– English Title: The Foundation of All Good Qualities – Tibetan: ཡོན་ཏན་གཞིར་གགྱུར་མ། Tác Giả (Author): Lama Tông Khách Ba (sơ tổ dòng Gelug) Việt ngữ: Hồng Như – bản dịch 2011. |

– English Title: The Foundation of All Good Qualities – Tibetan: ཡོན་ཏན་གཞིར་གགྱུར་མ། Tác Giả (Author): Lama Tông Khách Ba (sơ tổ dòng Gelug) Việt ngữ: Hồng Như – bản dịch 2011. |
Dewachen Prayer – Abridged version །བདེ་སྨོན་བསྡུས་པ་བཞུག་སོ། Tác giả (Author): Đức Karma Chagme Việt ngữ: Hồng Như – bản dịch 2013 Ngôn ngữ (Languages): Tạng Văn (Tibetan) – Âm (pronunciation) – English – Việt |
Điều kiện hành trì:
Pháp phổ thông, mọi người đều có thể đọc tụng.
Continue reading
An Aspiration for Birth in the Pure Realm of Sukhavati (Dewachen Prayer – Extended version) རྣམ་དག་བདེ་ཆེན་ཞིང་གི་སྨོན་ལམ། Tác giả (Author): Đức Karma Chagme Việt ngữ: Hồng Như – bản dịch 2013 Ngôn ngữ (Languages): Tạng Văn (Tibetan) – Âm (pronunciation) – English – Việt |
Điều kiện hành trì:
Pháp phổ thông, mọi người đều có thể đọc tụng. Continue reading
Tác Luận: Dza Patrul Rinpoche CHÁNH VĂN: Công Phu Kiến, Tu và Hạnh Còn có tên là: Bài Pháp Đầu, Giữa, Cuối Đều Thiện Việt dịch: Hồng Như, bản hiệu đính tháng 09/2015. |
Tựa đề tiếng Tạng ༈ ནད་ལ་སོགས་པ་ལམ་དུ་འཁྱེར་ཚུལ། do đức རྒྱལ་སྲས་ཐོགས་མེད་བཟང་པོ། Gyalse Thogme Zangpo (1297-1371) tác luận Tựa đề tiếng Việt: Cách Gánh Bệnh Khổ Trên Đường Tu, do Hồng Như chuyển ngữ năm 2015, nhuận văn 2018, 2021, 2024 |
Cách Gánh Bệnh Khổ Trên Đường Tu
Gyalsé Thogmé Zangpo (1297-1371)
Nam mô Thượng Sư
1/ Khối thân huyễn của tôi và người,
Bệnh thì cứ bệnh, bệnh cũng vui.
Ác nghiệp đã gieo nhờ đó cạn.
Thật ra pháp tu nhiều trăm vạn
Chỉ là để tịnh nhị chướng thôi.
2/ Không bệnh thì khỏe, khỏe cũng vui.
Thân tâm vui thì thiện hạnh tăng.
Thật ra thân người muốn đừng phí,
Phải giao ba cửa cho việc lành.
3/ Không của thì thôi, nghèo cũng vui.
Khỏi giữ khỏi mất, khỏi lôi thôi.
Thế gian giận dữ bao tranh chấp
Chắc chắn chỉ vì hám của thôi.
4/ Có của thì có, có cũng vui.
Kho công đức tăng là đủ rồi.
Đời này kiếp sau bao lợi lạc,
Chắc chắn đều nhờ phước trổ hoa.
5/ Chết liền thì chết, chết cũng vui.
Nghịch duyên không cản bước chân qua,
Tập khí tốt lành luôn gắn bó,
Đường không mê lạc, chắc chắn vào.
6/ Sống lâu thì sống, sống cũng vui.
Hoa mầu thật chứng đã đâm chồi,
Lời khai thị nắng mưa không ngớt,
Gần gũi cho lâu sẽ chín mùi.
7/ Dẫu thế nào cũng hãy tập vui.
Như vầy, có vị Geshe dòng Sakya hỏi rằng khi gặp bệnh khổ nghịch duyên thì phải làm sao, để giải đáp làm thế nào đưa bệnh khổ nghịch duyên vào đường tu, tôi, tôn giả Thogme, người nói chánh pháp, viết ra phương thức này.
Sarva mangalam
Tựa đề bản tiếng Tạng ༈ ནད་ལ་སོགས་པ་ལམ་དུ་འཁྱེར་ཚུལ། do đức རྒྱལ་སྲས་ཐོགས་མེད་བཟང་པོ། Gyalse Thogme Zangpo (1297-1371) tác luận
Tựa đề bản tiếng Việt: Cách Gánh Bệnh Khổ Trên Đường Tu, do Hồng Như chuyển ngữ năm 2015, nhuận văn 2018, 2021, 2024
Tựa đề bản tiếng Anh: How to Transform Sickness and Other Circumstances, translated by Adam Pearcey, 2007. Edited by Phillippa Sison. Revised 2012. http://www.lotsawahouse.org/tibetan-masters/gyalse-thogme-zangpo/how-transform-sickness
Tựa đề bản tiếng Pháp: Comment Transformer Maladies et Autres Circonstances en Voie d'Éveil, établie sur la base de l'anglais, Comité de traduction française Rigpa, 2013. https://www.lotsawahouse.org/fr/tibetan-masters/gyalse-thogme-zangpo/how-transform-sickness
ན་མོ་གུ་རུ།
Nam mô Thượng Sư
Namo guru!
Namo guru!
༡ ༽བདག་གཞན་སྒྱུ་ལུས་ཀྱི་ཕུང་པོ་འདི། །
1/ Khối thân huyễn của tôi và người,
This illusory heap of a body, which, like others, I possess—
Ce corps que je possède comme les autres, cet amas illusoire,
ན་ན་ན་སྟེ་ན་བས་དགའ། །
Bệnh thì cứ bệnh, bệnh cũng vui.
If it falls sick, so be it! In sickness I’ll rejoice!
S’il est malade, qu’il le soit ! De cette maladie, je me réjouis !
སྔར་བསགས་ཀྱི་ལས་ངན་འཛད་པ་ཡིན། །
Ác nghiệp đã gieo nhờ đó cạn.
For it will exhaust my negative karma from the past.
Elle balaie mon karma négatif du passé ;
ཆོས་སྤྱོད་ཀྱི་བྱ་བ་སྣ་ཚོགས་ཀྱང་། །
Thật ra pháp tu nhiều trăm vạn
And, after all, many forms of Dharma practice,
Et les diverses pratiques du Dharma, après tout,
སྒྲིབ་གཉིས་སྦྱང་བའི་ཆེད་དུ་ཡིན། །
Chỉ là để tịnh nhị chướng thôi.
Are for the sake of purifying the two obscurations.
Servent à purifier les deux obscurcissements.
༢ ༽ན་བ་མེད་ན་མེད་དེ་དགའ། །
2/ Không bệnh thì khỏe, khỏe cũng vui.
If I am healthy, so be it! In freedom from sickness I’ll rejoice!
Si je suis en bonne santé, soit ! Je m’en réjouis !
ལུས་སེམས་བདེ་ན་དགེ་སྦྱོར་འཕེལ། །
Thân tâm vui thì thiện hạnh tăng.
When body and mind are well and at ease, Virtuous practice can develop and gain strength.
Avec un corps et un esprit à l’aise,་La pratique de la vertu s’intensifie ;
མི་ལུས་དོན་ཅན་བྱེད་པ་ཡང༌།
Thật ra thân người muốn đừng phí,
And, after all, the way to give meaning to this human life
Et ce qui donne du sens à cette vie humaine, après tout,
སྒོ་གསུམ་དགེ་ལ་སྦྱོར་བ་ཡིན། །
Phải giao ba cửa cho việc lành.
Is to devote body, speech and mind to virtue.
Est de tourner actes, paroles et pensées vers le bien.
༣ ༽འབྱོར་པ་མེད་ན་མེད་དེ་དགའ། །
3/ Không của thì thôi, nghèo cũng vui
If I face poverty, so be it! In lack of riches I’ll rejoice!
Me voilà sans fortune, soit ! Je m’en réjouis !
བསྲུང་བྲལ་གྱི་བྱ་བྲེལ་དེ་ལ་མེད། །
Khỏi giữ khỏi mất, khỏi lôi thôi.
I will have nothing to protect and nothing to lose.
Point du souci incessant de la garder et de la protéger !
འཐབ་རྩོད་ཀྱི་ཁྲོ་འཁྲུགས་ཇི་སྙེད་པ། །
Thế gian giận dữ bao tranh chấp
Whatever quarrels and conflicts there might be,
Les disputes et les conflits quels qu’ils soient
འཛིན་ཆགས་ཀྱི་ནོར་ལས་བྱུང་བར་ངེས། །
Chắc chắn chỉ vì hám của thôi.
All arise out of desire for wealth and gain—that’s certain!
Viennent, pour sûr, de s’attacher aux biens et aux richesses !
༤ ༽འབྱོར་པ་ཡོད་ན་ཡོད་དེ་དགའ། །
4/ Có của thì có, có cũng vui.
If I find wealth, so be it! In prosperity I’ll rejoice!
Me voilà riche, soit ! Je m’en réjouis !
བསོད་ནམས་ཀྱི་དགེ་ཚོགས་སྤེལ་བས་ཆོག །
Kho công đức tăng là đủ rồi.
If I can increase the stock of my merits that will suffice.
Pour augmenter mon accumulation de mérites, rien de tel !
འཕྲལ་ཕུགས་ཀྱི་ཕན་བདེ་ཇི་སྙེད་པ། །
Đời này kiếp sau bao lợi lạc,
Whatever benefit and happiness there might be, now and in the future,
Tout ce que l’on trouve de bonheur, maintenant et dans le futur,
བསོད་ནམས་ཀྱི་འབྲས་བུ་ཡིན་པར་ངེས། །
Chắc chắn đều nhờ phước trổ hoa
All result from merits I have gained—that’s certain!
Est, pour sûr, le fruit du mérite !
༥ ༽མྱུར་དུ་ཤི་ན་ཤི་བས་དགའ། །
5/ Chết liền thì chết, chết cũng vui.
If I must die soon, so be it! In dying I’ll rejoice!
Si je dois mourir bientôt, soit ! De la mort, je me réjouis !
རྐྱེན་ངན་གྱིས་བར་དུ་མ་ཆོད་ཅིང༌། །
Nghịch duyên không cản bước chân qua,
Without allowing negative circumstances to intervene,
Si l’adversité ne me barre pas la route,
མཚམས་སྦྱོར་གྱི་བག་ཆགས་བཟང་འགྲོགས་པས། །
Tập khí tốt lành luôn gắn bó,
And with the support of positive tendencies I have gathered,
Aidé par les habitudes positives que j’ai accumulées,
མ་ནོར་གྱི་ལམ་དུ་ཚུད་པར་ངེས། །
Đường không mê lạc, chắc chắn vào.
I will surely set out upon the genuine, unerring path!
Je rejoindrai, pour sûr, le chemin infaillible !
༦ ༽ཡུན་དུ་གསོན་ན་གསོན་པས་དགའ། །
6/ Sống lâu thì sống, sống cũng vui,
If I live long, so be it! In remaining I’ll rejoice!
Si je reste en vie longtemps, soit ! D’être en vie, je me réjouis !
ཉམས་མྱོང་གི་ལོ་ཐོག་སྐྱེས་པ་ལ། །
Hoa mầu thật chứng đã đâm chồi,
Once the crop of genuine experience has arisen,
La graine de l’expérience, une fois éclose,
གདམས་ངག་གི་རླན་དྲོད་མ་ཡལ་བར། །
Lời khai thị nắng mưa không ngớt,
As long as the sun and rainfall of instructions do not diminish,
Nourrie sans faiblir par le soleil et la pluie des instructions,
ཡུན་དུ་བསྟེན་པས་སྨིན་པར་འགྱུར། །
Gần gũi cho lâu sẽ chín mùi.
If it is tended over time, it will surely ripen.
Finira avec le temps par porter ses fruits.
༧ ༽གང་ཡིན་ཡང་དགའ་བ་སྒོམས་ཤིག་ཨང་། །
7/ Dẫu thế nào cũng hãy tập vui.
So, whatever happens then, let us always cultivate joy!
Ainsi, quoi qu’il advienne, entraînons-nous à nous réjouir !
ཞེས་པ་ས་སྐྱར་དགེ་བཤེས་ཤིག་གིས་ནད་ལ་སོགས་པ་བྱུང་ན་ཇི་ལྟར་བྱེད་དྲིས་པའི་ལན་དུ་ནད་ལ་སོགས་པ་ལམ་དུ་འཁྱེར་བའི་ཚུལ་འདི། ཆོས་སྨྲ་བའི་བཙུན་པ་ཐོགས་མེད་ཀྱིས་བཀོད་པའོ། །
Như vầy, có vị Geshe dòng Sakya hỏi rằng khi gặp bệnh khổ nghịch duyên thì phải làm sao, để giải đáp làm thế nào đưa bệnh khổ nghịch duyên vào đường tu, tôi, tôn giả Thogme, người nói chánh pháp, viết ra phương thức này.
In response to a question from a Sakya geshé, asking what should be done in the event of sickness and the rest, I, the monk Tokmé, who discourses on the Dharma, set down these ways of bringing sickness and other circumstances onto the spiritual path.
En réponse à un guéshé Śākya qui demandait ce qu’il faut faire en cas de maladie, moi, le moine Thogmé, qui disserte sur le Dharma, j’ai exposé ces façons d’amener maladies et autres circonstances sur le chemin spirituel.
སརྦ་མངྒ་ལཾ། །
Sarva mangalam!
Tác Giả: Đại Sư Drakpu – Gendun Rinpoche Việt ngữ: hồng như – bản dịch 2015. |
– Dung bö lu me ma – Bài Ca Mong Chờ Đấng Không Hư Ngụy – do ngài Losang Tänpai Gyältsän soạn tác – hồng như chuyển việt ngữ – bản tháng 8/2015 – Hạ Tải PDF: << PDF >> |
– [Eight Verses for Training the Mind] – Tác Giả (Author): Geshe Langri Thangpa (thế kỷ thứ 12) – Ngôn ngữ (language): Việt – English – Việt ngữ: hồng như – bản dịch 2006 |
– English: Stages of Meditation, by Acharya Kalamashila (not available here) – Tác giả (Author): Liên Hoa Giới (Kamalashila) – Việt ngữ: Hồng Như – bản hiệu đính, 06/2008, nhuận văn 07/2009, 06/2015. Hạ Tải văn bản chánh văn tại www.hongnhu.org/thu-muc/#trinh-tu-tu-thien |
– English Title: Song of Experience – Tác Giả (Author): Lama Tông Khách Ba (sơ tổ dòng Gelug) – Việt ngữ: Hồng Như |
1: Bản mới, nhuận văn 2021 (dịch từ Tạng ngữ) 2: Bản mới 2019: Tạng Anh Việt (dịch từ Tạng ngữ) 3: Bản cũ 2004 (dịch từ Anh ngữ)
BẢN MỚI, DỊCH TỪ TẠNG NGỮ (2019, nhuận văn 2021)
Tiếng Việt
Tibetan title: Lam rim nyams mgur
Tựa đề tiếng Việt: LAMRIM CHỨNG ĐẠO CA: Tinh Yếu Trình Tự Đường Tu Giác Ngộ
1. Thân sinh ra từ / muôn vạn thiện lành;
Lời nói toàn thành / nguyện ước chúng sinh;
Ý thấy khắp cả / đúng như sự thật:
Trước bậc đứng đầu / dòng họ Thích ca / con xin đảnh lễ.2. Là trưởng tử của / bậc Thầy vô song,
Đảm đương việc làm / của khắp chư Phật,
Du hí thị hiện / hằng sa cõi giới:
Di Lạc, Văn Thù / con xin kính lễ.3. Là người minh giải / ý nghĩa Phật mẫu
Thậm thâm khó lường, / đúng như ý Phật, / châu bảo trang nghiêm / cõi Diêm Phù đề:
Long thọ, Vô trước, / ba cõi danh lừng,
Đê đầu dưới chân / con xin kính lễ.4. Là người tiếp giữ / mọi điểm tinh yếu / kho tàng khai thị / đầy đủ không sai
Của hai đường tu / tri kiến thâm sâu, / thiện hạnh quảng đại,
Được truyền xuống từ / nhị đại tổ sư.
Đức Atisa (Di-pam-ka-ra), / con xin kính lễ.5. Ân sư là mắt / cho chúng con nhìn / muôn trùng kinh điển;
Là lòng sông cạn / đưa kẻ thiện duyên / sang bờ giải thoát;
Từ bi vận dụng / mọi thiện phương tiện, / soi tỏ lối đường:
Trước khắp Ân sư / thành tâm kính lễ.6. Pháp tu Lam-rim / [tức là Trình Tự / Đường tu Giác Ngộ,]
Là ngọc trang nghiêm / trên đỉnh bậc trí / cõi Diêm phù đề;
Tràng phang danh xưng / lẫy lừng khắp chúng;
Được chân truyền từ / nhị đại tổ sư / Long thọ, Vô trước.7. Vì bởi pháp này / làm tròn nguyện ước / chín loại chúng sinh
Nên đây chính là / vua loài ngọc quý,
Biển rộng luận giải / rạng ngời khéo giảng,
Nơi ngàn dòng suối / luận văn đổ về.
Giúp người tu hiểu / trăm vạn pháp môn / vốn không mâu thuẫn;
Giúp trọn pháp Phật / tỏa rạng thành lời / trực chỉ khai thị / trong trí người tu;
Giúp cho dễ dàng / hiểu được ý Phật;
Giúp giữ người tu / thoát khỏi hố thẳm / của đại ác hạnh.
Vì vậy nhiều bậc / thiện duyên Ấn-Tạng
Dốc tâm nương vào / diệu pháp này đây.
Trình tự đường tu / ba căn cơ này,
Kẻ trí không ai / không bị cuốn hút.8. Pháp này thu nhiếp / trọn lời Phật dạy,
Nên giảng hay nghe / dù chỉ một lần,
Đều như giảng, nghe / toàn bộ diệu Pháp,
Lợi ích nhất định / sẽ như sóng cả, / vì vậy hãy nên / chuyên chú tư duy.9. Rồi sẽ thấy ra / gốc rễ duyên lành
Cho mọi thiện lành / đời này kiếp sau
Nằm ở nỗ lực / mang tâm và hạnh / nương dựa đúng cách
Nơi đấng đạo sư, / là người chỉ cho / đường tu giác ngộ.
Thấy điều này rồi / cho dù mất mạng / cũng không từ bỏ,
Phải gắng làm cho / đạo sư hoan hỉ / bằng cách tu theo / lời của đạo sư.
Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.10. Thân người ung dung / quí giá còn hơn / bảo châu như ý
Đến chỉ một lần / cực kỳ khó gặp,
Lại dễ mất như / tia chớp giữa trời.
Thấy rõ kiếp người / chóng vánh như vậy,
Chuyện đời khác gì / trấu lép loạn bay.
Nên ngày lẫn đêm / phải luôn tận dụng / tinh túy thân này.
Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.11. Chết rồi chắc gì / không rơi ác đạo,
Giúp thoát sợ này / chỉ có Tam Bảo.
Vậy tâm qui y / phải giữ cho chắc,
Đừng bao giờ để / phá hạnh qui y.
Muốn được như vậy / phải khéo nghĩ về / nghiệp quả thiện ác,
Để biết chọn việc / nên bỏ, nên làm.
Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.12. Thân người đủ mọi / phẩm tướng cần thiết / để theo thắng đạo,
Nếu như thiếu đi / thì đường giác ngộ / không thể bứt phá.
Vậy phải gắng sao / cho có đủ cả.
Vì bởi ba cửa / nhuốm đầy cấu nhiễm / ác nghiệp, rơi đọa,
Khẩn thiết nhất là / tẩy tịnh nghiệp chướng,
Nên bốn sám lực / phải thường trân quí / áp dụng siêng năng.
Thầy là hành giả / đã tu như vậy
Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.13. Tai hại khổ đế / không nỗ lực quán
Thì tâm cầu thoát / không thật phát sinh.
Nguyên nhân của khổ / luân chuyển thế nào, / nếu không quán chiếu
Thì gốc luân hồi / không biết cách chặt.
Cần nhất phải biết / chán khổ sinh tử, / khởi tâm cầu thoát,
Và biết điều gì / trói buộc mình trong / sinh tử luân hồi.
Thầy là hành giả / đã tu như vậy,
Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.14. Phát tâm bồ đề / là cốt lõi của / đường tu Đại thừa;
Nền tảng, chỗ dựa / của khắp muôn trùng / sóng cả thiện hạnh;
Tựa như thuốc tiên / hóa sắc thành vàng, / biến tất cả thành / hai kho phước trí;
Là cả kho tàng / công đức đồ sộ, / chứa hết vô lượng / thiện đức bồ đề.
Vì biết điều này / nên chư bồ tát / uy dũng tự tại
Gìn giữ tâm ấy / sâu thẳm bên trong / cốt tủy pháp hành.
Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.15. Thí là ngọc quý / toàn thành ước nguyện / cho khắp chúng sanh;
Vũ khí thượng thặng / chặt phăng nút thắt / của lòng keo bẩn;
Là hạnh bồ tát / sinh nguồn dũng cảm / không hề chán mệt;
Và là nền tảng / khiến cho danh lành / truyền khắp mười phương.
Vì biết điều này / nên người có trí / xả hết thân mạng / tài sản công đức,
Chỉ để nương theo / con đường lành này.
Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.16. Giới là nước trong / giặt sạch tất cả / vết nhơ ác nghiệp;
Là ánh trăng thanh / xoa dịu nỗi đau / rát bỏng phiền não;
Đứng giữa phàm phu, / thân thể rạng ngời / như núi Tu di,
Không cần thị uy / nhiếp phục khắp cả.
Vì biết điều này / nên chư giác giả,
Giữ giới đã thọ / quí như đôi mắt.
Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.17. Nhẫn là trang sức / quí giá nhất cho / người có quyền năng;
Là sức chịu đựng / tuyệt bậc dành cho / bức bách phiền não;
Là kim sí điểu / bay vút giữa trời, / làm khắc tinh của / rắn thù sân hận;
Là lớp giáp bào / kiên cố ngăn chận / vũ khí ác ngữ.
Biết vậy cho nên / giáp bào kham nhẫn,
Bằng đủ mọi cách / phải tập làm quen.
Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.18. Khoát lớp giáp bào / tinh tấn bất thoái
Thì học và chứng / tăng trưởng nhanh như / trăng đến độ rằm,
Làm gì cũng đều / tràn đầy ý nghĩa,
Và đều mang đến / kết quả mong cầu.
Vì biết như vậy / nên chư bồ tát
Cuộn sóng tinh tấn / quét sạch hết thảy / mọi kiểu biếng lười.
Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.19. Định là đại vương / ngự trị tâm thức.
Để yên, bất động / như núi Tu Di
Mở ra, thu nhiếp / toàn bộ thiện pháp,
Cho hỉ lạc nhờ / nhu nhuyễn thân tâm.
Vì biết vậy nên / hành giả tự tại
Luôn nương pháp định / diệt thù tán tâm.
Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.20. Tuệ là đôi mắt / thâm chứng tánh Như;
Là con đường bứng / sạch gốc luân hồi;
Là kho tánh đức / kinh luận tán thán;
Và nổi danh là / ngọn đèn vô thượng / xua bóng vô minh.
Vì biết như vậy / nên người có trí / tìm cầu giải thoát
Nỗ lực đủ cách / tu theo đường này.
Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.21. Nếu chỉ dựa vào / mỗi định-nhất-tâm / thì không thấy được
Khả năng chặt đứt / gốc rễ luân hồi.
Nếu chỉ có tuệ / thiếu đi tịnh chỉ
Thì dù quán chiếu / truy tìm đến đâu / vẫn không thể nào / dứt được phiền não.
Vì vậy kẻ trí / lấy tuệ thâm nhập / vào chân thực tại
Cưỡi trên lưng ngựa / tịnh chỉ diệu trạm;
Dùng vũ khí bén / luận lý Trung đạo / không vướng biên kiến
Phá tan hết thảy / khái niệm phân biệt / chấp thường chấp đoạn.
Dùng tuệ rộng lớn / quán chiếu chính xác
Để làm khai mở / trí chứng tánh Như.
Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.22. Nhờ thiền nhất tâm / mà đạt tam muội,
Chẳng gì đáng nói. / Dùng quán sát trí
Truy xét tầm tư, / mà vẫn yên lắng,
Bất động vững vàng / nơi chân thực tại,
Thấy rồi nỗ lực / hợp nhất chỉ quán,
Đây mới chính thật / là điều nhiệm mầu.
Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.23. Khi vào trong định, Không – như không gian;
Khi xuất trở ra, Không – như huyễn cảnh;
Tán dương những ai / nhờ tu như vậy / hợp nhất phương tiện / cùng với trí tuệ
Nhờ đó siêu việt / các hạnh bồ tát.
Để chứng điều này / nên bậc thiện duyên
Không đành lòng với / đường tu riêng lẻ.
Thầy là hành giả / đã tu như vậy.
Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.24. Như thế chính là / đường tu phổ thông, / thiết yếu cho hai / thắng đạo đại thừa.
là cỗ xe nhân / và cỗ xe quả.
Tu rồi hãy tìm / nương sự che chở / của bậc thuyền trưởng / trí tuệ tài ba
Để mà bước vào / biển cả mật pháp.
Rồi nhờ dựa vào / lời giảng toàn hảo
Sẽ không phí uổng / thân người có đây.
Thầy là hành giả / đã tu như vậy
Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.25. Vì để huân tập / tâm của chính mình,
Cũng để làm lợi / cho hàng thiện duyên,
Thầy đã giải thích / bằng lời dễ hiểu
Trọn vẹn đường tu / khiến Phật đẹp lòng.
Nương công đức này / nguyện cho chúng sinh
Không bao giờ lìa / nguyện cầu như vậy.
Con cầu giải thoát / cứ hãy làm theo.Trình tự đường tu giác ngộ được trình bày ngắn gọn theo dạng dễ nhớ khó quên, do tỷ kheo đa văn, người đã buông xả, tên Lobsang Drakpa [Lama Tsongkhapa] viết nơi núi lớn lan nhã tại Geden Nampar Gyalwai Ling.
Bản tiếng Việt: Hồng như Thupten Munsel, 2019: Bản mới dịch lại từ Tạng ngữ, tham khảo với ba bản dịch, Alex Berzin, Thupten Jinpa và Ven. Joan Nicell, nhuận văn 2025.
English version: A Lamp for the Path to Enlightenment << Link to Lama Yeshe Wisdom Archives >> – Tác Giả: Atisha Dipamkara Shri Jnana (982-1054) – Tựa Đề: Bồ Đề Đạo Đăng Luận (Đèn Soi Đường Giác Ngộ) – Việt ngữ: Hồng Như, ấn bản tháng 07 năm 2005. Hạ Tải văn bản chánh văn tại www.hongnhu.org/thu-muc/#bo-de-dao-dang-luan |
– English Title: A Prayer Calling the Lama from Afar – (Not available on this website) – Tựa đề tiếng Tạng: ༄༅།།བླ་མ་རྒྱང་འབོད་ཀྱི་གསོལ་འདེབས་མོས་གུས་སྙིང་གི་གཟེར་འདེབས་ཞེས་བྱ་བ་བཞུགས་སོ།། – Tác luận (Author): Jamgon Kongtrul đời thứ nhất Lodro Thayé – Việt ngữ: Hồng Như – Bản dịch hiệu đính tháng 7/2015. Điều kiện hành trì: Pháp phổ thông, mọi người đều có thể đọc tụng. |
– A commentary on Shantideva’s Bodhisattva Way Of Life, by Patrul Rinpoche – ༄༅། །བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའི་སྤྱོད་པ་ལ་འཇུག་པའི་སྒོམ་རིམ་རབ་གསལ་ཉི་མ་ཞེས་བྱ་བ་བཞུགས་སོ། ། – Tác Luận: Đức DZA PATRUL RINPOCHE Việt ngữ: Hồng Như, bản tháng 9/2013 Hạ Tải PDF: <<Chói Rạng Ánh Mặt Trời – Sách PDF >> Điều kiện hành trì: Pháp phổ thông, mọi người đều có thể đọc và hành trì. |
Cẩm nang hành trì: Thọ Bồ Tát Giới – Tu Bồ Tát Hạnh theo Nhập Bồ Đề Hạnh Luận của ngài Tịch Thiên (Shantideva) –
Continue reading
Tựa đề tiếng Phạn: Bodhicaryāvatāra (còn gọi là Bodhisattvacaryāvatāra), Thánh Giả Tịch Thiên [Shantideva] tác luận Hạ tải Sách Đọc: Nhập Bồ Đề Hạnh Luận : PDF |
Thầy tôi dạy rằng: “Cảnh giới chứng ngộ của ngài Shantideva, kẻ phàm như chúng ta đây không làm sao có thể tưởng tượng nổi. Vậy mà các con lại đủ túc duyên để nghe được những lời này, thật là phước báu khó tìm cầu, phải biết trân quí.”
Bằng tấm lòng trân quí như vậy, tôi xin dịch bài pháp này. Là niềm tri ân sâu xa đối với Ân Sư cùng hết thảy những ai còn nán lại trong khổ đau sinh tử để cho kẻ chậm chân như tôi đây vẫn còn hy vọng phát khởi tâm bồ đề.
đệ tử tại gia Hồng Như
10/2013
Hai nguồn sử liệu chính về cuộc đời ngài Shantideva (Tịch Thiên) đến từ ngài Butön (1290-1364) – và ngài Jetsün Tāranātha (1575-1608). Ngoài ra còn một bản văn ngắn được tìm thấy trong các tác phẩm của học giả Yeshe Peljor (thế kỷ 18). Gần đây, các nhà nghiên cứu phát hiện thêm một đoản văn trong bản thảo chép tay ở Nepal thế kỷ 14.
Ngài Kunzang Pelden trong bộ luận “Văn Thù Kim Khẩu Cam Lồ” đã dựa theo bản văn của ngài Butön để soạn tiểu sử của ngài Shantideva. Bản tiếng Việt lược dịch từ tiểu sử này.
Nhập Bồ Đề Hạnh Luận (Bodhicaryāvatāra) do Bồ tát Shantideva (Tịch Thiên) trước tác. Ngài là bậc thầy uyên thâm hội đủ ba phẩm tính cần có của luận giả: trực chứng chân đế, trực kiến bổn tôn, thông làu ngũ minh. Khi còn tại thế, ngài Shantideva viên thành bảy công hạnh phi thường. Đặc biệt ngài là người được đấng bổn tôn Diệu Âm[1] trực tiếp hộ niệm gia trì.
Ngài Shantideva vốn mang dòng máu đế vương. Vào khoảng đầu thế kỷ VIII tại miền Nam xứ Saurashtra (nay là Bang Gujarat tại Tây Bắc Ấn Độ), quốc vương Kalyanavarnam hạ sanh thái tử, đặt tên là Shantivarman. Từ nhỏ thái tử đã sớm hướng tâm về chư Phật trong các thời quá khứ, tự nhiên mang sẵn dòng giống Đại Thừa, dành trọn tấm lòng tôn kính phi thường cho chư Tăng sĩ, Đạo sư. Ngài phụng sự hiến cúng khắp cả, đặc biệt quan tâm chăm sóc cho người nghèo hèn, tật bệnh, đọa rơi. Với trái tim kiên định hướng về nẻo giác, ngài tích lũy tri thức, thông làu ngũ minh. Đặc biệt ngài thỉnh được nghi quỹ đức Văn Thù từ một vị khất sĩ khổ hạnh, hành trì miên mật và xem đức Văn Thù là bổn tôn.
Khi Quốc vương băng hà, vương quyền trao về cho Thái tử Shantivarman. Ngai vàng được dựng lên lộng lẫy để chuẩn bị cho lễ Đăng quang. Ngay đêm hôm trước đại lễ, thái tử nằm mộng thấy đức Diệu Âm tọa trên ngai vàng, nhìn ngài mà nói như sau:
Con yêu duy nhất, / ngai này của ta.
Ta là Văn Thù / sư phụ con đây.
Sao con có thể / sánh với sư phụ
ngang vai ngang vế / ngồi cùng một ngai?
Giật mình tỉnh giấc, thái tử Shantisarman hiểu rằng việc kế thừa vương vị là điều chẳng nên làm. Lòng không lưu luyến tài sản thế gian, ngài từ bỏ ngai vàng, đến học viện Na-lan-đà thọ giới cùng ngài Jayadeva, thượng thủ của năm trăm vị Hiền Thánh, và được sư phụ ban cho pháp hiệu Shantideva[2].
Trong thời gian tu học tại Na-lan-đà, ngài được đức Văn Thù trực tiếp truyền cho Tam Tạng kinh điển. Ngài dựa theo đó tu tập miên mật, qui nạp nội dung chánh pháp thành hai bộ luận: Học Tập Luận và Kinh Tập Luận. Mặc dù ngài Shantideva thành tựu vô lượng thiện đức từ cả hai pháp diệt và đạo, thế nhưng chư Tăng đồng học vẫn không hay biết, chỉ thấy người này hết ăn (Bhuj) lại ngủ (Sup), rồi lại đi lang thang (Kutimgata), nên gọi ngài là Bhu-su-ku. Họ vô cùng bất bình, than rằng, “cả ba việc của người xuất gia tại đây[3], người này chẳng được việc nào cả, sao đủ tư cách thọ trai tăng! Phải đuổi đi mới được!” Họ liền bàn cách đuổi ngài đi, bày ra việc chư Tăng thay phiên nói pháp, tin chắc rằng bao giờ đến phiên phải nói pháp, chắc chắn ngài sẽ xấu hổ mà trốn đi. Họ liên tục đến thúc dục, nhưng lần nào ngài cũng từ chối, bảo rằng không biết gì để nói. Họ kéo nhau đến thỉnh Viện trưởng ra lệnh cho ngài nói pháp. Viện trưởng vừa lên tiếng, ngài liền hứa ngay. Thấy vậy, một số tăng sĩ bắt đầu chột dạ. Để thách thức ngài, họ bày biện cúng phẩm cao như núi, mời thật đông người đến dự, dựng một tòa sư tử chênh vênh ngay chính giữa, rồi mời ngài đến. Bất ngờ thấy ngài đã tọa sẵn trên pháp tòa, họ kinh ngạc hoang mang, không hiểu ngài thượng lên pháp tòa bằng cách nào.
Lúc bấy giờ ngài Shantideva điềm nhiên cất tiếng hỏi: “Các ông muốn nghe pháp nào, pháp thường nghe, hay pháp chưa từng nghe?”
Cả pháp hội sững sờ. “Xin cho chúng tôi nghe pháp chưa từng nghe.”
Học Tập Luận quá dài, Kinh Tập Luận lại quá ngắn, vì vậy ngài Shantideva thuyết Nhập Bồ Đề Hạnh Luận, nghĩa rộng nhưng văn gọn. Lúc bấy giờ đức Văn Thù hiện ra ngay giữa trời không, nhiều người thấy được, tín tâm trào dâng vô bờ. Khi đọc đến chỉnh cú 34, chương 9, “cả sắc và không / đều vắng trong tâm…”, ngài Shantideva và đức Văn Thù cùng thăng lên không trung, cao dần, rồi biến mất, chỉ còn giọng nói ngài Shantideva vọng về cho đến cuối bộ luận.
Trong chúng hội, các vị trí nhớ phi thường liền vội vã chép lại bài pháp, nhưng các bản văn dài ngắn không đồng: có vị chép thành bảy trăm chỉnh cú, có vị chép thành một ngàn chỉnh cú, có vị lại chép thành nhiều chỉnh cú hơn. Chư Hiền giả vùng Kashmir chép thành bảy trăm chỉnh cú và gom thành chín chương, trong khi đó chư vị ở Trung Ấn (Magadha – Ma Kiệt Đà) lại chép thành một ngàn chỉnh cú gom thành mười chương. Lúc ấy, bản văn có sự bất nhất như vậy. Hơn nữa, không ai biết gì về hai bộ luận mà ngài Shantideva dặn dò là cần phải đọc, bộ Học Tập Luận và Kinh Tập Luận (xem chương 5, chỉnh cú 105-106).
Về sau, nghe nói ngài Shantideva đang ở tại bảo tháp Shrīdakṣngahiṇa, vùng Nam Ấn, hai vị hiền thánh với trí nhớ thần thông đã lặn lội tìm đến gặp, xin ngài chuẩn xác lại bộ luận. Ngài xác định bản chép của chư Hiền giả vùng Magadha là chính xác. Khi hỏi đến Học Tập Luận và Kinh Tập Luận, ngài bảo rằng hai vị sẽ tìm thấy hai bộ luận này giấu trên mái nhà trong tịnh xá của ngài tại Học Viện Na-lan-đà. Ngài cũng nhân dịp này truyền khẩu và ban lời khai thị cho hai vị.
Ngài Shantideva sau đó du hành về hướng Đông, vận dụng thần thông hàng phục cuộc xung đột nghiêm trọng, mang lại hòa bình cho cả đôi bên.
Ngài cũng độ cho năm trăm người ngoại đạo miền Tây gần xứ Magadha. Lúc ấy nhằm lúc thiên tai, cả làng lâm nạn đói. Dân làng bảo nếu được ngài cứu mạng, họ nguyện tin theo giáo pháp của ngài. Ngài khi ấy mang bình bát chứa cơm khất thực, cầm trong tay, gia trì bằng đại định. Chỉ với một bình bát, cả làng đều được thỏa thuê no đủ. Nhờ duyên lành này, cả làng bỏ mê tín để bước vào chánh pháp.
Thêm một thời gian sau đó, lại trong một nạn đói kinh khiếp, ngài đã cứu mạng một ngàn hành khất.
Về sau ngài làm cận vệ cho Quốc Vương Arivishana, lúc bấy giờ đang gặp nạn chiến tranh với giặc Machala phía Đông Ấn. Ngài đeo bên mình thanh kiếm gỗ đầy uy lực, đủ khả năng hàng phục mọi hiểm họa, mang an bình đến khắp mọi nơi, được sự nể trọng của khắp cả. Tuy vậy, một số quần thần sanh lòng ganh ghét, đến bẩm báo với vua rằng: “đây chỉ là tên bịp bợm, ngưỡng mong bệ hạ suy xét. Hắn nào có vũ khí gì đâu, chỉ đeo mỗi thanh kiếm gỗ, làm sao bảo vệ được cho bệ hạ!” Vua nghe xong nổi giận, xét vũ khí của từng người. Đến khi vua bảo ngài Shantideva tuốt kiếm, ngài từ tốn thưa rằng làm như vậy sẽ khiến vua bị thương.
“Ta bị thương mặc lòng! ngươi cứ hãy rút kiếm ta xem!” Vua ra lệnh.
Không thể cãi lệnh, ngài mời vua đến nơi vắng vẻ, thỉnh vua lấy tay che một mắt, chỉ nhìn bằng con mắt còn lại. Khi thanh kiếm rút ra khỏi vỏ, hào quang rực rỡ chói lòa khiến mắt vua rơi ngay xuống đất. Vua cùng tùy tùng kinh hãi, xin ngài lượng thứ chở che. Ngài Shantideva lúc bấy giờ trả mắt lại cho vua, nhờ lực gia trì của ngài, mắt vua bình thường như cũ, không chút đau đớn. Cả vương quốc bấy giờ khởi tín tâm sâu xa, quay về quy thuận chánh pháp.
Về sau ngài Shantideva đến vùng Shriparvata miền Nam, sống lẫn trong đám hành khất lõa thể. Ở đó ngài ăn nước rửa chén rửa nồi người ta đổ ra. Có một lần cô thị nữ của vua Khatavihara tên là Kachalaha đổ nước rửa chén, chợt thấy nước hắt lên người Shantideva thì lập tức sôi rít lên, chẳng khác gì đổ trên nền sắt nóng. Cô ta lấy đó làm lạ.
Cũng vào lúc bấy giờ, có một vị sư phụ Ấn giáo tên là Shankaradeva tìm đến gặp vua để ra lời thách đố. Ông ta tuyên bố sẽ vẽ mạn-đà-la Maheshvara trên trời không, nếu Phật giáo không ai phá được thì mọi ảnh tượng kinh sách Phật giáo trong vương quốc đều phải vất vào lửa đỏ, trăm dân phải theo đạo của ông ta. Trước lời thách đố này, nhà vua lập tức triệu tập hết thảy cao tăng về báo việc, nhưng không một ai đủ khả năng nhận lời thách đố. Vua ăn ngủ không yên. Thấy vậy, thị nữ Kachalaha bẩm bạch cùng vua chuyện kỳ lạ về gã hành khất, vua liền ra lệnh tìm Shantideva. Quần thần vội vã tìm trong tìm ngoài, rốt cuộc tìm được ngài đang ngồi dưới một gốc cây. Khi nghe đầu đuôi câu chuyện, ngài nói rằng việc này chẳng khó gì, nhưng phải cho ta một bình đầy nước, hai tấm vải, và lửa. Mọi thứ đều được nhanh chóng chuẩn bị theo đúng ý của ngài.
Buổi chiều ngày hôm sau, hành giả ấn giáo đến vẽ mấy lằn lên không trung rồi bỏ đi. Mọi người đều cảm thấy vô cùng bất an. Sáng sớm hôm sau, đương lúc mạn đà la còn đang thành hình, cửa Đông chưa kịp xong thì ngài Shantideva đã nhập vào đại định. Ngay tức thì, trận cuồng phong nổi lên, quét sạch mạn đà la vào hư không. Hết thảy cây cối, hoa màu, nhà cửa đều bị cuốn tan hoang. Vị hành giả Ấn giáo bị gió tốc như một con chim con. Bóng tối bao trùm khắp lãnh thổ. Rồi hào quang chiếu ra từ giữa hai lông mày của ngài Shantideva, soi lối cho vua và hoàng hậu. Cả hai đều bị gió cuốn, tuột hết siêm y, toàn thân đầy bụi. Và cứ thế, ngài Shantideva dùng lửa để sưởi, dùng nước để tắm, dùng vải để vua và hoàng hậu che thân. Ngài lại dùng thần lực của đại định gom hết dân chúng bị gió cuốn trở về lại, tắm rửa, chăm sóc, trấn an. Biết bao người khởi chánh tín, nhờ đó ngoại đạo suy tàn, chánh pháp hưng thịnh dài lâu. Vương quốc này vì vậy mà được gọi là nơi “hàng phục ngoại đạo.”
Mặc dù ngài Shantideva lúc nào cũng tự cho mình chỉ là kẻ phàm phu, nhưng theo lời ngài Jetari, ngài Shantideva là hiện thân của đức Diệu Âm (Văn Thù). Theo lời ngài Prajnaka-ramati thì ngài Shantideva là bậc thánh tăng. Còn riêng nói về hành trạng của ngài, đức Vibhutichandra nói rằng:
Trên cõi thế gian / đã từng xuất hiện
nhiều đấng Pháp Vương, / vua của chánh pháp,
thế nhưng xét về / thành tựu, kinh nghiệm,
chẳng ai sánh bằng / Shan-ti-đê-va.
Ngài Shantideva để lại cho hậu thế ba tuyệt tác: Hai tác phẩm đầu là Học Tập Luận (Shikṣhāsamucchaya) và Kinh Tập Luận (Sūtrasamucchaya), một phong phú, một ngắn gọn. Tác phẩm thứ ba tựa đề Nhập Bồ Đề Hạnh Luận (Bodhicaryāvatāra), hình thức ngắn gọn nhưng nội dung vô cùng phong phú. Ở xứ Ấn có hơn 108 luận giải viết về bài luận bất hủ này.
———–
Ghi chú phần Tiểu Sử:
[1] Bồ Tát Diệu Âm (Manjushosha) là tên khác của Bồ Tát Văn Thù (Manjushri)
[2] Shanti- là một phần tên của ngài, và –deva là một phần tên của sư phụ, ghép lại thành Shantideva
[3] Học, tu, và làm Phật sự như in sách, làm thuốc v.v…
Tựa đề tiếng Phạn:
Bodhicaryāvatāra (còn gọi là Bodhisattvacaryāvatāra)
Tựa đề tiếng Tạng:
༄༅། །བྱང་ཆུབ་སེམས་དཔའི་སྤྱོད་པ་ལ་འཇུགས་པ་ཞེས་བྱ་བ་བཞུགས་སོ།།
Tựa đề tiếng Việt:
Nhập Bồ Đề Hạnh Luận, (hay là Nhập Bồ Tát Hạnh Luận).
I-1. Đệ tử đảnh lễ
Thiện Thệ, Pháp Thân,
chư vị Trưởng tử
cùng người xứng đáng.
Nay tôi kính xin
thuận theo lời Phật,
tóm lược lối vào
giới hạnh bồ tát.
I-2. Lời tôi nói đây
chẳng có gì mới,
cũng chẳng có gì
khéo nói hơn ai.
Tôi không viết vì
lợi ích chúng sinh,
mà chỉ là để
tự tâm huân tập.
I-3. Lời này có thể
tăng chút tín tâm,
cho tôi huân dưỡng
thuận theo thiện đức.
Ai người may mắn
tương tự như tôi,
nhờ đọc lời này
đôi khi có lợi.
I-4. Tự tại, thuận duyên
là điều khó đạt,
đủ sức toàn thành
nguyện ước chúng sinh.
Vậy nếu nay tôi
thủ lợi riêng mình,
kiếp sau đâu thể
thuận duyên như vậy.
I-5. Tựa như tia chớp
giữa nền trời đen,
trong một phút giây
sáng soi khắp cả.
Nhờ Phật gia hộ
mà người thế gian
đôi khi thoạt hiện
một vài thiện đức.
I-6. Cho nên tâm thiện
bao giờ cũng yếu;
tâm ác thì lại
mạnh dữ vô cùng.
Muốn điều ngự tâm,
ngoài tâm bồ đề,
thử hỏi có còn
thiện tâm nào khác ?
I-7. Mâu Ni nhiều kiếp
thâm sâu chiêm nghiệm,
thấy chỉ tâm này
mới thật lợi sinh.
Vô lượng chúng sinh
nương vào tâm này,
có thể dễ dàng
viên thành đại lạc.
I-8. Ai người mong cầu
diệt trăm khổ nạn,
mong quét bất hạnh
của khắp chúng sinh,
hay mong được hưởng
vạn cảnh yên vui,
tâm bồ đề này
chớ nên lìa bỏ.
I-9. Chúng sinh khốn khổ
trôi lăn luân hồi
mà phát được tâm,
thì ngay lúc ấy
sẽ được gọi là
Như lai trưởng tử,
thành nơi xứng cho
trời, người hiến cúng.
I-10. Tương tự thuốc tiên
hóa sắt thành vàng,
nay thân ô nhiễm
nhờ tâm bồ đề
mà thành thân Phật
vô vàn trân quí.
Vậy hãy giữ chắc
tâm bồ đề này.
I-11. Đấng độ quần sinh
dùng trí vô lượng
quán chiếu tận tường
và đều thấy rõ:
ai người muốn thoát
cảnh khổ luân hồi,
phải giữ cho chặt
ngọc bồ đề tâm.
I-12. Những thiện đức khác
giống như thân chuối,
ra quả một lần
rồi là tàn rụi.
Nhưng tâm bồ đề
triền miên kết trái,
không bao giờ tàn,
vững vàng lớn mạnh.
I-13. Sợ cảnh hung hiểm,
ta nương anh hùng;
cho dù phạm phải
tội ác tột cùng,
chỉ cần phát tâm
tức thì vượt thoát.
Vậy sao những kẻ
sợ cảnh đọa rơi
lại chẳng tìm đến
nương tâm bồ đề ?
I-14. Như lửa hoại kiếp
thiêu rụi thế gian,
tâm bồ đề này
thiêu tan ác nghiệp.
Lợi ích vô lượng,
bất khả tư nghì,
bậc trí Từ Thị
dạy cho Thiện Tài.
I-15. Cần biết tâm này
nói gọn, có hai,
một là ước muốn:
bồ đề tâm nguyện;
hai là thực hiện:
bồ đề tâm hành.
I-16. Cũng như muốn đi
khác với lúc đi,
tương tự như vậy,
kẻ trí cần hiểu
thứ tự khác biệt
giữa hai tâm này.
I-17. Cho dù còn vướng
ở trong sinh tử,
bồ đề tâm nguyện
đơm quả lớn lao,
tuy nhiên cũng vẫn
chưa được liên tục
như là công đức
bồ đề tâm hành.
I-18. Bao giờ phát tâm
không còn thoái chuyển,
nguyện độ chúng sinh
thoát khổ luân hồi,
liền ngay lúc ấy,
từ đấy trở đi,
I-19. cho dù ngủ nghỉ,
hay dù tán tâm,
cả một suối nguồn
công đức bất tận
cũng vẫn trỗi mạnh
rộng sánh không gian.
I-20. Chính đức Như lai
đã dạy điều này
trong bộ Kinh Su-ba-hu Thỉnh Vấn,
là để giúp cho
những người tâm nhỏ
có thể phát khởi
tín tâm đại thừa.
I-21. Vì muốn lợi người
mà khởi tâm cầu
thoát bệnh nhức đầu
cho khắp chúng sinh,
thì công đức này
cũng đã vô tận.
I-22. Huống chi công đức
cầu khắp chúng sinh
thoát vô lượng khổ,
rồi đưa chúng sinh
viên thành vô lượng
thiện căn công đức.
I-23. Thử hỏi tâm này
mấy ai có được ?
dù cha hay mẹ
chư thiên, thiện giả,
ngay cả Phạm Thiên
biết có được chăng ?
I-24. Tâm này chúng sinh
chưa từng có được,
dù là trong mơ,
dù chỉ cho mình.
Làm sao có thể
có được tâm địa
vì khắp chúng sinh ?
I-25. Chúng sinh phàm phu
chưa từng khởi tâm;
Độ cho chính mình
còn chưa nghĩ tới !
Tâm bồ đề này
mà khởi sinh được
là điều nhiệm mầu
chưa từng thấy qua !
I-26. Là thuốc chữa lành
mọi cơn bệnh dữ,
là nguồn hạnh phúc
cho khắp chúng sinh.
Công đức bồ đề
vô vàn quí giá,
thật chẳng lấy gì
cân đo cho được.
I-27. Chỉ cần một niệm
gánh vác chúng sinh,
công đức quá hơn
công đức cúng Phật,
huống chi nỗ lực
mang nguồn an lạc
về cho chúng sinh.
I-28. Là vì chúng sinh
dù cầu thoát khổ,
nhưng vẫn mê mải
chọn khổ mà theo.
Dù cầu an vui,
thế nhưng an vui
thì lại u mê
hủy diệt tất cả
như diệt kẻ thù.
I-29. Ai mang vui đến
cho người bất hạnh,
ai quét khổ nạn
cho kẻ khốn cùng,
I-30. ai xua bóng tối
mê muội vô minh,
thiện đức này đây
lấy gì sánh nổi ?
có bạn nào hơn
người bạn lành này ?
chẳng công đức nào
tương tự như vậy !
I-31. Giúp người đền ơn
mà còn được khen,
huống chi bồ tát
làm lợi chúng sinh
chẳng đợi ai cầu.
I-32. Bủn xỉn mang ra
chút ít thực phẩm,
khinh miệt bố thí
cho đôi ba người,
chỉ đủ ấm bụng
nửa ngày mà thôi,
cũng còn được khen
là làm việc thiện.
I-33. Huống chi vĩnh viễn
tặng khắp chúng sinh
suối nguồn hỉ lạc
vô thượng bồ đề;
chúng sinh trong tâm
có ước nguyện gì,
thì đều hết thảy
làm cho như nguyện.
I-34. Bậc trí dạy rằng:
với chư trưởng tử
từ bi của Phật
mà khởi niệm ác,
khởi bao ác niệm
thì phải đọa rơi
đủ bấy nhiêu kiếp
vào cảnh địa ngục.
I-35. Nhưng nếu khởi được
tín tâm trong sáng,
thời quả gặt hái
tươi tốt xum xuê,
vì bồ tát dù
rơi vào nghịch cảnh,
công đức bồ đề
vẫn không suy thoái,
thiện đức vững vàng
tăng trưởng tự nhiên.
I-36. Nay tôi nguyện xin
đê đầu đảnh lễ
tất cả những ai
sinh tâm bồ đề.
Nguyện xin quy y
suối nguồn an lạc:
người mang vui đến
cho kẻ hại mình.
/ Hết Chương 1 /