngừng âm thanh diệu pháp đến từ chim muông, đến từ cây rừng, đến từ ánh sáng, hay từ không gian.
X-39. Nguyện xin chư Thiên cho mưa đúng thời, cho khắp mùa màng xanh tốt sum xuê. Nguyện cho quốc vương thuận theo chánh pháp. Nguyện cho con dân thịnh vượng cát tường.
X-40. Nguyện thuốc chữa lành mọi cơn bệnh dữ. Nguyện cho mật chú luôn được thành công. Nguyện đà kì ni, quỉ ăn thịt người khởi được từ tâm.
X-41. Nguyện khắp chúng sinh không có một ai phải chịu nạn khổ, tạo tác ác nghiệp, gặp cảnh tật bệnh, khổ vì sợ hãi, hay vì bị người sỉ nhục khinh khi. Cũng không bao giờ khổ vì trầm cảm.
X-42. Nguyện cảnh chùa chiền luôn được thanh tịnh, trường tồn hưng thịnh tu học, tụng kinh. Nguyện cho tăng đoàn sống trong lục hòa, chí nguyện xuất gia toàn thành viên mãn.
X-43. Nguyện người xuất gia có chí nguyện tu, được chốn lan nhã, xả bỏ tán tâm, an trú trong định thuần tâm nhu nhuyễn.
X-44. Nguyện cho chư ni được đủ vật chất, thoát hết tất cả tranh chấp tổn hại. Tương tự như vậy, nguyện người xuất gia trang nghiêm giới hạnh.
X-45. Nguyện người phá giới sám hối tội này, tiêu trừ nghiệp lực sinh cõi bình an, uy nghi giới hạnh, không còn suy thoái.
X-46. Nguyện cho kẻ trí luôn được tôn vinh, được người giữ gìn, hiến cúng rộng rãi, tâm luôn thanh tịnh, danh lừng mười phương.
X-47. Nguyện không còn ai chịu khổ ác đạo, cũng không bao giờ nhọc nhằn vất vả, mau chóng viên thành thắng thân của Phật, thù thắng hơn cả thân của chư thiên.
X-48. Nguyện khắp chúng sinh cúng dường chư Phật nhiều vô số kể, luôn hưởng được nguồn an vui thắng diệu của chư Như Lai.
X-49. Hết thảy bồ tát vì khắp chúng sinh có tâm nguyện gì, nguyện đều thành tựu. Và xin nguyện cho khắp cả chúng sinh hưởng được tất cả tâm ý của Phật cùng chư bồ tát hướng về chúng sinh.
X-50. Tương tự như vậy nguyện Bích Chi Phật cùng chư Thanh Văn được nguồn an vui.
X-51. Và cho đến khi đạt hoan hỉ địa, nguyện nương lòng từ của đức Diệu Âm mà tôi luôn được nhớ lại đời trước, vui hạnh xuất gia.
X-52. Nguyện tôi luôn sống với chút lương thực đơn giản thông thường. Nguyện mọi đời kiếp tìm được nơi trú thanh tịnh toàn hảo.
X-53. Mỗi khi trong tôi khởi tâm muốn thấy hay là muốn hỏi, nguyện được diện kiến bồ tát Diệu Âm, không chút ngăn ngại.
X-54. Như đức Văn Thù toàn thành mục tiêu cho khắp chúng sinh cùng tận không gian, nay tôi cũng nguyện làm theo như vậy.
X-55. Không gian vẫn còn, chúng sinh vẫn còn, thì tôi còn vẫn ở lại chốn này, quét tan khổ nạn của khắp chúng sinh.
X-56. Nguyện cho khổ nạn của khắp chúng sinh trổ quả nơi tôi. Nương vào năng lực chúng Tăng bồ tát, nguyện khắp chúng sinh hưởng được đầy nguồn an vui thắng diệu.
X-57. Nguyện cho chánh pháp là thuốc duy nhất chữa lành bệnh khổ, là gốc rễ của mọi nguồn an vui, luôn được muôn loài hỗ trợ tôn kính, tồn tại dài lâu.
X-58. Tôi xin kính lạy bồ tát Diệu Âm: nhờ ơn của ngài mà tâm thiện khởi. Kính lạy đạo sư cùng chư đạo hữu: nhờ ơn chư vị tâm thiện phát huy.
/ HẾT CHƯƠNG MƯỜI /
Ghi chú chương 10: [1] Bồ tát Quan Thế Âm. [2] Manjughosha: một tên khác của đức Manjushri, là đức Văn Thù Sư Lợi.
CUỐI SÁCH: Đến đây chấm dứt bài pháp Bodhicharyavatara, Nhập Bồ Đề Hạnh Luận, do đại sư Shantideva soạn tác. Sách này do học giả xứ Ấn Sarvajnadeva và tỷ kheo kiêm dịch giả Kawa Peltsek chuyển Tạng ngữ và hiệu đính thành định bản dựa trên bản chép tay đến từ Kashmir. Về sau bản dịch này lại được học giả xứ Ấn Dharmashibhadra và hai vị tỷ kheo kiêm dịch giả xứ Tây Tạng, Rinchen Zangpo và Shakya Lodro hiệu đính dựa theo nguyên bản đến từ Magadha đi kèm với luận giải. Về sau, thêm một lần nữa bản dịch này lại được học giả xứ Ấn Sumatikirti và vị tỷ kheo kiêm dịch giả Ngok Loden Sherab hiệu đính.
Hồng Như chuyển Việt ngữ – Bản hiệu đính, 21/03/2014
Mọi sai sót là của người dịch Mọi công đức xin hồi hướng pháp giới chúng sinh.
Ghi chú của dịch giả: Sách này có thể đọc chung với bài pháp Chói Rạng Ánh Mặt Trời của ngài Patrul Rinpoche, là cẩm nang hành trì của Nhập Bồ Đề Hạnh Luận.